Đoàn Hòa bình Mỹ đã bước vào tuổi 50 (The US Peace Corpsat its 50 th)
Anniversary 1961 – 2011)
Bài viết của Đoàn Thanh Liêm
Được thiết lập vào năm 1961, ngay trong những ngày đầu của
nhiệm kỳ Tổng thống John F Kennedy, đến năm 2011 này Đòan
Hòa bình đang hân hoan tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50,
thông qua rất nhiều chương trình sinh họat trong các lãnh vực
chính trị, xã hội và văn hóa nghệ thuật. Tính ra, trong vòng 50 năm
qua, đã có tổng cộng trên 200,000 thanh niên sinh viên Mỹ tự
nguyện tham gia phục vụ trong khuôn khổ họat động của Đòan
Hòa bình tại 139 quốc gia trên khắp thế giới.
Qua nửa thế kỷ với biết bao đổi thay, mà Peace Corps vẫn trung
thành với ý hướng căn bản đã được xác định ngay từ thuở ban đầu,
đó là góp phần xây dựng hòa bình và tình thân hữu trên thế giới,
thông qua 3 mục tiêu đơn giản, mà cũng thật lớn lao như sau:
1/ Giúp nhân dân các quốc gia liên hệ trong việc đào tạo chuyên
môn;
2/ Giúp nhân dân các nước hiểu rõ hơn về dân tộc Mỹ; và
3/ Giúp người dân Mỹ hiểu biết rõ hơn về các dân tộc khác.
Năm 2011, Peace Corps cũng đặc biệt tưởng nhớ đến công lao vĩ
đại của vị Giám đốc tiên khởi của mình, đó là Luật sư Sargent
Shriver, người em rể của Tổng thống Kennedy và là thân phụ của
Maria Shriver cựu Đệ nhất Phu nhân của California. Ông vừa qua
đời vào tháng Giêng 2011 ở tuổi thọ 95.
Nhằm cung ứng đến quý bạn đọc những chi tiết đáng ghi nhớ của
Peace Corps, người viết đã tham khảo nhiều thông tin trên Internet
và đặc biệt là tìm đọc trong cuốn sách mới nhất do nhà xuất bản
Beacon Press phát hành vào đầu năm 2011 của tác giả Stanley
Meisler, dưới nhan đề
When The World Calls – The Inside Story of The Peace Corps
And Its First Fifty Years. (Khi Thế giới Kêu gọi – Câu chuyện
bên trong của Đòan Hòa bình và Năm mươi Năm Đầu tiên của
Đoàn). Cuốn sách dài 272 trang, bìa cứng.
I – Sự nô nức hăng say phấn khởi của thanh niên Mỹ.
Thanh niên Mỹ đã thật sự sôi nổi nô nức trước lời kêu gọi hùng
hồn của Tổng thống Kennedy trong bài diễn văn nhậm chức vào
tháng Giêng năm 1961, lời kêu gọi bất hủ đó như sau : “Các bạn
đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể
làm gì cho quốc gia của bạn” (Ask not what your country can do
for you, ask what you can do for your country). Và họ đã đua nhau
tự nguyện gia nhập Đoàn Hòa bình để đi đến phục vụ tại các quốc
gia xa lạ ở Phi châu, Á châu,châu Mỹ Latinh… Họ phải học nói
được ngôn ngữ của nước sở tại và nhất là phải sống trong những
điều kiện cực kỳ thiếu thốn khắc nghiệt của người dân địa phương.
Nhưng với tính tình hồn nhiên cởi mở của tuổi trẻ, với tấm lòng
hăng say nhiệt thành theo đuổi lý tưởng phục vụ nhân quần xã hội,
phần đông những thanh niên Mỹ này đã lần hồi vượt qua được mọi
thử thách, và tạo được sự thông cảm quý mến của các dân tộc nơi
họ sinh sống qua sự tự nhiên chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân
cũng như kiến thức và kỹ năng chuyên môn.
Khởi đầu với con số 3,000 đòan viên, Peace Corps từ năm 1964 trở
đi mỗi năm đã có đến trên 10,000 thiện nguyện viên, và con số
mấy năm gần đây từ 2003 đến 2009 trung bình ở vào khỏang gần
8,000 đòan viên.
II – Một số trường hợp điển hình ngộ nghĩnh tại miền đất xa xôi.
1/ Ông “Tổng thống Peace Corps”. Năm 1964, cô Nancy Deeds
được một gia đình người xứ Peru, Nam Mỹ cho ở chung trong nhà
tại làng đánh cá Chimbote phía bờ biển Thái bình dương. Cậu bé
Alejandro Toledo con trai chủ nhà có dịp học thêm tiếng Anh bằng
cách dậy tiếng Tây ban nha cho Nancy. Ít năm sau, cậu được qua
Mỹ học và được Nancy giúp đỡ hướng dẫn lúc học ở San
Francisco. Và với sự cố gắng phi thường cậu đã thành công với
bằng cao học và tiến sĩ về môn kinh tế học. Toledo đã lần lượt làm
việc cho Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới, Đại học Harvard,
Đại học Waseda ở Nhật và làm cố vấn kinh tế cho chính phủ nước
Peru… Vào năm 2000, ông còn được bầu vào chức vụ Tổng thống
của nước Peru nữa. Trong dịp gặp gỡ với giới lãnh đạo Peace
Corps tại Washington, Tổng thống Toledo đã xác nhận: “Một mảng
lớn con đường tôi trải qua – từ việc học tập và đi ra khỏi cái làng
tồi tàn Chimbote – thì Peace Corps đều có liên hệ với những
chuyện đó… Quý vị đều có trách nhiệm cho cái ông Tổng thống
này!”
2/ Những y tá người Mỹ của Peace Corps tại Afghanistan đã hết
sức tận tâm săn sóc bênh nhân địa phương, đến nỗi đã tạo được sự
chuyển biến rõ rệt trong lề lối phục vụ của các y tá bản xứ, vốn
xưa nay ít bị xúc động trước nỗi đau đớn bất hạnh quá dồn dập
trong đời sống thường ngày của đồng bào mình.
Alice O’Grady là một trong nhóm Peace Corps đầu tiên đến dậy
học ở xứ Ghana Phi châu từ năm 1961. Năm 1968 cô trở lại dậy
môn khoa học tại đây trong 4 năm. Năm 2008 Alice trở lại thăm
Ghana, thì được các học viên cũ – nay đã là những bác sĩ, kỹ sư rất
thành đạt – họ góp tiền lập một quỹ học bổng lấy tên cô giáo
“Alice O’Grady” để giúp cho thế hệ đàn em có cơ hội học tập tốt
hơn, và họ còn gửi vé may bay mời cô qua tham dự lễ trao học
bổng cho sinh viên đầu tiên được trúng giải. Trong buổi lễ trao học
bổng này, các cựu học viên đã hết lòng ca tụng “sự tận tâm, kỷ luật
và hăng say của cô giáo O’Grady là người đã nhóm lên ngọn lửa
say mê kiến thức khoa học cho lớp môn sinh của cô trên 40 năm
trước…”
3/ Niên lịch của Nhóm Cựu Thiện Nguyện Viên Peace Corps ở
Madison, Wisconsin.
Sau khi hết thời hạn phục vụ ở ngọai quốc, các thiện nguyện viên
trở về Mỹ thường tụ họp lại với nhau thành từng Nhóm Ái hữu, để
ôn lại những kỷ niệm và còn tìm cách phát triển và củng cố những
mối liên hệ thân thiết với các bạn từ những khu vực mà họ làm
việc, thông qua vô số những dự án nho nhỏ về giáo dục, về cải tiến
dân sinh tại các địa phương. Các nhóm Ái hữu này gia nhập tổ
chức National Peace Corps Association mà hiện nay có đến khoảng
30,000 thành viên (Hiệp hội quốc gia Peace Corps).
Riêng Nhóm Cựu Thiện nguyện viên ở thành phố Wisconsin lại có
một sáng kiến độc đáo là kêu gọi các bạn trên tòan quốc gửi hình
ảnh sinh họat tại các quốc gia để nhóm thực hiện cuốn lịch mỗi
năm và đem bán để gây quỹ giúp một số công trình tại các địa
phương. Trong loại niên lịch này, có nhiều chi tiết đáng chú ý, điển
hình như January 6 là Maroon Day ở Jamaica, April 27 là Lễ Độc
lập xứ Togo, July 13 là Jagannah Festival ở Ấn độ, và November 9
là Sinh nhật của Sargent Shriver. Kể từ năm 1988 đến nay, số thu
nhập từ việc bán các niên lịch này đã lên tới tổng cộng gần 1 triệu
US dollar. Và trong năm 2008, số tiền thu nhập được sử dụng để
mua máy quay roneo cho trường Tubman ở Liberia, xây dựng 15
nhà vệ sinh tại Cộng hòa Dominica, giúp đào tạo nữ hộ sinh tại
Moroco, bảo trợ câu lạc bộ chơi cờ ở Bolivia và yểm trợ một phần
cho 65 dự án nhỏ ở các nơi khác.
III – Peace Corps giữa thời kỳ chiến tranh lạnh.
Trong các thập niên 1960, 70 và 80, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh
đoàn viên Peace Corps ở nhiều nước thường gặp khó khăn do sự
tuyên truyền chống Mỹ của phe cộng sản. Cụ thể như vào năm
1961, chuyện tấm bưu thiếp của cô Margery Michelmore gốc từ
Boston gửi cho người bạn trai, trong đó cô mô tả về chuyện người
dân Ghana nấu ăn ngòai phố, buôn bán ngòai đường và cả đi vệ
sinh ở ngòai đường nữa. Tấm postcard này không hiểu làm sao lại
rơi vào tay người khác ở Ghana và liền bị sao chụp thành nhiều
bản để tung ra cho giới sinh viên học sinh ở thủ đô Accra. Từ đó
mà đã gây ra cả một chiến dịch rất mãnh liệt tố cáo “đế quốc Mỹ”
với lời hô hào vang dội khắp nơi “Yankees, go home” ( người Mỹ,
hãy cút về nước).
Tuổi trẻ vốn ngây thơ, hồn nhiên, nên các đoàn viên Peace Corps
tuy tự nguyện đi phục vụ tại nước ngoài, nhưng vẫn giữ tinh thần
độc lập, không muốn để cho mình trở thành “công cụ của chính
sách ngọai giao của chính quyền Mỹ”. Vì thế mà có sự đối kháng
căng thẳng trong mối liên hệ giữa Peace Corps và giới lãnh đạo
chính phủ Mỹ ở Tòa Bạch ốc. Điển hình như mấy trường hợp sau
đây:
1/ Phản đối việc quân đội Mỹ xâm chiếm Cộng hòa Dominica.
Năm 1965, nhân cuộc nội chiến tại địa phương, chính quyền
Johnson đã phái quân đội đổ bộ lên đảo quốc Dominica. Một số
đoàn viên Peace Corps đã không chịu di tản theo lệnh của tòa Đại
sứ, ở lại chăm sóc các nạn nhân tại thành phố thủ đô Santo
Domingo, và họ còn tỏ ra có thiện cảm với “phe nổi dậy” mà bị
chính quyền Mỹ đang tìm cách dẹp bỏ. Thái độ ngoan cường bất
tuân mệnh lệnh của các đoàn viên này đã làm Tổng thống Johnson
hết sức giận dữ và rút cuộc đã bắt đầu tìm cách thay thế cả vị Giám
đốc đày uy tín Sargent Shriver nữa. Sự kiện này chứng tỏ Peace
Corps tuy do chính phủ Mỹ lập ra và tài trợ, nhưng tổ chức này vẫn
giữ được vị thế độc lập riêng biệt của mình, chứ không chịu răm
rắp đứng trong khuôn khổ chật hẹp của nền ngọai giao Mỹ. Đây rõ
rệt là một đơn vị thuộc khu vực xã hội Dân sự, chứ không phải là
một cơ sở thuộc chính quyền Nhà nước.
2/ Peace Corps cũng không chịu qua Việt Nam và Lào
Đầu năm 1966, Tổng thống Johnson yêu cầu giới lãnh đạo Peace
Corps phải nghiên cứu việc đưa các đoàn viên sang công tác ở Lào
và Việt Nam. Nhưng sau chuyến đi khảo sát tình hình tại chỗ của
hai nhân viên đặc trách về khu vực Viễn Đông, Peace Corps đã
quyết định không tiến hành chương trình hoạt động tại hai quốc gia
này, bất kể chỉ thị của vị Tổng thống đầy quyền uy lúc đó. Cũng có
thể là vì hồi đó tại Việt nam đã có Đòan Thanh niên Chí nguyện
Quốc tế (IVS = International Voluntary Service) đã từ Mỹ đến họat
động sẵn từ năm 1957 rồi, nên Peace Corps xét thấy nên dành ưu
tiên cho những quốc gia khác chăng.
Đàng khác, nhiều đoàn viên Peace Corps lại còn tham gia tích cực
vào phong trào chống đối cuộc chiến tranh Việt Nam mỗi ngày một
sôi nổi lan rộng khắp nước Mỹ hồi cuối thập niên 1960 nữa. Và vì
sự chống đối này, mà Tổng thống Nixon rất giận dữ đến nỗi muốn
tìm cách dẹp bỏ cả Peace Corps đi. Nhưng vì sau năm 1972, ông
bị rắc rối nặng nề với chuyện Watergate, nên đã không thể làm gì
với ý muốn dẹp bỏ tổ chức này được nữa.
Tại nhiều quốc gia khác ở Phi châu, cũng như ở châu Mỹ Latinh,
các đoàn viên Peace Corps cũng gặp phải những khó khăn tương tự
phát xuất từ thái độ bài Mỹ và nhất là do ảnh hưởng của những
lãnh tụ marxist quá khích như Fidel Castro, Ché Guevara… Nhưng
kể từ khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt và sau khi Liên Xô giải
thể vào đầu thập niên 1990, Peace Corps đã có thể họat động tương
đối êm thắm thoải mái hơn lúc ban đầu vào thập niên 1960 – 70 rất
nhiều.
Ngân sách của Peace Corps vào năm 2010 vừa được Quốc hội Mỹ
thông qua đã lên tới 400 triệu dollar, nhiều hơn con số 373 triệu mà
Tổng thống Obama đề nghị với Quốc hội. Sự kiện này chứng tỏ
Peace Corps vẫn còn giữ được tín nhiệm lớn lao trong công luận
của nước Mỹ ngày nay vậy.
IV – Nhận định tổng quát về Peace Corps trong nửa thế kỷ qua.
Peace Corps được đánh giá là một thành tựu lâu bền đáng kể nhất
của chính phủ do Tổng thống Kennedy lãnh đạo. Chương trình này
được đa số người dân Mỹ ủng hộ tán thành và đã liên tục phát triển
và hoàn thiện cho đến ngày nay qua thế kỷ XXI.
1/ Giới truyền thông báo chí Mỹ vốn chuyên môn xét nét moi móc
những sai sót của chính quyền và không ngớt chỉ trích các nhân vật
trong giới lãnh đạo xã hội được coi như là những khuôn mặt của
công chúng (public figures). Nhưng nói chung, họ lại có thiện cảm
với việc làm của những thiện nguyện viên trẻ tuổi của Peace Corps
trên khắp thế giới, và họ đã mô tả khá chi tiết về các thành tựu và
ảnh hưởng của Peace Corps tại các quốc gia nơi Peace Corps có
chương trình hoạt động.
2/ Và giới báo chí tại các quốc gia địa phương nói chung cũng đều
đánh giá cao họat động của Peace Corps và đặc biệt là tác phong
cởi mở hòa nhã và hăng say phục vụ của các thiện nguyện viên.
Sự phản ánh dư luận báo chí ở Mỹ cũng như trên thế giới như thế
rõ ràng đã chứng minh được rằng Peace Corps đã đạt được mục
tiêu chính yếu của mình đã đề ra lúc khởi đầu, đó là : “Giúp cho
các dân tộc trên thế giới hiểu rõ hơn về người Mỹ”.
Tại quê quán và các đại học xuất phát của các thiện nguyện viên,
Peace Corps cũng đều nhận được sự yểm trợ và cảm tình rất bền
vững và các báo chí truyền thông địa phương cũng liên tục theo
dõi mọi công việc của thiện nguyện viên vốn là cư dân hay đồng
song với họ. Đó là một sự gắn bó liên kết chặt chẽ trong các cộng
đồng địa phương, nơi bản quán hay nơi trường học thân thương
yêu quý năm xưa (alma mater) của các thiện nguyện viên. Và như
vậy là Peace Corps đã “Giúp người dân Mỹ hiểu biết hơn về thế
giới” như là một mục tiêu đã được đưa ra lúc ban đầu.
3/ Con số đồ sộ của trên 200,000 Cựu Thiện nguyện viên đã là một
lực lượng tinh thần vĩ đại góp phần thật đáng kể trong việc làm
thay đổi nếp suy nghĩ và tình cảm của dân tộc Mỹ trước một thế
giới bao la rộng lớn với tất cả sự phong phú về văn hóa, lịch sử
phong tục, ngôn ngữ và với một tiềm năng vô biên của các quốc
gia đang vươn lên trên trường quốc tế ngày nay ở thế kỷ XXI.
Nhân tiện cũng xin ghi ra một số nhân vật nổi bật xuất thân từ
hàng ngũ của các Thiện nguyện viên Peace Corps. Về mặt chính
trị, thì có 2 Thương nghị sĩ Liên bang, đó là Paul Tsongas của
Massachusetts (công tác ở Ethiopia), và Chris Dodd của
Connecticut ( công tác ở Cộng Hòa Dominica). Rồi đến rất nhiều
Dân biểu Liên bang, điển hình như: Mike Honda của California (El
Salvador), Thomas Petri của Wisconsin (Somalia), Tony Hall của
Ohio (Thailand), Mike Ward của Kentucky (Gambia), James Walsh
của New York (Nepal)… Các Thống đốc Jim Doyle của Wisconsin
(Tunisia), Bob Taft của Ohio (Tanzania). Cũng như các Thị trưởng
của Pittsburgh, San Angelo, Texas và Urbana, Illinois. Hai chục vị
Đại sứ xuất thân từ Peace Corps, điển hình như Christopher Hill
(Cameroon) là thương thuyết viên chính về năng lượng hạt nhân
với Bắc Triều Tiên, và Robert Gelbard là Đại sứ tại Bolivia từ
1988 đến 1991 rồi làm Phụ tá Bộ trưởng Ngọai giao từ năm 2009;
ông này hồi thập niên 1980 đã từng phục vụ trong đoàn Peace
Corps ở Bolivia.
Về số nhà văn, nhà báo xuất thân từ Peace Corps, thì cũng có rất
nhiều, mà điển hình nhất là: Paul Theroux (Malawi), Peggy
Anderson (Togo), Peter Hessler (China), Chris Matthews của
MSNBC (Swaziland), Karen De Witt của ABC News (Ethiopia),
Al Kamen của Washington Post (Dominican Republic)…
Riêng trong số người Mỹ gốc Việt thì phải kể đến tên tuổi của anh
Bùi Văn Phú hiện dậy học và viết báo tại Bắc California. Sau khi
tốt nghiệp Đại học Berkeley vào đầu thập niên 1980, anh Phú đã
gia nhập Peace Corps và được cử đi dậy môn vật lý tại Togo Phi
châu là cựu thuộc địa của Pháp, nên anh Phú lại được dịp học thêm
tiếng Pháp để làm việc tại đây từ năm 1983 đến 85. Sau này cũng
còn nhiều sinh viên gốc Việt Nam cũng gia nhập Peace Corps như
anh Phú nữa. Người viết sẽ tìm hiểu chi tiết thêm về các Thiện
nguyện viên gốc Việt và sẽ trình bày trong một dịp khác vậy.
California, tháng Tám 2011
Đoàn Thanh Liêm
Hình: Anh Bùi Văn Phú những ngày làm tình nguyện viên của
Peace Corps ở Togo, Phi châu