Nói lời phải chăng (Phần cuối)

Ba’o Tieng Dan

21-4-2025

Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5phần 6

Chu Sơn: Hơn 35 năm sau cái ngày lịch sử (30–4) mà gần như tình cờ anh Tòng tham dự, có bao giờ anh tự nhìn lại mình, nhìn lại đất nước khi nhớ nghĩ lại những gì mình đã làm, những gì mình đã nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn?

Huỳnh Văn Tòng: Không phải chỉ “có bao giờ” mà rất nhiều và gần như thường trực tôi cứ hỏi tại sao? Tại sao? Tại sao cái cơ hội ngàn năm một thuở ấy bị bỏ lỡ, bị phí phạm một cách đáng tiếc? Không phải chỉ với cá nhân tôi, kẻ muốn làm một Việt Cộng tép riu (thuộc lực lượng Thứ Hai) hơn làm một “nhân vật” đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba), cũng không phải những người đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba) mà cả một số không ít những người phía bên kia (thuộc lực lượng Thứ Nhất – Việt Nam Cộng Hòa) cũng tiếc một cách quay quắt không được tham dự vào vận hội hòa giải hòa hợp dân tộc, xây dựng đất nước trong hòa bình độc lập và thống nhất sau biến cố 30-4-1975.

Tôi trở về nước đầu năm 1972 sau một thời gian khá dài (9 năm) tiếp cận với nền học thuật Pháp – Tây phương. Sự tiếp cận đó cho phép tôi nhận ra rằng, trí thức, quần chúng Pháp và Tây phương có điều kiện thời gian và nền tảng học thuật để nhận biết chủ nghĩa Marx, phong trào Cộng sản quốc tế và cách mạng tháng 10 Nga sớm và chính xác hơn trí thức và quần chúng Việt Nam. Đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương thành lập sớm hơn đảng Cộng sản Việt Nam hàng chục năm, nhưng rồi nhân dân Pháp và phương Tây đã không chọn mô hình Xã hội Chủ nghĩa để đổi mới đất nước họ như khẳng định của các lý thuyết gia Cộng sản là sự phát triển kinh tế của phương Tây đã chín mùi và sự trưởng thành của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước này đã sẵn sàng để cách mạng Xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi.

Sự chọn lựa này chủ yếu do nền tảng văn hóa truyền thống của họ sâu dày và trình độ học thuật của họ cao. Họ thừa nhận Marx – Angel và các nhà hoạt động cách mạng theo ý thức hệ Cộng sản ôm ấp lý tưởng và khát vọng trong sáng và cao đẹp. Nhưng đồng thời họ nghi ngờ khả năng hiện thực của học thuyết Marx và chủ nghĩa Lenin. Cuối cùng đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương đành chấp nhận làm lực lượng đối trọng chính trị và phản biện xã hội đóng vai trò thúc đẩy sự đổi mới, sự tiến bộ trong các nước Tư bản chủ nghĩa, và ủng hộ công cuộc giải trừ các thế lực thực dân đế quốc tại các thuộc địa.

Trong khi đó lý tưởng cộng sản, cách mạng tháng 10 Nga, chủ nghĩa Lenin lại nhanh chóng chiếm lĩnh tâm trí đa số người Việt ở trong nước cũng như Việt kiều tại Pháp. Lý do của sự quy hướng này là khát vọng độc lập tự do, công bằng xã hội vô cùng mãnh liệt nơi một số bộ phận không nhỏ trí thức, và ước mơ đổi đời một cách cấp thiết của toàn thể đồng bào cùng khổ (90% là nông dân) trước tình cảnh đói nghèo và nô lệ cùng cực do chế độ thực dân. Còn một lý do nữa của sự quy hướng này là mặt bằng nhận thức chung của dân tộc chưa đủ để vượt qua tình trạng mê tín dị đoan đã biến học thuyết Marx thành những tín điều tôn giáo và đảng Cộng sản thành một giáo hội không sai lầm, một guồng máy bạo lưc có quyền lực tuyệt đối trong mọi lãnh vực của đời sống đất nước.

Tôi đã từng nhận định như thế về đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án ở trường đại học, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm, quan sát, học hỏi dài ngày (6 tháng) tại những cơ quan thông tấn báo chí danh tiếng trên thế giới, tôi đã hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tìm thấy con đường giải phóng đất nước dân tộc sau khi đọc luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Lòng yêu nước sâu nặng và sự phẫn nộ mãnh liệt trước tội ác của bọn đế quốc thực dân đã lấn lướt khả năng suy luận lạnh lùng và khách quan của những người ngoài cuộc, hay của những người đã tìm thấy nơi học thuyết Tư sản Dân quyền những giá trị cách mạng triệt để như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và đặc biệt Nguyễn An Ninh vào thời điểm thập niên thứ hai của thế kỷ trước.

Tôi trở về nước với ý định tìm đường tham gia kháng chiến để giải tỏa ray rức là kẻ thờ ơ vô trách nhiệm trước tình hình đất nước ngày một lún sâu vào thảm cảnh chiến tranh xâu xé vô vọng. Hòa bình, độc lập, thống nhất đối với tôi vào thời điểm đó vẫn là mục tiêu hàng đầu. Vấn đề thể chế sẽ là sự đồng thuận của cả dân tộc sau khi đạt được các mục tiêu ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm tai hại trong các cuộc cải cách, cải tạo mà họ đã thực hiện trên miền Bắc trước và sau 1954. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không thể không biết tới những tội ác kinh khủng: Giết chết và đày đọa hàng trăm triệu con người trong các cuộc thanh trừng, đấu tranh giai cấp đẫm máu và sự điêu tàn suy sụp toàn diện tại Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đã sai lầm khủng khiếp.

Do suy nghĩ đơn giản như vậy, tôi chấp nhận đề nghị của ông Chu Sơn cùng với Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Trực, Bùi Minh (những người thân cận của thượng tọa Trí Quang) tiếp sức cho phong trào đô thị Huế bằng hành động cụ thể là thúc đẩy Lực lượng Hòa giải Dân tộc sớm thành lập, liên kết nó với các tổ chức, phong trào đô thị Sài Gòn, Huế và cả miền Nam, góp phần hình thành lực lượng Thứ Ba tại Sài Gòn, tạo điều kiện mở rộng hoạt động của nó ra các tỉnh miền Trung, kết nối tất cả thành lực lượng Thứ Ba thống nhất cho cả Miền Nam.

Ông Chu Sơn cần chú ý: Sáu nhân vật hàng đầu của chính phủ Dương Văn Minh, trừ luật sư Nguyễn Văn Huyền là người Công giáo, năm người còn lại là Phật giáo đồ, là Phật tử thuần thành. Hai trong số đó là luật sư Vũ Văn Mẫu, giáo sư Bùi Tường Huân là nhân vật lãnh đạo của Lực lượng Hòa giải do thượng tọa Trí Quang bàn thảo cùng đại tướng Dương Văn Minh sắp xếp đề cử vào chức vụ Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc giáo sư Bùi Tường Huân giữ chức bộ trưởng quốc phòng là chủ ý của thượng tọa Trí Quang thể hiện ý chí và khát vọng hòa bình theo tinh thần của đạo Phật và đường lối chủ trương của giáo hội Phật giáo. Việc Dương Văn Minh đề cử các nhân vật khác từ Phó Tổng thống trở xuống đêu có sự đồng thuận của thượng tọa Trí Quang.

Không phải chuyện tình cờ khi sáng sớm ngày 30 tháng 4 Nguyễn Hữu Thái tới chùa Ấn Quang và sau đó thượng tọa Trí Quang điện thoại đề nghị các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu nhanh chóng chấp nhận đầu hàng. Nguyễn Hữu Thái và tôi tới dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 có manh mối từ những cơ duyên như thế, chứ không phải tình cờ như ông Chu Sơn đã nhận xét. Những việc chúng tôi làm, những điều chúng tôi nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh đơn giản nhằm thực hiện câu châm ngôn mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã hành xử suốt đời ông: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Cái bất biến đối với chúng tôi vào thời điểm đó là Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc, toàn dân chung sức chung lòng xây dựng đất nước sau 117 năm bị xâm lược, chiến tranh tàn phá và xâu xé, tương tàn.

Lời kêu gọi ấy sau hơn một phần ba thế kỷ chắc chắn câu chữ có thay đổi do ký ức hao mòn nhưng nội dung vẫn trước sau như một. Làm sao quên được khi tôi biết chắc chắn rằng nhiều người trong số học trò, bạn bè, bà con thân thuộc và cả một số quen biết tôi gián tiếp vì lời kêu gọi ấy mà tin tưởng, mà ở lại để rồi phải chịu đọa đày, sĩ nhục, đói khổ, tù đày, tuyệt vọng, chết chóc. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản tiến hành sau 1975 đã biến tôi thành kẻ lừa dối. Thậm chí có một cô học trò đã nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Ông đích thực là một tên cò mồi. Gia đình tôi vì ông mà bị sập bẫy”.

Ông Chu Sơn biết không, cô học trò ấy là một trong những sinh viên thân thiết nhất của tôi, đã cộng tác hết mình với nhóm chúng tôi trong suốt hai năm “tôi nghĩ rằng mình là một Việt Cộng”, là đồng chí, đồng sự của ông Chu Sơn trong nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào đô thị Huế. Suốt hai năm ấy tôi nhận được từ cô sự tin tưởng và quý trọng. Cô vận động cha cô – một trung tá trong quân đội Việt Nam Cộng hòa – cùng gia đình (mẹ và bốn em) “ở lại để cùng với đất nước làm lại cuộc đời”. Nhưng rồi họ đã bị sập bẫy – chính xác như lời cô nói – Cha cô đã bị đưa đi cải tạo dài ngày, nhà bị lấy. Đứa em trai kế thi đậu nhưng không được vào đại học vì là con ngụy quân. Cô tiếp tục học hai năm cuối, tốt nghiệp cử nhân nhưng không xin được việc làm cũng vì là con ngụy. Mẹ và cô phải lăn ra chợ trời để lo cái ăn cho cả nhà và thăm nuôi cho chồng, cho cha.

Tù đày, đói khổ, cực nhục và tuyệt vọng là những gì họ nhận được từ ngày “miền Nam được giải phóng”. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã đoan chắc với cô ấy trước 30 tháng 4. Quả thực tôi là kẻ nói dối, là một thứ cò mồi… Cô ấy đã hoàn toàn chính xác khi không gọi tôi là Thầy như trước, mà gọi tôi là ông, và xỉ vả tôi như thế…

Chu Sơn: Xin lỗi anh Tòng. Tôi thấy trên trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Tôi đã hành anh suốt cả buổi chiều. Tuy vậy tôi vẫn muốn chính anh, chứ không phải tôi, kết thúc cuộc trò chuyện này bằng một vài câu ngắn gọn.

Huỳnh Văn Tòng: Hồi học bên Pháp tôi may mắn làm học trò của ba vị thầy lỗi lạc: Giáo sư Chesneax, giáo sư Jean Lacouture và giáo sư Phillipe Devillieris. Các vị ấy và nền đại học, truyền thông báo chí Pháp và quốc tế dạy cho tôi phương pháp nghiên cứu khoa học và tư duy lịch sử trên cơ sở của nền văn minh phương Tây – Ky tô giáo. Qua các vị ấy và nền tảng văn hóa học thuật ấy, tôi hiểu nhiều hơn về thế giới và đất nước dân tộc mình.

Về dạy đại học Vạn Hạnh và làm “Việt Cộng nội thành”, tôi lại may mắn tiếp cận với ba vị thầy lỗi lạc và thâm trầm hơn: Thầy Thích Minh Châu, thầy Thích Trí Quang, thầy Hồ Hữu Tường. Ba vị này và môi trường đại học Vạn Hạnh dạy cho tôi tình yêu đất nước, lòng bao dung, trách nhiệm nhân loại và chúng sinh theo cốt tũy đạo Phật và tinh hoa Phật giáo Việt Nam.

Qua các cuộc trao đổi, các vị ấy thường nhắc nhở tôi câu châm ngôn: “Tồn tại là tồn tại trong những tương quan”. Câu châm ngôn này với những giải bày của các vị ấy giúp tôi nhìn nhận văn hóa, lịch sử Việt Nam, hiện tình đất nước và các mối quan hệ quốc tế chính xác và công bình hơn.

Chúng ta đang ở trong đất nước. Đất nước đang ở trong thế giới. Tất cả thường trực vận động và đang trên đà chuyển hóa. Kết quả của cuộc vận động chuyển hóa ấy thế nào tùy thuộc vào nhận thức và bản lãnh sống của tất cả mọi chủ thể tham dự.

Khẳng định như thế để thấy rằng, mối chủ thể tồn tại từ cá nhân, gia đình, địa phương, thành phần dân tộc, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, cộng đồng khu vực và quốc tế đều chia phần trách nhiệm trước quá khứ và hiện thực cuộc sống.

Không đổ hết trách nhiệm, cái xấu và lỗi lầm lên đầu đối phương, không dùa hết cái tốt, cái đúng, cái ưu việt về phía mình.

Không trông chờ sự tôn trọng của kẻ khác, của quốc gia dân tộc khác khi bản thân mình, cộng đồng mình, dân tộc đất nước mình chìm đắm trong chia rẽ, xâu xé, nô lệ và hủ bại.

Đất nước chưa có độc lập, hòa bình, thống nhất; dân tộc chưa có tự do và hạnh phúc như chúng ta đã mơ tưởng, như đảng Cộng sản đã rêu rao và tiếp tục lảm nhảm.

Hết nô lệ Pháp, Mỹ, chúng ta đang nô lệ Tàu. Hết bị áp bức bóc lột bởi chế độ vua quan chuyên chính, chúng ta đang bị đàn áp bóc lột tồi tệ hơn, triệt để hơn bởi bạo quyền lý Toét, xã Xệ, thị Nỡ và Chí Phèo: Đảng Cộng sản.

Sau hơn một thế kỷ rưỡi chiến tranh, chết chóc, đọa đày và đổ nát để rồi chúng ta có được ngày nay sao?

Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 và hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bùi Giáng.

***

Chu Sơn: Câu hỏi bỏ lửng của anh Tòng kết thúc cuộc trò chuyện của chúng tôi vào khoảng 8 giờ tối một ngày cuối tháng 4 năm 2010, chưa đầy một năm ba tháng trước ngày anh qua đời (tháng 7 năm 2011).

Mấy trang ghi chép này chắc chắn không tránh được những sai sót ngoài ý muốn. Xin anh Tòng rộng lòng tha thứ.


 

Được xem 3 lần, bởi 3 Bạn Đọc trong ngày hôm nay