TÂM SỰ NGƯỜI CÔNG CHÍNH- Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 Nếu ai đã từng xem cuốn phim “Đức Giêsu thành Na-da-rét” của đạo diễn Franco Zeffirelli (sản xuất năm 1977) chắc còn nhớ phân cảnh Thánh Giuse nằm mơ thấy Đức Maria bị ném đá chết vì tội ngoại tình.  Nếu không thì cũng đã có lần được xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giuse khắc khoải, lo âu, dằn vặt, thậm chí xấu hổ, trước sự kiện Đức Maria mang thai mà ông chẳng biết nguyên do.  Đó là những tình tiết lâm ly, bi đát, đầy kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có nằm trong nhãn giới của tác giả Tin Mừng chăng?  Ngoài ra, ý tưởng “tố giác” (ám chỉ Giuse nghi ngờ – mà nghi bậy – Maria ngoại tình, chửa hoang) nằm bên cạnh ý tưởng “công chính” (một danh hiệu vinh quang, hiếm người được Kinh Thánh trao tặng) đã khiến nhiều học giả phải lý luận vòng vo đủ cách, trưng dẫn bản văn đủ kiểu để hòa hợp hai ý tưởng này.  Tất cả những cái đó, theo nhiều nhà chú giải hiện đại, là do cách dịch chưa đúng về một vài từ ngữ trong văn bản.

 Khúc Mắc Tâm Tư 

Mở đầu bản văn bằng câu “Đây là gốc tích Đức Giêsu Ki-tô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về chung sống, Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần,” Mát-thêu đã muốn chứng minh cho độc giả Do-thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do-thái và con cháu Đa-vít được (trong lúc Lc 1, 26-38 thì chỉ trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc giả lương dân hiểu).  Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Maria đã tỏ lộ cho người bạn đời yêu quý (bà chị họ Ê-li-sa-bét mà còn được biết nữa là, vì thiên thần đâu có cấm Maria tiết lộ: x. Lc 1,39-45).  Với hai lý do: xin ông thông cảm cho quyết định của bà là vâng phục thánh ý lạ lùng lẫn bất ngờ của Thiên Chúa, và như thế sẽ chấm dứt kiểu chung sống chồng vợ thông thường; hai là chia sẻ niềm vui và vinh dự của bà được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao.  Ngoài ra, việc Mát-thêu khẳng định đầy đủ sự kiện nhiệm mầu ấy ngay từ đầu bài Tin Mừng (ông chẳng viết đơn giản: “Maria đã có thai”) hàm ý Giuse đã biết rõ công chuyện.  Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt ông vào một hoàn cảnh khó xử. 

Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà Giuse Maria chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả, còn không có chồng hoặc có chồng không con là tủi nhục lớn lao, tương tự quan niệm Á đông: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”), đồng thời cầu mong con họ sẽ được Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai (Mêsia) như bao mộng ước của mọi gia đình và mọi thiếu nữ Do-thái thời đó.  Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống như vợ chồng, Maria đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ Đấng Thiên Sai, nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ – do quyền năng Chúa Thánh Thần – vì thai nhi đó chính là Con Thiên Chúa!  Đây là điều mà Cựu Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi. 

Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Giuse đâm băn khoăn.  Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn, đã sử dụng Maria như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người.  Từ nay Maria đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao.  Giuse tự nghĩ mình đâu có quyền động đến nàng nữa.  Và dù không động đến nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn.  Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự bất công với Thiên Chúa, vì Hài nhi là con của Người mà.  Công bố chuyện này cho thiên hạ ư?  Ai mà tin nổi và hiểu nổi!  Có dấu chứng nào về một chuyện lạ lùng xưa nay chưa từng gặp như vậy?  Vả lại đây là bí mật giữa Thiên Chúa với Maria mà Người đâu đã tỏ ý định hãy loan truyền nó cho bá tánh.  (Phải 30 năm sau, chính Đức Giêsu mới làm rõ được chuyện này)!  Thế là Giuse dự tính ra đi, ra đi âm thầm, để mặc Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện.  Ông xử sự như bao người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa và không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người.  Vả lại, hiểu cách tự nhiên tức thời, công chính, công bình – hay just, juste trong tiếng Anh tiếng Pháp – có nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi và sở hữu của tha nhân.  Ngoài ra, từ Hy-lạp dùng ở đây là “deigmatisai”, cùng gốc với từ “paradeigmatisai”.  Nhưng trong lúc “paradeigmatisai” có nghĩa là “tố giác, bêu nhục” thì “deigmatisai” lại chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”, theo nhiều Giáo phụ (Origène, Eusèbe de Césarée…) và nhiều học giả hiện đại (Lm Paul Joüon, SJ, thành viên Viện Kinh thánh Giáo hoàng, Lm Nil Guillemette, SJ, giáo sư Kinh thánh lỗi lạc…).  Thành ra, chính cách dịch mới: “Giuse là người công chính và không muốn tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hợp lý đồng thời hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên đây. 

Lối giải thích cho rằng Giuse công chính chiếu luật (vâng lời Lề luật) là không ổn, vì chả có luật nào buộc phải ly dị hôn thê mới bị coi như ngoại tình cả (x. Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng).  Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì việc ly dị chỉ được phép và mang giá trị pháp lý nếu có chứng thư ly dị rõ ràng và đưa ra công khai (Đệ Nhị Luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành).  Thành ra đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động từ trời.

 Gỡ Mối Tơ Vò

  “Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông.”  Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng sợ [Hy ngữ: phobethes] đón Maria vợ ông về.”  Đến đây, các nhà chú giải hiện đại đề nghị cách dịch khác cho từ Hy-lạp gar mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “vì” (“Vì người con bà cưu mang…”) và cho từ Hy-lạp mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “và” (“và ông phải đặt tên…”).  Từ “gar” còn có nghĩa: “vẫn biết, quả thật, hẳn nhiên, phải rồi”, và thường gặp trong Tân Ước (x. Mt 18,7; 1Cr 9,19; 1Tx 2,20…); từ “dé” cũng còn có nghĩa “nhưng”: “Vẫn biết/hẳn nhiên người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Bà sẽ sinh con trai, nhưng ông phải đặt tên con trẻ.”  Từ “vẫn biết/hẳn nhiên” nói lên một sự thật mà Giuse đã rõ (nên không có chuyện thiên thần mặc khải mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho ông lúc này).  Maria sẽ sinh con, “nhưng” Giuse sẽ đặt tên cho con trẻ.  Đặt tên (quyền của người cha theo pháp luật Do-thái) là thừa nhận kẻ được đặt tên như con của mình.  Rồi con đẻ hay con nuôi đều có giá trị như nhau trước pháp luật Do-thái, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ.  Cách giải quyết của Thiên Chúa thật tài tình: lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do-thái (con nuôi # con đẻ, mà chắc Người đã từ lâu xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn tất lời Thánh Kinh: Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít dù là con của một trinh nữ, với Thiên Chúa là Cha. 

Còn một lý do thực tế: cần phải tạm thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành khẳng định của chính Đức Giêsu) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giuse là cha đẻ của Người.  Sự hiện diện của Thánh Giuse trong ngôi nhà Na-da-rét còn cần thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa và Mẹ Người.

 Đến đây, ta có thể hiểu rõ thêm nữa về sự công chính của Thánh Giuse: đó là sự thức tỉnh nội tâm đối với Thiên Chúa, một sự thức tỉnh vốn giúp người có khả năng đón nhận và hiểu rõ sứ điệp, dẫn người tức khắc tới chỗ vâng phục.  Dẫu cho đến nay người đã bối rối trước các chọn lựa khác nhau của mình, giờ đây người biết đâu là đường lối hành động đúng đắn.  Là một người công chính, người vâng theo các mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. 

Hiểu Ra Mầu Nhiệm

 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.  Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.”  Vậy là bên cạnh Đức Maria, bà Ê-li-sa-bét, Thánh Giuse nay cũng hiểu: vừa là con Thiên Chúa, vừa là con loài người, Đức Giêsu đúng là Em-ma-nu-en thật (x. Is 7,14).  Ngay cả cho dù không thực sự mang cái tên độc đáo này, Người vẫn là Em-ma-nu-en, như toàn bộ Tin Mừng sẽ cố gắng minh chứng, là Thiên-Chúa-ở-cùng-nhân-loại trong chính bản thân Người.  Hai bản tính trong một ngôi vị này khiến Người có thể đền tội xứng đáng, đầy đủ cho chúng ta và nhất là có thể thần hóa chúng ta, làm chúng ta nên con Thiên Chúa, thông phần bản tính Người: “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa” (thánh Athanasiô), “Thiên Chúa đã làm người, để biến chúng ta thành thần linh” (thánh Irênê).  (Tương tự chúng ta vì là vật chất và tinh thần nên có thể tinh thần hóa vật chất vậy).

 Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 From: Langthangchieutim 


 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay