VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Công Giáo Rôma – Chính Trực

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Nhiều người cho rằng ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ hội ngoại giáo của người Rôma như Saturnalia, Sol Invictus hay thần Mithra. Tuy nhiên, đa số các học giả ngày nay không đồng tình với giả thuyết này.

Ngày 25 tháng 12 đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta mỗi khi nghĩ đến Giáng Sinh – với cây thông, ánh đèn và hình ảnh ông già Noel. Nhưng liệu đó có thật sự là ngày Chúa Giêsu giáng sinh? Và nếu không thể xác định chính xác, vì sao Giáo Hội lại chọn ngày này để mừng biến cố Nhập Thể?

Các Tin Mừng chỉ cung cấp rất ít chi tiết. Chẳng hạn, thánh Luca kể rằng các thiên thần đã báo tin cho những mục đồng đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng (Lc 2,8).

Nhưng liệu các mục đồng có ở ngoài đồng vào giữa mùa đông hay không?

Ông Andrew McGowan, Viện trưởng Chủng viện Thần học Berkeley (Đại học Yale), cho rằng chi tiết này “có thể gợi đến mùa xuân, mùa chiên sinh sản”, vì vào tháng 12 lạnh giá, chiên thường được nhốt lại.

Vậy có phải ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ ngoại giáo không?

Ông McGowan tỏ ra hoài nghi. Theo ông, giả thuyết này tuy phổ biến nhưng gặp nhiều vấn đề. Trước hết, không có bất cứ văn bản Kitô giáo cổ nào nói rằng Giáo Hội cố ý chọn ngày này để đối trọng với các lễ ngoại giáo. Đúng là các tác giả Kitô giáo thời đầu có liên hệ giữa ngày đông chí và Chúa Kitô – chẳng hạn thánh Ambrôsiô gọi Chúa là “Mặt Trời đích thực”, vượt trên các thần linh giả tạo – nhưng các ngài xem đó là dấu chỉ của chương trình quan phòng Thiên Chúa, chứ không phải kết quả của một sự sắp đặt mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Khoảng năm 200, thánh Clêmentê thành Alexandria cho biết đã có nhiều ngày khác nhau được đề nghị cho ngày Chúa Giêsu ra đời, như 20 hoặc 21 tháng 4, hay 20 tháng 5. Đáng chú ý là ngài không hề nhắc đến ngày 25 tháng 12.

Theo Jon Sorenson (Catholic Answers), thánh Hippôlytô thành Rôma, trong tác phẩm Chú giải sách ngôn sứ Đanien (khoảng năm 204), đã khẳng định Chúa Giêsu sinh ngày 25 tháng 12. Ngài viết rằng Chúa giáng sinh tại Bêlem vào ngày 25 tháng 12, và chịu khổ hình vào ngày 25 tháng 3.

Trong một tác phẩm khác của Hippôlytô là Biên niên sử, ngài cho rằng Chúa Giêsu sinh ra chín tháng sau ngày tạo dựng vũ trụ. Theo cách tính của ngài, vũ trụ được tạo dựng vào ngày xuân phân, 25 tháng 3, và vì thế, chín tháng sau – tức ngày 25 tháng 12 – là ngày Chúa giáng sinh.

Ông McGowan cho biết rằng đến thế kỷ IV, đã có hai ngày được nhìn nhận rộng rãi là ngày sinh của Chúa Giêsu: ngày 25 tháng 12 tại Tây phương và ngày 6 tháng 1 tại Đông phương, đặc biệt ở Ai Cập và Tiểu Á.

Điều đáng chú ý là thánh Hippôlytô cũng xác định ngày Chúa chịu chết là 25 tháng 3. Vậy phải chăng Giáo Hội còn biết chính xác cả ngày Chúa chịu đóng đinh? Ông McGowan nhận xét rằng, nghe có vẻ lạ, nhưng chìa khóa để xác định ngày Chúa sinh lại nằm ở việc xác định ngày Chúa chịu chết vào lễ Vượt Qua.

Theo Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh đúng lúc chiên Vượt Qua đang được sát tế, tức ngày 14 tháng Nisan theo lịch Do Thái. Còn theo các Tin Mừng Nhất Lãm, Bữa Tiệc Ly diễn ra vào đầu ngày 15, và Chúa chịu đóng đinh vào sáng hôm sau – vẫn là ngày 15. Vào khoảng năm 200, Tertullianô thành Carthage cho biết người ta đã tính rằng ngày 14 tháng Nisan tương ứng với ngày 25 tháng 3 theo lịch Rôma. Ngày này về sau được cử hành là lễ Truyền Tin – đúng chín tháng trước ngày 25 tháng 12.

Đức Bênêđictô XVI cũng xác nhận mối liên hệ này trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ. Khi ấy còn là Hồng y Joseph Ratzinger, ngài viết rằng yếu tố quyết định trong việc xác định ngày Giáng Sinh chính là mối liên kết giữa công trình tạo dựng, Thập Giá và mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô.

Tại Đông phương, người ta cũng gắn kết ngày Chúa chịu chết và ngày Chúa được thụ thai, nhưng dựa trên lịch Hy Lạp địa phương. Ngày 14 của tháng xuân đầu tiên – tương ứng với ngày 6 tháng 4 – được coi là ngày Chúa chịu chết và nhập thể; chín tháng sau là ngày 6 tháng 1, ngày mừng Giáng Sinh theo truyền thống Đông phương.

Giám mục Êpiphanô thành Salamis viết rằng ngày 6 tháng 4 là ngày “Chiên Thiên Chúa được cưu mang trong lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ thánh thiện, Đấng đã và đang xóa bỏ tội trần gian.” Cho đến nay, Giáo Hội Armenia vẫn mừng lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 và lễ Giáng Sinh vào ngày 6 tháng 1.

Như thế, ngày 25 tháng 12 không đơn thuần là sự vay mượn từ các lễ hội ngoại giáo, nhưng phát xuất từ một suy tư thần học sâu xa của Hội Thánh sơ khai: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập Giá và công trình tạo dựng đều quy hướng về cùng một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa.

Jos Nguyen chuyển ngữ  – Aleteia.org)


 

LUẬT NHÂN QUẢ

 

Bạn hãm hại người khác, thì sẽ có người khác hãm hại bạn.

 Bạn lừa dối người khác, cũng sẽ có người khác lừa dối bạn.”

 Đó không phải là lời nguyền, mà là luật nhân quả vận hành một cách âm thầm nhưng chính xác.

Bởi mọi hành động, dù là thiện hay ác, đều để lại dấu vết – và rồi, sớm hay muộn, cuộc đời sẽ trả lại đúng thứ mà bạn đã gieo ra.

 Khi bạn khiến ai đó tổn thương, đừng nghĩ rằng thời gian sẽ làm họ quên. Thời gian chỉ khiến vết thương lắng xuống, để rồi một ngày, chính bạn sẽ nếm lại cảm giác đó trong một hình thức khác.

 Không phải vì ai đó trả thù, mà vì trời đất có luật công bằng của riêng mình. Người hãm hại kẻ khác tưởng rằng mình thắng, nhưng thật ra họ đang đánh mất lòng tin, danh dự và phước phần của chính mình.

 Người lừa dối tưởng rằng mình khôn, nhưng lại đang gieo mầm nghi ngờ, để rồi mai này chính họ sẽ bị lừa trong cay đắng.

Nhân quả không đến ngay, nhưng một khi đã đến, không ai tránh được

 Sống ở đời, khôn ngoan không phải là mưu mẹo, mà là biết nghĩ cho hậu quả của từng việc mình làm.

 Làm điều đúng, lòng nhẹ. Làm điều sai, tâm bất an.

 Càng sống thiện, càng gặp lành; càng sống ác, càng gặp dữ – ấy là quy luật muôn đời, không ai có thể đổi.

Vì vậy, đừng tìm cách hại người để mình được lợi,vì cái lợi ngắn ngủi hôm nay có thể là cái họa dài lâu ngày mai.

 Hãy sống chân thành, ngay thẳng, và biết ơn, bởi cuối cùng, cuộc đời sẽ luôn trả lại cho bạn đúng những gì bạn đã gieo ra – không hơn, không kém.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

KHÔNG CHÓI, ĐỦ RỌI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lời Chúa VỌNG GIÁNG SINH – Lễ Ban Đêm 24/12: https://tinyurl.com/48myfny8

KHÔNG CHÓI, ĐỦ RỌI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ!”.

“Ánh sáng Giáng Sinh là ánh sáng của tình yêu, không chói lòa, nhưng đủ rọi những trái tim biết đón nhận!” – Ruth Stapleton.

Kính thưa Anh Chị em,

Giáng Sinh nào cũng ngập tràn ánh sáng; nhưng Lời Chúa đêm nay cho biết, ánh sáng Giáng Sinh là ánh sáng của tình yêu – không nguy nga tráng lệ – ‘không chói’, nhưng ‘đủ rọi’ những con tim biết đón nhận!

Ánh sáng ấy đủ cho người đang “lần bước”; không phải cho đoàn người hân hoan tiến bước, nhưng là một dân tộc mệt mỏi, dò dẫm, với ách trên vai, gậy trên lưng. Chính trong hoàn cảnh ấy, “một ánh sáng huy hoàng chiếu rọi” – bài đọc một – không để phô trương quyền năng, nhưng để gỡ ách, bẻ gậy, đem lại nhẹ nhõm; không làm choáng ngợp, nhưng làm người ta thở được, đứng thẳng, và dám đi tiếp. Ánh sáng đó chính là Giêsu trong máng cỏ lạnh tăm, nghèo hèn, nhưng âm thầm giải phóng và cứu thoát con người khỏi tội lỗi – ‘không chói’, nhưng ‘đủ rọi’ để con người nhận ra mình không còn bị bỏ rơi.

“Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng!” – Thánh Vịnh đáp ca – vậy mà lý do của niềm vui đó thật hồn nhiên – “Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta!”. “Hôm nay” ấy không phải là dạ tiệc hoa đăng, mà là đêm Thiên Chúa làm người bước vào thời gian, để con người được làm con cái Chúa! Ánh sáng đó không chiếu từ trên cao, nhưng toả ra từ một Hài Nhi trong hang bò – một ánh sáng thấp, gần, dễ bị bỏ qua – và ai cúi xuống sẽ nhìn thấy. Vì thế, chỉ những người sống ‘gần đất, quen đêm’ như các mục đồng, mới nhận ra ánh sáng ấy. “Những ánh đèn làm chứng Ngài là Ánh Sáng thế gian, và những món quà chỉ là bóng của món quà lớn nhất được ban tặng – Đức Kitô!” – Charles Stanley.

Phaolô gọi đêm nay là lúc “Ân sủng của Thiên Chúa xuất hiện”. “Xuất hiện” ở đây không là loè chiếu, mà là ló rạng; không ép buộc nhưng giáo dục, uốn nắn – bài đọc hai. Ánh sáng Giêsu ‘không chói’ để làm khiếp sợ, nhưng ‘đủ rọi’ để con người hoán cải; không tố cáo, nhưng soi cho thấy điều gì cần buông, điều gì cần giữ, và điều gì cần chữa. Dẫu thế, ánh sáng Giáng Sinh không làm đêm tối biến mất tức khắc; các mục đồng vẫn trở về đồng cỏ, thế giới vẫn nghèo đói và chiến tranh, nhưng từ đêm ấy, không còn bóng tối nào là tuyệt đối. Bởi giữa đêm sâu nhất, đã có một ánh sáng dám yêu, dám ở và dám chờ. “Để ánh sáng toả sáng rực rỡ đến vậy, bóng tối phải tồn tại!” – Francis Bacon.

Anh Chị em,

Bạn không cần thêm ánh sáng nào cho cuộc đời vốn đã quá chói chang; điều chúng ta cần là ánh sáng Giêsu – ‘không chói’ để gây sợ hãi, nhưng ‘đủ rọi’ để ai cũng nhận ra mình được yêu, được cứu, và được mời gọi trở thành ánh sáng nhỏ bé cho người khác. “Bất cứ khi nào bạn để cho Thiên Chúa yêu người khác qua bạn, thì đó là Giáng Sinh!” – Mẹ Têrêxa. Và nên ánh sáng cho người khác đủ để đi tiếp, đủ để yêu lại, và đủ để hy vọng cũng là phép lạ thầm lặng của Giáng Sinh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho đời con trở nên một ánh nến nhỏ – không để phô diễn, nhưng đủ cho ai đó đang lần bước!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

****************************************

Lời Chúa VỌNG GIÁNG SINH – Lễ Ban Đêm 24/12

Tin mừng: Lc 2,1-14

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ.

Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.


 

Số người bị nhồi máu cơ tim tăng cao nhất vào mùa lễ cuối năm

Ba’o Nguoi-Viet

December 23, 2025

SACRAMENTO, California (NV) – Mùa lễ cuối năm nổi tiếng là thời gian vui chơi, gặp gỡ người thân, bạn bè, và ăn mừng, nhưng bác sĩ cho hay đây cũng là thời gian sức khỏe tim mạch có thể gặp nguy hiểm, theo đài KCRA hôm Thứ Hai, 22 Tháng Mười Hai.

Giữa lúc nhiều người khoác thêm áo ấm và bận rộn với lịch vui chơi, chuyên gia y tế cảnh báo Tháng Mười Hai và Tháng Giêng là hai tháng đông bệnh nhân bị bệnh tim đi cấp cứu nhất.

Uống nhiều rượu bia làm tăng rủi ro bị nhồi máu cơ tim. (Hình minh họa: Storyblocks)

Theo nghiên cứu của Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ, số người chết liên quan tới tim lên cao nhất trong thời gian Noel và Năm Mới, nhiều hơn bất cứ lúc nào khác trong năm.

Nguyên nhân là gì?

Bác sĩ nêu ra một loạt yếu tố kết hợp: Thời tiết lạnh hơn làm tim căng thẳng, món ăn ngày lễ nhiều muối và chất béo, đi đường dài, ngủ không điều độ, và căng thẳng cảm xúc.

Thậm chí sự tất bật của mùa lễ cũng có thể làm hại sức khỏe.

Nhưng tin vui là chuyên gia y tế cho biết có thể phòng ngừa nhiều rủi ro gây hại cho tim vào mùa lễ.

Bác sĩ tim mạch khuyên ăn điều độ, uống nước đầy đủ, ưu tiên ngủ, kiểm soát tình trạng căng thẳng, và đừng quên dùng thuốc mà bác sĩ đã chỉ định.

Những cách đơn giản như đi dạo sau khi ăn tối, hạn chế rượu bia, và dành thời gian nghỉ ngơi cũng có thể rất hữu ích.

Bác sĩ cũng khuyến cáo mọi người đừng bỏ qua triệu chứng như tức ngực, khó thở, choáng váng, hoặc mệt mỏi bất thường. (Th.Long)[dt]


 

Chuyện thật như đùa – Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

22/12/2025

Diella – Bộ trưởng phụ trách Trí tuệ nhân tạo

Albanie là một nước nhỏ, chưa đến ba triệu dân ở châu Âu. Nước này từng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, rồi thoát khỏi chế độ XHCN sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Nhưng cũng như nhiều nước cựu XHCN khác, Albania mang theo một di sản nặng nề: tham nhũng ăn sâu vào bộ máy quyền lực. Đã lâu người ta không còn nhắc đến đất nước nhỏ bé ấy. Bỗng nhiên, năm 2025, Albania gây chấn động dư luận quốc tế khi tuyên bố bổ nhiệm “cô” Diella làm bộ trưởng, một bộ trưởng hoàn toàn được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.

Diella trong tiếng Albania có nghĩa là “Mặt Trời”, được chọn như biểu tượng của ánh sáng và minh bạch. Trước đó, Diella chỉ là một trợ lý ảo trên cổng dịch vụ hành chính điện tử e-Albania, giúp người dân làm giấy tờ. Đến tháng 9 năm 2025, trong lễ ra mắt nội các mới, Thủ tướng Edi Rama bất ngờ công bố Diella trở thành “Bộ trưởng Nhà nước phụ trách Trí tuệ nhân tạo”, đồng thời giao cho cô một nhiệm vụ cực kỳ nhạy cảm: giám sát toàn bộ các gói thầu công, lĩnh vực vốn gắn chặt với tham nhũng và lợi ích nhóm. Theo Thủ tướng Rama, giao việc này cho một AI sẽ giúp quy trình trở nên “100% không tham nhũng”, bởi máy móc thì không quan hệ, không thân hữu, không phong bì. Hình ảnh Diella được dựng như một phụ nữ mặc trang phục truyền thống Albania, với giọng nói và gương mặt của một nữ diễn viên thật.

Khi Diella xuất hiện và phát biểu trước Quốc hội Albania, khung cảnh vừa lịch sử vừa căng thẳng. Phe phản đối cho rằng đây là một quyết định vi hiến, vì bộ trưởng phải là con người và phải chịu trách nhiệm. Phe ủng hộ thì nói thẳng: con người đã làm quá tệ, tệ đến mức người ta sẵn sàng thử đặt niềm tin vào máy móc. Chuyện nghe như đùa, nhưng lại hoàn toàn là chuyện thật.

Và nếu thử đặt giả thiết Việt Nam cũng có Diella, không phải một, mà là cả một hệ thống Diella, thì cái lợi sẽ thật khổng lồ. Máy móc không ăn hối lộ. Như vậy, toàn bộ những kẻ sống bằng việc “ăn” sẽ mất nguồn sống. Bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng… tất cả bọn tham nhũng sẽ “chết đói”. Người dân thì được hưởng lợi ngay lập tức: làm việc không cần quen biết, không cần cúi đầu, không cần phong bì. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, luật có thể được áp dụng như luật, chứ không phải như món hàng mua bán. Đó sẽ là một cao trào sung sướng thật sự, một cảm giác giải phóng: thà để máy móc cai trị còn hơn để con người như ngày nay..  .

Nhưng chính ở đỉnh cao ấy, bi kịch bắt đầu. Bởi vì khi một xã hội sung sướng vì không còn tin con người, thì đó không phải là chiến thắng của công nghệ, mà là sự sụp đổ của niềm tin đạo đức. Diella không biết xấu hổ, không biết sợ dân, không biết day dứt. Khi một quyết định gây oan sai, câu trả lời sẽ chỉ là: thuật toán đã vận hành đúng. Và thế là trách nhiệm biến mất. Quyền lực không còn gắn với một con người có thể bị chất vấn, mà tan vào hệ thống vô hình.

Nhưng cần nói thêm một điều còn nguy hiểm hơn nữa: đằng sau Diella không phải là sự trung lập tuyệt đối, mà là các thuật toán (nói một cách đơn giản là những chuỗi lệnh) và các kho dữ liệu do chính con người tạo ra. Máy móc không tự sinh ra đạo đức; nó chỉ lặp lại những gì con người đã lập trình cho nó. Vì vậy, yếu tố con người không hề biến mất. Nó có thể ẩn mình sâu hơn, kín đáo hơn và khó truy vết hơn. Khi có sai lầm, người dân không biết trách ai: Diella không chịu trách nhiệm, còn những con người đứng sau thì vô hình. Một kiểu quyền lực như vậy đôi khi còn nguy hiểm hơn tham nhũng công khai, bởi nó lạnh lùng, vô danh, không thể chất vấn và cũng không thể lật đổ.

Tuy nhiên, tôi chỉ mong những người đang nắm quyền kịp nhận ra rằng Diella là lời cảnh báo dành cho chính họ. Sự ra đời của những Diella không xuất phát từ lòng yêu máy móc, mà từ sự tuyệt vọng của con người trước một bộ máy đã quá bẩn, quá lì và quá quen sống bằng phong bì. Nếu họ biết sợ, biết xấu hổ và biết dừng lại, có lẽ Diella sẽ mãi chỉ là một câu chuyện “thật như đùa” ở một đất nước xa xôi. Nhưng nếu họ vẫn tiếp tục coi quyền lực là đặc quyền để ăn cắp, sẽ đến một ngày, trên chính mảnh đất này, người ta buộc phải thay con người bằng những Diella — không phải vì máy móc tốt hơn, mà vì những người lãnh đạo đã hoàn toàn không đáng tin cậy.


 

Cảm nghiệm của đời mình sau 21 năm bị Stroke va`o đu’ng 24.12.2004

From: thunnguyen

Subject:  21th Anniversary- Recovery from catastrophic stroke on December 24th, 2004 

May God bless you FULL OF GRACE !!!

Cảm nghiệm của đời mình sau 21 năm bị Stroke va`o đu’ng 24.12.2004

Anh Thụ đã gởi gấm cho chúng ta về Lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chúa đóng cửa này thì Chúa cũng mở ra cửa khác cho chúng ta sống chứ Chúa không để chúng ta phải quá sức chịu đựng, và dân gian ta thường nói “tái ông mất ngựa”. Xin cám ơn anh Thụ và mời quý độc giả…Anh Phung

21 năm về trước, vào ngày Giáng sinh 24/12/2004 tại Northern Virginia, con/tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital. Hôm đó, con/tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh. Lúc con/tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot. Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ trừ 36 độ âm nhưng tôi không có áo lạnh. Kết quả, tôi bị stroke sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm. Bố Mẹ và một số người thân, Mot 26 nguoi đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi. Một ngày rưỡi sau, là biến cố Tsunami làm cho 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống, và tôi từ dạo đó tôi chiêm niệm sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ.

Tạ ơn Thiên Chúa đã cứu tôi và gia đình tôi. Tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong một buổi sáng Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa, xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa. Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến… 20 năm rồi có Ngọc Nga, Kim Hà, Chị Kim Nga, A Roger Phung, A Pham Trung, A Cao Tan Tinh, và các Cha Sáng Lập và Anh Chị Em 

Xin các Đức Giám Mục, các Cha, Thầy, các Soeurs, các Bác và Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 20 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi… một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.

Xin chúc các Đức Giám Muc, các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và Anh Chị đầy Hồng Ân Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

We thank God for you and your family. We pray for you always.!

 MERRY CHRISTMAS 2025 AND HAPPY NEW YEAR 2026!

Happy New year to you and your family.

1/ Andrea Bocelli – The Lord’s Prayer (Live From The Kodak Theatre, USA

 https://youtu.be/u8jImIjg4UY?si=Yf8ecD9Vu2ac5hk1

 2/ Silent Night – Andre & Rieu

 https://youtu.be/RDpWkBi-cr4

 3/ O Holy Night by Celine Dion

https://youtu.be/Y1oLk54R5Xg

 We wish you a Merry Christmas

 https://www.facebook.com/share/r/181BzBjfqE/

 Chỉ có một thứ hạnh phúc trên đời này, đó là yêu thương và được yêu thương ~ George Sand 

MÙA GIÁNG SINH HỒNG ÂN- AN BI`NH-

 Mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

 Bảo Trọng,

Thụ & Mai

TRẢI NGHIỆM LẶNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”.

Richard Wurmbrand – 14 năm ở tù – kể, “Có lúc quá tuyệt vọng, tôi suýt mất đức tin, và chỉ muốn tự tử vì tưởng Chúa đã bỏ tôi! Cho đến một ngày, qua khe hở trần nhà, tôi thấy một tổ chim. Chim mẹ đang bón mồi cho chim con! Tôi bừng tỉnh, Chúa không bao giờ bỏ tôi! Nhà tù là ‘trải nghiệm lặng’ cần thiết để tôi hiểu biết Ngài hơn!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Như Wurmbrand, Zacharia – cha của Gioan – cũng có một trải nghiệm tương tự! Lời Chúa hôm nay tiết lộ, chín tuần trăng bị câm của ông là một trong những ‘trải nghiệm lặng’ không thể thiếu để đem người cha tội nghiệp này về với sự thấu hiểu Thiên Chúa!

Thoạt đầu, có thể sự im lặng khiến Zacharia bức bối; nhưng dần dần, ông học cách đón nhận cô tịch, yêu thích nó và có thể cảm nhận một giá trị tích cực ẩn tàng trong quãng lặng Chúa muốn ông trải qua. Cũng thế, đau khổ chỉ có thể có một ý nghĩa tích cực – một giá trị cứu rỗi – khi chúng ta dám ôm nó, tháp nó vào thập giá Chúa Kitô! Chính những lời cầu nguyện và sự im ắng sẽ đưa con người đến gần Chúa hơn. Đó là những ‘trải nghiệm lặng’ để con người đạt được sự thân mật với Ngài khi nó khám phá ra cách thức Ngài giáo dục! “Khi một người học được cách ở một mình với nỗi đau, vượt qua ước muốn trốn chạy, thì chẳng còn gì để học thêm nữa!” – Albert Camus.

Cuối cùng, quãng nín thánh thiện này đã bùng lên những gì phải bùng lên! Zacharia hẳn đã nhớ lời thiên sứ, “Này đây, ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”. Và khi “ngày các điều ấy” đến, Zacharia đã có chín tháng chuẩn bị cho bài ca Benedictus bất hủ của mình. Lời đầu tiên của nó không phải là oán trách, nhưng là ngợi khen lòng thương xót Chúa cho ông, gia đình ông, dân tộc ông và cả nhân loại, “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel!”; “Từ dòng dõi trung thần Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta”. Lời ca ứng với những gì đã được hứa, “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” – bài đọc một. Và một lần nữa, tâm tình này hoà với tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!”.

Anh Chị em,

Chín tháng câm của Zacharia là ‘trải nghiệm lặng’ cần; hang đá Bêlem là ‘trải nghiệm lặng’ cần hơn. Đêm nay, mừng Chúa Giáng Sinh, chúng ta tưởng nhớ Đấng Cứu Độ chấp nhận những khoảng lặng đầu tiên của Ngài: hôi hám, ẩn cư, nín thinh, vô danh, và cuối cùng là cái chết lẻ loi trên thập giá – tất cả chỉ vì “Chúa thương loài người!”. Wurmbrand, Zacharia, Chúa Giêsu đã vượt qua; niềm hy vọng nơi các ngài lớn hơn thử thách. “Ra khỏi đau khổ là những tâm hồn mạnh mẽ nhất; những con người kiên cường nhất mang dấu vết sâu đậm nhất!” – Kahlil Gibran. Cũng thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi nghịch cảnh nếu biết trông cậy vào lòng trung thành của Chúa, để khi “ngày các điều ấy” đến, bạn và tôi cũng cất lên những Benedictus của riêng mình. “Càng đấu tranh gian khổ, chiến thắng càng huy hoàng!” – Sivananda.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con tận dụng những ‘trải nghiệm lặng’, biến chúng thành thời khắc sám hối và tạ ơn, hầu con được biến đổi, hiểu biết Chúa và yêu mến Chúa hơn!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*********************************************

Lời Chúa Sáng 24/12, Thứ Tư Tuần IV Mùa Vọng

Vầng đông tự chốn cao vời viếng thăm ta.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,67-79

67 Khi ấy, ông Da-ca-ri-a, cha của Gio-an, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng :

68“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
69Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
70như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ
mà phán hứa tự ngàn xưa :
71sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét ;
72sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và nhớ lại lời xưa giao ước ;
73Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
74và cho ta chẳng còn sợ hãi,
75để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,
mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
76Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là ngôn sứ của Đấng Tối Cao :
con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
77bảo cho dân Chúa biết : Người sẽ cứu độ
là tha cho họ hết mọi tội khiên.
78Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
79soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.”

KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM” – (Fb Trần Trung Đạo)

Đặng Minh Tâm

 KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM”

(Fb Trần Trung Đạo)

Ngày 25 tháng 12, 1927 là ngày thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, một tổ chức chính trị quy tụ đông đảo người Việt yêu nước với chủ trương “Làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa.”

Hội nghị đại biểu toàn quốc ngày 26 tháng 1, 1930 quyết định cuộc khởi nghĩa cả nước sẽ nổ ra vào đêm 9 rạng ngày 10 tháng 2, 1930. Tuy nhiên, vì gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức và Pháp có thể đã biết ngày nổi dậy, đảng trưởng Nguyễn Thái Học quyết định dời ngày khởi nghĩa sang đến 15 tháng 2, 1930.

Nhiều nơi không nhận được tin nên vẫn bắt đầu vào đêm 9 tháng 2 hay như trường hợp Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hưng Hóa và Lâm Thao vẫn quyết định tiến hành.

Khi thất bại, Xứ Nhu tức Nguyễn Khắc Nhu tự sát bằng lựu đạn nhưng không chết. Địch băng bó vết thương và khiêng ông về nhà lao Hưng Hóa. Trên đường giải về nhà lao Nguyễn Khắc Nhu nhảy xuống sông tuẫn tiết nhưng cũng được vớt lên. Ngày 11 tháng 12, 1930, vì tay chân bị xích, Nguyễn Khắc Nhu phải tự sát lần nữa bằng cách đập đầu vào tường, ông vỡ đầu và hy sinh vì dân tộc.

Các nơi khác, nói chung cuộc khởi nghĩa thất bại và nhiều lãnh tụ đảng đã hy sinh, tự sát, hàng trăm người bị kết án chung thân và 62 người bị kết án tử hình.

Trong tác phẩm Vụ Án Việt Nam Quốc Dân Đảng 1929-1930 của tác giả Cẩm Đình, xuất bản năm 1950 viết lại khá đầy đủ chi tiết biên bản các buổi xử án của Hội đồng Đề hình Pháp xử các đảng viên VNQDĐ suốt hai năm từ 1929 đến 1930. Những đảng viên VNQDĐ chống án, nhận án, phủ nhận hay công khai nhận trách nhiệm đều được ghi rõ.

Hầu hết trong số lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng thời kỳ thành lập đều còn rất trẻ như Nguyễn Thái Học 28 tuổi, Phó Đức Chính 23 tuổi, Nguyễn Ngọc Sơn 27 tuổi, Nguyễn Thế Nghiệp 24 tuổi, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng Tống 22 tuổi, Nguyễn Thị Giang tức Cô Giang 24 tuổi, Nguyễn Thị Bắc tức Cô Bắc mới 22 tuổi, Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con cũng chỉ mới 22 tuổi v.v..

Trong suốt thời gian dài xử án, nhiều trường hợp cảm động nói lên tình yêu nước ngay cả lúc đứng trước vành móng ngựa.

Nguyễn Thái Học tuyên bố: “Tôi nhận cả trách nhiệm trong những cuộc biến động vừa rồi. Chính tôi đã chủ trương cuộc biến động ở Yên Bái, cũng chính tôi đã chủ tọa cuộc hội nghị ở Lạc Đạo. Chỉ có tôi mới là tay chính trong các cuộc biến động.”

Học sinh Trịnh Văn Yên, 16 tuổi, trả lời khẳng khái anh gia nhập VNQDĐ lúc 14 tuổi để “đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa Pháp”.

Đoàn Thị Ái, khi luật sư Mayet biện hộ rằng bà chỉ theo đảng vì tình cảm riêng tư dành cho người yêu vốn đã là đảng viên VNQDĐ, bà đứng lên phủ nhận và cho rằng bà gia nhập đảng chỉ vì “thương nước Việt Nam” chứ không phải vì tình yêu trai gái.

Nhiều người như Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Tấn Tuất không cho phép các luật sư người Pháp biện hộ giùm.

Tối 16 tháng 6, 1930, chuyến tàu đêm đưa đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên Yên Bái để hành hình.

Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái Đến Các Ngục Thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An”: “Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công. Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.”

Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường. Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”

Vài hôm sau Ngày Tang Yên Báy, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ được đăng trên báo Pháp. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học.”

Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bị chém.

Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.

Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng CSVN.

Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.

Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.

Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”.

Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau.

Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.

Dưới đây là bài thơ của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy viết để tưởng niệm những liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy.

NGÀY TANG YÊN BÁY

(Kính tặng hương hồn những liệt sĩ đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy)

Tác giả: Gs Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Trong bình minh sương lạnh phủ âm thầm.

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt.

Toan lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Gió căm hờn rền rĩ tiếng gào than.

Từ lưng trời, sương trắng rủ màn tang.

Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ

Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ,

Giữa mấy hàng gươm súng toả hào quang,

Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang

Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự:

Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ,

Vài cụ già đầu bạc lệ tràn rơi

Ngất người sau tiếng rú: Ối con ơi!

Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn

Trên khoé mắt đã từng khinh đau đớn

Của những trang anh kiệt sắp lìa đời,

Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười

Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước.

Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước,

Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường,

Éo le thay! muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến.

Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến.

Sau cái nhìn chào non nước bi ai,

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng.

“Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng,

“Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên.

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc,

Sau Đức Chính, đây là phiên Thái Học,

Anh nghiêng mình trước xác những anh em,

Rồi mĩm cười, Anh ngảnh mặt nhìn xem

Những kẻ đến quan chiêm đoàn liệt sĩ

Để từ biệt những bạn đồng tâm chí.

Tiếng tung hô bổng nổi, vang trời cao,

Nhưng liền theo Anh đã bị xô vào

Chiếc gươm máy giăng tay chào, lặng lẽ.

Đao xuống, đầu rơi, máu đào tung toé.

Người anh hùng nước Việt thôi còn đâu!

Lũ thực dân giám sát đứng nhìn nhau

Như trút sạch hết những đìều lo ngại

Và xoa tay chúng thở dài khoan khoái,

Trong rừng người ứa lệ, Nguyễn Thị Giang

Nén nỗi đau như cắt xé can tràng

Đứng ngơ ngác lặng người bên Hữu Cảnh.

Trong nắng sớm, gió căm hờn quát mạnh

Như thề cùng những tử sĩ anh linh

Vang dội cùng trên đất Việt điêu linh

Những tiếng thét uy hùng vì giống Việt.

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Như tan trong gió mạnh khóc vang rầm

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Cố lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Thân anh hùng đã nát dưới ngàn cây

Nhưng tiếng hô còn phảng phất đâu đây,

Mười lăm năm sau ngày sầu Yên Báy,

Toàn thể giống Tiên Rồng cùng đứng dậy,

Cố đuổi loài tham bạo khỏi non sông,

Hơn hai năm đất Việt máu pha hồng

Mà chiến sĩ vẫn một lòng cương quyết

Thề tranh đấu đến khi nào nước Việt

Được hoàn toàn độc lập mới ngừng tay.

Thế là dòng máu vọt dưới trời mây

Một buổi sáng mười lăm năm về trước

Đã vẽ được cảnh anh hùng nguyện ước.

Đưa non sông ra khỏi chốn u trầm

Cả toàn dân nước Việt đến muôn năm

Vẫn ghi tạc trong tâm ngày hôm ấy,

Ngày hôm ấy, ôi! ngày tang Yên Báy!

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Xé nát màn sương lạnh phủ âm thầm,

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Đã lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

(Đằng Phương, Hồn Việt, NXB Đuốc Việt, Sài Gòn, 1950)

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông.

(Trần Trung Đạo)

Trần Trung Đạo

Ảnh pháp trường Yên Báy 17 tháng 6 năm 1930

(Ảnh sưu tầm)


 

KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL – Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta.  Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con”

Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel.  Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc.  Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”  Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Thú thực là thầy không biết.”

Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết.  Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”  Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.  Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy.  Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. 

Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem.  Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người.  Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm.  Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang.  Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ.  Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con.” 

Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú?  Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào.  Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào.  Người nói bằng ngôn ngữ của tình yêu.  Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Người” (Ga 3: 16). 

Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc.  Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. 

Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse.  Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người “Tin Mừng” về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu.  Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu.  Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được” và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu. 

Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu.  Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hay hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa.  Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu.

 Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Người, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. 

Người biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa.  Người còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi.  Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. 

Lúc đó, lời hứa của Người qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: “Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở.  Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Người: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu.  Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai họa hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương” (Is 11: 1-2, 6-9) 

Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy.  Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này.  Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. 

Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà “hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất” và “thiện chí” lan tỏa đến mọi người. 

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan