CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan


 

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Xuyên Sơn

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Câu hỏi như sau:

Trên đời này có tồn tại công bằng hay không?

Câu trả lời là:

Có. Đó là Thời Gian.

Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày.

Và đó là sự công bằng.

Vì vậy:

– Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu

– Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi

– Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ

– Và nếu mình cho rằng thế giới này chẳng có gì công bằng, thì mình có 24 tiếng để cảm nhận sự công bằng của cuộc sống.

Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm…

và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?

Cuộc sống rất công bằng, nhưng LỰA CHỌN của mỗi người mới chính là điều không công bằng.

Hãy lựa chọn cho đúng!

____________

(Nguồn:Sưu tầm/TOP Ebook Free)


 

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Trịnh Mạnh Dũng

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Từ Đức Minh

– Chúng dụ dỗ 24.000 du học sinh, con cái Đảng viên, nhà giàu Việt Nam sang Mỹ học tập.

– Chúng tiếp nhận cả tỷ USD của các đồng chí lãnh đạo Đảng viên chuyển tiền bạc tham ô sang mua nhà cửa để kiếm thẻ xanh ở Mỹ.

– Chúng xúi giục, kích động các con cháu Đảng viên bỏ Việt Nam sang Mỹ định cư.

Ví dụ như:

con gái Nguyễn Tấn Dũng,

con trai thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trương Tấn Sang,

con tướng Trung,

con bộ trưởng Kim Tiến…

– Chúng cung cấp gần 50 triệu đô-la nhằm hỗ trợ Việt Nam rà phá huỷ bom mìn chưa nổ.

– Chúng đã đền cho Việt Nam hơn 46 triệu đô-la nhằm hỗ trợ cho công dân Việt Nam khuyết tật, nhiễm chất độc dioxin.

– Chúng lập ra tổ chức USAID cung cấp 12 triệu đô la hỗ trợ cho Việt Nam phòng hạn hán và xâm nhập mặn hàng trăm nghìn hộ gia đình các tỉnh phía nam.

– Chúng cho Việt Nam 9,5 triệu USD để ứng phó với dịch COVID-19,

trong đó bao gồm 5 triệu USD cho quỹ hỗ trợ kinh tế.

– Chúng cho bác sĩ, dụng cụ thuốc men vào Việt Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Chúng thay Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Cộng giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.

Từ Đức Minh

Xuyên Sơn


 

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Trần Tố Ngọc

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Lù Trọng Thắng

Bên Tàu có câu chuyện dân gian đại khái rằng, hôm ấy Diêm Vương xét duyệt cho hai người phụ nữ đầu thai lên thế gian. Người thứ nhất, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây nhà ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm nghề bán thân.

– Bán thân là gì ?

– Dạ… là làm… đĩ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

-Tội nghiệp, thôi ta cho ngươi đầu thai lên làm con gái nhà giàu.

Đến người phụ nữ thứ hai, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm đầy tớ của nhân dân ạ.

– Nghĩa là sao ?

– Dạ, là quan chức nhà nước đấy ạ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

– Ta cho ngươi đầu thai lên làm con trâu.

Người phụ nữ hốt hoảng:

– Tâu Diêm Vương sao kỳ vậy ? Con làm quan là phục vụ nhân dân, là có công lao sao lại bắt con đầu thai lên làm trâu. Trong khi chị kia làm đĩ thì lại cho chỉ đầu thai lên làm con nhà giàu.

– Ngươi bình tĩnh nghe ta giải thích. Ta hỏi là hỏi vậy thôi chớ hồ sơ các ngươi đã có đầy đủ đây nầy: Cô kia tuy làm đĩ xấu xa nhưng đó là bước đường cùng, cổ kiếm được đồng tiền phải chịu đắng cay tủi nhục. Nên ta cho cổ cơ hội để bù đắp. Còn nhà ngươi, ngươi đã nhiều lần bán thân cho quan cấp trên để được thăng chức, tội nầy đáng lý phải cưa hai nấu dầu. Nhưng đến khi có quyền cao chức trọng, ngươi lại vơ vét công quỹ, ăn hối lộ để làm giàu nên ta phạt ngươi đầu thai lên làm trâu để kéo cày suốt đời trả món nợ kia, và khi về già ngươi sẽ bị xẻ thịt lột da để đền cái tội bán dâm đổi chức…

Nghe Diêm Vương phán xong, chị ta ôm mặt khóc nức nở:

– Trời ơi, cả đời làm quan lại không bằng con đĩ nè trời!

Tố Ngọc Trần Sưu tầm


 

ĐI TỪ ĐÂU? – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!”.

“Thiên Chúa không gọi con người đến một công việc; Ngài gọi họ đến với chính Ngài – và đó chính là sứ vụ!” – Von Balthasar.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay âm thầm đặt cho chúng ta một câu hỏi căn bản về đời sống đức tin, đời sống ơn gọi của mỗi người – nó ‘đi từ đâu?’.

 

Tin Mừng chỉ kể lại việc Gioan được sinh ra, được đặt tên và được ghi dấu căn tính thuộc về Giao Ước trong nghi thức cắt bì. Trước khi có bất cứ hành động nào, đời Gioan đã được đặt trong một mối tương quan mà chính Thiên Chúa khởi xướng và gìn giữ. Ơn gọi không khởi đi từ công việc, nhưng từ việc một người được gọi vào trong tương quan với Đấng kêu gọi. Chính sự thuộc về ấy âm thầm định hình con người Gioan, trước khi Gioan có thể ra mắt làm vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế. “Hãy ở lại trong ơn gọi nơi bạn được gọi, và công việc của bạn sẽ thiêng liêng như sứ vụ!” – A. W. Tozer.

Lịch sử cứu độ cho thấy một quy luật quen thuộc. Cần một tổ phụ cho một dân mới, Chúa chọn Abraham, một người do dự và sợ hãi. Cần một người dẫn dân đi qua sa mạc, Ngài chọn Môsê, một người cà lăm và luôn ngần ngại. Cần một vị vua chăn dắt dân, Ngài chọn Đavít, một người đầy đam mê và vấp ngã. Cần một nền tảng cho Hội Thánh, Ngài chọn Phêrô, một người bộp chộp chối Thầy. Và khi cần một người dọn đường, Ngài chọn Gioan, đứa con sinh ra từ sự son sẻ của đôi bạn già. Không ai trong họ bắt đầu từ sự hoàn hảo, nhưng tất cả đều bắt đầu từ một mối tương quan được Thiên Chúa thiết lập. “Một người biết mình đã tìm thấy ơn gọi khi người ấy ngừng nghĩ về cách sống – giới hạn, yếu hèn của mình – và bắt đầu sống!” – Thomas Merton.

Thánh Ephrem, từ thế kỷ thứ tư, giúp chúng ta nhận ra điểm khởi đầu ấy qua hình ảnh hai người mẹ và hai người con. Elisabeth, phụ nữ đứng tuổi, sinh vị ngôn sứ cuối cùng; Maria, trinh nữ trẻ trung, sinh Chúa các thiên thần. Hai khởi điểm khác nhau, nhưng cùng trả lời cho một câu hỏi duy nhất: ‘đi từ đâu’ để Thiên Chúa có thể đến với nhân loại? Không từ sức trẻ hay tuổi tác, nhưng từ những cung lòng biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!” – bài đọc một. Lời ấy vẫn vang vọng hôm nay. Mỗi chúng ta, trong từng hoàn cảnh, được mời gọi đặt lại câu hỏi “Tôi đã ‘đi từ đâu’ cho đời mình?”. Nếu đi từ việc làm hay thành công, chúng ta dễ mệt mỏi; đi từ thành công, chúng ta dễ tự mãn; nhưng nếu khởi đi từ một mối tương quan được gìn giữ mỗi ngày, thì không chỉ đến thời của Thiên Chúa – mà ngay lúc này và ở đây – chính đời sống chúng ta, dù âm thầm hay được biết đến, sẽ trở thành con đường để Ngài đi qua. “Những nhà lãnh đạo tương lai sẽ là những người dám nhận sự không quan trọng của mình trong thế giới đương thời như một ơn gọi thiêng liêng!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết khởi đi từ Chúa trong mọi sự, để hôm nay và đến thời của Ngài, đời con trở nên con đường cho Chúa đến với người khác!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***************************

Lời Chúa Ngày 23/12, Thứ Ba Tuần IV Mùa Vọng

Ông Gio-an Tẩy Giả chào đời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,57-66

57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã rộng lòng thương xót bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.

59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không được ! Phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.


 

CHU TỬ: NHÀ VĂN, NHÀ BÁO, NHÀ GIÁO, NGƯỜI VƯỢT BIÊN ĐẦU TIÊN, LÀM MỒI CHO CÁ       

Việt Luận – Viet’s Herald                 

Hồ Nam

Mười mấy tuổi đã theo Phó đức Chính tham gia khởi nghĩa Yên bái, đi đánh đồn Tây thắng lợi – khi trở về, buồn ngủ quá, lăn ra bãi cát ven sông Hồng làm một giấc, nên không bị máy chém [hành hình] ở Yên bái, cùng Nguyễn thái Học, Phó đức Chính…, những chiến sĩ Việt nam quốc dân đảng tiền phong.

Chu văn Bình không bị lên máy chém vào 1930, nên đã thi đậu vào Trường đại học Luật Đông dương ở Hà nội.  Chu văn Bình được thượng thư bô Hình Nam triều, Bùi bằng Đoàn (cha đại tá Bùi Tín) đưa vào Huế, làm phụ tá cho thượng thư, mặc áo gấm, đeo thẻ bài ngà, và, trở thành một ông quan Nam triều trẻ nhất thời ấy. Sau này, khi nhắc chuyện làm quan trong triều đình Huế, Chu văn Bình tủm tỉm cười, nói với tôi, “anh từng tham gia khởi nghĩa Yên bái, mà lại đeo thẻ bài ngà, cưới vợ là hoa khôi tỉnh Nam định.”Thật mỉa mai quá, nhưng đời còn nhiều chuyện mỉa mai hơn nữa. Sau ngày đảo chính, 9-3-[1945], Nhật đảo chính Pháp- Việt nam quốc dân đảng muốn Chu văn Bình làm chánh sở Liêm phong Thanh hóa (chánh mật thám Thanh hóa), Chu văn Bình đã nhận làm, và, trong thời kháng chiến chống Pháp, Chu văn Bình được tướng Bằng Giang trao cho chức chánh án Tòa án quân sự quân khu 3. Chu văn Bình vẫn chấp nhận giữ nhiệm vụ này…

Sau 1954, khi đất nước chia 2, Chu văn Bình theo nhà cách mạng Nguyễn thế Truyền lên tòa Thánh [Cao Đài] ở Tây Ninh, gặp đức Hộ pháp Phạm công Tắc. Đức Hộ pháp Cao Đài tòa thánh Tây ninh nghe Chu văn Bình nói chuyện thời thế, đã ra thánh lệnh phong Chu văn Bình cấp bậc đại tá [trong lực lượng] quân đội Cao Đài, Con đường hoạn lộ của Chu văn Bình, còn thênh thang hơn nữa, khi luật sư Lê ngọc Chấn được thủ tướng Ngô đình Diệm [cử] làm bộ trưởng quốc phòng, đã đến thỉnh Chu văn Bình về làm đổng lý văn phòng – nhưng Chu văn Bình cười khẩy, trả lời luật sư Lê ngọc Chấn, ” hồi học luật cậu thường ‘cóp’ bài của tớ, sao tớ có thể làm ‘lại’ cho cậu được nhỉ…? “Có lẽ, vì chuyện này, mà ít lâu sau Chu văn Bình bị vu cho là ‘trùm băng ăn trộm xe hơi’, rồi tống giam vào khám Chí hoà. Khi ra tòa Chu văn Bình tự bào chữa hay, đến nỗi quan tòa phải tha bổng, Chu văn Bình được trắng án.

Sau vụ bị bắt giam đưa vào khám Chí hòa, ra tòa được trả tự do, Chu văn Bình quyết định không thèm bon chen danh lợi nữa, mà, nhận làm hiệu trưởng trường Trung học Thăng Long của Nguyễn đăng Viên (anh ruột nhà văn Mai Thảo/Nguyễn đăng Quý) và trở lại nghề viết văn, làm báo. Chu Tử phụ trách mục ‘Ao thả vịt’ [dưới bút danh Kha Trấn Ác], và viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày.

Ngay cuốn tiểu thuyết đầu tay đăng báo hàng ngày, với tựa đề YÊU, đăng trên tờ nhật báo Dân việt, đã làm xôn xao dư luận, báo tăng người đọc vùn vụt, trong văn giới sửng sốt, vì, Chu Tử viết hay quá, lạ quá, táo bạo quá, thời đại quá. Rồi Chu Tử cho ra đời bộ tiểu thuyết trường giang khác: SỐNG. Khi tiểu thuyết Sống mới đăng báo, văn giới đã coi như một hiện tượng văn học rồi

Chế độ Ngô đình Diệm bị lật đổ, Chu Tử dành hết thời giờ viết báo, chửi đông, chửi tây, quốc gia, cộng sản- những ai ‘láo toét’ là Chu Tử phang, [bất kể là]  sư, cha cố, ông tướng này, bà tướng kia, chửi cả Mỹ. Chu Tử đều đụng mặt hết, Chu Tử còn đưa lên mặt báo câu xã hội bậc thang xã hội thời đó: ‘nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng’. Tờ nhật báo Sống của Chu Tử bán chạy như tôm tươi, nhưng, chẳng được bao lâu báo bị đóng cửa. Chu Tử liền đi thuê ‘măng-xết’ [manchette], tiếp tục làm báo nữa, không ngán gì cả. 

Những nhân vật điển hình của thời đại, bị Chu Tử hỏi thăm sức khỏe – bực lắm, mấy anh quốc gia láo lếu, bị Chu Tử gọi là ‘trí thức chồn lùi’ (nói lái), tuy vậy họ cũng còn nhất điểm lương tri, không phản ứng mạnh với Chu Tử. Tuy nhiên, Chu Tử vạch mặt ‘mấy tên… nằm vùng’, xưng nhận mình là ‘bảo vệ văn hóa dân tộc’; bị gọi là ‘lũ củ đậu’ (nói lái) (…) Chu Tử chỉ bị bắn vỡ miệng, gãy mấy cái răng, nói năng hơi ngọng nghịu, phải vào nhà thương nằm ít ngày, rồi về nhà lại viết báo chửi dữ hơn trước khi bị bắn. (…) Nhưng tới sáng ngày 30-4-75, thấy tình thế hết phương cứu chữa, Chu Tử đành bảo con rể là họa sĩ Đằng Giao lái xe chở ra Kho 5 bên Khánh hội, tìm tàu vượt biên. Chu Tử và cậu con trai lớn có được một chỗ dưới hầm, bởi ngộp quá, khi tàu đến Rừng Sát, Chu Tử leo lên boong hóng gió, thì giữa lúc đó một trái B40 của đặc công phóng lên boong tàu. Chu Tử bị miểng đạn, máu ra nhiều quá, khi tàu tới hải phận quốc tế, Chu Tử trút hơi thở cuối cùng, xác thân ném xuống biển Thái bình dương. Và, Chu Tử coi như người đầu tiên được thủy táng khi đi tìm tự do. Ông là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ ông rời xa Ðất Nước.

Hồ Nam.


 

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI – Truyện ngắn HAY

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI 

Ông Hải, tay cầm ly cà phê, tay cầm cuốn sách, đang lúng túng định dùng vai đẩycánh cửa kính của cái cafeteria, nơi bán thức ăn làm sẵn của nhà dưỡng lão Yee Hong, thì ở đàng sau, đã có một bàn tay nhanh nhẹn mở dùm. Ông Hải bước vào và lúng búng nói với người đàn ông đi sau:

 -Thank you!

Rồi ông Hải tiến về cái bàn quen thuộc ở góc phòng. Ông đặt ly cà phê vừa mua ở tiệm Tim Horton xuống bàn, vươn vai nhìn đồng hồ:

 – Gần mười giờ!

Ông mở nắp ly cà phê, nhấp một ngụm rồi lật cuốn sách đọc sơ qua vài hàng.

 Vừa lúc đó, có tiếng bánh xe lăn trên sàn gạch , ông Hải ngửng lên cất tiếng chào:

-Chào bà Loan! Good morning Tina!

 Tina, là tên của cô y tá đang đẩy chiếc xe lăn đến bàn, để xe vào chỗ đối diện chỗ ngồi của ông Hải, cũng cất tiếng chào lại bằng tiếng Anh:

– Chào ông Hải! Hôm nay ông có khỏe không?

 – Tôi khỏe, cám ơn cô!

 -Tôi để bà Loan lại cho ông nhé!

 -Vâng, cô cứ yên tâm!

 Nói xong, cô y tá   khẽ vỗ vai người đàn bà đang ngồi trên xe lăn, rồi quay gót ra ngoài. Ông Hải vui vẻ bảo người ngồi trên xe lăn:

 -Trời hôm nay đẹp quá. Bà hãy nhìn ra ngoài sân kìa!

Người đàn bà đứng tuổi, hấp háy đôi mắt sau làn kính cận, đưa mắt nhìn ra ngoài. Thời tiết ở thành phố Mississauga vào những ngày cuối xuân thật đẹp. Nắng vàng trải dài trên những thảm cỏ xanh lì , nằm bên cạnh một khu vườn hoa đầy mầu sắc ở gần cổng ra vào. Ông Hải kéo chiếc khăn phủ đôi chân của bà Loan lại cho ngay ngắn rồi thân mật hỏi:

-Hôm qua bà có ngủ ngon giấc không?

 -Cám ơn ông, tôi ngủ say li bì, chẳng nhớ giờ giấc gì cả..

 Ngừng một chút, bà Loan hỏi:

 -Hôm nay ông đọc câu chuyện đến đoạn nào rồi nhỉ?

 -Phần hai người sắp gặp lại nhau, khi Loan ở dưới Saigon trở lại Đà Lạt để tìm lại Hải..

Bà Loan gật gù:

 -Mà câu chuyện cũng hay nhỉ? Nhân vật chính lại trùng với tên tôi và tên ông..

 -Đúng vậy và đây là một chuyện tình hết sức cảm động..

Vừa lúc đó, có tiếng trẻ con ở bên cạnh. Hai đứa trẻ một trai, một gái chạy đến ôm chầm lấy ông Hải và sau đó quay sang ôm bà Loan. Bà Loan vui vẻ nói:

 -Ồ các cháu của ông hôm nay lại đến thăm tôi..

 Bà Loan ngước nhìn người đàn ông vừa đến đứng cạnh ông Hải:

 -Anh Tùng cũng đến thăm tôi nữa này.

 Người đàn ông, tiến lại ôm lấy vai bà Loan:

 -Chào bác! Bác hôm nay có khỏe không?

 -À, hôm nay thì tôi khỏe lắm.

Tùng quay sang nói nhỏ vào tai ông Hải, trong khi hai đứa trẻ đang đưa cho bà Loan coi những vật dụng đủ mầu sắc trong một chiếc giỏ mà hai đứa đã mang đến:

-Má hôm nay có sao không hả ba?

 Ông Hải cũng nhỏ giọng:

 -Hôm nay má mầy có vẻ tươi tỉnh lắm. Hôm nay con không phải đi làm sao?

 -Dạ, hôm nay con nghỉ, đưa hai đứa nhỏ vào thăm bà nội và chút nữa thì phải đưa hai đứa nó đi nha sĩ..

                 *****

 Bà Loan chính thật là vợ ông Hải, mẹ của Tùng ,là bà nội của hai đứa bé Jason và Tracy, con của Tùng. Định cư ở Canada từ năm 1975, gia đình ông Hải đã có một thời gian sống thật hạnh phúc,rồi chẳng may bà Loan lại bị căn bệnh hiểm nghèo là bệnh Quên(Alzheimer’s). 

Sau vài năm được chữa trị ở nhà, bệnh Quên của bà ngày càng nặng dần đến nỗi bà chẳng còn nhận ra chồng con, chẳng nhận ra con cháu của mình nữa. Ngoài căn bệnh Quên, bà còn bị thêm bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường cũng ngày một nặng dần. 

 Ông Hải cố gắng chăm sóc vợ ở nhà, nhưng khi bệnh của bà ngày càng trầm trọng thêm,và đến lúc phải ngồi xe lăn, , thì ông Hải phải xin cho vợ mình vào nhà dưỡng lão Yee Hong , một nhà dưỡng lão của người Trung Hoa ở thành phố Mississauga này. Ông Hải cũng bán căn nhà cũ đang ở, mướn một căn chung cư ở gần nhà dưỡng lão, để hàng ngày có thể đến thăm nom cho vợ.

 Hàng ngày ông Hải đến nhà dưỡng lão vào lúc 10 giờ sáng, để đọc sách cho vợ, để giúp vợ ăn trưa. Sau giờ ăn, khi y tá đưa bà Loan đi tham dự các lớp tập thể dục , các giờ trị liệu pháp, thì ông Hải đi về nhà hoặc đi bộ trong khu công viên River Grove gần đó, hoặc là đi bơi trong hồ bơi của trung tâm cộng đồng Mavis. 

Buổi chiều ông Hải trở lại nhà dưỡng lão cho vợ ăn chiều và ở chơi cho đến tối mới trở lại căn chung cư mà ông đã muớn ở gần đó. Tùng là đứa con độc nhất của hai người, cũng ở trong thành phố Mississauga này, nên cũng hay thường dẫn vợ con đến thăm mẹ mỗi tuần vài lần.

Khi biết vợ mình bị bênh Quên, ông Hải bỏ công nghiên cứu thêm về loại bệnh nan y này. Ông cũng được biết là nếu tìm cách khơi lại những kỷ niệm cũ cho người bệnh, thì có nhiều trường hợp, người bệnh dần dần nhớ lại và bệnh Quên có thể bớt dần đi. 

Vì thế hàng ngày ông đến để đọc lại cho vợ nghe cuốn nhật ký dầy cộm mà bà Loan đã dùng để ghi lại những diễn biến của cuộc tình giữa hai người.

Ông Hải đã đọc đi đọc lại hết cuốn nhật ký này nhiều lần, nhưng vẫn chưa thấy sự tiến triển nào về sức khỏe và trí nhớ của vợ. Tùng nhiều lúc thấy tội nghiệp cho cha đã bảo ông Hải:

-Thôi ba à,ba đọc như vậy đủ rồi, chắc không có “work” đâu?

 -Không sao, tao ở nhà cũng buồn, đâu có chuyện gì làm..

 Và trang nhật ký đã được mở ra , hồi ký của một chuyện tình lại bắt đầu..

 Chiếc xe lam chỉ chở có một người khách, đổ dốc chạy theo đường Phan Đình Phùng, rẽ ngược lên con đường Huyền Trân Công Chúa để chạy đến cỗng trại Du Sinh.. 

Nếu xe tiếp tục đi thẳng là đường dẫn đến thác Cam Ly. Loan ngồi trong lòng xe, tay giữ chiếc va li , mắt ngơ ngẩn nhìn ra ngoài. Trời đã vào hè nhưng khí lạnh của miền cao nguyên vẫn còn lảng vảng đâu đây. 

Chiếc xe lam chạy lên giữa con dốc thì ngừng trước cổng trại. Nàng móc bóp trả tiền cho người tài xế, xách va li, bước xuống xe. Ngôi biệt thự của ba má nàng nằm ngay góc đường vào cổng trại. 

Nằm xế về bên tay phải, góc của một con đường tắt dẫn vào trại Du Sinh, là khu tọa lạc của trường Couvent Des Oiseaux. Loan xách va li đi lại cổng biệt thự bấn chuông. Một lúc sau, có tiếng mở cửa sắt và tiếng chào:

-Cô lên có một mình thôi hay sao? Thế còn bác đâu?

 Loan cất tiếng trả lời bà quản gia:

 -Cháu lên trước. Tháng sau má cháu mới ghé lại..

 -Vậy hả, thôi cô đưa va li tôi mang lên cho..

 Buổi tối hôm đó, Loan ăn qua loa rồi đi ngủ, sau chuyến đi dài mệt nhọc .

                       ******

 Buổi sáng hôm sau, Loan thức dậy vì những tiếng chim hót vang trên cành lá, xuyên qua khung cửa sổ rộng, vào tận phòng. Nàng trở dậy, mặc thêm chiếc áo khoác ngoài, rồi đi ra mở tung cánh cửa sổ. Mặt trời còn ủ kín trong sương. 

Lớp sương mù dầy đặc phủ kín cả khu rừng thông xung quanh ngôi biệt thự. Những ánh nắng mặt trời buổi sáng len lỏi giữa đám sương mù làm thành những vệt sáng trên những cành thông. Đúng lúc đó có tiếng của bà Hậu, người quản gia ở cửa:

-Cô Loan dậy chưa thì xuống ăn sáng!

Sau bữa ăn sáng, Loan thay quần áo, mặc thêm chiếc áo len, rồi thả bộ đi vòng quanh sân của ngôi biệt thự. 

Khu đất xung quanh ngôi biệt thự này rất rộng, được rào bằng hàng rào sắt, và trồng rất nhiều thông. Những cây thông ba lá mọc cao lêu khêu trong khu đất, khiến người ta có cảm tưởng đây là một khu rừng thu nhỏ. Nàng chầm chậm thả bộ đi trong sân, gần vòng rào, vừa đi vừa hít thở khí trong lành. Mùi của những lá thông ẩm sương, mùi của những đám hoa Lan mọc trên những cành thông cao trước mặt, hòa lẫn với nhau, thành một thứ mùi kỳ diệu có thể làm mê mẩn lòng người. Loan chợt nghĩ đến câu văn của một nhà văn mà nàng chợt quên mất tên khi nói về Đà Lạt như sau “ Đi trong đêm ở Đà Lạt là đi trong hơi thở của núi rừng”. 

Đang thả hồn theo cơn mộng, thì Loan bỗng giật mình vì tiếng   động mạnh ở phía trước. Nàng đưa tay giữ ngực nhìn lên. Một quả bóng tròn đã được đá từ ngoài vào sân. 

Chỉ mất giây sau thì Loan thấy ngay một chàng thanh niên, mặc bồ quần áo thể thao, đi giầy dùng để đá banh, lò mò bước tới. Khi thấy nàng đứng ôm ngực ở đó, chàng thanh niên cũng giật mình, rồi trấn tĩnh lại nói:

-Xin lỗi cô, trái banh tụi này đang đá ở bên ngoài, vô tình lọt vào sân nhà, tôi đường đột xin vào để lấy ra..

Loan ấp úng không nói một lời. Từ nhỏ đến lớn nàng sống khép kín trong gia đình, không giao thiệp nhiều với bên ngoài.

 Rồi khi vào trung học, thì nàng lại được gửi vào nội trú trong một trường dòng, sự giao tiếp của nàng càng giới hạn thêm nữa. Vì thế khi đối diện với người thanh niên lạ mặt này, nàng cũng chẳng biết phải đối đáp như thế nào?.

Chàng thanh niên thấy nàng không nói, cúi xuống nhặt quả banh, vừa dợm đi ra thì bỗng quay lại nói:

-Nhà tôi ở bên ngoài kia, ngay đường vào cổng trại, chỉ biết có bác Hậu thôi và chưa gặp cô bao giờ.

Loan run giọng:

 -Tại học ở Saigon..

 Chàng thanh niên ngắm nàng rồi gật gù:

 -À, ra vậy. Chắc cô về đây nghỉ hè? Tôi tên là Hải.. thế còn cô?

 -Tên là Loan..

 -Hân hạnh được biết cô.. Nhà tôi ở ngay bên cạnh hàng rào đó..

Vừa nói Hải vừa chỉ tay ra bên ngoài hàng rào sắt. Loan nhìn theo hướng chỉ và nhìn thấy một căn nhà tôn vách ván như những căn nhà của những người sống trong trại Du Sinh này. 

Loan đã được bà Hậu cho biết trại Du Sinh là trại của những đồng bào di cư tỵ nạn cộng sản từ miền Bắc vào Nam Các người tỵ nạn này đã được cha Bửu Dưỡng, một cha dòng Chúa Cứu Thế , dẫn dắt lên sống trong trại định cư này.

Chàng thanh niên nói tiếp:

 -Mấy ngày ở đây, nếu cô Loan không bận thì qua bên nhà chơi với tụi này.Tôi có hai đứa em gái chắc cũng bằng tuổi cô, thích hát hỏng lắm..

À, hay chiều nay cỡ bốn giờ, tôi bảo Liên ,một nhỏ em của tôi đến cổng biệt thự, chờ để dẫn cô qua chơi. Chiều nay có thêm mấy cô bạn của các em tôi ở trên đầu trại xuống, hát hò vui lắm..

Thế rồi họ quen nhau và yêu nhau lúc nào chẳng hay. Những ngày nghỉ hè năm đó là những ngày nghỉ hè đẹp nhất của đời học trò của Loan. Nàng đã được tham dự những trò vui tập thể cùng với đám thanh niên thiếu nữ cùng tuổi. Nào là trò chơi bịt mắt bắt dê, trò chơi rồng rắn… Nàng được tập hát những bài du ca. Nàng cũng được tham dự những buổi cắm trại trong khu rừng thông ở trên đầu trại, nơi có dòng suối trong vắt chảy qua . Trong làn nước trong veo đó, nàng đã thấy những con tôm tích, là loại tôm   cũng bằng cỡ những con tôm thường nhưng chúng có hai cái càng thật to. 

Các con tôm tích búng mình bong bóc khi thấy có bóng dáng người. Nàng đã lần đầu tiên nhìn thấy những con khỉ rừng leo trèo trên những cành thông, cũng như thấy tận mắt những người Thượng vai mang rìu , lưng đeo gù đi thành từng đoàn trong rừng.

Một tháng sau, khi bà Huyền, mẹ của nàng lên chơi, thì bà khám phá ra sự quen thân của Loan với Hải. Hải lúc đó đang học lớp đệ nhất của trường Hưng Đạo.

 Gia cảnh của chàng , một gia đình người Bắc mới di cư vào Nam-bố làm phu lục lộ và mẹ thì đang làm nghề nuôi heo, thì chẳng có thể nào là người “môn đăng hộ đối” với gia đình bà. 

Ngày hôm sau, bà Huyền đã bắt con mình phải về ngay lại Saigon. Loan buồn bã vì quyết định cứng rắn của mẹ, nhưng nàng cũng kịp dúi   cho người tình, mảnh giấy ghi địa chỉ của nàng ở Saigon và bảo Hải phải viết thư cho nàng.

 Những ngày ở Saigon là những ngày của nhớ mong. Loan chờ đợi thư của Hải gửi về, nhưng những bức thư tình vẫn biền biệt nơi đâu?. Loan bắt đầu viết nhật ký, ghi lại những ký ức của những ngày thơ mộng của mối tình đầu. 

 Một năm, rồi hai năm, nàng vẫn không nhận được tin tức của người tình. Nàng vẫn không quên Hải, nhưng cũng chẳng biết làm sao liên lạc với người yêu?. Bà Huyền đã cho bán căn biệt thự ở Đà Lạt cho người chủ khác. 

Trong hai mùa hè sau đó, bà Huyền đã khôn khéo cho con qua Paris thăm bà dì ở bên Pháp. Những cảnh đẹp, thú vui ở thành phố hoa lệ vẫn chẳng làm cho Loan vui. Khi nàng vừa đậu xong bằng tú tài toàn phần Pháp, thì có một gia đình quen với ông bà Huyền, gửi người nhờ mai mối Loan cho đứa con trai của họ là một bác sĩ mới ra trường.

 Khi được hỏi ý kiến nàng nàng cũng chẳng biết trả lời ra sao? Nàng cũng muốn nhận lời cho cha mẹ vui lòng, nhưng trong thâm tâm vẫn chẳng bao giờ nàng quên được Hải..

Bà Huyền vẫn kiên nhẫn dịu dàng khuyến dụ con , nhưng lòng của Loan vẫn có những níu kéo chờ đợi, cho nên chẳng trả lời dứt khoát. 

Trong một lúc nóng giận,, bà Huyền đã nói huỵch toẹt ra là “Hai năm nay Hải vẫn gửi thư đều đặn, nhưng bà đã giữ lại, vứt đi, không cho Loan đọc”. Loan nghe đến đó, khóc òa lên, rồi bỏ chạy về phòng mình, đóng cửa, bỏ mặc bà Huyền đứng ngoài khuyên nhủ, dỗ dành..

Buổi sáng sớm hôm sau, khi cả nhà còn ngủ, Loan lẻn ra ngoài, với số quần áo đựng trong xắc tay,nàng thuê xe tắc xi, chở đến bến đò xe đi Đà Lạt. Buổi chiều hôm đó, Loan đã có mặt ở ngôi nhà của Hải. 

Chàng đã không còn ở đó! Theo lời của Liên, thì sau khi bị rớt tú tài hai, Hải đã xin vào trường võ khoa Thủ Đức, học xong ra trường và hiện đang đóng đồn ở Chương Thiện.

Liên cũng cho Loan địa chỉ của đơn vị của Hải. Tối hôm đó, Loan ngủ lại nhà Hải, nằm cùng giường với Liên trong căn nhà tôn, và được bố mẹ của Hải cho ăn những món ăn đặc sản của người Bắc như canh rau đay, cà muối. 

Khi trở lại Saigon, với địa chỉ của Hải, Loan lại tìm đường xuống Chương Thiện. Khi đến bến xe thì nàng mới biết nàng phải đi bộ thêm ba cây số nữa, mới vào đến chỗ   đóng quân của Hải.

 Nhìn đôi guốc cao trong chân, Loan ngán ngẩm, đi ra chợ Chương Thiện ở gần đó mua một đôi dép cao su cho cuộc hành trình.Sau cùng Loan cũng đã gặp được Hải sau nhiều ngày vất vả! Lúc gặp Hải, Loan nước mắt ràn rụa, không nói được một tiếng nào. 

Hải cũng ngạc nhiên và cảm động khi thấy người yêu cuối cùng đã lặn lội tới thăm. Chàng thủ thỉ bảo nàng là sẽ giữ Loan không dể mất nàng trong cuộc đời.

Bà Huyền thấy con quyết lòng thì cũng không dám ép thêm. Một đám cưới giản dị đã được tổ chức! Loan cứ như người trong mơ, không nghĩ là hạnh phúc cuối cùng lại đến với nàng như thế! 

Cuộc sống hai người tuy có vất vả về tiền bạc, nhưng thật hạnh phúc, cho đến ngay cả khi gia đình phải di tản sang Canada, sau ngày buồn chung của đất nước, ngày 30 tháng 4 năm đó.

 Khi sang đến Canada thì cuốn nhật ký của bà Loan đã ghi đến hết trang cuối cùng!

                               ********

  Sau khi   đẩy chiếc xe lăn của bà Loan đến cạnh chiếc bàn tròn ở giữa sân cỏ, cô y tá Tina khóa chốt an toàn của xe lăn lại, kiểm soát lại một lần nữa rồi hỏi bà Loan:

-Are you OK?

 Bà Loan vội vã trả lời:

 -Yes, yes..

Cô y tá   vẫy tay chào mọi người rồi quay quả bước trở lại nhà ăn. Tháng bẩy mùa hè và vì là ngày chúa nhật cho nên cả gia đình của ông Hải kể cả Ngọc, vợ Tùng cũng như hai đứa cháu đều đến để thăm bà nội của chúng. 

 Thay vì cứ ngồi trong phòng ăn chật hẹp, mọi người bàn nhau ra ngồi ở ngoài sân vừa thoáng lại vừa yên tĩnh, không bị những tiếng ồn ào của những khách hàng khác ở trong phòng ăn. 

Chiếc bàn tròn đặt giữa sân cỏ được che   bởi một chiếc dù che nắng-chiếc dù có thể thay đổi vị trí theo sự thay đổi vị trí của mặt trời trong ngày. 

Từ trên sân cỏ, người ta có thể nhìn thấy bãi đậu xe dành cho khách đến thăm ở ngay cửa chính ,cuối con đường dốc thoai thoải đi xuống đồi. Ông Hải theo lệ thường, kéo chiếc chăn phủ chân của bà Loan lên ngang đùi và nói:

-Này bà Loan, câu chuyện mình đọc tới đâu rồi?

 Đây chỉ là câu hỏi thường lệ, và ông Hải sẽ đợi chờ câu trả lời của bà Loan là “tôi không nhớ tới đâu nữa!” như hàng ngày. Trong khi Tùng và Ngọc ngồi ở hai chiếc ghế bên cạnh, lơ đãng nhìn ra xa. Còn hai đứa cháu thì đang mải mê chơi các trò chơi điện tử Gameboys.

Bà Loan ngẫm nghĩ rồi bảo ông Hải:

 -Tôi nhớ mình đã đọc đến đoạn bà mẹ nhận là dấu thư của Hải gửi về không cho Loan biết..

 Ông Hải mừng rỡ:

 -À, hôm nay bà lại nhớ! Có triển vọng tốt..

Nói rồi ông Hải, sửa lại gọng kính, mở trang sách đã đánh dấu trước ra đọc.. Ông Hải vừa đọc được một đoạn thì có tiếng bà Loan ngắt lời:

-Ông Hải ơi, chuyện này là hình như là chuyện của tôi và cuốn nhật ký mà ông đang cầm trên tay hình như là của tôi mà..

Ông Hải hồi hộp hỏi:

 -Bà có nhớ thật không hở bà Loan..?

 -Thật mà..

 Nói đến đây, bà Loan bỗng giơ hai tay bảo ông Hải:

 -Anh Hải đây mà.. Anh đọc nhật ký của em mà anh cứ bảo của người khác..

Rồi quay sang đám con cái đang ngồi xung quanh, bà Loan rấm rứt khóc:

 -Ồ kìa Tùng con tôi, rồi Ngọc rồi các cháu tôi Jason và Tracy đây mà, chứ có ai xa lạ đâu..

Tùng la lên:

 -Má ơi, má đã nhớ lại rồi!

 Ông Hải cũng mừng rỡ:

 -Cám ơn Trời Phật, em đã nhớ lại được rồi..

 Tùng đứng dậy hối hả bảo ông Hải:

-Thôi ba ngồi đây với má nghe.. tụi con chạy qua nói cho chú thím Hùng biết, chở hai người đến đây luôn..

 Nói rồi Tùng dắt tay vợ và bảo hai đứa con:

 -Tụi con chào bà nội rồi đi với ba. Chút nữa mình trở lại..

Vừa quay đi, Tùng còn nói với lại:

 -Con sẽ ghé chợ Tầu mua thịt quay bánh mì mang về ăn trưa với chú thím Hùng luôn..

 Ông Hải đứng dậy ôm lấy vợ, nước mắt dàn dụa không nói một lời. Bà Loan cũng thút thít khóc trên vai chồng. Một lúc sau, ông Hải khẽ bảo:

-Có gió nhiều rồi, thôi để anh đưa em vào nhà ăn..

 Ông Hải lụm khụm mở chốt an toàn của chiếc xe lăn, chậm chậm đẩy chiếc xe ra khỏi sân cỏ, theo con đường dốc trở lại nhà ăn. 

Đang đẩy chiếc xe, ông Hải bất ngờ bị hụt chân té xuống, chiếc xe lăn không người giữ, chạy theo con đường dốc, tông thẳng vào bức hàng rào sắt ở gần cửa ra vào. Ông Hải chạy theo la lớn:

-Loan ơi, em có sao không?

 Khi ông Hải chạy đến gần, thì chiếc xe lăn đã ngừng lại. Mặt của bà Loan đã nằm kẹt giữa những làn song sắt. Ông Hải nghe loáng thoáng tiếng chân người chạy đến, tiếng của cô y tá Tina đang gọi số điện thoại khẩn cấp 911.

                             *******

  Vẫn chỗ ngồi cũ, vẫn chiếc bàn tròn ở góc phòng và vẫn có ly cà phê Tim Horton còn bốc khói ở trên bàn, ông Hải ngồi tư lự một mình, tay cầm cuốn nhật ký, buồn bã nhìn ra ngoài. Mùa thu đã về với lá vàng phủ đầy trên thảm cỏ. 

Thỉnh thoảng những cơn gió mạnh thổi về, đã   cuộn đám lá lên không trung như những đợt sóng, rồi những chiếc lá lại rơi lả tả lại trên sân. Sau đám tang của người vợ, hàng ngày ông Hải vẫn đến ngồi ở góc phòng của quán ăn trong nhà dưỡng lão Yee Hong này. 

Những khách hàng thường xuyên của quán ăn này, mà ông Hải nhớ mặt, vẫn ngày ngày đến đây. Nhưng không còn có cô y tá Tina đẩy chiếc xe lăn ra, và chỗ ngồi đối diện với ông cũng chẳng còn có người ngồi. Ông Hải thở dài, nhìn chiếc ghế trống đối diện, mở cuốn sách cầm trên tay, rồi hỏi:

-Bà Loan à, bà có nhớ hôm qua mình đã đọc đến đâu không?

 Không có tiếng trả lời, nhưng ông Hải, với đôi mắt nhòa lệ, vẫn cắm cúi đọc những dòng trong trang sách đã mở sẵn..Trang sách của một cuộc tình đầu và cũng là một cuộc tình cuối!

  Nguyễn Tuấn Hoàng

From:: Bach -Yen Ly


 

NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Việt Luận – Viet’s Herald

 NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Nhà toán học Nguyễn Xuân Vinh, gốc Bắc, di cư 1954, gia đình không theo Công giáo, nguyên là Đại Tá Tư lệnh của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa (thời Đệ Nhất Cộng Hòa), sau này là giáo sư đại học Michigan, Hoa kỳ. Ở cái thời mà đại đa số người dân Việt còn đi xe đạp, thì bằng các lý thuyết toán học, những nghiên cứu của GS. Vinh đã vạch đường bay cho phi thuyền vũ trụ lên Mặt Trăng.

TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP:

Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930) nguyên là Đại tá tham mưu trưởng kiêm tư lệnh của Không quân Việt Nam Cộng hòa. Ông là giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ chuyên ngành kỹ thuật không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới.

Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng tiến sĩ khoa học không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ. Những lý thuyết của Nguyễn Xuân Vinh đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông còn là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.

Từ khi còn nhỏ Nguyễn Xuân Vinh là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.

Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952, ông theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air) cho đến năm 1955. Sau đó ông lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Máeille.

Năm 1957, Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng hòa. Cho đến tháng 2 năm 1958, ông được giao chức Tư lệnh Không quân. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1962 rồi đi du học ở Hoa Kỳ.

Năm 1962, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi ông 32 tuổi.

Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, Tiến sĩ Vinh làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh được phong cấp giáo sư (professor) tại viện đại học Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.

Năm 1982, Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace). Đến năm 1986, Giáo sư Vinh trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).

Trong nhiều năm Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều đại học lớn và các hội nghị quốc tế nhiều nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.

Năm 1999, Giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Ngày 19 tháng 10 năm 2016, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy tên Thánh là Anphongsô.

GIẢI THƯỞNG:

– Năm 1994: “Mechanics and Control of Flight” của American Institute of Aeronautics and Astronautics.

– Năm 1996: “Excellence 2000 Award” của Pan Asian American Chamber of Commerce

– Năm 2006: “Giải thưởng Dirk Brouwer” về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)

– Năm 2007: Dirk Brouwer Award do the American Astronautical Society tặng

– Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.

– Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.

– Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng “Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh” để khuyến khích học sinh ở địa phương.

TÁC PHẨM:

Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đã xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.

Theo FB Nguyễn Hùng Dũng


 

 Joseph Stalin không ngủ như một con người tin tưởng vào quyền lực của mình

Phuong Tran

 Joseph Stalin không ngủ như một con người tin tưởng vào quyền lực của mình.

Khi ông đã thống trị Liên Xô một cách tuyệt đối – nắm trong tay quốc gia rộng lớn nhất thế giới, chỉ huy hàng triệu binh sĩ, định đoạt số phận của cả những dân tộc – ông vẫn đặt bên gối một khẩu súng lục đã lên đạn. Mỗi đêm, ông thay đổi phòng ngủ, không bao giờ nằm lại cùng một chiếc giường hai đêm liền. Ông từ chối đi lại trên cùng một con đường cũ. Ông không ngừng cải tạo các dinh thự, thêm những hành lang bí mật, những cánh cửa khóa layered, những lối thoát hiểm ngoằn ngoèo nhằm đánh lừa kẻ ám sát tiềm tàng.

Đó không phải là thói lập dị. Đó là bản năng sinh tồn của một người hiểu rõ hơn ai hết cách mà các nhà độc tài rời bỏ thế gian.

Vì Stalin đã trèo lên đỉnh quyền lực bằng cách khiến người khác chết trước mình.

Ông thấu suốt cơ chế của những vụ ám sát chính trị. Chính ông đã đạo diễn chúng. Ông đã chứng kiến đối thủ tan biến trong ngục tù, thấy đồng chí cũ bị bắn trong tầng hầm tối, ra lệnh những cuộc thanh trừng nuốt chửng hàng ngàn sinh mạng. Ông biết rằng những lưỡi dao ông đã phóng ra có thể bất cứ lúc nào quay ngược lại. Người trung thành hôm nay có thể đang mài dao ngày mai. Đồng minh đáng tin nhất cũng có thể hóa thành kẻ sát nhân.

Thế nên Stalin không tin ai. Và ông dựng nên cả cuộc đời mình trên nền tảng duy nhất ấy: sự nghi kỵ tuyệt đối.

Nỗi sợ ấy định hình lại mọi ngóc ngách trong cuộc sống ông. Một buổi sáng, nhân viên đến làm việc và bỗng thấy mình bị đuổi mà không một lời giải thích. Lính gác bị thay phiên liên tục để không ai kịp thuộc lòng nhịp sống của ông. Đội cận vệ thay đổi khuôn mặt thường xuyên đến mức sự quen thuộc trở thành điều xa xỉ.

Ngay cả các bác sĩ cũng run rẩy khi chữa trị cho ông – một chẩn đoán sai, một liều thuốc không hiệu nghiệm, và họ có thể bị kết tội là kẻ phá hoại hay gián điệp ngoại bang. Họ tiếp cận sức khỏe của Stalin như những người tháo ngòi nổ, tim đập trong lồng ngực.

Các cố vấn học được rằng sống sót nghĩa là cúi đầu và im lặng. Không đưa ra nhận định trung thực. Không báo tin xấu. Đặc biệt không được phản biện Tổng Bí thư. Họ chỉ nói những gì ông muốn nghe, gật đầu trước mọi lời ông phán, và thầm cầu mong được về nhà nguyên vẹn đêm ấy.

Vì vòng tròn thân cận của Stalin đều thấu một chân lý lạnh lẽo: gần quyền lực tức là gần tử thần.

Nhưng nỗi kinh hoàng không dừng lại bên trong tường thành Kremlin. Nó lan tỏa như ung thư, nhiễm độc toàn bộ cơ thể nhà nước Xô Viết.

Qua cuộc Đại Thanh trừng những năm 1930, chế độ Stalin hành quyết hàng trăm nghìn người, giam cầm và lưu đày hàng triệu linh hồn khác. Các tướng lĩnh từng dẫn quân chiến thắng bị bắn như phản tặc. Các bộ trưởng trung thành suốt mấy thập kỷ tan biến trong đêm. Nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo viên, công nhân – bất kỳ ai cũng có thể bị bóng đêm nuốt chửng. Cảnh sát mật gõ cửa lúc nửa đêm, và con người bỗng hóa thành hư vô.

Trung thành không mua được sự an toàn. Năng lực đôi khi lại là lời mời gọi tử thần. Quá giỏi việc, bạn có thể bị coi là mối uy hiếp. Quá được lòng cấp dưới, bạn có thể bị nghi xây dựng phe cánh. Vị trí an toàn nhất là tầm thường và vô hình.

Cả nhà nước Xô Viết dần mang tâm lý của lãnh tụ: đa nghi, bí ẩn, tàn nhẫn. Sự thật trở thành lưỡi dao, nên người ta nói dối. Trung thực mời gọi roi vọt, nên mọi người giấu nhẹm vấn đề. Hệ thống lẽ ra kiến tạo thiên đường cộng sản lại dựng nên một cỗ máy khổng lồ chuyên ăn thịt chính con dân mình.

Stalin không tin ai vì ông tin rằng chẳng ai đáng tin. Và có lẽ ông đúng – bởi chính ông cũng chẳng đáng tin. Sao người khác lại khác được?

Sự mỉa mai thật nghiệt ngã: chính nỗi đa nghi ông tưởng sẽ che chở cho mình lại gây ra những thảm họa khôn lường.

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, văn hóa sợ hãi của Stalin làm tê liệt mọi quyết sách của Liên Xô. Sĩ quan biết rõ điểm yếu quân sự nhưng không dám báo – báo tin xấu đồng nghĩa với viên đạn. Tình báo về cuộc xâm lược của Đức bị bỏ ngoài tai vì dám trái ý Stalin là tự sát. Báo cáo giả thay thế báo cáo thật, bởi sống sót nghĩa là nói những lời lãnh đạo muốn nghe.

Thế nên khi Đức Quốc xã tràn qua biên giới tháng 6 năm 1941, Hồng quân thảm khốc không chuẩn bị dù đã có vô số lời cảnh báo. Cuộc tấn công chớp nhoáng của Đức xé nát lực lượng Xô Viết. Hàng triệu binh sĩ ngã xuống, bị bắt hoặc bị bao vây chỉ trong vài tháng đầu. Thành phố sụp đổ. Cả quân đoàn tan rã như cát bụi.

Những cuộc thanh trừng đa nghi trước đó đã làm suy kiệt Hồng quân – Stalin hành quyết hoặc giam cầm nhiều tướng tài nhất vì sợ họ thành đối thủ. Giờ đây, văn hóa dối trá và sợ hãi khiến đất nước trần trụi trước lưỡi hái chiến tranh mà ai cũng thấy trước nhưng không ai dám chuẩn bị.

Cái giá phải trả thật kinh hoàng. Hơn 26 triệu công dân Xô Viết bỏ mạng trong cuộc chiến – cả quân nhân lẫn thường dân. Nhiều sinh mạng ấy có thể quy trực tiếp hoặc gián tiếp về những rối loạn do nỗi đa nghi của Stalin gây ra.

Song chiến thắng trước phát xít Đức chỉ khiến ông nghi ngờ thêm.

Những năm cuối đời, nỗi đa nghi quay ngược vào trong với cơn cuồng nộ mới. Ông tin rằng chính các bác sĩ – những người giữ mạng sống cho ông – đang âm mưu hại ông. “Âm mưu Bác sĩ” 1952-1953 chứng kiến hàng loạt y sĩ danh tiếng, nhiều người gốc Do Thái, bị bắt và buộc tội mưu sát lãnh đạo.

Đó là cơn điên rồ. Nhưng là cơn điên có gốc rễ – Stalin đã xây một hệ thống nơi lý thuyết âm mưu thành chính sách quốc gia, nơi đa nghi được thưởng, nơi nhìn kẻ thù khắp nơi được ca tụng là trí tuệ thay vì bệnh hoạn.

Stalin tự cách ly mình khỏi thực tại ngày một xa. Càng ít người được tiếp cận ông. Càng ít tiếng nói đến được tai ông. Vòng tròn tin tưởng – vốn đã nhỏ bé – co lại thành hư vô. Ông là người quyền lực nhất Liên Xô, cai trị một siêu cường trải dài từ Đông Âu đến Thái Bình Dương.

Và ông cô độc đến tận cùng đáy lòng.

Ngày 1 tháng 3 năm 1953, Joseph Stalin bị đột quỵ nặng. Ông ngã quỵ trong dinh thự Kuntsevo, không thể cất tiếng kêu cứu.

Và đây là vòng tròn định mệnh của nỗi đa nghi: lính gác do dự hàng giờ không dám bước vào phòng.

Tại sao? Vì ông đã ra lệnh nghiêm cấm làm phiền. Vì bước vào mà không được phép – dù để cứu mạng – có thể lãnh án tử. Vì văn hóa kinh hoàng ông gieo rắc khiến người ta sợ cơn thịnh nộ của ông hơn là lo cho sinh mạng ông.

Nhà độc tài nằm trên sàn lạnh, nửa người tê liệt, không nói không động, trong khi cận vệ và nhân viên đứng ngoài cửa, run rẩy không dám hành động.

Khi bác sĩ cuối cùng được gọi đến và dám bước vào, Stalin đã nằm đó hàng giờ. Sự chậm trễ làm tình trạng ông tồi tệ hơn nhiều. Họ cố cứu chữa, nhưng tất cả đã quá muộn.

Joseph Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953, thọ 74 tuổi.

Khẩu súng dưới gối không cứu được ông. Những căn phòng luân phiên không cứu được ông. Biện pháp an ninh, thanh trừng, hành quyết, cả một đế chế kinh hoàng – chẳng gì cứu nổi ông.

Cuối cùng, chính nỗi đa nghi đã định nghĩa cả cuộc đời ông lại góp phần đưa ông đến cái chết. Nỗi sợ ông gieo vào lòng người khác khiến không ai dám kịp thời ra tay khi ông cần nhất.

Cuộc đời Stalin chứng minh một chân lý sâu thẳm và đáng sợ: quyền lực tuyệt đối không xua tan nỗi sợ, nó chỉ nhân nó lên gấp bội.

Khi cai trị bằng kinh hoàng, bạn tạo ra một thế giới mà mọi người – kể cả chính mình – sống trong nỗi sợ triền miên. Khi trung thành bị ép buộc bằng bạo lực, bạn mãi mãi không thể tin nó chân thật. Khi đã loại trừ mọi mối đe dọa, bạn chỉ còn lại những kẻ che giấu sự thật vì trung thực đồng nghĩa với tử thần.

Stalin tưởng mình đang dựng nên pháo đài an toàn. Thực ra ông đã xây một nhà tù. Và ông là tù nhân chính – cô đơn nhất.

Ông thống trị một siêu cường vĩ đại. Ông chỉ huy đạo quân hùng mạnh. Ông nắm trong tay sinh mạng hàng trăm triệu người. Các quốc gia run sợ trước sức mạnh Xô Viết. Các nguyên thủ coi ông ngang hàng trên trường quốc tế.

Vậy mà mỗi đêm, ông ngủ như một kẻ bị truy nã. Thay giường liên tục. Vũ khí kề bên. Không tin ai. Sợ hãi mọi người.

Người gieo rắc kinh hoàng cho triệu triệu con người lại sống trong chính kinh hoàng ấy. Kiến trúc sư của nhà nước giám sát lại là kẻ bị giám sát chặt chẽ nhất. Nhà độc tài có quyền giết bất kỳ ai lại biết rằng bất kỳ ai cũng có thể muốn giết mình.

Đó là cái giá cuối cùng của bạo quyền. Không chỉ những gì nó gây ra cho nạn nhân – dù đã đủ kinh hoàng. Mà còn những gì nó làm tan nát tâm hồn chính kẻ bạo chúa.

Stalin dành những năm cuối đời trong cô lập, đa nghi và sợ hãi. Ông chết một mình trên sàn lạnh, bên ngoài là những con người quá kinh hoàng để cứu ông. Hệ thống kinh hoàng ông tạo dựng đã hoàn tất vòng tròn: nuốt chửng cả chính người sinh ra nó.

Quyền lực không có lòng tin chẳng phải sức mạnh. Đó chỉ là một xiềng xích vô hình mà không khẩu súng nào có thể bắn đứt.

Như Like Thần Chưởng


 

 NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÃ SÁT HẠI THÁNH NỮ MARIA GORETTI

Tin Công Giáo 24h

  NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÃ SÁT HẠI THÁNH NỮ MARIA GORETTI

Đây là Alessandro Serenelli, người đã sát hại Thánh nữ Maria Goretti vào năm 1902, sau khi cô dũng cảm chống lại ý đồ dục vọng của ông. Trong bức hình, Alessandro đang tôn kính ảnh của vị thánh mà chính ông đã giết hại.

Alessandro bị tuyên án 30 năm tù. Trong phiên tòa, ông trơ tráo đổ lỗi cho Maria tấn công ông, cho rằng mình hành động “tự vệ”. Tính khí hung bạo khiến ông thường xuyên nổi loạn trong tù và bị giam biệt lập.

Sáu năm sau, một biến cố thiêng liêng đã thay đổi cuộc đời ông: Maria hiện ra trong một thị kiến. Cô đứng trong khu vườn, mỉm cười bẻ 14 đoá huệ trắng trao cho ông — dấu chỉ của ơn tha thứ. Thị kiến ấy đánh động tâm hồn ông sâu sắc, mở ra con đường sám hối và hoán cải.

Từ đó, Alessandro thay đổi hoàn toàn. Ông sống phần còn lại của bản án trong bình an và kỷ luật, và nhờ hạnh kiểm tốt, được trả tự do sớm. Sau khi mãn hạn tù, ông tìm đến mẹ của Maria, khiêm tốn xin bà tha thứ — và bà đã ôm lấy ông, nói: “Nếu Maria đã tha thứ cho anh, thì tôi cũng vậy.”

Sau đó, Alessandro gia nhập Dòng Phanxicô Capuchin với tư cách là một hiệp sĩ Thánh Phanxicô (oblate), sống âm thầm trong lao động và đền tội: làm vườn, quét dọn, phục vụ trong tinh thần khiêm nhường.

Ông qua đời ngày 6 tháng 5 năm 1970, tại tu viện Capuchin ở Macerata, Ý — được nhớ đến như một chứng nhân cho quyền năng biến đổi của ơn tha thứ, và như một linh hồn được Thiên Chúa đưa trở về qua lòng thương xót.