October 31, 2025
Hiếu Chân/Người Việt
Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đóng cửa đã tròn một tháng, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống người dân Mỹ và chưa biết bao giờ mới mở cửa hoạt động trở lại.
Ai cũng biết điểm vướng mắc chủ chốt dẫn tới vụ đóng cửa là bất đồng quan điểm giữa hai đảng Cộng Hoà cầm quyền và Dân Chủ đối lập chung quanh một chương trình chăm sóc sức khỏe, thường gọi là Obamacare. Chừng nào điểm nghẽn này chưa thông thì chính phủ liên bang chưa có tiền để hoạt động.
Người biểu tình trước trụ sở của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hồi năm 2020, bảo vệ ACA, hay còn gọi là Obamacare. (Hình minh họa: NICHOLAS KAMM/AFP via Getty Images)
Tin mới nhất là chiều tối Thứ Năm 30 Tháng Mười, Tổng Thống Donald Trump đã viết trên trang Truth Social của ông một thông điệp ngắn gọn: “Như tôi đã nói nhiều năm, OBAMACARE LÀ MỘT THẢM HOẠ! Chi phí tăng vượt trần cho sự chăm sóc y tế thực sự tồi tệ!!! Các đảng viên Dân Chủ làm gì đi chứ!!!”
Ông đá trái banh về chân đảng Dân Chủ nhưng vấn đề không đơn giản như thế.
Obamacare có phải là thảm hoạ không, tại sao nó trở thành điểm bất đồng gay gắt giữa hai đảng và nó ảnh hưởng thế nào đến túi tiền của người Mỹ?
Obamacare có phải là thảm hoạ?
Obamacare – ở California có tên là Covered California – tên đầy đủ là đạo luật Bảo Vệ Bệnh Nhân Và Chăm Sóc Y Tế Vừa Túi Tiền (The Patient Protection and Affordable Care Act – ACA) được Quốc Hội thông qua và Tổng Thống Barack Obama ký ban hành ngày 23 Tháng Ba năm 2010 và có hiệu lực đầy đủ vào năm 2014.
Mục đích chính của luật ACA là cải cách toàn diện hệ thống y tế Mỹ, giúp nhiều người Mỹ, nhất là các gia đình có thu nhập thấp và trung bình, có thể mua bảo hiểm y tế.
Những điều khoản chính của Obamacare là khuyến khích các tiểu bang mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế miễn phí cho người thu nhập thấp (Medicaid); thiết lập các thị trường bảo hiểm trực tuyến (health insurance marketplace) nơi cá nhân và gia đình có thể so sánh và mua các chương trình bảo hiểm tư nhân; cung cấp các khoản trợ cấp tài chính dưới dạng tín dụng thuế phí bảo hiểm (premium tax credit) và các hình thức hỗ trợ khác để giảm gánh nặng chi phí bảo hiểm y tế cho người nghèo; cấm các công ty bảo hiểm từ chối bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm dựa trên tình trạng sức khoẻ hoặc bệnh lý có sẵn của người mua bảo hiểm; cho phép người dưới 26 tuổi được tiếp tục ở trong chương trình bảo hiểm của cha mẹ…
Đáng chú ý nhất là chính phủ liên bang sẽ trả trực tiếp cho công ty bảo hiểm một phần phí bảo hiểm hằng tháng, giúp giảm ngay số tiền bảo hiểm phải trả mỗi tháng cho những cá nhân và gia đình có thu nhập trong phạm vi từ 100% đến 400% mức nghèo liên bang (federal poverty level – FPL) và mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế (health insurance marketplace). Ngoài ra, Obamacare còn giúp giảm chi phí đồng chi trả (co-pay), mức khấu trừ (deductible) và giới hạn số tiền khách hàng phải trả trong một năm (out of pocket maximum)… Nhờ chính phủ, người nghèo và trung lưu đã có thể mua bảo hiểm sức khỏe “vừa túi tiền” như tên gọi của đạo luật.
Cũng nhờ sự trợ giúp tài chính của chính phủ, số người Mỹ mua được bảo hiểm y tế đã tăng rất nhanh. Thống kê cho biết, trước khi Obamacare có hiệu lực hoàn toàn năm 2014, tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế là 18.2% dân số, tương đương 48 triệu người. Những người này không dám đi khám bệnh, không phát hiện sớm được bệnh tật để chạy chữa; khi đau ốm họ vẫn được điều trị nhưng phải tự trang trải chi phí, nhiều người lâm vào cảnh nợ nần, tán gia bại sản, nhiều bệnh viện phải gánh núi nợ khổng lồ do bệnh nhân không có bảo hiểm để lại…
Chỉ trong vài năm sau Obamacare, số người không có bảo hiểm y tế đã giảm gần một nửa, xuống còn 10.4% năm 2016, tức thêm 20 triệu – 24 triệu người có bảo hiểm y tế. Số liệu mới nhất năm 2023 ghi nhận tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế chỉ còn 9.5%, thấp nhất từ trước đến lúc đó.
Obamacare là động lực chính dẫn tới sự gia tăng số người Mỹ được bảo hiểm sức khỏe; đẩy lùi mối lo nợ nần, phá sản khi chẳng may lâm trọng bệnh; và đó là thành quả không thể phủ nhận.
Trợ cấp tăng cường – mấu chốt gây tranh cãi
Đại dịch COVID-19 bùng phát năm 2020 gây ra một tác động kép: người dân dễ bị nhiễm bệnh hơn nhưng cũng khó khăn hơn về kinh tế do cơ sở kinh doanh đóng cửa, mất việc làm, mất thu nhập. Trong đạo luật Cứu Nước Mỹ (American Rescue Plan Act – ARPA) ban hành Tháng Ba 2021, chính phủ Mỹ thời Joe Biden đã giảm thiểu tác động tai hại này bằng cách mở rộng và tăng trợ cấp Obamacare để giúp người dân bị ảnh hưởng của đại dịch có thể mua bảo hiểm y tế với giá phải chăng. Khoản mở rộng này được gọi là trợ cấp tăng cường (enhanced subsidies) hoặc trợ cấp thêm (extra subsidies) bổ sung vào Obamacare.
Đạo luật ARPA loại bỏ giới hạn trợ cấp. Nếu trước đó người có thu nhập trên 400% mức nghèo liên bang FPL (tức khoảng $65,000 mỗi năm) thì không được trợ cấp để mua Obamacare thì nay giới hạn thu nhập đó bị bãi bỏ. Bất cứ ai mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế đều được trợ cấp nếu chi phí bảo hiểm cao hơn 8.5% thu nhập hằng tháng của họ; 8.5% thu nhập cũng là mức tối đa mà người dân có thể trả cho bảo hiểm y tế; người có thu nhập dưới 150% mức nghèo liên bang (tức khoảng $22,000 mỗi năm) thì tỷ lệ thu nhập phải trả cho bảo hiểm y tế là 0%.
Ban đầu các khoản trợ cấp tăng cường như vậy chỉ được áp dụng cho năm 2021 và 2022, sẽ chấm dứt khi đại dịch COVID được đẩy lùi. Nhưng sau đó Tổng Thống Biden ban hành Đạo luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRA) năm 2022, kéo dài các khoản trợ cấp Obamacare tăng cường đến ngày 31 Tháng Mười Hai 2025; nghĩa là hàng triệu người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế chi phí thấp đến hết năm nay.
Bất đồng giữa hai đảng trong Quốc Hội Mỹ hiện nay là nên chấm dứt hay kéo dài khoản trợ cấp tăng cường theo hai đạo luật ARPA và IRA nói trên. Đảng Cộng Hòa muốn chấm dứt trợ cấp tăng cường, muốn Quốc Hội thông qua ngân sách tạm thời để chính phủ hoạt động trở lại, sau đó sẽ bàn chuyện Obamacare, còn đảng Dân Chủ muốn mọi kế hoạch ngân sách đều phải bao hàm khoản trợ cấp Obamacare để bảo đảm người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế hợp túi tiền.
Theo tính toán của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (CBO), nếu duy trì khoản trợ cấp tăng cường thêm một năm 2026 thì ngân sách liên bang tốn khoảng $23 tỷ, nếu kéo dài thêm 10 năm (2025-2034) thì ngân sách có thể tốn $350 tỷ. (Thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ trong một tháng chính phủ đóng cửa đã vượt quá con số $23 tỷ mà chính phủ có thể tiêu tốn nếu gia hạn trợ cấp Obamacare thêm một năm!)
Đảng Dân Chủ không tin rằng, sau khi chính phủ hoạt động trở lại, đảng Cộng Hòa sẽ nghiêm túc thảo luận và giải quyết vấn đề trợ cấp Obamacare nên họ cương quyết không bỏ phiếu thông qua kế hoạch ngân sách tạm thời chừng nào kế hoạch đó chưa bảo đảm duy trì Obamacare như trình bày trên.
Hai đảng bất hòa người dân chịu thiệt!
Nỗi nghi ngờ của đảng Dân Chủ có cơ sở là đảng Cộng Hòa ngay từ đầu đã phản đối Obamacare và đã nhiều lần tìm cách xoá bỏ nó dù không đưa ra được một chương trình thay thế tốt hơn. Từ một chương trình chăm sóc sức khỏe giá phải chăng cho người Mỹ, Obamacare bị biến thành một vấn đề chính trị, thành “chiến trường” cho cuộc tranh chấp ý thức hệ giữa hai đảng.
Đảng Cộng Hòa cho rằng Obamacare là sự can thiệp quá mức của chính phủ vào thị trường tự do, là một hình thức “xã hội chủ nghĩa”, trong đó người có thu nhập cao phải đóng góp nhiều để tài trợ cho người có thu nhập thấp hơn mà cả hai điểm này đều trái ngược với đường lối của đảng Cộng Hòa. Tổng Thống Trump gọi Obamacare là thảm họa xuất phát từ quan niệm đó.
Đảng Dân Chủ thì quan niệm chính phủ phải bảo đảm “quyền sống” của người dân, trong đó quyền được chăm sóc y tế là nhân quyền căn bản của con người, không thể phó mặc cho thị trường tự do vốn đặt ưu tiên cho lợi nhuận của nhà kinh doanh. Đảng Dân Chủ không chấp nhận tình trạng nước Mỹ hùng mạnh nhất thế giới, có thể giảm thuế hàng ngàn tỷ đô la cho giới nhà giàu, lại là nơi nhiều người dân đau bệnh không dám đến bệnh viện chạy chữa chỉ vì không đủ tiền mua bảo hiểm y tế.
Cuộc tranh chấp chưa biết lúc nào sẽ kết thúc. Chỉ biết rằng, từ ngày 1 Tháng Mười Một 2025, những người đang có bảo hiểm Obamacare sẽ phải ghi danh lại cho năm 2026 và do các khoản trợ cấp tăng cường sắp hết hạn nên phí bảo hiểm mà mỗi người phải trả sẽ tăng lên đáng kể, mức tăng nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nơi sinh sống, tuổi tác và thu nhập.
Báo The New York Times dẫn dữ liệu của Kaiser Family Foundation cho ví dụ về mức tăng phí bảo hiểm Obamacare 2026 cho người trong độ tuổi 40 và 60 với các mức thu nhập khác nhau như sau: Người có thu nhập hằng năm $22,000 sẽ phải đóng $66 mỗi tháng (hiện là 0%), người có thu nhập $35,000 đóng $132 mỗi tháng, người có thu nhập $65,000 đóng mỗi tháng $196 nếu ở tuổi 40 nhưng phải đóng mỗi tháng $920 nếu ở tuổi 60. Đây chỉ là số liệu tham khảo, để biết chi tiết mức phí bảo hiểm Obamacare mà mình phải đóng quý vị nên liên lạc với nhân viên Covered California nơi mình sinh sống. [kn]


