Hai ông Tiến Sĩ Xuân: Một nấm mồ lạnh và một vòng hoa đỏ – Đoàn Xuân Thu

LƯƠNG VĂN CAN K 76.- Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu –

25 tháng 8, 2025

Ông Nguyễn Duy Xuân (trái) (Hình: vietnamvanhien.org) và ông Võ Tòng Xuân (Hình: VnExpress).

Người Việt mình hay tin chuyện trùng tên. Nào là “trùng tên dễ trùng số phận,” nào là “đồng âm ắt đồng mệnh.” Nhưng coi bộ… cũng chưa chắc đâu.

Thí dụ, hai ông Xuân – một ông Nguyễn Duy Xuân, một ông Võ Tòng Xuân. Cùng học cao hiểu rộng, cùng từng đứng bục giảng Viện Đại Học Cần Thơ, cùng đeo cái mác “tiến sĩ – giáo sư” sáng loáng, Nhưng trời đất xoay vần, một ông thì chết tức tưởi trong trại cải tạo, lạnh lẽo dưới mưa phùn miền Bắc. Còn một ông lúc sinh thời sống khỏe re, áo mão cân đai, nụ cười đỏ chói dưới lá cờ sao vàng.

“Đốc tờ Lúa và người trí thức chết trong tù”

Thế mới thấy: tài chưa đủ, phải thêm “hên” và… biết nịnh.

Từ tiếng cười đến tiếng khóc

Ngày trước 1975, ai ở miền Nam hẳn còn nhớ chương trình “Gia đình Bác Tám” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Một thứ kịch truyền thanh bình dân, có tiếng gà gáy, chó sủa, ếch nhái kêu, xen lẫn chuyện đời thường. Đạo diễn, theo nhiều tài liệu, là nghệ sĩ Năm Châu, bậc thầy sân khấu cải lương. Dân quê nghe để cười, dân tỉnh nghe để quên mệt, dân Sài Gòn nghe để thấy chút hồn Miền Tây giữa lòng phố thị.

Rồi một sáng Tháng Tư, “giải phóng” tràn vô, chương trình dẹp cái rụp. Thay tiếng cười là tiếng loa phường rè rè kể chuyện “anh A hợp tác xã nuôi heo” hay “chị B thi đua may mặc vượt chỉ tiêu.”

Kết quả, làng quê Nam Bộ từ đó vang nhiều hơn tiếng chửi thề, tiếng thở dài. Thay cho tiếng cười Bác Tám là những câu chuyện bi hài: anh em chém nhau giành đất, chồng giết vợ vì cái đói, thanh niên bỏ xứ làm cu li, thiếu nữ lấy chồng Đài Loan kiếm tiền báo hiếu, tạ cái ơn sanh thành cùa má dưỡng dục của ba. Văn nghệ cách mạng làm dân chỉ biết khóc, khóc ròng.

Võ Tòng Xuân – “người đâu cũng có mặt”

Ấy vậy mà sau này, ông Võ Tòng Xuân xuất hiện và… giành luôn bản quyền! Ông nói như đinh đóng cột rằng chính mình mới là tác giả “Gia đình Bác Tám.” Ông bảo mình viết kịch bản, kiêm diễn viên, và chương trình “hấp dẫn tới mức mấy chú, như chú Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt, trùm VC giải phóng trong mật khu, cũng khoái nghe.” Nghe mà cười té ghế! Đài phát thanh Sài Gòn, “sản phẩm Mỹ – Ngụy,” mà giải phóng trong bưng bật radio nghe khoái trá? Nếu có thiệt, chắc mấy ổng nghe để… rút kinh nghiệm tuyên truyền thì có.

Chưa hết, ông Xuân còn kể lể: nào là Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) từng mê Bác Tám, nào là khi tiếp quản Đại Học Cần Thơ, ông Phạm Sơn Khai, tức đồng chí Bảy Khai hỏi ngay: “Giáo sư Võ Tòng Xuân Gia đình Bác Tám còn đây không?” Nghe thiệt oai, nhưng thử hỏi: một ông tập kết ra Bắc, sống mấy chục năm với báo Nhân Dân và “Văn nghệ Quân đội” thì biết quái gì “Gia đình Bác Tám” mà quan tâm? Chuyện nầy nghe giống… “Bác Tám” kể hơn là lịch sử.

Tóm lại, cái tài của ông Võ Tòng Xuân không phải ở nông học, mà ở cái miệng: mâm nào cũng có ổng. Nông nghiệp có, kịch nghệ có, tuyên truyền cũng có. “Trí thức cách mạng” mẫu mực!

Nguyễn Duy Xuân – trí thức bị CS bức tử

Trái lại, ông Nguyễn Duy Xuân (1925–1986) mới đúng là trí thức Nam Bộ thứ thiệt. Ông sinh ở Ô Môn, học Collège de Cần Thơ, rồi sang Pháp lấy cử nhân Kinh tế, sang Anh lấy cao học, qua Mỹ lấy tiến sĩ ở Vanderbilt. Về nước, ông làm tổng trưởng kinh tế, cố vấn Tổng Thống Thiệu, rồi viện trưởng Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông xây dựng đại học theo mô hình tín chỉ của Mỹ, gửi giảng viên đi du học, mở ngành nông nghiệp, sư phạm, đào tạo cả một thế hệ trí thức miền Tây. Và chính ông – chứ không ai khác – đã mời Võ Tòng Xuân từ Viện Lúa quốc tế Los Baños về giảng dạy năm 1972. Nghĩa là thầy mời trò về, chứ không phải trò tự “vác lúa giống IRI” về như báo chí sau này khoe.

Đến Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Duy Xuân chọn ở lại, tham gia nội các Vũ Văn Mẫu. Và như một lẽ “cách mạng” phải có, ông bị tống đi cải tạo tận miền Bắc. Sau 11 năm giam cầm, ông chết tức tưởi ở trại Ba Sao, Hà Nam. Mộ phần heo hút, không vòng hoa, không điếu văn. Cái chết của một trí thức lớn chỉ còn lại tiếng khóc lặng lẽ của gia đình. Một nấm mồ lạnh.

Võ Tòng Xuân – “đốc tờ Lúa” khéo xu thời

Trong khi đó, ông Võ Tòng Xuân (1940–2024) lại lên như diều gặp gió. Ông nhanh chóng thành “đốc tờ Lúa” của chế độ, là “cha đẻ nhiều giống lúa mới,” là “người hùng cách mạng xanh.” Báo chí quốc doanh thi nhau ca tụng: nào là Anh Hùng Lao Động, Nhà Giáo Nhân Dân, giải thưởng VinFuture. Khi ông mất, tang lễ đầy vòng hoa đỏ, huân chương lấp lánh, lãnh đạo xếp hàng chia buồn. Một vòng hoa đỏ rực rỡ tiễn đưa.

Ai từng tiếp xúc đều thấy: cái tài thật sự của ông Xuân là biết nói vừa tai lãnh đạo CS. Khi thì kể chuyện “Gia đình Bác Tám” như công trình cách mạng, khi thì khéo gắn mình với Sáu Dân, Bảy Khai để chứng minh “có công với cách mạng.” Cái tài nông học có, nhưng cái tài nịnh thì vượt xa. Đúng nghĩa “người biết xu thời sống thảnh thơi.”

Hai ông Xuân – hai con đường

Nguyễn Duy Xuân: trí thức chính danh, học cao hiểu rộng, tận tụy cho đại học, cuối cùng chết thảm trong tù. Một nấm mồ lạnh. Võ Tòng Xuân: biết nịnh, biết khéo, mượn gió bẻ măng, cuối cùng sống an nhàn, chết trong vinh quang đỏ chói. Một vòng hoa đỏ. Cùng tên Xuân, nhưng một ông tàn tạ như cây khô mùa bấc, một ông được ca tụng như cành đào ngày Tết. Đó chính là bi kịch trí thức Việt Nam sau 1975.

***

Câu hỏi để lại cho hậu thế: trí thức Việt Nam nên chọn con đường nào? Giữ nhân cách để chết lặng lẽ trong tù? Hay cúi mình nịnh bợ để sống khỏe, để được gọi “anh hùng lao động?”

Lịch sử rồi sẽ phán xét. Nhưng dân gian thì khỏi cần chờ: một nấm mồ lạnh đã đủ làm chứng, và một vòng hoa đỏ đã đủ để cười chê: “Trí thức gì mà kỳ vậy chớ?”

(Melbourne)


 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay