Mưa lũ cuốn trôi 2 con nhỏ: Người mẹ gục bên bàn thờ, khóc đến kiệt sức

Đinh Hữu Thoại

“Nước lũ lên quá nhanh, dù dùng ca nô nhưng việc di chuyển vẫn vô cùng khó khăn. Vừa kịp đưa 2 hộ dân ra ngoài an toàn thì chúng tôi quay lại nhà 2 cháu nhưng không kịp cứu…”, anh Triệu tiếc nuối.

thanhnien.vn

Mưa lũ cuốn trôi 2 con nhỏ: Người mẹ gục bên bàn thờ, khóc đến kiệt sức


 

 16.100 M3/S – ĐÂY KHÔNG PHẢI XẢ LŨ, ĐÂY LÀ THẢM S.Á.T

NHỮNG BÀI POST HAY.- Vũ PhanAnh

 16.100 M3/S – ĐÂY KHÔNG PHẢI XẢ LŨ, ĐÂY LÀ THẢM S.Á.T

16 giờ ngày 19-11, thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ với lưu lượng 16.100 m3 nước mỗi giây.

Không phải ai cũng hình dung được con số này khủng khiếp thế nào.

16.100 m3/giây nghĩa là 57,96 triệu m3 nước trong chỉ 1 giờ. Một biển nước khổng lồ đổ ập xuống hạ du, đủ để nhấn chìm một thành phố nhỏ, đủ để cuốn phăng hàng chục ngàn hecta ruộng đồng, đủ để nhấc bổng những mái nhà yếu ớt như những chiếc lá giữa dòng.

Và điều tàn nhẫn nhất là người dân không được cảnh báo sớm. Không ai kịp di dời. Không ai kịp chạy. Không ai kịp chuẩn bị bất cứ thứ gì

Đó không phải là xả lũ. Đó là một cú tấn công bất ngờ vào hàng vạn con người vô tội.

Thế rồi, người ta lại đưa ra một lý do quen thuộc: “Xả lũ còn đỡ hơn vỡ đập.”. Đó là kiểu ngụy biện độc ác nhất, vì không chỉ 1 nhà máy, mà có hàng chục nhà máy xả lũ đồng loạt xuống đầu dân.

Vỡ đập thì kinh hoàng. Nhưng khi buộc phải xả đến 16.100 m³/s, thì những câu hỏi phải được đặt ra là:Tại sao để hồ đầy đến mức báo động?Tại sao không xả từ sớm, xả theo ngưỡng an toàn?

Tại sao dự báo chậm, cảnh báo muộn? Tại sao không di dời dân trước khi mở cống? Và tại sao hạ du phải gánh hết hậu quả của sự vận hành yếu kém đó?

Không ai phản đối việc bảo vệ đập.

Nhưng nếu bảo vệ đập bằng cách thả hàng chục triệu mét khối nước xuống đầu dân mỗi giờ, thì mạng dân nằm ở đâu trong phương trình an toàn ấy?

Một cái đập được cứu đổi lại hàng ngàn mái nhà biến mất, hàng vạn gia đình trắng tay, hàng trăm tỉ tài sản trôi theo dòng lũ và sinh mạng của người dân, để đổi lại câu nói “không vỡ đập là may”.

May cho ai? Chắc chắn không phải cho những người đang run rẩy ôm nhau trên nóc mái tôn giữa đêm.

Thảm họa này không chỉ là thiên tai. Nó là kết quả của sự chậm trễ, buông lỏng và vô trách nhiệm trong vận hành thủy điện lẫn ứng phó khẩn cấp.

Trong khi chỉ cần cảnh báo sớm, di dời có tổ chức, thông báo minh bạch, phối hợp giữa chính quyền – thủy điện – cứu hộ, thì đã không có cảnh người dân kêu cứu trong tuyệt vọng, không ai trả lời.

Nếu không xử lý nghiêm, nếu không siết lại trách nhiệm, nếu vẫn tiếp tục buông để mặc cho ai mạnh nấy sống, thì năm sau, năm sau nữa sẽ lại có những “kỷ lục xả lũ”, dân lại không kịp trở tay.Và những mái nhà sẽ tiếp tục biến mất dưới dòng nước mà lẽ ra họ phải được bảo vệ.

● Cô Ba


 

UYỂN NGỮ DÀNH CHO VIỆT NAM

Võ Ngọc Ánh

 

Mất điện → “Tạm thời tối ưu hóa hệ thống chiếu sáng tự nhiên”

Cúp nước → “Khoảng nghỉ kỹ thuật cho hạ tầng cấp thoát nước”

Kẹt xe → “Lưu lượng phương tiện gia tăng vượt mức kỳ vọng”

Ngập đường → “Kích hoạt cơ chế điều hòa mực nước mặt đô thị”

Đào đường liên tục → “Cải thiện hạ tầng theo chu kỳ luân phiên”

Thi công chậm trễ → “Điều chỉnh tiến độ theo điều kiện thực tế phát sinh”

Vỡ ống cấp nước → “Giải phóng áp lực tuyến ống để tái cân bằng hệ thống”

Chi quá ngân sách → “Tái cấu trúc kế hoạch chi tiêu năm tài khóa”

Lạm phát → “Mở rộng biên độ điều chỉnh giá”

Tăng thuế → “Tối ưu hóa nguồn thu phục vụ an sinh xã hội”

Xe hỏng giữa đường → “Phương tiện tạm dừng vận hành để tái tạo năng lượng”

Cháy nhà → “Sự kiện nhiệt năng ngoài kế hoạch”

Nổ bình gas → “Giải phóng áp suất vượt ngưỡng an toàn”

Sốt cao → “Tăng cường hoạt động của hệ thống điều nhiệt nội sinh”

Đau bụng → “Hoạt động phản hồi của hệ tiêu hóa trước tác nhân bất lợi”

Nôn ói → “Cơ chế đào thải khẩn cấp”

Không khí độc hại → “Mật độ hạt lơ lửng vượt chuẩn tham chiếu”

Cá chết hàng loạt → “Tái cấu trúc sinh thái thủy vực”

Xả thải bừa bãi → “Thải lượng ngoài kế hoạch”

* * *

[Nguồn: Bé Mon Dễ Thương]


 

Chính quyền Trump muốn phỏng vấn lại người tị nạn vào Mỹ thời Biden

Ba’o Nguoi-Viet

November 24, 2025  

WASHINGTON, DC (NV) – Chính quyền Tổng Thống Donald Trump chuẩn bị phỏng vấn lại một số người tị nạn được nhận vào Mỹ thời Tổng Thống Joe Biden, theo thông báo nội bộ và một người biết kế hoạch này, CNN đưa tin hôm Thứ Hai, 24 Tháng Mười Một.

Đây là một phần trong việc kiểm tra lại toàn diện hồ sơ tị nạn của những người đó.

Người xin tị nạn mong chờ vượt biên giới vào Mỹ tại cửa khẩu El Chaparral ở Tijuana, tiểu bang Baja California, Mexico, hôm 20 Tháng Giêng, 2025. (Hình minh họa: Guillermo Arias/AFP via Getty Images)

Kế hoạch này là biện pháp chưa từng thấy trong chiến dịch trấn áp nhập cư của Tổng Thống Trump – lần này nhắm những người dễ tổn thương nhất thế giới. Người tị nạn phải chứng minh họ bị bách hại hoặc có thể bị bách hại ở quê hương của họ và phải được xét duyệt nghiêm ngặt mới được nhận vào Mỹ. Thủ tục này thường kéo dài nhiều năm.

Giới chức chính quyền Tổng Thống Trump cho rằng chính quyền cựu Tổng Thống Biden không kiểm tra kỹ lưỡng những người tị nạn được nhận vào Mỹ. Từ khi nhậm chức hồi Tháng Giêng tới nay, ông Trump hầu như ngưng nhận người tị nạn, ngoại trừ người Nam Phi da trắng.

Theo dự trù, Sở Di Trú (USCIS) sẽ được giao nhiệm vụ xem xét lại hồ sơ và phỏng vấn lại một số người tị nạn được nhận vào Mỹ thời Tổng Thống Biden, theo thông báo nội bộ đề ngày 21 Tháng Mười Một, nêu lý do chính quyền phải làm như vậy để bảo đảm người tị nạn không đe dọa an ninh quốc gia hoặc an ninh công cộng. Từ năm tài chính 2021 tới 2025, khoảng 235,000 người tị nạn được nhận vào Mỹ sau khi trải qua thủ tục xét duyệt.

Suốt nhiều năm, Mỹ từng vượt xa các quốc gia khác trong việc nhận người tị nạn, cho phép hàng triệu người nhập cảnh kể từ khi có Đạo Luật Người Tị Nạn Năm 1980. Nhưng chương trình này bị ảnh hưởng đáng kể trong nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Trump khi ông cắt giảm mạnh số người tị nạn được nhận vào Mỹ, và trong đại dịch COVID-19, vốn khiến chương trình này tạm dừng. Cựu Tổng Thống Biden cố gắng xây dựng lại chương trình này, và cuối cùng, quyết định nhận tối đa 125,000 người tị nạn một năm. (Th.Long)


 

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Văn Hóa Việt

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Chị Nguyễn Thị Út (xã Hòa Xuân Đông, Đông Hòa, Phú Yên cũ) ngồi lặng lẽ bên chiếc xuồng. Trên đó là thi thể người cha của chị được bọc trong vải bạt và một tấm di ảnh phía trước.

Trong cơn mưa lũ vừa qua, căn nhà của ba mẹ chị nằm trơ trọi giữa cánh đồng mênh mông nước. Khi con nước dữ tràn qua, 2 vợ chồng già vẫn quyết ở lại căn nhà và mảnh vườn bên cánh đồng mà họ đã mưu sinh cả đời.

Suốt mấy ngày mưa lũ lớn, mặc dù rất nóng ruột về tình hình của ba mẹ nhưng chị không thể nào tiếp cận được. Cho đến khi cùng với lực lượng cứu hộ vào được căn nhà thì thật đau đớn khi nhìn thấy thi thể 2 đấng sinh thành nằm kẹt nơi góc nhà.

Sau cơn mưa lũ khủng khiếp mấy ngày qua, không biết đã xảy ra bao nhiêu thảm cảnh như thế.

Nguồn :  Hà Thạch Hãn


 

Vì sao miền Trung cứ mưa là lụt?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

24/11/2025 

Thủy điện xả lũ

Miền Trung năm nào cũng lũ, nhưng những năm gần đây mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Không năm nào như năm nay. Mới vài tuần trước Hội An, Huế, Đà Nẵng nước lên ngập mái nhà chưa kịp rút hết thì giờ nước lại lên và lần này không chỉ từ Quảng Trị tới Hội An nữa mà cả nguyên một dải Nam Trung Bộ cũng đều mênh mông trong biển nước.

Chắc sẽ có nhiều người đặt câu hỏi:

Tại sao chỉ mưa vài ngày mà nhà cửa ngập tận nóc? Tại sao lũ ngày xưa không dữ như bây giờ? Và tại sao thủy điện lại luôn được nhắc đến khi xảy ra ngập lụt? Những hình ảnh ngập lụt luôn đi kèm với những hình ảnh xả lũ ào ạt.

Nếu chỉ nhìn một nhân tố riêng lẻ như mưa nhiều, sạt lở đất, thủy điện xả lũ rồi gán nguyên nhân cho một trong số chúng thì sẽ đều là cách nhìn phiến diện.

Để lý giải được nguyên nhân cho những gì đang xảy ra một cách toàn diện đầy đủ ta cần nhìn miền Trung như một hệ thống phức hợp với nhiều yếu tố liên kết với nhau, mỗi yếu tố thay đổi một chút cũng có thể làm cả hệ thống biến dạng.

Chúng ta sẽ đi qua từng tầng, từng nguyên nhân từ thiên nhiên, con người đến hạ tầng để thấy lũ lụt miền Trung không phải đơn thuần là chuyện “thiên tai” mà còn có cả “nhân họa” nữa. Thực tế những gì chúng ta đang thấy hôm nay là hậu quả của nhiều năm lệch pha giữa hệ sinh thái và cách chúng ta can thiệp vào nó.

  1. Địa hình miền Trung: chiếc phễu hứng nước tự nhiên

Miền Trung là một dải đất hẹp, một bên là biển, một bên là núi. Khoảng cách từ chân núi đến biển chỉ vài chục km. Hãy hình dung một chiếc phễu đặt nghiêng. Nước đổ xuống sẽ chảy thẳng ra đầu nhỏ rất nhanh. Theo logic đó thì với địa hình giống như chiếc phễu của Miền Trung ta sẽ thấy:

Mưa từ núi đổ xuống gần như lập tức. Không có đồng bằng rộng để “giữ nước” như miền Tây hay sông Hồng. Sông ngắn, dốc, dòng chảy mạnh. Nghĩa là nước về nhanh hơn khả năng thoát, tạo ra lũ dồn và lũ quét. Đây là “bản chất tự nhiên” của vùng đất miền Trung dài và hẹp, núi ngay sát biển.

Nhưng tự nhiên vốn có chế độ vận hành và điều hóa riêng của nó. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy ngày xưa, dù mưa lớn vẫn ít khi ngập sâu như bây giờ. Vấn đề nằm ở những thay đổi chúng ta tạo ra.

Nếu chiếc phễu nghiêng 

  1. Rừng mất, tầng đệm hấp thu biến mất

Nếu chiếc phễu nghiêng đó có tấm mút xốp lót phía trên, thì nước sẽ được thấm từ từ, giảm sốc. Rừng chính là tấm mút đó. Khi rừng dày, nước mưa được giữ lại trên tán lá và thấm vào đất rồi chảy xuống dần dần

Nếu rừng bị khai thác quá mức, hoặc thay thế bằng rừng trồng kinh tế (cây non, tán thưa, đất nghèo), thì nước không còn “bị giữ lại”. Nó đổ thẳng xuống sông.

Đất miền Trung lại rất mỏng. Khi mất rừng, mưa xuống là trôi bề mặt, chứ không thấm được. Giống như đổ nước lên nền xi măng nước tràn đi ngay.

Kết quả: lũ đến nhanh, mạnh và bất thường.

  1. Sông bị thay đổi dẫn đến mất khả năng tự điều hòa

Nguyên nhân bị sông bị thay đổi thì lý do chính là ở các hệ thống thủy điện và hồ thủy lợi.

Hồi học cấp 2 mình nhớ các thày cô giáo dạy là thủy điện là một phát minh tuyệt vời và chỉ có lợi không có hại, nó là minh chứng cho việc con người cải tạo thiên nhiên vừa làm ra điện, vừa giúp trị thủy điều tiết dòng nước làm giảm lũ lụt. Và đã rất nhiều năm mình cũng tin vào điều đó mà không kiểm chứng lại thông tin cho đến sau này khi đọc báo thấy nhiều nước châu Âu và Mỹ người ta dỡ bỏ dần các công trình thủy điện để trả lại môi trường thì mới thắc mắc và đi tìm câu trả lời.

Và kết quả là sau khi tìm hiểu thì mình biết rằng các nước phát triển bỏ thủy điện đã và đang dỡ bỏ thủy điện không phải vì họ “không cần điện nữa”, mà vì hiểu biết hệ thống của họ đã thay đổi. Họ phát hiện rằng thủy điện mang lại điện rẻ trước mắt nhưng gây chi phí hệ thống rất lớn về lâu dài. Khi tổng chi phí ấy vượt quá lợi ích, họ chọn tháo dỡ. Thủy điện cắt đứt dòng chảy tự nhiên, giữ phù sa, làm nước tù, nhiệt độ thay đổi.

Nhiều nước nhận ra điều này khi thấy cá tuyệt chủng hoặc giảm 80–95%, sông mất khả năng tự làm sạch, đất ngập nước và rừng ven sông biến mất. Chi phí phục hồi hệ sinh thái còn lớn hơn chi phí vận hành thủy điện.

Sông tự nhiên có ba chức năng quan trọng là mang nước, mang phù sa và tự đào sâu, tự bồi để ổn định lòng sông.

Khi hệ thống thủy điện xây dựng dày đặc, những chức năng này bị phá vỡ. Phù sa bị giữ lại trong hồ, khiến lòng sông ở hạ du sâu hơn, yếu hơn. Bờ sông dễ sạt lở không còn phù sa bồi ruộng, dẫn tới đất bạc màu

Tệ hơn, hồ chứa dần bị bồi lắng, giảm dung tích chứa nước. Khi mới xây thì dung tích hồ chứa rất lớn nhưng càng ngày theo thời gian phù sa không chảy theo dòng mà đọng lại trong hồ thành trầm tích chiếm dụng không gian lòng hồ dẫn đến dung tích chứa hồ bị thu hẹp lại. Khi mưa đến, hồ nhanh đầy hơn thì ban quản lý buộc phải xả nước nhanh hơn tạo ra dòng lũ nhân tạo dồn dập.

Sông vốn có nhịp điệu tự nhiên của nó nhưng một khi bị khóa lại bằng đập, nó mất đi khả năng tự điều hòa. Khi phù sa không xuống được hạ du nó bờ sông bị xói, lòng sông sâu và khi chảy ra biển thì làm bờ biển lún, cầu cống, đường sá bị phá hủy nhanh. Ở Mỹ và châu Âu, nhiều cây cầu phải sửa liên tục chỉ vì các đập giữ trầm tích. Chi phí bảo trì này vượt xa tiền bán điện nên họ bỏ thủy điện.

Thủy điện là công trình có vai trò hai mặt đem lại lợi ích lớn nhưng rủi ro hệ thống rất lớn.

Nhiều nước phát triển nhận ra hồ chứa có giới hạn. Thời điểm mưa cực đoan và bão ngày càng khó dự đoán rủi ro vỡ đập ngày càng tăng, rủi ro xả lũ khẩn cấp gây thảm họa hậu quả nếu xảy ra sự cố là không thể chấp nhận được đối với dân cư đông đúc. Tháo dỡ đập sẽ làm giảm các tình huống rủi ro khẩn cấp đến mức thấp nhất.

Nói thế này nhiều người nhầm rằng thủy điện gây lũ. Nguyên nhân sâu xa thì vẫn là từ mưa, lượng nước nhiều. Thực tế, bản thân thủy điện không tạo ra nước nhưng nó làm cho dòng nước trở nên hung dữ hơn. Quả thực thủy điện làm thay đổi cách nước đi qua hệ thống nên có thể làm cho lũ lụt trở nên trầm trọng hơn. Thông thường nếu mọi thứ vận hành theo tự nhiên khi có lũ nước sẽ tăng từ từ và có độ trễ lớn hơn khi chảy về đồng bằng, xuôi ra biển.

Nếu không có đập nước thì đường đi của nước sẽ là: Nước mưa thấm vào đất chảy ra suối đổ ra sông. Quá trình này có thời gian trễ tự nhiên dài, nước lên từ từ, đỉnh lũ tăng dần.

Còn đây là tình trạng của lũ có thủy điện: Nước dâng đột ngột, dồn một cục. Khi hồ đầy sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan là

Nếu xả ít thì có nguy cơ vỡ đập mà nếu xả nhiều thì sẽ ngập hạ du. Cuối cùng người ta thường buộc phải chọn “phương án ít tệ hơn” là xả nhiều. Và khi xả thì lưu lượng tăng đột biến làm nước đổ xuống trong vài giờ thay vì vài ngày tạo “cú sốc thủy lực” thay vì một quá trình từ tốn.

Trong khoa học hệ thống, đây gọi là spike shock: cú đột biến phá vỡ mọi cân bằng.

Tại sao thủy điện càng nhiều, lũ càng nặng?

Vì các hồ chứa nối tiếp nhau theo chuỗi. Chỉ cần một hồ đầy và xả, hồ dưới cũng phải xả theo. Toàn bộ chuỗi hồ vận hành như một “dòng domino thủy lực”. Vùng hạ du là nơi đông dân nhất sẽ chịu tất cả hậu quả.

  1. Đô thị hóa bóp nghẹt mọi đường thoát nước

Ngày xưa nước tràn ruộng, tràn ao, tràn cánh đồng, rồi mới vào nhà dân. Ngày nay bê tông hóa, nhà cửa san sát, ruộng biến thành khu dân cư, ao hồ bị san lấp, cống quá nhỏ so với lượng mưa mới. Nước không còn nơi tạm trú. Nó chỉ có một con đường duy nhất: tràn thẳng vào phố.

Hệ thống thoát nước đô thị miền Trung vốn thiết kế theo dữ liệu khí hậu cũ, khi mưa cực đoan còn hiếm. Giờ khí hậu đã đổi nhưng hạ tầng thì chưa. Khi không gian hấp thu biến mất, lũ không còn “đi vòng được”, và mọi nơi thấp đều trở thành hố nước.

  1. Biển chặn đường nước bị dồn nghẽn hai chiều

Các thành phố miền Trung đều nằm ở cửa sông. Khi mưa từ núi đổ xuống, triều biển dâng lên, gió mùa đẩy nước biển vào. Ta có hiện tượng kẹt hai đầu: nước từ thượng nguồn không thoát ra được, nước biển dâng lên chặn ngang như đóng một cái van. Cửa sông tắc nghẽn nước dâng đứng.

Đây là lý do Đà Nẵng, Huế, Hội An… rất dễ ngập dù hệ thống thành phố hiện đại hơn các tỉnh khác.

  1. Biến đổi khí hậu: những trận mưa “không thuộc sách giáo khoa”

Tần suất mưa cực đoan đang tăng. Ngày xưa một trận mưa 300–400 mm phải 10 năm mới gặp. Giờ 1 đến 2 năm lại xuất hiện. Nếu hệ thống thiết kế để chịu “trận lũ 10 năm”, nhưng mỗi năm lại có một trận tương tự, thì hệ thống chắc chắn vỡ. Biến đổi khí hậu không gây lụt trực tiếp. Nó làm mọi rủi ro có sẵn trở nên sắc bén và khó lường hơn.

  1. Tổng hợp lại: Vì sao miền Trung ngập nặng?

Vì nhiều yếu tố lệch pha cùng lúc:

Rừng suy yếu làm mất khả năng thấm. Đất trơ trọi làm nước trôi bề mặt. Sông bị chặn dẫn đến mất cân bằng phù sa. Thủy điện đầy nước mà không có lựa chọn khác luôn xả khẩn cấp khi có áp lực. Đô thị hóa phá hết vùng chứa nước và thủy triều biển dâng chặn đường thoát

Càng ngày càng có nhiều cơn mưa cực đoan dồn toàn bộ năng lượng vào hệ thống đã suy. Lũ không còn là “nhiều nước”, mà là nhiều nước đi vào một hệ thống không còn chỗ cho nó. Hệ thống mất khả năng chống sốc, nên chỉ cần một tác nhân như mưa lớn là đủ gây thảm họa.

GIẢI PHÁP NHƯ THẾ NÀO?

Giải pháp dài hạn để giảm lũ miền Trung: chỉ có thể làm bằng tư duy hệ thống

Muốn miền Trung hết cảnh cứ mưa là ngập, không thể sửa một chỗ. Phải “chỉnh lại cả dàn nhạc” từ rừng, đất, sông, hồ đến đô thị và biển. Mỗi nơi một chút, nhưng khi kết hợp thành mạng lưới, chúng tạo ra sức mạnh lớn hơn rất nhiều.

  1. Khôi phục “tấm mút” tự nhiên: rừng giữ nước, đất giữ nước.

Nếu rừng là cái mút xốp thì ngược lại rừng trọc là nền xi măng. Muốn giảm lũ, bước đầu tiên phải làm cho nước thấm chậm lại.

Các giải pháp căn cơ: phục hồi rừng tự nhiên thay vì chỉ trồng rừng kinh tế, tăng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn ,xây “đê mềm” bằng cây cối và hệ sinh thái thay vì bê tông và hạn chế phá rừng làm nương, làm dự án ngắn hạn

Hiệu quả không thấy ngay. Nhưng chỉ cần 5 đến 7 năm, đất vùng đồi núi sẽ tăng khả năng giữ nước gấp nhiều lần. Khi rừng khỏe, đất ẩm nước xuống sông chậm thì lũ sẽ thấp. Đây là vòng lặp giải nguy đầu tiên.

  1. Trả lại nhịp điệu tự nhiên cho sông

Sông là một sinh vật sống. Nó đào, nó bồi đắp, nó uốn cong để tự điều hòa. Khi bị chặn bằng đập, nó mất chức năng đó.

Giải pháp:

Duy trì lượng xả đáy để đưa phù sa về hạ du, ưu tiên nạo vét hợp lý, khôi phục các nhánh sông cũ. Không bê tông hóa toàn bộ bờ sông, giữ không gian cho sông “thở”. Mở lại một số vùng trũng tự nhiên làm nơi chứa nước tạm thời. Sông được trả lại không gian thì lũ có chỗ tản sẽ làm đỉnh lũ giảm mạnh.

  1. Điều độ thủy điện theo “nguyên lý dòng chảy chậm”

Hiện tại chúng ta vẫn còn cần thủy điện vì chưa đủ điều kiện thay thế như các nước phát triển nhưng cũng cần thay đổi cách vận hành bởi vì cách vận hành hiện nay giống như để hồ đầy gặp mưa lớn xả gấp cho kịp. Đây là cách dùng hồ chứa như một cái cốc tràn: dẫn tới cú sốc nước khổng lồ.

Giải pháp hệ thống là

Bắt buộc hạ mực nước hồ xuống trước mùa mưa (giảm 15–25% dung tích tối đa)

Thiết lập quy trình xả sớm, xả nhỏ, xả theo nhịp tự nhiên

Liên thông dữ liệu giữa các hồ theo chuỗi để tránh domino xả lũ. Mấu chốt không phải “xả ít hay nhiều”, mà là xả theo kiểu từ tốn, giống lũ tự nhiên. Dòng nước chảy từ tốn thì hạ du không vỡ vụn.

Có hệ dự báo thời tiết chính xác tới từng giờ và từng lưu vực, cần sớm ứng dụng AI vào dự báo thời tiết, các nước khác đã có dự báo chính xác hơn nhiều khi áp dụng AI.

  1. Mở lại không gian cho đồng bằng: cần chỗ trữ nước khi lũ về

Đồng bằng miền Trung hẹp, nhưng vẫn có những vùng trũng, ao hồ, đầm phá từng làm “túi chứa nước” tự nhiên. Khi đô thị hóa lột mất các vùng trũng đó, thì nước không có chỗ đứng.

Giải pháp:

Đào các “hồ sinh thái”, “hồ điều hòa” xen trong đô thị để chứa nước. Không san lấp ao hồ, mà kết nối chúng thành hệ thống chứa lũ.

Khôi phục vùng ngập lũ tự nhiên (floodplain) đưa những khu dân cư trũng thấp vào kế hoạch giãn dân hoặc nâng nền

Một thành phố có đủ không gian chứa nước thì lũ đến chỉ là “nước mưa nhiều”, không phải thảm họa.

  1. Thoát nước đô thị phải dựa trên nhận thức về tình hình khí hậu mới, không phải dựa trên nhận thức về tình trạng khí hậu cũ.

Cống thoát nước ở nhiều TP miền Trung được thiết kế cho cường độ mưa của 30–40 năm trước. Nhưng khí hậu đã đổi nhanh hơn hạ tầng.

Giải pháp:

Nâng chuẩn thiết kế thoát nước theo mưa cực đoan 300–500 mm/24h

Làm mương hở và hành lang thoát nước thay vì cống nhỏ

Tăng diện tích bê tông thấm nước và vật liệu thấm

Làm “đường thoát lũ” khẩn cấp trong đô thị

Không có hệ thống thoát nước mới, mọi giải pháp khác chỉ chữa phần ngọn.

  1. Quản lý sông, rừng, hồ theo một mạng lưới duy nhất

Lũ không đi theo ranh giới hành chính. Nó đi theo độ dốc, lưu vực và đường dòng chảy nhưng có một khó khăn là hiện nay:

Rừng do lâm nghiệp quản, hồ do thủy điện quản còn lũ do chính quyền tỉnh xử lý. Chúng ta không có một mạng lưới chung. Đây là điểm nghẽn lớn nhất.

Giải pháp:

Lập cơ quan quản lý lưu vực thống nhất theo từng sông

Hồ chứa được vận hành theo mục tiêu an toàn hệ thống, không chỉ theo doanh thu điện

Dữ liệu thời tiết, mực nước, xả lũ kết nối realtime cho mọi bên

Khi cả hệ thống nhìn chung 1 bản đồ, lũ sẽ dễ kiểm soát hơn rất nhiều.

  1. Chuẩn bị cho tương lai: mưa cực đoan sẽ còn tăng

Biến đổi khí hậu làm miền Trung thành “điểm nóng mưa lớn ngắn hạn” của khu vực. Cần chấp nhận rằng mưa 300–400 mm/24h giờ đã là bình thường. Bão ít đi nhưng mưa sau bão mạnh hơn. Dải hội tụ nhiệt đới xuất hiện bất thường và chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm cũ để đoán lũ mới

Giải pháp:

Xây bản đồ rủi ro nước theo năm, theo mùa. Có hệ thống cảnh báo sớm từng giờ mô phỏng lũ bằng mô hình số 3D. Cũng cần đưa giáo dục an toàn nước vào trường học để nâng cấp dần kỹ năng “sống chung với lũ” cho người dân để không ai bị bất ngờ.

Lũ không bao giờ biến mất. Nhưng thiệt hại có thể giảm xuống 10 lần nếu chuẩn bị đúng cách.

Tổng kết lại nguyên nhân của tình trạng hiện nay là

Thiên tai + Hệ thống suy kiệt dễ tổn thương = Thảm họa.

Nhưng chúng ta vẫn có lựa chọn khác nếu hành động đúng.

Thiên tai + Hệ thống khỏe = Thử thách có thể vượt qua

Nói tóm lại là: Muốn bớt lũ, phải thuận theo tự nhiên, theo ông trời. Ngôn ngữ hệ thống gọi là phải bớt lệch pha với tự nhiên, cố gắng đồng bộ với hệ sinh thái.

FB Thành Nguyễn


 

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu

Vạn Điều Hay

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu, mà là vẫn kiên cường dù không còn chút sức lực nào

Chiều hôm ấy, nước lũ bất ngờ dâng cao. Giữa cánh đồng heo hút, căn nhà nhỏ của chị đứng chơ vơ trong tiếng gió rít và trời sầm tối. Một linh cảm chẳng lành len vào tim chị khi thấy nước mỗi lúc một dữ dội. Không kịp nghĩ ngợi, chị chỉ kịp đưa hai đứa nhỏ leo lên mái nhà, mặc cho toàn bộ đồ đạc bị dòng nước cuốn trôi trong khoảnh khắc.

Cha chồng đã gần 80 tuổi. Khi nước bắt đầu dâng, ông cụ cố đi tìm chỗ trú vì sức yếu, không thể leo lên mái nhà.

Mưa như dội thẳng từ trời xuống. Trong tích tắc, căn nhà chìm sâu trong biển nước. Ba mẹ con co ro trên tấm mái tôn lạnh buốt, bốn bề chẳng còn bóng người. Không điện, không đèn, không ai qua lại, chỉ có bóng tối và tiếng mưa gào thét. Chị vừa run vừa khóc, nhưng vẫn cố gắng ôm chặt hai con vào lòng, dỗ dành trong tuyệt vọng. Hai đứa nhỏ chỉ biết co cụm bên mẹ, run bần bật. Hình ảnh ấy khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng nhói lòng.

“Ban đầu nước chỉ ngập thấp, tôi còn ráng kê đồ lên cao. Ai ngờ nước lên nhanh quá, không kịp trở tay. Cửa bật tung, mọi thứ trôi theo dòng nước. Tôi chỉ ôm được hai đứa trèo lên nóc nhà, mang theo đúng hai lốc sữa để tụi nhỏ cầm cự”, chị kể, giọng còn run rẩy.

Trên nóc nhà trần trụi, chiếc áo mưa mỏng chẳng đủ che mưa gió. Ba mẹ con trải trọn đêm dài, vừa lạnh vừa đói, vừa sợ hãi. Chị gửi lời cầu cứu lên mạng; dòng tin nhắn của chị được chia sẻ khắp nơi, nhưng nhiều giờ trôi qua vẫn chưa có hồi đáp.

“Tôi sợ hai đứa nhỏ không chịu nổi. Tụi nhỏ lạnh xanh mặt. Tôi chỉ biết ôm con mà khóc. Mỗi giờ trên mái nhà dài như một ngày”, chị nói.

Sau 27 tiếng chênh vênh giữa trời nước, cuối cùng lực lượng cứu hộ cũng tìm đến. Ba mẹ con được đưa đến vùng cao an toàn. Hai đứa trẻ được ủ ấm, cho ăn, tinh thần dần ổn định sau ký ức kinh hoàng.

Ở trong Nam, chồng chị như “ngồi trên lửa”. Đường sá tê liệt, xe cộ không lưu thông, anh không thể mua nổi một tấm vé về quê. Anh đành mượn xe máy của người quen, vượt gần 400 km giữa mưa gió, chỉ với một ý nghĩ duy nhất: phải về với vợ con. Trên đường trở về quê, anh nhận được cuộc gọi báo tin cha mình đã bị nước cuốn và ra đi mãi mãi.

Khi đặt chân về đến quê, nhìn thấy vợ và hai con bình an, anh chỉ kịp ôm chầm lấy ba mẹ con mà nghẹn ngào:

“Còn người là mừng rồi…”

Cơn lũ đi qua, họ mất cha già, mất nhà cửa, mất sạch tài sản tích cóp bấy lâu. Anh ở lại quê, cùng vợ dọn dẹp và cúng thất cho cha. Lòng anh rối bời, chưa biết tương lai sẽ ra sao. Nhưng trong phút giây này, với anh, việc còn vợ con ở bên là điều quý giá nhất.

Giữa hoang tàn, còn lại một điều không gì đánh đổi được – Đó là sự sống.

Và cũng trong những ngày nghiệt ngã ấy, người ta thấy rõ một điều:

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu. Mà là, dù sợ hãi, dù kiệt sức, dù tưởng như chẳng còn chút hơi tàn — người mẹ ấy vẫn không buông tay con, vẫn tiếp tục sống, tiếp tục kiên cường.

(Câu chuyện của chị Đỗ Thị Hồng Đào (SN 1994) ở xóm Bầu Trạnh, xã Hòa Mỹ, Đắk Lắk.)

Khai Tâm biên tập

(Ảnh và tư liệu lấy từ trang Dân Trí)


 

THẬT ỦI AN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đừng sợ hãi!”.

“Đừng để gì làm xao động lòng con, đừng để gì làm con hoảng sợ. Mọi sự đều qua đi. Thiên Chúa không hề thay đổi. Ai có Ngài, chẳng thiếu gì; chỉ mình Ngài là đủ!” – Têrêxa Avila.

Kính thưa Anh Chị em,

“Đừng để gì làm xao động lòng con!”. Lời Chúa hôm nay nói đến tàn phá và mất mát. Đaniel tiên báo sự phân rã của các nước; Tin Mừng nói đến sự sụp đổ của Giêrusalem và những tai ương. Nhưng giữa khung cảnh đó, vẫn vang lên một lời ‘thật ủi an’ – “Đừng sợ hãi!”.

Đaniel tiên báo một điều vượt trên mọi đổ vỡ, “Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt” – bài đọc một. Đó là hình ảnh Vương Quốc của Đức Kitô, nơi những tâm hồn tín thác sẽ thưa lên, “Muôn ngàn đời ca tụng suy tôn!” – Thánh Vịnh đáp ca. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói trước số phận của Giêrusalem, “Sẽ có ngày bị tàn phá hết!”. Bên cạnh đó, những hỗn loạn: tiên tri giả, chiến tranh, động đất, đói kém và ôn dịch.

Cuộc sống không phải là một bát anh đào, thế giới luôn chao đảo: mâu thuẫn gia đình, bất ổn xã hội – thậm chí – chia rẽ trong Hội Thánh. Nhưng điều đáng sợ không chỉ là những cơn động đất của thiên nhiên, mà còn là những cơn địa chấn trong lòng người, khiến đức tin và niềm cậy trông lung lay. Chính ở đó, Lời Chúa vang lên mạnh mẽ hơn: “Đừng sợ hãi!”. “Bão tố là điều không tránh khỏi, nhưng hoảng loạn là do chọn lựa!” -  Ralph Emerson.

Khi lửa rừng bốc cháy, cách sống sót không phải là chạy trốn, nhưng là đốt một khoảnh đất trước mặt và đứng trong đó. Chúa Giêsu không hứa sẽ không có lửa trong đời sống, nhưng hứa, ai ở trong Ngài sẽ an toàn. Bình an không đến từ việc tránh đau khổ, nhưng từ việc đứng trong nơi lửa sự dữ đã bùng lên nhưng không tiêu diệt được tình yêu. Thập Giá Ngài là “vùng đất đã cháy” của lịch sử nhân loại; nhưng cũng ở đó, quyền lực của lửa bị bẻ gãy. Vì thế, giữa hỗn mang và điêu tàn, Kitô hữu không sống bằng nỗi sợ, nhưng bằng một xác tín ‘thật ủi an’ – tôi đang đứng trong nơi mà lửa không còn quyền lực! “Chúa thì thầm trong khoái lạc, nói trong lương tâm, nhưng quát lên trong đau khổ: đó là ống tăng âm của Ngài để đánh thức một thế giới điếc!” – C. S. Lewis.

Anh Chị em,

‘Thật ủi an’ khi chúng ta dừng lại trước thực tại hư vô của mọi vật để lắng nghe tiếng thì thầm của Chúa, “Ta là Đấng không hề thay đổi!”. Trong khi mắt thấy những gì tạm bợ tan vỡ, Nước Thiên Chúa vẫn vững bền. Kitô hữu được mời gọi đặt trái tim mình giữa những tàn dư của thế giới, không phải để bấu víu vào ‘cái còn’, mà để nhận ra ‘sự sống mới’ nảy mầm từ nơi lửa Thập Giá đi qua. Trong từng nhịp thở, từng giây phút yếu đuối, chúng ta học cách đứng vững trong bàn tay Đấng Thánh, khi biết rằng, cả lúc mọi thứ tan tành, tình yêu Ngài vẫn là vùng đất không bao giờ bị thiêu rụi. “Như sắt ném vào lửa mất rỉ sét; cũng thế, kẻ toàn tâm quy hướng về Chúa – trở nên một người mới!” – Thomas Kempis.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ngộp thở trước các biến cố. Và ngay cả ngày ‘tận thế đời con’ ập xuống, con vẫn biết mình đang ở trong một vùng ‘lửa chê’- Đức Kitô!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên, Năm Lẻ

Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 21,5-11

5 Khi ấy, nhân có mấy người nói về Đền Thờ lộng lẫy nguy nga với những phiến đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo : 6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” 7 Họ hỏi Người : “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước ?”

8 Đức Giê-su đáp : “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng : ‘Chính ta đây’, và : ‘Thời kỳ đã đến gần’ ; anh em chớ có theo họ. 9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”. 10 Rồi Người nói tiếp : “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém ; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”


 

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm.

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Nhà báo Lê Anh Đủ đang ở Tuy An, Phú Yên. Một xã mà anh nói với mình có rất nhiều suối, một vùng trũng. Lũ về vừa rồi có nhiều người tử vong.

Những hình ảnh dưới đây là của anh chụp tại Tuy An. Người phụ nữ trong hình là chị Nguyễn Thị Diễm ở thôn Tuy An Đông.

Cơn lũ vừa qua, nhà tan cửa nát, chị sống sót được là vì trèo lên cây nhàu trong sân nhà, rồi ở trên đó 2 ngày 2 đêm trong mưa lũ ngút trời trước khi được giải cứu. Trong thời gian đó, chị kiên cường bám víu sự sống và tụng chú Đại Bi.

Có lẽ Trời Phật đã nghe thấu tiếng kêu cứu tuyệt vọng trong tâm tưởng người phụ nữ đó mà cho chị được sống.

______________________

Anh Lê Anh Đủ viết trên trang của TT BSA những dòng rất xúc động:

“Từ trên cao, chị nhìn thấy mái nhà của mình nghiêng dần rồi đổ sập. Khoảng cách đến nhà hàng xóm chỉ vài chục mét, nhưng sức nước không cho ai tới gần.

Người dân đứng trên mái nhà bên kia dòng nước chỉ có thể dùng đèn pin ra hiệu và hét sang trong tiếng gió: “Bà ôm cây cho chắc. Ráng lên. Buông tay là chết đó”.

Dưới ánh sáng chập chờn, Diễm chứng kiến những gì chưa từng thấy trong đời: một con bò bị cuốn trôi, vừa rống lên vừa xoay vòng giữa dòng nước. Vài giây sau, tiếng rống tắt lịm. Một con nữa. Rồi một con nữa. Đàn bò bị nước nhấn chìm, tiếng kêu vang qua màn đêm khiến chị chỉ biết ôm chặt cành cây mà bất lực nhìn theo.

Lũ ập đến như muốn xé toạc làng mạc. Nước dội mạnh vào tường những ngôi nhà còn sót lại, kéo sập từng mảng lớn.

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm. Không thức ăn. Không nước uống. Chỉ có âm thanh của dòng nước và cảm giác cái lạnh bám lấy từng thớ thịt.

Tô mì nóng đầu tiên sau khi được cứu khiến chị bật khóc. Giữ được mạng, nhưng tất cả những gì dành dụm qua hàng chục năm mưu sinh – chiếc bếp gas, tủ lạnh nhỏ, vài bộ quần áo – đều đã theo con nước trôi đi.

Mâý ngày sau, chị được nhà chùa gần đó cưu mang, rồi phải điều trị vì suy kiệt…

Chị nói với chúng tôi: “Giờ tui mới thấy mạng sống giá trị. Tui sẽ chăm sóc cái cây nhàu cứu mạng tui”.

_________________

Mình đọc những dòng này từ chiều nay và nghĩ miên man về chị Diễm, về những người nông dân kiên cường miền Trung.

Trên gương mặt có họ có biết bao nhiêu sự chịu đựng, biết bao sự dồn nén để gắng sống sót qua mọi thiên tai địch họa, qua mọi biến cố của kiếp người.

Họ là đồng bào của chúng ta.


 

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

Xuyên Sơn

 CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

1.Vợ Lính Thời Chinh Chiến…

Thôn Nữ Bàu Trai

Lời Giới Thiệu:

Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần.

Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết.

Từ câu chuyện tình đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt vội vàng, các chuyến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh.

Người vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng lại tiếp tục lo cho chồng đi cải tạo.

Chúng ta đã từng đọc các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai trò vợ lính thời chinh chiến.*

      Trong các chị em gái của gia đình, tôi là đứa con gái nhút nhát nhất.

Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi.

Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.

     Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa kỹ lại.

Ông bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm trong phòng khách.

Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.

      Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách gì như một số người đồn đại.

Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc sống gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này.

Chúng tôi lịch sự không đi tới lui trong phòng khách.

Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đình và người yêu.

Chúng tôi thông cảm và thương mến họ hơn.

 Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đình.

Ông sĩ quan này mượn phòng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa.

Câu “quân dân như cá nước” là đúng, chúng tôi thân tình rất mau,

có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri không còn nữa.

      Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp nhà tôi sau này.

Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên.

Một thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn lên đường đi hành quân.

Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng “Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà.”

Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn.

Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư.

Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần Sài Gòn,

đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.

      Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người.

Sau những ngày nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy tình hình chiến sự.

       Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng dễ nhận ra ngay.

Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm.

Anh trở về nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn.

Bận rộn với giấy tờ, điện thoại và dặn dò người này người kia liên tục.

Tôi hiểu anh không có thì giờ để nghĩ đến gia đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: 

“Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con.”

Ăn cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú.

Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều gì, tôi nghe lòng tê tái.

Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ!

Không, tôi chỉ cần chồng tôi. 

     Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính.

Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón sắt.

Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.

    Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, lòng tôi tê tái, có một cái gì đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh và im lặng.

Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: 

“Thôi anh đi”.

Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều hơn như những lần anh đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè.

    Anh sợ làm tôi khóc.

Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em, nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay.

Tôi cố gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi trong lòng tôi.

Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về không?

Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi.

Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.

       Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn.

Có lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới đi.

Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau.

Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi.

Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.

       Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại Bến Tre,

anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho.

Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi.

Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn còn e thẹn.

Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm.

Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay.

Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài Gòn sau buổi cơm.

Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.

       Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra ngoài để xem chuyện gì xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi.

Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa.

Tôi trở lại giường nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân mình.

       Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng.

Chúng nó vô tư không biết gì, thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương lòng của chị mà thôi.

Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói vì thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.

       Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà ở trong

cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần thay mặt gia đình đi dự đám tang quá nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận.

Tinh thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp.

Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tào khang, quen biết từ thuở còn niên thiếu.

       Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị “mắc phong long”. Mấy ngày sau tôi rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia.

Nhìn anh đi tôi khóc mãi vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị “Cáp duồn”.

Mẹ tôi khuyên “Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu”.

Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.

           Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm.

Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng ngày.

Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh.

Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đã bình yên trở về.

Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào phòng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện.

Tình thương đã khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau ra đón ba nó.

            Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng lấy con,

một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn trú địa phương.

Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt đi nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu đã cho anh ngày rửa tội.

Tôi nói “Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh.” Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói thêm “Anh thương em hãy nhớ lời em dặn.”

     Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động,

cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại, để anh không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.

     Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt thì những ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu.

30/04/75 đã chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo.

Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi chồng về mỏi mòn hơn.

Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về. Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đã nối lại và rơi mất một hạt.

Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.

Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ.

Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.

Thôn Nữ Bàu Trai

nguồn: Email của TH

(còn tiếp)


 

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên…va` Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày…

My Lan Pham

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên, nơi lưu giữ cuốn sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ (Phép Giảng Tám Ngày) đang bị nước lũ bao vây tứ phía. Cho đến giờ vẫn chưa biết được số phận cuốn sách có được đảm bảo hay không.

Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày được cha Alexandre de Rhodes biên soạn và in ấn tại Roma vào năm 1651. Đây được xem là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ.

Do cuốn sách nằm dưới hầm có nhà nguyện nhỏ của Chân Phước (Á Thánh) Andre Phú Yên, cho nên khả năng bị ngập chìm là rất cao. Tuy vậy cuốn sách được đặt trong một hộp kính và hy vọng Cha quản nhiệm hoặc các vị hữu trách đã bảo vệ cận thận.

Ngôi nhà thờ cổ này, bản thân đã là một di tích lịch sử vô cùng giá trị, đang chứa trong mình cuốn sách bằng chữ viết đầu tiên mà chính tôi đang dùng để gõ những dòng này.

Khi gõ những dòng này lòng tôi vô cùng biết ơn tiền nhân đã cho ra một phương tiện để biểu đạt được hầu hết những suy nghĩ của mình, và cũng không khỏi lo âu liệu những tài liệu quý giá như vậy có tiếp tục gìn giữ được cho thế hệ mai sau hay không?

Lũ, lũ, và bão lũ… mãi mãi trên quê hương tôi vậy sao?

Lê Quốc Quân


 

THƯƠNG LẮM ĐỒNG BÀO ƠI..!!!

Chi Nguyen – Những Câu Chuyện Thú Vị

THƯƠNG LẮM ĐỒNG BÀO ƠI..!!!

Nếu hôm nay bạn còn có cơm nóng để ăn, áo ấm để mặc, còn có thể bước chân về nhà sau một ngày dài mệt nhoài… thì bạn đã may mắn hơn biết bao người ngoài kia rồi.

Trong những ngày bão gió triền miên, thiên tai ập xuống không báo trước, mùa màng thất bát, có những con người đang gồng mình chống chọi từng phút với sự sống.

Với họ lúc này, thở được một hơi, sống thêm một ngày… đã là điều quý giá vô cùng.

Ngoài kia, giữa dòng nước lạnh buốt và bầu trời xám đặc, những chiến sĩ vẫn lao mình trong đêm tối, bám lấy từng cánh tay đang cầu cứu.

Từng cụ già run rẩy, từng đứa trẻ nép trong chiếc áo mỏng, ánh mắt chỉ mong được nhìn thấy bình minh một lần nữa.

Và giữa tất cả hỗn loạn ấy, con người tựa vào nhau.

Những bàn tay lạnh giá nắm chặt không rời, vì ai cũng hiểu chỉ cần một khoảnh khắc buông tay, hy vọng cũng có thể chìm theo dòng nước.

Trong cái đói, cái rét và nỗi sợ mịt mù, thứ nâng người ta đứng dậy không phải sức mạnh nào lớn lao — mà là tình người.

Nó ấm hơn ngọn lửa, vững hơn mọi cơn gió, và đủ mạnh để giữ cho trái tim không gục xuống.

Thời điểm này, đừng mong cầu quá nhiều.

Chỉ cần còn sống, còn có chỗ để trở về, còn đủ ăn, đủ mặc, còn có một công việc để bám vào — đó đã là phước phần mà ta phải trân trọng mỗi ngày.

Nguyện cho tất cả những ai đang chống chọi ngoài kia được bình an trở về.

Đồng bào mình ơi… cố lên..!!!

Nguồn và ảnh fb: Nguyễn Bỉnh Khiêm