June 29, 2025
Chuyện Vỉa Hè
Đặng Đình Mạnh
Trong nhiều năm qua, chế độ Cộng Sản Việt Nam vẫn thường xuyên tuyên truyền rằng cộng đồng người Việt ở nước ngoài là “một bộ phận không thể tách rời của dân tộc,” là “khúc ruột nghìn dặm,” kêu gọi họ quay về cội nguồn, đóng góp xây dựng đất nước.
Ông Michael Nguyễn, người Mỹ gốc Việt bị kết án 12 năm tù ở Sài Gòn ngày 24 Tháng Sáu, 2019 vì bị vu cho tội “âm mưu lật đổ” chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam. Nhờ Quốc Hội Mỹ áp lực, ông đã được thả ngày 22 Tháng Mười, 2020, và trục xuất về Mỹ.(Hình: VNA/AFP/Getty Images)
Thế nhưng, khi nhìn vào hệ thống luật pháp và chính sách hiện hành, đặc biệt là qua hai đạo luật vừa sửa đổi gần đây – Luật Đất Đai năm 2024 và Luật Quốc Tịch mới đây – Tháng Sáu, 2025, có thể thấy rõ sự phân biệt đối xử một cách hiển nhiên giữa người Việt trong nước và người Việt định cư ở nước ngoài.
Sự phân biệt này không chỉ giới hạn về mặt pháp lý, mà còn phản ánh một định kiến chính trị sâu sắc và nguy hiểm rằng: Chỉ người Việt “ngoan ngoãn,” “thuần phục,” “có lợi cho đảng Cộng Sản” mới được xem là “đồng bào.”
Luật Đất Đai: Quyền sở hữu, sử dụng nhà đất bị định kiến chính trị kiểm soát
Trong Luật Đất Đai sửa đổi vào Tháng Giêng, 2024, quy định về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được điều chỉnh theo hướng ràng buộc với điều kiện nhập cảnh vào Việt Nam. Cụ thể, để được sở hữu nhà đất, người Việt ở nước ngoài phải có giấy tờ chứng minh là người gốc Việt và phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
Thoạt nhìn, điều kiện này có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, khi đặt trong bối cảnh chính trị cụ thể, nó trở thành một cơ chế loại trừ mang tính chọn lọc chính trị rõ ràng. Bởi lẽ, việc nhập cảnh vào Việt Nam không phải là một quyền tự nhiên của công dân gốc Việt, mà phụ thuộc hoàn toàn vào sự chấp thuận của các cơ quan an ninh, Bộ Ngoại giao, hay thậm chí là ý chí chính trị từ thượng tầng.
Theo đó, mặc nhiên những người bất đồng chính kiến, từng lên tiếng phản biện chính quyền, những nhà hoạt động dân chủ, các cựu tù nhân chính trị đã định cư ở nước ngoài – dù họ chưa từng bị tước quốc tịch Việt Nam, gần như không có khả năng được nhập cảnh trở lại. Kéo theo đó, họ cũng mất luôn quyền sở hữu hợp pháp tài sản trên quê hương mình.
Việc gắn điều kiện nhập cảnh với quyền sở hữu tài sản cho thấy một điều nguy hiểm: Quyền dân sự cơ bản đang bị chế độ Cộng Sản biến thành công cụ trừng phạt chính trị. Điều đó không còn là luật pháp phục vụ công dân, mà là công cụ để kiểm soát lòng trung thành chính trị với chế độ.
Luật Quốc Tịch: Quyền tham gia chính trị bị độc quyền hóa
Luật Quốc Tịch sửa đổi vào Tháng Sáu, 2025, đặc biệt là Điều 5, tiếp tục thể hiện sự phân biệt nghiêm trọng giữa người Việt trong nước và người Việt định cư ở nước ngoài, thông qua các điều kiện mang tính loại trừ chính trị đối với những ai muốn tham gia vào bộ máy công quyền.
Theo quy định mới, các vị trí lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, cũng như trong lực lượng vũ trang và tổ chức cơ yếu (các khái niệm ghi trong luật quốc tịch sửa đổi), chỉ được dành cho những người có duy nhất quốc tịch Việt Nam và thường trú tại Việt Nam. Ngay cả công chức và viên chức cũng phải đáp ứng điều kiện này, trừ khi có lợi cho Nhà nước và không phương hại đến lợi ích quốc gia – một điều kiện mơ hồ và mang tính cảm tính cao.
Điều này có nghĩa gì nếu không phải là sự loại trừ toàn bộ người Việt có quốc tịch thứ hai – bao gồm tuyệt đại đa số kiều bào tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Họ, dù có tài năng, kinh nghiệm, quan hệ quốc tế, tâm huyết với quê hương đến đâu, cũng không đủ tiêu chuẩn “chính trị” để tham gia vào hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền của quốc gia mà mình được sinh thành, là công dân?!
Không dừng lại ở đó, điều kiện “thường trú tại Việt Nam” gần như khép lại cánh cửa quay về đóng góp của người Việt hải ngoại, vốn có cuộc sống định cư ổn định ở nước ngoài. Việc lựa chọn giữa “trở về sống hẳn” hoặc “không được tham gia gì cả” là một tối hậu thư phi lý đối với kiều bào, đặt họ vào lựa chọn duy nhất là thế đứng bên lề.
Tham chiếu chính sách của các quốc gia văn minh
Để thấy rõ tính phân biệt đối xử này, hãy nhìn sang các quốc gia khác – nơi mà chính phủ hiểu rõ vai trò của kiều bào như một lực lượng quan trọng cho sự phát triển đất nước.
- Hoa Kỳ: Người Mỹ gốc Việt, gốc Hoa, gốc Ấn… vẫn có thể giữ quốc tịch gốc mà không bị cấm cản trong việc tham gia chính trị, thậm chí được bầu làm dân biểu, thị trưởng, nghị sĩ.
- Pháp, Anh: Không có bất kỳ điều kiện chính trị nào ngăn cản công dân gốc nước ngoài tham gia các cơ quan công quyền khi họ đủ tiêu chuẩn chuyên môn và đạo đức.
- Nhật Bản, Hàn Quốc: Luôn có chính sách thu hút nhân tài người Nhật, người Hàn ở nước ngoài quay về phục vụ chính phủ, với nhiều ưu đãi về cư trú, thuế, và cơ hội thăng tiến.
- Đài Loan, Singapore: Tích cực tạo điều kiện để người gốc Hoa hải ngoại về đầu tư, nắm giữ vai trò lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương.
Trong tất cả các quốc gia này, quốc tịch không phải là cái cớ để cản trở người dân tham gia xây dựng đất nước, mà là công cụ để mở rộng sức mạnh mềm, thu hút chất xám và tài nguyên toàn cầu. Họ không bắt kiều bào phải chứng minh lòng trung thành chính trị một cách hình thức, mà tạo điều kiện để lòng trung thành đó được chuyển hóa thành hành động cụ thể, hữu ích cho quốc gia.
Chính sách của chế độ Cộng Sản Việt Nam – Sự loại trừ có chủ đích
Trái lại, chính sách của chế độ Cộng Sản Việt Nam, thông qua hai đạo luật kể trên đã thể hiện ý đồ không gì rõ hơn được nữa, là thủ đoạn chọn lọc người Việt với tiêu chuẩn có thể kiểm soát được để “cho” hưởng quyền lợi. Ai nằm ngoài tiêu chuẩn đó – cho dù chỉ vì mang hai quốc tịch, hay vì không được “ưu ái nhập cảnh”, thì đều bị gạt ra ngoài lề chính trị.
Thậm chí, những người có năng lực, tâm huyết, từng đóng góp nhiều tiền bạc và uy tín cho hình ảnh quốc gia, nếu rơi vào danh sách “bất đồng chính kiến,” thì sẽ không chỉ không được khuyến khích đóng góp, mà còn bị coi là mối đe dọa tiềm ẩn, họ không chỉ bị khước từ quyền trở về quê hương, mà còn bị tước đoạt cả quyền sở hữu tài sản và quyền tham gia vào tiến trình chính trị trong nước.
Điều này khiến tuyên bố “người Việt ở nước ngoài là một phần máu thịt của dân tộc” trở nên trống rỗng, nếu không muốn nói là đạo đức giả. Họ không phải là “khúc ruột” được giữ gìn, mà là “khúc dồi” – chỉ có giá trị khi cần vắt chất xám, tiền bạc, kiều hối, và bị loại bỏ không thương tiếc nếu có dấu hiệu “không phục tùng.”
Ngày 24 Tháng Sáu, 2025, Quốc Hội CSVN biểu quyết thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc Tịch Việt Nam. Chỉ những kẻ nào ngoan ngoãn, thần phục chế độ độc tài đảng trị mới được gọi là “đồng bào.” (Hình: chinhphu.vn)
Gần đây nhất, vào thời điểm kỷ niệm ngày chấm dứt cuộc chiến cách nay 50 năm, ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng Cộng Sản đưa ra bài viết với tựa đề “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một.” Rốt cuộc, đây chỉ là lời lẽ mị dân đầy xảo trá. Vì lẽ, luật pháp mà ông ấy chủ trương đang thể hiện đến hai Việt Nam. Một Việt Nam trong nước và một Việt Nam khác ở hải ngoại.
Một tương lai chia rẽ hay hòa hợp?
Việt Nam đang ở vào thời kỳ đầy thách thức: Cần nguồn lực để phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, chống chọi với các khủng hoảng địa chính trị. Trong bối cảnh đó, nguồn lực người Việt ở nước ngoài là tài sản vô giá. Nhưng nếu tiếp tục giữ quan điểm loại trừ, nghi ngờ, kiểm soát chính trị hóa như hiện nay, thì nhà nước không chỉ đánh mất lòng tin của hàng triệu người con xa xứ, mà còn tự mình làm nghèo đi chính quốc gia.
“Khúc ruột nghìn dặm” chỉ có giá trị khi thực tâm xem đồng bào ở hải ngoại là một phần thân thể không thể tách rời, phải được chăm sóc, đối xử bình đẳng và trân trọng. Còn nếu chỉ xem như là “khúc dồi nghìn dặm” để nhâm nhi cùng rượu Mao Đài trong những bữa tiệc phân chia chức vụ, lợi ích trên đầu nhân dân thì hãy thôi hô khẩu hiệu. Vì nhân dân đã quá hiểu bản chất chế độ này.
Dân tộc không thể thăng tiến bằng sự phân biệt đối xử và đất nước không thể phát triển bằng sự loại trừ.