Một ngày tràn đầy niềm vui và ấm áp tình người nhé.
Cha Vương
Thứ 6 T3MV: 19/12/2025. (t5-24)
TIN MỪNG: “CHÚA đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.” (Lc 1:25)
SUY NIỆM: Ông Da-ca-ri-a là một người công chính trước mặt Chúa. Một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan THIÊN CHÚA khi đến phiên của nhóm ông Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của ĐỨC CHÚA. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. Sứ thần Gáp-ri-en của CHÚA hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì THIÊN CHÚA đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. Vì em sẽ nên cao cả trước mặt CHÚA.
Trong hành trình đức tin của mỗi người, giống như ông Da-ca-ri-a, có lẽ bạn không thể nào tránh khỏi những lần bạn đã nghi ngờ, bối rối, cứng lòng, tỏ vẻ kém đức tin và không hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Kinh nghiệm mục vụ cho thấy trong thế giới ảo hiện nay con người đang dần dần từ bỏ Chúa. Đạo nghĩa là chuyện của người già. Họ sống như thể không bao giờ chết, rồi cuối cùng chết đi như thể chưa từng sống bao giờ. Thật là một điều đáng tiếc! Họ chọn lối sống “5 vờ” (Vội Vã Và Vô Vị) và đánh mất đi khả năng biết chậm lại để cảm nhận cuộc sống này là một món quà tuyệt đẹp Chúa dành cho mỗi người. Vì không cảm nhận được cho nên họ không trân quý những gì tầm thường nhất băng qua đời họ: Một bông hoa dại ven đường, một tiếng chim kêu thánh thót, một nghĩa cử đẹp nơi người thân, hay như một bữa cơm thanh đạm đầy tình thương gia đình, một nụ cười to, một điểm tựa với người đang đau khổ cần một bờ vai. V.v. Ngày Chúa Giáng Sinh đã gần kề, đây là thời điểm thuận tiện nhất bạn cần phải chậm lại để nhớ lại những việc Chúa đã làm mà sống đúng ý nghĩa sâu sắc của bài thánh ca: “ĐẾN MUÔN ĐỜI… con cảm tạ ơn Chúa.” “CHÚA đã làm cho tôi như thế đó!”
LẮNG NGHE: Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa! Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy CHÚA, xin đừng trì hoãn. (Tv 70:6)
CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Đấng giàu tình thường và lòng thành tín, xin giúp con biết chậm lại để chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh với một niềm kính tin toàn vẹn và một lòng vâng phục thẳm sâu.
THỰC HÀNH: Có lẽ bạn đang quá bận rộn mua quà Giáng Sinh cho người khác. Tâm hồn bạn đang khao khát gì vào lúc này? Hôm nay mời bạn hãy chuẩn bị cho tâm hồn mình một món quà Giáng Sinh nhé.
Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội
Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.
Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.
Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.
Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.
Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.
Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.
Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.
Và người già là thước đo không thể chối cãi.
Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.
Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?
Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.
Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:
Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?
Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?
Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.
Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.
– Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân.
– Một người thực sự có học vấn. Luôn luôn khiêm tốn,thật thà, lễ độ
– Người thực sự giàu có. Luôn luôn đơn điệu. Sẽ không gặp ai cũng khoe khoang.
– Người thực sự có đức hạnh. Luôn luôn có huệ tâm. Sẽ không gặp ai cũng thể hiện.
– Người thực sự có trí tuệ. Luôn luôn tan hòa. Sẽ không phô diễn tài năng.
– Người thực sự có phong cách. Luôn luôn tự nhiên. Sẽ không uốn éo giả tạo.
– Một người thực sự có tu tâm. Luôn luôn yên tĩnh. Sẽ không tranh giành trước sau.
– Khi cơn tức giận ập tới là phúc khí đi mất rồi. Cơn giận càng lớn, cơ thể càng yếu. Trí tuệ chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát cảm xúc của chính mình.
Dùng lời nói tổn thương người khác là một hành vi không nên.
Về già, ta ngẫm lại đời mình, thăng trầm mọi nẻo, bao nhiêu người thương ta, bao nhiêu người ghét ta trong cuộc sống lạc loài, trông ngóng ngày mai, chờ đợi mỏi mòn ánh sáng tự do!
Thứ Ba tuần trước, tôi suýt chút nữa đã đưa mẹ vào một trại dưỡng lão công cộng. Lúc đó tôi vừa giận, vừa kiệt sức. Tôi bị trễ cuộc họp online mất 5 phút, trên tay thì cầm cái hóa đơn viện phí của mẹ còn cao hơn cả tiền trả góp nhà của chính mình.
Tôi quăng chìa khóa lên bàn, càu nhàu với vợ: — Mẹ thật là quá đáng. Hết chê đồ ăn lại quên mất anh là ai. Mà hễ nhớ ra được một tí thì lại nhìn anh cái kiểu… phán xét.
Cuối tuần đó, tôi quyết định bán căn nhà cũ của mẹ. Căn nhà gỗ cổ kính trên phố Elm, nơi lúc nào cũng thoang thoảng mùi hoa oải hương và bụi bặm. Đã đến lúc dọn dẹp tất cả để rảnh nợ mà bước tiếp.
Chiều thứ Bảy, tôi leo lên gác mái, hậm hực tống khứ 50 năm cuộc đời của mẹ vào mấy cái túi rác đen ngòm. Nào là áo khoác cũ, đèn hỏng, đống tạp chí cũ rích… Tôi ném mọi thứ theo nhịp điệu của sự bực dọc: rác này, rác này, rác hết này!
Bỗng nhiên, tôi làm rơi một hộp đựng giày.
Cái hộp đập mạnh xuống sàn, nắp văng ra. Bên trong chẳng có vàng bạc châu báu gì, chỉ toàn là những cuốn sổ tay nhỏ và một xấp giấy tờ buộc bằng sợi thun đã mục nát. Tôi ngồi bệt xuống sàn đầy bụi, liếc nhìn đồng hồ: “Thôi thì xem qua 10 phút vậy.”
Tôi cầm xấp giấy lên đầu tiên. Đó là một tờ biên lai cầm đồ ở trung tâm thành phố. “Nhẫn cưới vàng 14k. Số tiền: 120 USD.” Ngày 12 tháng 6 năm 1998.
Tôi khựng lại. Tháng 6 năm 1998… đó là năm tôi học cuối cấp. Tuần đó tôi cần tiền đặt cọc cho chuyến dã ngoại cuối khóa. Tôi nhớ mình đã van nài mẹ thế nào. Tôi nhớ mẹ chỉ nói: “Để mẹ lo, Michael.”
Ngày đó, tôi cứ tưởng mẹ làm thêm giờ ở tiệm ăn. Tôi đâu biết mẹ đã bán đi thứ duy nhất mà bố để lại trước khi ông bỏ đi.
Tôi mở cuốn sổ tay đầu tiên. Nét chữ run rẩy, vội vã: “Hôm nay ngân hàng lại gọi. Mình bảo họ là séc đang trên đường gửi tới rồi. Thực ra là chẳng có đồng nào cả. Cả tuần nay mình đã nhịn bữa trưa để mua đôi giày đá bóng cho Michael. Thằng bé sướng phát điên khi được vào đội bóng. Lạy Chúa, xin đừng để con thấy con khóc khi về nhà. Mình phải mạnh mẽ lên. Phải là chỗ dựa cho con.”
Tôi mở một cuốn khác năm 2008, năm mà kinh tế sụp đổ. Tôi mất việc, phải lếch thếch dọn về nhà mẹ ở như một kẻ thất bại. Tôi nhớ mình đã gắt gỏng với mẹ, bảo mẹ chẳng hiểu gì về áp lực công việc của tôi cả.
Mẹ viết: “Michael đã về nhà. Thằng bé đang giận dữ với cả thế giới. Tim mẹ đau thắt lại vì con. Mẹ đã ngừng uống thuốc huyết áp để dành tiền mua đồ ăn đầy tủ lạnh. Mẹ muốn con cảm thấy an tâm, muốn con tin rằng mẹ vẫn lo liệu được mọi chuyện. Mẹ sẽ gánh lấy nỗi lo này, để con không phải bận tâm.”
Tôi ngồi đó một tiếng, rồi hai tiếng. Ánh nắng xuyên qua kẽ hở gác mái, soi rõ những hạt bụi đang nhảy múa trong không trung.
Suốt 40 năm qua, tôi đã luôn phán xét người phụ nữ này. Tôi tưởng bà lạnh lùng, cứng nhắc. Tôi tưởng sự im lặng của bà là vì thiếu tình thương. Nhưng hôm nay tôi mới hiểu, sự im lặng đó không phải là trống rỗng. Sự im lặng đó là một tấm khiên.
Mẹ đã một mình hứng chịu hết những đòn roi của nghèo khó, cô đơn và đau khổ, rồi lọc sạch hết thảy để thứ duy nhất chạm đến tôi là sự bình yên. Mẹ che giấu những vết sẹo rỉ máu mỗi khi hóa đơn ập đến hay ký ức ùa về, chỉ để tôi không phải mang gánh nặng trên lưng.
Nhìn những túi rác đen ngòm chứa đựng cả cuộc đời mẹ, một tiếng nấc nghẹn dâng lên cổ họng khiến ngực tôi đau nhói. Tôi phóng xe điên cuồng đến viện dưỡng lão.
Khi tôi bước vào phòng, mẹ đang ngồi trên chiếc xe lăn bên cửa sổ, nhìn ra bãi đậu xe. Mẹ trông nhỏ bé quá. Mái tóc đen dày ngày xưa giờ chỉ còn là một quầng trắng mỏng manh.
Thậm chí là ngay bây giờ. Thậm chí khi trí nhớ đã phai nhạt, phản xạ đầu tiên của mẹ vẫn là lo lắng cho tôi.
Tôi chẳng nói được lời nào. Tôi bước tới, quỳ xuống bên xe lăn và gục mặt vào đôi bàn tay mẹ. Đôi bàn tay thô ráp, da mỏng như giấy. Đôi bàn tay đã lau dọn sàn nhà, ký biên lai cầm đồ và kìm nén nước mắt suốt mấy chục năm qua.
— Tha lỗi cho con, mẹ ơi. Tha lỗi vì con đã không nhìn thấy những gì mẹ làm.
Bạn biết không, mẹ là nhịp đập của yêu thương, là nền móng của sự sống. Tình yêu của mẹ sâu đậm đến mức chẳng có từ ngữ nào, chẳng có sự bồng bột của tuổi trẻ hay sự bận rộn của tuổi trưởng thành nào có thể hiểu thấu.
Chúng ta quá vội vàng phán xét cha mẹ khi họ già đi. Chúng ta đưa họ vào viện này trại nọ. Chúng ta gắt gỏng khi họ chậm chạp, khi họ kể đi kể lại một câu chuyện, hay khi họ trở nên “khó tính”.
Nhưng chúng ta quên hỏi một câu: “Mẹ là ai trước khi có mình?”
Có thể bạn sẽ chẳng bao giờ biết được những trận chiến thầm lặng mà mẹ đã đi qua. Bạn chẳng thể hiểu được mẹ đã phải hy sinh “phần đàn bà” của mình như thế nào để “phần người mẹ” được ra đời.
Đừng phán xét mẹ. Hãy ngồi xuống bên cạnh bà. Nghe mẹ kể chuyện, dù là những chuyện chẳng đâu vào đâu. Hãy nắm lấy đôi bàn tay ấy. Hãy dịu dàng với mẹ như cách mẹ đã nâng niu bạn lúc bạn còn đỏ hỏn. Vì bây giờ, vị trí đã đảo ngược rồi.
Có một sự thật cay đắng mà tôi học được trên sàn gác mái đầy bụi đó: Cách bạn đối xử với mẹ, chính là cách cuộc đời sẽ đối xử với bạn.
Nếu bạn gieo sự thiếu kiên nhẫn và bỏ mặc, bạn sẽ gặt hái một tương lai cô độc. Nhưng nếu bạn trân trọng mẹ, bạn đang mời gọi sự bình an và ân sủng vào định mệnh của chính mình.
Mẹ chỉ có một trên đời. Không có bản nháp, không có phần tiếp theo. Nếu bạn không trân trọng mẹ ngay lúc này, một ngày nào đó, sự hối hận sẽ lấp đầy khoảng trống nơi yêu thương từng ngự trị. Và tin tôi đi, khi những đêm mất ngủ ập đến, thứ làm bạn thao thức không phải là hóa đơn viện phí đâu.
Đó sẽ là sức nặng ngàn cân của những lời chưa nói, những khoảnh khắc đã bỏ lỡ, và những cơ hội cảm ơn mẹ vì những nỗi đau mà mẹ đã giấu kín đằng sau nụ cười.
Hãy gọi cho mẹ đi. Hãy về thăm mẹ đi. Hãy tha thứ và yêu thương mẹ.
Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…
Tem phiếu:
Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.
Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.
Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.
Đổi tiền:
Screenshot
Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”
Đốt sách:
Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.
Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.
Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.
Đánh tư sản:
Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.
Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.
Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.
Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.
Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.
Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”
“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”
Kinh tế mới:
Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):
Người thất nghiệp
Người cư ngụ bất hợp pháp
Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.
Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.
Tù cải tạo:
Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.
Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.
Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.
“Thuyền nhân”:
Screenshot
Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.
Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.
Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.
Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.
Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.
NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†
Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.
Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.
Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.
Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.
Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.
Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Ước mong bạn cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận bởi Thiên Chúa đang “ở cùng chúng ta” hôm nay.
Cha Vương
Thứ 5 T3MV: 18/12/2025. (t4-24)
TIN MỪNG: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)
SUY NIỆM: Mùa Giáng Sinh, mùa của hy vọng, an bình và niềm vui, đang đến gần, bạn hãy cố gắng đừng để những tổn thương của quá khứ làm bạn cáu kỉnh, khó chịu hoặc căng thẳng—thay vì mong đợi sự ra đời của Hoàng Tử Bình An. Như Thánh Giuse và Đức Mẹ đã một lòng một dạ “xin vâng” với Chúa, bạn hãy noi gương các ngài sống lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, hãy dừng lại và suy gẫm mầu nhiệm Cứu Độ—Ngôi Hai Thiên Chúa có mặt sống động với chúng ta “ở đây và lúc này” giữa một xã hội đầy xáo trộn, đe dọa, một thế giới ngập tràn thử thách… Mời bạn hãy cầu nguyện cho nhau để chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa của ngay trong lúc chúng ta đang bị lo lắng, cáu kỉnh, bối rối dằn vặt.
LẮNG NGHE: Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. (Is 9:5)
CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Đấng từ bi và giàu lòng xót thương, xin mở lòng con để con chuẩn bị đón Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con biết loại bỏ những cảm xúc không lành mạnh đang làm con xa lìa Chúa và anh em.
THỰC HÀNH: Tặng cho người thân yêu của mình món quà “tha thứ” hôm nay nhé.
Salomé Saqué là một nhà báo trẻ của Pháp, được biết đến bởi sự thẳng thắn, trí tuệ và lòng can đảm trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ. Những điều cô nói không nhằm chỉ trích một dân tộc hay một chính quyền cụ thể nào. Đó là những lời cảnh tỉnh dành cho bất cứ xã hội nào đã sống quá lâu trong áp lực, hoặc mệt mỏi đến mức quên mất rằng: dân chủ không phải là thứ tự nhiên tồn tại – mà là thứ phải được nuôi dưỡng mỗi ngày.
Salomé Saqué
Dưới đây là một đoạn trong bài nói của cô:
“Nền dân chủ không bao giờ biến mất trong một ngày.
Nó chỉ tàn lụi khi người ta quen với bóng tối.”
Các xã hội không sụp đổ vì một biến cố bất ngờ, mà vì một quá trình dài: nỗi sợ được chấp nhận, sự bất công được coi là bình thường, và con người dần từ bỏ quyền lên tiếng của chính mình. Điều nguy hiểm nhất không phải là bạo lực, mà là sự thích nghi.
Bao giờ cũng vậy, trước khi tự do biến mất, một “giai điệu” quen thuộc sẽ vang lên:
rằng im lặng là khôn ngoan;
rằng phục tùng là an toàn;
rằng chân lý không quan trọng bằng sự yên ổn.
Thứ nhạc nền ấy ru con người vào trạng thái tê liệt, khiến họ tin rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Đó chính là cách một xã hội đánh mất khả năng tự quyết: không phải vì con người thiếu hiểu biết hay thiếu dũng cảm, mà vì họ đã sống quá lâu trong một thế giới, nơi nỗi sợ trở thành thói quen, nơi sự thật bị bóp méo đến mức không còn nhận ra, nơi mỗi người thì thầm với chính mình: “Thôi, cố sống cho xong.”
Nhưng lịch sử chưa bao giờ được viết bằng sự cam chịu.
Không một nền dân chủ nào lớn lên từ sự im lặng kéo dài.
Tự do chỉ tồn tại khi con người tin rằng mình xứng đáng có nó.
Lịch sử luôn bắt đầu lại từ những khoảnh khắc rất nhỏ như thế.
Những lời nói trên của Salomé quả thật rất đáng suy ngẫm.
Nhưng tiếc thay, đó chỉ là… dân chủ tư sản.
Còn khi chúng ta đi học, chúng ta đã được dạy rất rõ ràng rằng:
“Dân chủ vô sản gấp một triệu lần dân chủ tư sản.”
Vậy nên, về nguyên tắc, những lời nhắc nhở của Salomé không dành cho Việt Nam.
Ở nước ta, dân chủ đã được giải quyết gọn gàng từ lâu. Đã có Đảng lãnh đạo tuyệt đối. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước không cần dân bầu, vì Đảng đã bầu thay. Nhân dân, nhờ đó, được giải phóng khỏi một gánh nặng tinh thần rất lớn: khỏi phải suy nghĩ xem nên chọn ai.
Những ngày gần đây, trong nội bộ Đảng hình như đang có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt để xem ai sẽ là người… được chọn. Tôi không có hiểu biết gì về các nhân vật chính trị này. Tôi chỉ thấy mạng xã hội xôn xao đủ loại tin đồn: ông nọ lên, bà kia xuống, người này “đang nguy”, người kia “sắp về”. Tin thật hay tin giả thì không ai biết, vì Đảng họp kín, chỉ có nhân dân là… họp hở.
Tôi cũng xin nói rõ: tôi không có hiểu biết gì về chính trị. Nhưng nếu buộc phải tổng kết một cách giản dị hai nền dân chủ, tư sản và vô sản, thì tôi thấy thế này:
Dân chủ tư sản thể hiện ở chỗ toàn dân tham gia bầu chọn người lãnh đạo cao nhất của mình. Dĩ nhiên, cũng có thể bầu sai. Ví dụ điển hình là… ông Trump hahaha.
Còn dân chủ vô sản thì khác. Toàn dân không bầu gì cả. Toàn dân chỉ… hóng.
Hóng xem ai được chọn.
Hóng xem ai bị loại.
Hóng xem ai “đi lò”.
Có thể gọi ngắn gọn là: dân chủ hóng hớt.
Nghĩ cho cùng, dân chủ như thế cũng đỡ mệt. Không phải bầu, không phải chịu trách nhiệm. Chỉ cần cập nhật tin đồn mỗi sáng là đủ cảm giác “tham gia đời sống chính trị”. Nếu dân chủ tư sản là quyền lựa chọn, thì dân chủ vô sản là nghệ thuật… chờ đợi. Ở những nơi khác, người ta đi bầu để quyết định tương lai; còn ở ta, người ta hóng để biết mình sẽ… chịu tương lai nào. Mà hóng hớt hình như lại là sở trường và môn thể thao yêu thích nhất của dân ta.
Dân chủ vô sản hiện đại, suy cho cùng, không cần phiếu bầu. Chỉ cần wifi mạnh, trí tưởng tượng phong phú và một tinh thần hóng hớt bền bỉ. Thế là đủ.
“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên!”
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay kể chuyện về hai cặp đôi luống tuổi. Cựu Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người mẹ son sẻ; Tân Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người cha héo hắt. Thật thú vị – một đôi kịp tàu, đôi kia suýt ‘lỡ tàu!’.
Trong Thánh Kinh, không hiếm những bà mẹ chưa từng sinh con, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, được diễm phúc làm mẹ; thường là một bé trai mang một sứ mạng đặc biệt. “Đừng nói điều đó là không thể nếu còn có một lối – Thiên Chúa!” – Richelle Goodrich. Câu chuyện chào đời của Samson là một ví dụ. Vợ chồng Manôác đã mau mắn tin lời sứ thần, “Bà sẽ sinh một con trai và đặt tên là Samson”. Họ tin – nên họ kịp tàu!
Với Zacharia, câu chuyện ly kỳ hơn. Ông dâng hương trong Đền Thờ, cơ hội ngàn năm một thuở. Đó là khoảnh khắc đặc quyền trong một không gian linh thánh; hơn nữa, một Tổng lãnh thiên thần hiện ra với ông. Thế nhưng, trớ trêu thay, ông không tin! Tin Mừng xác nhận, “Hai ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì”; vậy mà, sự công chính ấy không đủ giúp ông có niềm tin vào đúng thời điểm quyết định. Thiếu chút nữa, ông ‘lỡ tàu!’. “Nghi ngờ là dấu hỏi; đức tin là dấu chấm than!” – Criss Jami.
Zacharia nghĩ tuổi tác mình không còn phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa; ông đánh giá thấp quyền năng của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn; chính con người mới giới hạn quyền năng vô hạn của Ngài. “Kế hoạch của Thiên Chúa vẫn sẽ được thực hiện theo thời gian của Ngài!” – A.W. Tozer. Trước một người thiếu niềm tin, kế hoạch của Thiên Chúa sẽ ra sao? Không sao cả! Ngài vẫn tiếp tục chương trình của Ngài. Và điều Ngài cần lúc này là con người lặng yên, đừng động đạc! “Này đây ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”.
Thời gian thinh lặng ấy không phải là trừng phạt, nhưng là một quãng thai nghén, đợi ngày Thiên Chúa ra tay hầu mỗi người có thể cất lên “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày chẳng ngớt tôn vinh Ngài!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tiếng Chúa thường rất khẽ. Chúa chỉ cần con người không bướng bỉnh, không nổi loạn, biết lặng yên và mềm mỏng. Đến ngày con trẻ chào đời, Zacharia vâng lời sứ thần, đặt tên cho con là Gioan. Và ông đã kịp tàu.
Anh Chị em,
“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Câu hỏi của Zacharia thường cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta. Bạn và tôi yếu đuối, chúng ta thiếu đức tin; không có một đức tin trọn vẹn như Maria, như Giuse hay các thánh. Nhưng khi khiêm tốn nhìn nhận điều đó, chúng ta đang ở một vị trí thuận lợi để Thiên Chúa hành động. “Đức tin là bước đi những bước đầu tiên dù bạn chưa thấy hết cầu thang!” – Martin Luther King Jr. Hãy để Ngài toàn quyền! Trước sau gì, Thiên Chúa – Đấng xót thương từ ái một niềm – không muốn ai phải lỡ tàu, nhất là chuyến tàu cuối.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trước nghi nan, khủng hoảng, cho con biết lặng yên chờ đợi Chúa. Đừng để con bướng bỉnh, vùng vằng mà lỡ mất ngày giờ của Chúa… khi phải đợi con lên tàu!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
*****************************************
Lời Chúa Ngày 19/12, Thứ Sáu Tuần III Mùa Vọng
Gio-an Tẩy Giả sinh ra theo lời sứ thần Gáp-ri-en báo.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 1,5-25
5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông tên là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi, và cả hai đều đã cao niên.
8 Vậy một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông. 9 Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11 Bấy giờ một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. 13 Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. 15 Vì em sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Em sẽ không uống rượu và thức có men. Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên.” 19 Sứ thần đáp : “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và họ biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
23 Khi thời gian phục vụ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”
Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.
Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.
Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.
Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.
Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”!
Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…
Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.
Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!