Ba bài học từ quá trình dân chủ hóa tại Đài Loan

Ba bài học từ quá trình dân chủ hóa tại Đài Loan

Y Chan

Có rất nhiều yếu tố biến Đài Loan trở thành một thỏi nam châm thu hút vô số học giả, và là đề tài cho các nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới.

Đó là một nước hiếm hoi có quá trình chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ một cách hoàn toàn hòa bình, dù không hề thiếu gian truân và kịch liệt.

Là một nền dân chủ non trẻ, chỉ mới hơn 30 năm, nhưng Đài Loan nhanh chóng xác lập vị thế là một trong những thể chế dân chủ ổn định và vững mạnh nhất thế giới [1].

Sự tồn tại của Đài Loan càng đáng chú ý hơn trước mối đe dọa thường trực suốt hàng chục năm qua từ Trung Quốc, một hình mẫu theo đuổi các giá trị hoàn toàn ngược lại.

Tìm hiểu về nền dân chủ của Đài Loan, đặc biệt là quá trình chuyển đổi của họ, luôn đem lại những bài học đáng giá, nhất là cho những nước như Việt Nam.

Quyển sách “Democratizing Taiwan” (Dân chủ hóa Đài Loan) của tác giả J. Bruce Jacobs là một trong những nguồn tham khảo có giá trị, cho cả những người mới bắt đầu lẫn những ai đã sành sỏi về đảo quốc này [2].

J. Bruce Jacobs, học giả người Úc sinh ra tại Mỹ, được xem là một người khổng lồ trong lĩnh vực nghiên cứu về Đài Loan [3]. Ông từng nhận được các huân chương cấp cao nhất của nhà nước Đài Loan và Úc dành cho công dân có cống hiến xuất sắc. Ông qua đời vào năm 2019.

Không chỉ là một nhà nghiên cứu và quan sát về Đài Loan, bản thân Jacobs cũng trở thành một phần lịch sử nước này. Ông là người trong cuộc của một số sự kiện bước ngoặt trong quá trình dân chủ hóa Đài Loan.

“Democratizing Taiwan” được xuất bản cách đây đã 10 năm, nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị tham khảo. Cuốn sách thậm chí còn có quá nhiều thông tin chi tiết mà chỉ những ai đặc biệt lưu tâm và theo dõi lịch sử chính trường Đài Loan mới thẩm thấu hết.

Các đối tượng độc giả khác nhau sẽ rút ra được một số điều riêng biệt từ công trình nghiên cứu và tổng hợp công phu này.

Với phần lớn độc giả Việt Nam, có ba bài học gần gũi đáng được nhắc đến.

Cùng dòng máu vẫn có thể là thực dân ngoại xâm

Bài học thứ nhất là việc tác giả dùng từ “chế độ thực dân” (colonial regime) để nói về hệ thống cai trị của Quốc Dân Đảng tại Đài Loan trước khi tình trạng thiết quân luật được bãi bỏ năm 1987.

Nhiều nhà nghiên cứu về Đài Loan nhận định lịch sử của Đài Loan là lịch sử của một vùng đất thuộc địa bị những kẻ ngoại xâm cai trị.

Từ thế kỷ 17, người bản địa Đài Loan lần lượt trải qua các chế độ thực dân của Hà Lan, Tây Ban Nha, gia tộc Trịnh Thành Công, triều đình Mãn Thanh, và sau đó là đế quốc Nhật Bản.

Năm 1945, sau khi kết thúc Thế Chiến II, Đài Loan quay về dưới sự kiểm soát của Trung Quốc – lúc này có tên gọi là Trung Hoa Dân Quốc, do Quốc Dân Đảng nắm quyền. Và năm 1949, sau khi thất trận ở đại lục, toàn bộ chính quyền Quốc Dân Đảng rút lui về Đài Loan để bảo toàn lực lượng.

Vào lúc này, phần lớn người Đài Loan đều có gốc Hoa do các đợt di cư từ ba thế kỷ trước. Cùng dòng máu, nên với người ngoài, ít ai nghĩ chế độ của Quốc Dân Đảng là thực dân hay sự tiếp nối lịch sử ngoại xâm của Đài.

Tuy nhiên, với nhiều dẫn chứng cụ thể, Jacobs chỉ ra chế độ của Quốc Dân Đảng tại Đài Loan có đầy đủ tính chất của một chế độ thực dân ngoại xâm.

Nó được xây dựng để phục vụ và bảo toàn quyền lực cho một nhóm thiểu số người đại lục (mainlander), những người Trung Quốc qua Đài Loan sau năm 1945, vốn chỉ chiếm chưa tới 15% dân số Đài Loan vào thời điểm trên.

Chính quyền Quốc Dân Đảng áp đặt một căn tính chung, dựa trên nhóm thiểu số đó, lên toàn bộ người dân Đài Loan, gốc Hoa lẫn bản địa. Nó phục vụ cho tham vọng quyền lực riêng của Quốc Dân Đảng, và tạo ra một cơn khủng hoảng căn tính dân tộc cho Đài Loan tới tận ngày nay.

Ngoài ra, giống như nhiều chế độ thực dân ngoại xâm khác, chính quyền Quốc Dân Đảng không e ngại dùng vũ lực để đàn áp đẫm máu những ai dám thách thức quyền lực độc tôn của họ.

Tác giả dẫn lại một câu nói được cho là cảm nhận của nhiều người Đài Loan vào thời điểm Quốc Dân Đảng vừa sang nắm quyền thay cho Nhật Bản: bọn chó (Nhật) đã tệ, bọn heo (Trung Quốc) còn tệ hơn.

Cởi trói không đồng nghĩa với dân chủ

Ngay chương đầu của sách, J. Bruce Jacobs đã đặt vấn đề về sự khác biệt giữa hai khái niệm “tự do hóa” (liberalization) và “dân chủ hóa” (democratization).

Theo Jacobs, các chính quyền độc tài trong một số trường hợp thực thi những chính sách cơi nới các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Họ thậm chí có thể cho phép các chính trị gia độc lập lẫn đối lập tham gia tranh cử. Nhưng mấu chốt là họ không bao giờ từ bỏ quyền lực tối thượng (ultimate control).

Những chính sách này được xem là “tự do hóa”, không phải “dân chủ hóa”.

Từ đầu thập niên 1970, Đài Loan đã trải qua ít nhất hai làn sóng tự do hóa. Tuy nhiên, dưới sự cầm quyền của Tưởng Giới Thạch và sau đó là con trai Tưởng Kinh Quốc, không có lực lượng nào được phép thách thức vai trò độc tôn của Quốc Dân Đảng.

Tác giả đề xuất một cách dịch khác của “liberalization”, phù hợp hơn với trường hợp của Đài Loan, đó là “cởi trói dần” (鬆綁化 – loosening restrictions).

Dưới góc độ này, Jacobs nhận định rằng Tưởng Kinh Quốc, dù được khen ngợi khi thực thi các chính sách cởi trói cho xã hội Đài Loan vào những năm cuối đời, vẫn không phải là nhân tố quyết định cho nền dân chủ của Đài Loan (vai trò đó thuộc về Lý Đăng Huy, người kế nhiệm sau khi Tưởng Kinh Quốc qua đời năm 1988).

Những thông tin về bối cảnh của Đài Loan trong sách sẽ giải thích vì sao tự do hóa/ cởi trói dần là không đủ và không thể giải quyết các vấn đề nhức nhối của xã hội nước này.

Dân chủ đầy khiếm khuyết, nhưng ai cũng có cơ hội công bằng

Những chính sách cởi trói vào cuối thập niên 1980 là tiền đề để Đài Loan có thể tiến hành dân chủ hóa một cách trọn vẹn và hòa bình, không đổ máu.

Nhưng dân chủ không phải là phần thưởng cuối cùng. Nó không phải viên thuốc thần kỳ giải quyết mọi vấn đề của xã hội. Nó cũng không tự động biến mỗi công dân thành những con người tốt đẹp hơn.

Thông qua những ghi chép tỉ mỉ chi tiết trong sách về từng cuộc bầu cử lớn nhỏ tại Đài Loan, người đọc không khỏi có ấn tượng về một sự lộn xộn và những tật xấu nhan nhản của chính trường nước này thời dân chủ.

Điểm khác biệt so với chế độ độc tài là các vấn đề này được công khai, và, trong rất nhiều trường hợp, dưới áp lực của cử tri, được sửa đổi và hoàn thiện liên tục.

Điều quan trọng nhất là dưới chế độ mới, mọi người đều có cơ hội công bằng để bảo vệ quyền lợi của mình.

Người đọc có thể thấy điều đó qua cách các đại biểu dân cử của những tộc người bản địa thiểu số, dù chỉ chiếm một tỷ lệ cực kỳ ít ỏi, vẫn có thể thương lượng điều đình với những đảng phái lớn để đạt được các thỏa thuận có lợi cho nhóm cử tri của mình.

Người đọc cũng có thể cảm nhận được điều đó qua cách người dân Đài Loan ngày càng chủ động tham gia sâu vào các hoạt động chính trị, từ việc bỏ phiếu ủng hộ các chính trị gia đến vận động gây áp lực buộc chính quyền phải thay đổi.

Và cơ hội công bằng không chỉ dành cho “người tốt”, ngay cả “kẻ xấu” một thời như Quốc Dân Đảng – thực dân/ ngoại xâm/ độc tài – vẫn có cơ hội như mọi đảng phái khác trong một thể chế dân chủ.

Năm 2000, Quốc Dân Đảng lần đầu tiên mất quyền lực vào tay Dân Tiến Đảng. Nhưng đến năm 2008, cử tri quyết định trao quyền lại cho họ.

Quốc Dân Đảng dù mất đi vị thế độc tôn của thời độc tài nhưng đổi lại, họ vẫn là một thế lực cạnh tranh bình đẳng với mọi nhóm chính đảng khác, và luôn có cơ hội giành được chính quyền nếu thuyết phục được các cử tri.

Được lợi lớn nhất là toàn bộ người dân Đài Loan.

Y.C.

Nguồn: Luật Khoa Tạp chí

Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

 Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

TGPSG / Aleteia — Tử nạn tại Paris cách đây 25 năm, ngày 31.8.1997, công nương Diana, còn được gọi là Lady Di, từng cất giữ một cách thành tín một tràng hạt Mân Côi mà Thánh Têrêsa Calcutta đã tặng cho Lady, và đã được người thân đặt vào quan tài của công nương.

CỖ TRÀNG HẠT QUÝ


Nhìn qua thì chẳng có gì có thể báo trước một tình bạn khắng khít giữa Công nương xứ Wales và Nữ Thánh thành Calcutta, nhưng thực ra thì hai người phụ nữ đó đã gắn kết với nhau bằng mối dây lo toan chung cho những người cùng khổ. Nghe tin Lady Di tử nạn, Mẹ Têrêsa đã gởi lời chia buồn, và nói về Diana rằng: “Cô ấy đúng là đã từng rất lo cho người nghèo. Cô rất mong được làm cái gì đó cho họ và điều đó thật là đẹp. Vì vậy, cô thật gần gũi với tôi.”

Vị nữ tu đã từ trần sau đó vài ngày, ngày 5.9.997. Hai tháng trước, tháng 6/1997, hai người đã gặp nhau ở New York.

Theo báo The Independent, Diana và Mẹ Têrêsa “đã bước đi, tay trong tay, trên đường phố khu Bronx, TP New York… Họ đã choàng tay nhau, ôm nhau và cùng nhau cầu nguyện khoảng 40 phút. Nhân dịp này, Mẹ Têrêsa đã chúc phúc cho công nương”. 
Mẹ Têrêsa có biết rằng cỗ tràng hạt mà Mẹ tặng cho Lady Di đã đồng hành cùng công nương đến nơi an nghỉ cuối cùng không?

Những giờ phút sau cái chết của vị công nương đã được tường thuật chi tiết trên tờ Daily Mail:

Đêm ngày 30 rạng sáng 31.8.1997, khi vị quản gia Paul Burrell của Diana từ cung điện Kensington, Luân Đôn, nhận được tin về cái chết  bi thảm của công nương, ông được lệnh phải đem mọi vật dụng mà Diana yêu thích nhất sang bệnh viện La Pitié-Salpêtrière ở Paris, nơi công nương được đưa tới. Lòng tan nát, ông đi vào căn hộ của Lady Di, “nhìn cái bàn làm việc của công nương trên đó có cây viết và một lọ mực, bên cạnh là tờ giấy ghi danh sách những từ ngữ vốn dùng để cải thiện vốn từ vựng của Lady. Ông cầm vội lấy một chuỗi hạt Mân Côi – mà Mẹ Têrêsa tặng cho công nương, treo trên một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh – và bỏ vào túi.”

Vừa đến bệnh viện, chính Colin Tebbutt, tài xế riêng của Diana, đã đưa cỗ tràng hạt cho một nữ điều dưỡng mà dặn rằng phải đặt nó vào tay công nương. Cũng được đặt trong quan tài của bà là một tấm ảnh 2 đứa con trai mà công nương vẫn giữ trong ví của mình.

LINH MỤC TUYÊN ÚY BỆNH VIỆN

Được gọi khẩn cấp đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, cha Yves-Marie Clochard Bossuet, với tư cách linh mục tuyên úy trực đêm 31.8.1997, đã canh thức 8 giờ liền cạnh thi thể của Lady Di.

Năm nay 73 tuổi, cha Bossuet chánh xứ Notre-Dame des Foyers ở Paris, Pháp, đã tâm tình cùng Aleteia về những ơn thiêng được ban xuống trong đêm đó.

Nhận cuộc gọi vào lúc 2 giờ sáng 31.8.1997, cha Yves-Marie Clochard Bossuet lúc đầu nghĩ đây là trò đùa. Nhưng viên trực ban của bệnh viện cứ gọi lại, nài nỉ và cuối cùng đã cho ngài biết danh tính của người mà ngài được mời đến bên: Lady Diana, Công nương xứ Wales, được đưa đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière trong tình trạng rất nặng, sau một tai nạn xe hơi trong đường hầm dưới cầu Alma, TP Paris. 

From: tao ngo & Kim Bang Nguyen

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Nghệ Lâm Hồng

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều xáo trộn trong cuộc sống, nhưng trước mắt cũng như trong tâm tưởng, mình vẫn còn hiển hiện nhiều hình ảnh xinh đẹp về con người xứ Huế hiền hòa và hình ảnh một Sài Gòn hoa lệ.

Bỗng dưng, cuối tháng 9/1975 tôi có mặt ở Hà Nội một thành phố chỉ có 3 màu: đen (áo quần công nhân và hầu hết dân chúng), xanh ô liu (bộ đội), và vàng (công an). Đại đa số dân chúng không biết gì về tiện nghi vật chất và rất ngờ nghệch về một cuộc sống hiện đại của miền Nam.

Tôi đến ở trọ một nhà người quen, buổi tối nấu nước tắm, bà cụ trong nhà mở rương ra lấy cho tôi một lát xà bông cục được gói mấy lớp giấy báo, họ bảo tôi là khách quý mới được mời dùng cái này. Vài lần tôi uống cà phê ở một cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Khu nhà tập thể Kim Liên. Một lần tôi yêu cầu ly cà phê sữa, cô bán phiếu xé cho 2 phiếu và tính tiền hai ly. Đó là ly cà phê đen và ly sữa nước sôi. Bà mậu dịch viên pha cà phê vào một ly rồi chế nước sôi vào ly sữa, xong đỗ ly cà phê vào ly sữa thành một ly cối to đùng.

Hôm sau tôi cũng mua cà phê sữa, nhưng tôi bảo đổ cà phê vào sữa, đừng đổ nước sôi vào, thế là bị một câu mắng chua lè: “Để tôi tự chế biến, không mượn ông góp ý”.

Một hôm tôi vào cửa hàng ăn uống trên đường Thanh Niên. Tôi yêu cầu cà phê sữa đá. Cô gái trẻ đứng tại quầy chanh chua: “Ông này buồn cười nhỉ. Sữa thì uống với nước sôi, làm gì uống với đá”. Thế là tôi đành phải uống một ly to đùng phối hợp 1 ly cà phê đen và 1 ly sữa nước sôi và phải trả tiền cho hai ly.

Tôi khá buồn cười với cái ngờ nghệch của họ. Ngay những người có vai vế trong xã hội cũng thế. Năm 1993, một đoàn gồm bốn nhà thơ rất nổi tiếng được tổ chức phản chiến William Joiner mời sang thăm trụ sở của họ tại Đại học Massachusetts, Boston, Hoa Kỳ. Hồi đó tôi đang học tại Đại học Simmons được mời đến nghe buổi trò chuyện. Giờ giải lao chúng tôi gặp riêng, một nhà thơ trong đoàn nói với chúng tôi rằng:

– Bọn Mỹ đối xử với bọn mình thật tốt, nhưng có một cái mình bất mãn là họ bố trí mình ở đâu cũng đặt máy nghe lén.

Tôi nói: Họ đặt máy nghe lén thì làm sao các anh biết được?.

– Họ đặt ngay giữa phòng trên trần nhà, chứ có dấu diếm gì đâu.

Tôi bật cười, thì ra đó là thiết bị báo cháy (smoke detector). Khổ thân cho bốn nhà thơ vĩ đại nước ta, mấy ngày qua không giám ăn nói gì hết, vì sợ bị nghe lén!.

Minh Nguyễn

Thiết bị nghe lén

15/09 Giáo Hội mừng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi-Cha Vương

 15/09 Giáo Hội mừng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi

Hôm nay 15/09 Giáo Hội mừng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi, ước mong bạn cảm nhận được sự an ủi của Mẹ trong lúc gặp thử thách.

Cha Vương

Thứ 5: 15/09/2022

TIN MỪNG: Ông Si-mê-on nói với bà Ma-ri-a: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải hư vong hay được cứu độ. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Phần bà, bà sẽ phải nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thấu.” (Lc 2:34-35)

SUY NIỆM: Hôm qua có một người bạn nói chuyện với mình về một người mẹ tự nhiên bỏ tất cả công việc bà đang làm, cầm vội cái bóp, và đi về. Khi được hỏi, “tại sao?” thì người mẹ trả lời một cách đau buồn, vì con của tôi đang ở trong phòng cấp cứu. Hoàn cảnh này làm mình liên tưởng đến ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi mà Giáo  hội mừng kính hôm nay, “Phần bà, bà sẽ phải nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thấu.” Đúng! Tình mẫu tử không một giấy viết nào có thể diễn tả hết được. Chính vì vậy mà Chúa đã dùng tình mẫu tử này để nói lên tình yêu cao cả của Thiên Chúa đối với nhân loại, “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.” (Is 66:13)

Dưới chân thập giá, Đức Mẹ với một nỗi niềm Đau Khổ khôn tả: “Hỡi những người qua đường, hãy nhìn xem! Có ai có nỗi thống khổ như tôi không? Tình mẫu tử cao cả tuôn trào bên chân Thánh Giá của Chúa Con. Mẹ đứng đó, cùng chịu đau khổ vô biên với Chúa Con, cùng hiệp dâng làm của Lễ Hy sinh để cứu chuộc nhân loại với sự đồng thuận trong Yêu thương.”

Trong xã hội ngày ngay có rất nhiều người mẹ đang đau khổ, họ là vấn nạn của những bất công, bạo hành, lạm dụng. Nếu bạn là người mẹ đang đau khổ vì con cái, vì chồng, vì gia đình, vì hoàn cảnh… Bạn hãy nhìn và chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Đau Khổ. Mẹ cảm thông với cái nặng nề đau đớn của bạn, hãy noi gương Mẹ và sống mạnh dạn trong đau khổ của mình, vì “ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.”

LẮNG NGHE: Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. (Hr 5:8-9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Đức Maria, Nữ Vương cả đất trời, Mẹ vẫn hiên ngang đứng vững gần bên thập giá Đức Kitô, xin Mẹ đỡ nâng con trong mọi biến cố hay đau khổ trong đời để con biết can đảm xin thưa hai chữ “xin vâng”, xin dạy con biết thầm lặng gẫm suy và thực thi Thánh Ý Chúa mỗi ngày để được thưởng cùng với Mẹ trên nước thiên đàng.

THỰC HÀNH: Dù người mẹ của mình con sống hay đã khuất núi, mời bạn suy tư về người mẹ qua câu này: “Mẹ có thể chưa bao giờ nói yêu bạn, thương bạn, nhưng mẹ sẽ là người làm tất cả để bạn được sống một cuộc sống tốt nhất và hạnh phúc nhất.”

Vì vậy hãy thể hiện những cử chỉ yêu thương mẹ mình mỗi ngày qua lời cầu nguyện hoặc bằng những hành động cụ thể bạn nhé.

From: Đỗ Dzũng

Lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu (14 tháng 09)-Cha Vương

Lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu (14 tháng 09)

Xin Chúa gìn giữ bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi nhé. Hãy bảo trọng!

Cha Vương

Thứ 4: 14/09/2022

Mỗi ngày 14 tháng 9 hàng năm, chúng ta nói lên sự biết ơn và lòng yêu mến Ðức Giêsu qua sự tôn trọng thập giá. Trước đây, thập giá từng là biểu hiệu của sự tủi hổ. Các tử tội được chết chém đó là một ân huệ, vì được miễn cho sự nhục nhã khi bị treo trên thập giá. Ðức Giêsu đã thi hành mọi sự để đem lại sự cứu độ cho chúng ta. Ngài đã chấp nhận sự đau khổ thập giá. Ðau khổ dẫn đến tủi nhục.

Thập giá trở nên dấu hiệu thiêng liêng của Kitô Giáo. Khi thập giá có mang tượng Ðức Giêsu, thập giá đó trở thành thánh giá. Chúng ta treo thánh giá trong nhà hay đeo trên người để nhắc nhở rằng, vì chúng ta mà Ðức Giêsu đã phải hy sinh.

Trong nhiều thế kỷ, di tích của cây thập giá đích thực được Kitô Hữu quý trọng. Người ta tin rằng vào năm 629, dưới thời Hoàng đế Herachius I, những người Ba Tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của Thánh Giá thật mà thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại thánh giá này. Ngài cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của vua đã được Chúa chấp nhận. Ngài đã đánh bại được quân Ba Tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành olive, những ngọn đuốc cháy sáng, thánh giá thật của Chúa đã được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề vui sướng muốn trở về Giêrusalem với thánh giá này sau 14 năm lưu lạc. Nhà vua long trọng tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zachachie hô lớn: “Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng đáng với cảnh nghèo nàn và khiêm nhượng của Chúa Giêsu khi vác thánh giá”. Hérachius vội cởi bỏ mọi phẩm phục sang trọng và thay vào bằng bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng… và để tỏ ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.

Từ đó, lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhớ cho các thế hệ kỷ niệm này. Nhưng trước cả thời gian đó, Kitô Hữu đã tôn kính và quý trọng thập giá và lễ Suy Tôn Thánh Giá được các Kitô Hữu tại Rome cử hành từ cuối thế kỷ thứ 7.

Chữ “thập giá” cũng có nghĩa những đau khổ trên đường đời. Khi chúng ta kiên nhẫn và vui lòng chấp nhận đau khổ như Ðức Giêsu đã chấp nhận thập giá của Ngài, chúng ta sẽ trở nên “người vác thập giá” như Ðức Giêsu Kitô. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Hôm nay mời bạn bỏ ra mấy phút suy niệm trước Thánh Giá là nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, bạn hãy đặt tất cả những gánh nặng cuộc đời vào lòng xót thương và sự quan phòng của Chúa.

From: Đỗ Dzũng

“Dừng hút thuốc ở khắp nơi đi…”

“Dừng hút thuốc ở khắp nơi đi…”

13-9-2022

Tôi muốn dành bài phát biểu này cho những người đã dũng cảm đứng vững trong 200 ngày, vì đó chính là lý do Ukraine đứng vững – Tổng thống Volodymyr Zelenskyy phát biểu vào ngày 11/9.

Nataliya Zhynkina

Dưới đây là bài phát biểu của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy vào ngày 11/9, đúng 200 ngày quân đội Ukraike chiến đấu chống quân Nga xâm lược. Bài dịch được bà Nataliya Zhynkina – Đại biện lâm thời Ukraine tại Việt Nam đưa lên trang Facebook.

Tiếng Dân

Người dân Ukraine thân mến!

Hôm nay tròn 200 ngày kháng chiến của chúng ta, cuộc đấu tranh của chúng ta, cuộc chiến tranh của nhân dân chúng ta vì tự do, vì độc lập, vì lẽ phải. Trong 200 ngày qua, chúng ta đã đạt được rất nhiều nhưng điều quan trọng nhất, và khó khăn nhất, vẫn đang ở phía trước. Và tôi muốn dành bài phát biểu này hướng tới những người đang ở phía trước và những ai đang gặp khó khăn nhất lúc này, bởi vì họ đang làm điều quan trọng nhất.

Tất cả họ đều là những người bảo vệ Ukraine. Tất cả họ đã can đảm đứng vững trong 200 ngày, đó chính là lý do Ukraine vẫn đang đứng vững. Tất cả là những người mạnh mẽ thế nên chúng ta là những người tự do. Tất cả là những người bất khuất thế nên chúng ta là những người độc lập. Các chiến sĩ của chúng ta, những người đã anh dũng chống lại kẻ thù và giờ đây họ đang không kìm nén mình. Và họ đang đánh đuổi những kẻ chiếm đóng ở phía bắc, phía nam và phía đông. Ở mọi hướng nhưng chỉ di chuyển theo một hướng – tiến lên phía trước và hướng tới chiến thắng.

200 ngày kháng chiến của Ukraine. Gần 5 nghìn giờ. Gần 300 nghìn phút. Gần 20 triệu giây. Và có biết bao nhiêu lý do để nói “lời cảm ơn” ngày hôm nay với tất cả những người mà nhờ họ điều này đã thành hiện thực. Hàng triệu lần. Không có bất kỳ từ “gần như” nào. Để nói rằng chúng ta tin ở họ, tin vào chiến thắng của họ. Không có bất kỳ từ “gần như” nào.

Đó là tất cả những chiến binh của chúng ta, của Lực lượng vũ trang Ukraine.

Lực lượng lục quân, bộ binh của chúng ta. Các bạn hiểu rõ hơn ai hết: có rất ít sự lãng mạn trong chiến tranh và rất nhiều công việc khó khăn. Ngày nay, các lữ đoàn cơ giới hóa biệt lập của chúng ta đang thực hiện công việc này một cách dũng cảm và quên mình. Lữ đoàn 92 – được đặt theo tên của Kish Otaman [thủ lĩnh] Ivan Sirko. Lữ đoàn 54 – được đặt theo tên của Hetman Ivan Mazepa. Lữ đoàn 14 – được đặt theo tên của Hoàng tử Roman Đại đế. Lữ đoàn bộ binh biệt kích 60 Inhulets. Từng bước một tại vùng Kharkiv, vùng Kherson, Donbas, với vũ khí, cuốc xẻng, đôi bàn tay, hàm răng – các bạn đang “gặm nhấm” từng mét đất, từng phòng tuyến, từng thành phố và làng mạc của chúng ta.

Đó là những người lính tăng của chúng ta. Những người rèn nên chiến thắng tương lai bằng găng tay sắt. Và hôm nay đã trở thành ngày lễ của binh chủng. Đó là các lữ đoàn tăng biệt lập 3, 4, 5, các trung đoàn và các tiểu đoàn tăng, các đại đội tăng trong thành phần lực lượng đổ bộ đường không, lữ đoàn xe tăng biệt lập Kryvyi Rih số 17 được đặt theo tên của Kostiantyn Pestushko. Và đặc biệt – lữ đoàn tăng biệt lập Siversk số 1. Tôi xin chân thành chúc mừng tất cả các bạn và tất cả những người liên quan nhân Ngày lễ của lính tăng.

Đó là lính tên lửa và pháo binh của chúng ta. Các bạn được gọi một cách chính xác là “những vị thần của cuộc chiến”. Các bạn đang đưa những kẻ chiếm đóng đến phiên tòa thánh thần. Các bạn đang đưa những con quỷ trở lại địa ngục. Ngày nay, lữ đoàn pháo binh biệt lập 406 được đặt theo tên của lữ đoàn trưởng, thiếu tướng Oleksiy Almazov đang thực hiện công việc này với sự nhiệt thành đặc biệt và ánh lửa trong mắt họ. Chúng tôi biết ơn các chiến binh của lữ đoàn và nói chung với tất cả những người mà chúng tôi nồng nhiệt gọi là “pháo thủ của chúng tôi”.

Làm thế nào để một người mô tả được công việc tinh vi của bạn trong hai từ? Chuẩn xác và vang dội. Chúng tôi cảm ơn bạn vì mỗi sự “chuẩn xác” và mỗi sự “vang dội”, vì tất cả các đoàn xe, kho, căn cứ và sở chỉ huy của địch bị phá hủy. Các giao lộ và cầu đường trọng yếu, nơi bị bắn cháy bởi những nỗ lực của các bạn và nơi đối phương vi phạm nội quy an toàn phòng cháy chữa cháy. Người dân và cư dân mạng đều mong bạn tính toán chính xác và có những cú đánh trúng mục tiêu mới và họ nói với những kẻ chiếm đóng bằng ngôn từ dễ hiểu: “Dừng hút thuốc ở khắp nơi đi. Hãy hút thuốc ở nơi chưa bị bắn trúng ấy”.

Đó là Lực lượng Không quân của chúng ta. Ném bom, cường kích, tiêm kích, do thám, vận tải quân sự hàng không. Các bạn luôn ở trên tầng cao khi bảo vệ Ukraine.

Đó là các lực lượng đổ bộ đường không của chúng ta. Các bạn luôn là những người đầu tiên! Bởi không phải ai khác ngoài các bạn! Những khẩu hiệu này không chỉ là lời nói. Kẻ thù đã nhận thức được điều này trong tám năm và 200 ngày. Và ngày nay, những kẻ chiếm đóng đặc biệt cảm nhận được sức mạnh và sự vững chắc của lữ đoàn đổ bộ đường không 79, lữ đoàn 25 và 80. Đặc biệt, vùng Kharkiv, nơi các bạn đang giải phóng thành công khỏi quân thù. Và ở vùng Donetsk, nơi các bạn đang đẩy lùi thành công kẻ thù.

Chúng tôi chắc chắn rằng: cả ở đây và ở đó sẽ có một trận kết – chiến thắng của các bạn. Để đạt được điều này, các bạn không cần phải đọc bản dự báo, chỉ cần đọc lời tuyên thệ của các bạn là đủ. Các bạn là lính dù của Lực lượng vũ trang Ukraine. Các bạn sẽ không bao giờ chấp nhận thất bại. Các bạn sẽ không bao giờ lùi bước khi đối mặt với khó khăn. Các bạn sẽ không bao giờ để một đồng đội gặp nguy hiểm. Các bạn luôn sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù của Ukraine trong trận chiến. Các bạn là lính dù của Lực lượng vũ trang Ukraine!

Đó là Lực lượng Hải quân của chúng ta. Các bạn đã chứng minh rằng hạm đội nào của kẻ thù, chỉ huy hạm nào của chúng đều không quan trọng một khi Neptune – Hải Vương Tinh ở bên bạn. Những người bảo vệ bờ biển quê hương. Tàu hộ vệ tên lửa, tàu pháo, tàu quét mìn, hàng không hải quân, pháo binh hải quân và tất nhiên là cả lính thủy đánh bộ. Và tôi đặc biệt muốn lưu ý đến tiểu đoàn biệt lập 503 lính thủy đánh bộ. Trên phù hiệu của bạn có dòng chữ: “Nếu tấn công – thì có chúng tôi”. Trong trái tim của chúng ta luôn là câu nói: “nếu là các bạn – thì luôn là thành công và chiến thắng”.

Đó là lực lượng phòng không của Ucraine. Binh chủng tên lửa phòng không, binh chủng kỹ thuật vô tuyến điện, lực lượng phòng không trên bộ và Hải quân. Bạn nghe thấy cảnh báo không kích khác với đa số mọi người. Hầu hết mọi người xuống hầm trú ẩn. Còn các bạn thì hướng ánh mắt của mình lên phía trên để tiêu diệt tên lửa, máy bay, trực thăng và máy bay không người lái của đối phương.

Đó là lực lượng trinh sát tình báo của chúng ta. Vì những lý do dễ hiểu, rất ít người biết tên các bạn, khuôn mặt của các bạn. Các hoạt động của các bạn thường không được viết trong các bản tin, nhưng chúng chắc chắn sẽ được viết trong các giáo trình khoa học quân sự. Những chiến công của các bạn thường thầm lặng và khó nhận thấy đối với người dân của chúng ta nhưng luôn gây đau đớn và đáng kể đối với kẻ thù của chúng ta.

Ngày nay, các sĩ quan tình báo đang thể hiện mình một cách đặc biệt. Tiểu đoàn trinh sát biệt lập 131 của tình báo quân sự Ukraine. Những người luôn đi trước. Tôi cảm ơn các bạn, tôi cảm ơn tất cả các đơn vị của Tổng cục Tình báo và tất cả các sĩ quan tình báo của chúng ta, nhờ họ mà chúng ta luôn thấy, luôn nghe, luôn biết, luôn hành động. Và chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng.

Đó là những người lính đặc nhiệm của chúng ta, Lực lượng Tác chiến đặc biệt. Họ là những người tấn công. Những người chiếm ưu thế không phải ở số lượng, mà ở chất lượng. Những người có một sức mạnh đặc biệt để chiến đấu ở ranh giới có thể và không thể.

Đó là các lực lượng phòng vệ lãnh thổ. Và chúng tôi đặc biệt lưu ý đến các chiến sĩ của lữ đoàn phòng vệ lãnh thổ biệt lập số 115 và 117.

Đó là những quân y đang cứu sống các chiến sĩ của chúng ta. Đó là những tăng lữ quân đội, những giáo sĩ, những người cầu nguyện cho cuộc sống của các chiến sĩ của chúng ta. Đó là những kỹ sư, sĩ quan thông tin liên lạc, không gian mạng quân sự của chúng ta.

Đó là những người đã bảo vệ và phụng sự quốc gia sát cánh cùng Lực lượng vũ trang Ucraine trong 8 năm, trong 200 ngày và hiện nay. Tôi cảm ơn tất cả các chiến binh của Vệ binh Quốc gia, các lực lượng đặc biệt của Vệ binh quốc gia, đặc biệt là trung đoàn 15 Sloviansk. Tôi cảm ơn tất cả những người lính biên phòng của chúng ta, các sĩ quan và nhân viên của Cơ quan An ninh Ukraine, Cảnh sát Quốc gia, Cơ quan Tình trạng khẩn cấp nhà nước, các nhân viên cứu hỏa, cứu hộ, công binh của chúng ta. Và nói chung – gửi đến tất cả các chiến binh, những người bảo vệ của chúng ta, những người con trai và con gái tốt nhất của Ukraine, những người đang giải phóng miền bắc, miền nam và miền đông của Ukraine ngày nay.

Gửi đến tất cả những ai trong 200 ngày qua đã tiêu diệt hơn 2.000 xe tăng địch, 4.500 xe bọc thép chiến đấu, hơn 1.000 hệ thống pháo của địch, 250 máy bay và 200 trực thăng, gần 1.000 máy bay không người lái, 15 tàu và thuyền, hàng nghìn đơn vị thiết bị khác của địch.

Họ đã giải phóng hàng trăm thị trấn và làng mạc của chúng ta. Những ai đã phá vỡ kế hoạch của kẻ thù, chính là những người không thể bị phá vỡ. Tất cả những ai đã giữ vững phòng thủ và bảo vệ Kyiv, bảo vệ thủ đô của chúng ta, nghĩa là họ đã bảo vệ niềm tin của chúng ta vào chiến thắng của chúng ta.

Với việc bảo vệ Kharkiv, Mykolaiv, Chernihiv, Odesa, Zaporizhzhia, Dnipro, tất cả đã củng cố và nhân lên niềm tin. Tất cả những ai bảo vệ Mariupol và Azovstal, là những người giải phóng vùng Kyiv, vùng Zhytomyr, vùng Chernihiv, vùng Sumy. Bucha, Irpin, Borodyanka, Vorzel, Hostomel, Makariv. Okhtyrka, Sumy và bây giờ – Balakliya, Izyum, Kupyansk.

Tất cả những ai đã giải phóng, đang giải phóng và sẽ giải phóng tất cả các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm của Ukraine. Mang cờ Ukraine trở lại Kherson, Berdyansk, Melitopol, Luhansk, Horlivka, Yenakijeve, Mariupol và Donetsk, Yalta, Dzhankoy, Kerch, Yevpatoriya, Simferopol, là những người đã làm việc bằng 200% trong suốt 200 ngày qua.

Kẻ thù nói rằng họ bị lạc lối, rằng họ đang đi tập trận. Các bạn đã dạy họ rất nhiều. Biết đóng gói và cuốn xéo nhanh chóng rời khỏi vùng đất của chúng ta và hiểu rằng, chỉ bằng cách từ bỏ thiết bị và vũ khí thì mới có thể hành động nhanh hơn và dễ dàng hơn nhiều.

Nhiều người trong số họ đã lĩnh hội được rằng việc nói đúng không phải là “trên Ukraine” mà là “ở tại Ukraine”. Tôi đang nói về tất cả những người đã đặt chân lên mảnh đất của chúng ta và ở lại đó. Nhiều người ghi nhớ mãi những gì đang chờ đợi tất cả những vị khách không mời ở Ukraine. Đó là những chiến binh của chúng ta.

Ngày nay, mọi người đều nhìn thấy và ghi nhớ hành động của các bạn ở phía bắc, nam và đông Ukraine. Thế giới rất ấn tượng. Kẻ thù đang hoảng loạn. Ukraine tự hào về các bạn, tin tưởng vào các bạn, cầu nguyện cho các bạn và đang chờ đợi các bạn.

Con đường dẫn đến chiến thắng là một con đường khó khăn. Nhưng chúng ta chắc chắn rằng: các bạn có khả năng làm được điều đó. Các bạn sẽ đến biên giới của chúng ta, tất cả phần đất của chúng ta. Bạn sẽ thấy biên giới của chúng ta và lưng của kẻ thù. Bạn sẽ thấy ánh mắt của người dân của chúng ta sáng ngời và gót chân của những kẻ chiếm đóng. Người ta sẽ gọi đó là “những cử chỉ thiện chí”. Chúng ta sẽ gọi đó là một chiến thắng.

Chúng tôi tin tưởng vào các bạn, vào những người đã và đang làm công việc của mình, không tiếc mạng sống, bảo vệ đất nước trong suốt 200 ngày qua dù nhiệt độ -15°C hay + 35°C, lúc 2 giờ sáng hay 6 giờ sáng, vào thứ hai bình thường hay vào ngày Ngày lễ Độc lập, bất chấp mệt mỏi, căng thẳng và nguy hiểm.

Tất cả những người chắc chắn đã sẵn sàng, những người chẳng để ý đến những lời đồn thổi và đàm tiếu. Những người không đọc tin giả trên mạng mà viết lịch sử trong đời thực. Lịch sử của nền độc lập. Lịch sử của chiến thắng. Lịch sử của Ukraine. Các chiến binh của chúng ta, các chiến sĩ của chúng ta, những người bảo vệ của chúng ta. Đối với chúng tôi, các bạn chắc chắn là đội quân đầu tiên của thế giới.

Vinh quang cho các bạn!

Vinh quang cho Ukraine!

NguồnFB Nataliya Zhynkina

Xem thêm bản tin mới:

httpv://www.youtube.com/watch?v=23L0XY5kGSU&t=3s

Quá tốt: Tuyệt vọng, chỉ huy Nga ở Kherson ra lệnh cho binh sĩ ngưng bắn, điều đình xin đầu hàng

Trường Học Trường Ðời – Gs. Nguyễn Văn Tương

Bang Uong

Trường Học Trường Ðời

Gs. Nguyễn Văn Tương

Kính Thưa Quý Anh Chị,

Nhân được tin buồn Cố Gs. Nguyễn Văn Tương vừa từ trần, kính gởi đến Quý Anh Chị vài đoạn trích trong cuốn Hồi Ký 2 ” Trường Học Trường Ðời”

để Quý Anh Chị biết thêm chi tiết về sinh hoạt của Cố Giáo Sư sau khi định cư tại Pháp Quốc.

Thân kính,

NT Hà

TIỂU SỬ : NGUYỄN VĂN TƯƠNG (1929 – 2022)

Sinh quán làng Tân hựu Ðông, quận Châu Thành, tỉnh Sa đéc. Con thứ trong một gia đình có 9 Anh Chị em.

  • Cựu học sinh trường Chasseloup-Laubat-Saigon (1951)
  • Tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức (1952)
  • Cử Nhân Luật (1955), Cao Học Công Pháp (1960)
  • Tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa ban Công Pháp (1965)
  • Cựu Giáo sư Công Pháp tại Học viện Quốc gia Hành Chánh Sài Gòn – các trường Ðại Học Luật tại Sài Gòn , Huế – Phân Khoa Luật của Ðại Học Paris, Poitiers, Brest & Angers
  • Tham gia các chính phủ Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Lộc

Sau 30 tháng 4, 1975 đi cải tạo từ 1975 đến 1981 Ðịnh cư tại Pháp từ 1983 đến nay.

DẠY HỌC TẠI PHÁP (trang 65..)

…Gia đình tôi sang Pháp ngày 08 tháng 07 năm 1983. Lúc bấy giờ nhà tôi 48 tuổi, còn tôi 54 tuổi. Già thì không già lắm, mà trẻ thì không còn trẻ nữa, Hành lý là những vali quần áo cũ, nồi niêu xoong chảo vợ tôi gói ghém đem theo. Lúc tôi đi cải tạo vợ tôi thuê người đem đổ xuống sông Thị Nghè tất cả hàng trăm sách của thư viện cá nhân tôi, kể cả mấy quyển luận án tiến sĩ của tôi. Trước ngày đi Pháp tôi có đến trường luật xin lại một bổn luận án đem theo. Chủ mới cho biết đã bán hết sách của thư viện cho bọn tàu Chợ-lớn . Cũng may là nhà tôi còn giữ một số giấy tờ của tôi, như bằng cấp, Nghị định bổ nhiệm.

Người ta thường nói “Trời sanh voi sanh cỏ”, ngặt vì mình không phải là voi làm sao ăn cỏ được. Các con lớn của tôi có báo tin cho nhiều gia đình quen Pháp lẫn Việt, nhờ họ giúp đỡ lúc ban đầu. Thêm vào đó có sở xã hội và các đoàn thể địa phương cứu trợ trong lúc tìm việc làm. Tôi viết thư cho toàn thể các Khoa trưởng trường luật tại Pháp và hải ngoại để xin một chỗ dạy, kèm theo tiểu sử ngắn gọn và Nghị định bổ nhiệm dịch ra tiếng Pháp. Lúc ấy vào khoảng bãi trường nên chậm có thư trả lời. Qua tháng 9 năm ấy mới có thư hồi đáp, nhưng là thư khước từ vì quá trễ cho năm 1983 . Chủ sở trợ cấp thất nghiệp ở Rambouillet yêu cầu tôi cho biết đã có vận động gì trong mấy tháng qua. Khi tôi trình cho xem một sắp thư trả lời từ chối thì mới thấy tôi quả có thiện chí tìm việc.

Bao giờ cũng vậy trong cái rủi có cái may. Trường đại học Panthéon-Sorbonne yêu cầu tôi trình bày cho Ban Cử nhân Công Pháp trước cuối năm đề tài ” Nền ngoại giao của Nhật bổn và nền ngoại giao của Trung Quốc”. Là người Á châu từng theo dõi thời cuộc trong mấy chục năm qua, tôi chuẩn bị dễ dàng hai đề tài ấy với tài liệu phong phú của một người bạn Pháp. Phải nói rằng tôi đã nhờ giáo sư Vũ Quốc Thúc cố vấn tôi rất nhiều…

… Bỗng dưng có Khoa trưởng trường luật Poitiers, phía Tây Nam Paris, đề nghị tôi nhận trình bày trong 6 tháng cho lớp hậu Cử nhân về đề tài “Vấn đề phát triển dân chủ tại các nước Á châu”. Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi nhận lời ngay mà không ngờ đã phóng lao mình phải theo lao. Ông Khoa trưởng nói rõ môn này sẽ không được đưa ra thi cuối năm, không thể làm khác hơn vì phải tôn trọng nội quy của trường. Làm sao giữ nổi sinh viên hậu Cử nhân (tức sau 3 năm đại học) trong 6 tháng, trừ phi cao tăng giảng kinh xuất chúng!

Than ôi tôi chỉ là một giáo sư thất nghiệp đi tìm việc, chớ nào phải là cao tăng đâu! Nghĩ cho cùng ban giảng huấn các đại học đã có lòng cứu vãn đồng nghiệp sa cơ vậy thôi! Tôi căn cứ vào luận án tiến sĩ của tôi trình bày vấn đề đặt ra. Chỉ tiếc là thiếu một họa đồ để tiện vị trí hóa các nước, dầu là sinh viên trình độ đại học cũng chưa biết nước nào ở đâu ? Chính tại quốc hội pháp một dân biểu tên tuổi còn nói rằng Nhật bổn ở Nam bán cầu! Mọi việc đều có kết thúc. Khởi sự bài giảng hiện diện khoảng 40 sinh viên, chấm dứt còn phân nửa! Ông Khoa trưởng mừng cho tôi còn giữ được đệ tử! Nhóm sinh viên này còn mời tôi một bữa cơm trưa tại quán ăn tàu ở Poitiers…

… Gia đình tôi trọ trong một căn phòng chung cư tại thành phố Rambouillet. Có sở xã hội và các bà phước cho chút ít bàn ghế, tủ giường, quần áo cũ. Tôi làm đơn xin việc, vợ tôi nấu ăn dã chiến. May mà lúc ấy nhằm mùa hè ấm áp, chớ chưa phải mùa đông lạnh buốt. Các con nhỏ đi học mà ban đầu chẳng biết một chữ tiếng Pháp. Vậy mà nhờ ơn trời phật gia đình dần dần cũng gỡ rối được. Như con thuyền không bến của Ðặng Thế Phong rồi cũng tạm có bến đậu.

Ðó là trường luật đại học Brest, vùng Bretagne tận cùng phía Tây nước Pháp. Tôi biết ơn giáo sư Nguyễn Quốc Vinh đã hết lòng giúp đỡ tôi, có thể vì tình đồng bào cũng như vì nghĩa đồng nghiệp. Tôi xin được giới thiệu ân nhân trẻ của tôi. Ðó là con trai của giáo sư Nguyễn Quốc Ðịnh, gốc người Nam Ðịnh, trước giảng dạy tại Viện Ðại học Pathéon-Sorbonne Paris. Giáo sư Ðịnh là tác giả quyển sách nổi danh ”Droit Public International” (Luật Quốc Tế Công Pháp), tám lần tái bản, đâu đâu cũng dùng, một thời kiêm nhiệm Ðại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Unesco. Giáo sư Vinh ân cần chỉ dẫn tôi lập hồ sơ xin cộng tác với Ðại học Luật khoa Brest. Ông Vinh lúc ấy là giáo sư Công pháp, phó khoa trưởng rồi lên khoa trưởng rất có uy tín ở đây. Sau này giáo sư Vinh đỗ thạc sĩ về dạy ở viện đại học Maine tại Le Mans, cách Paris hơn 200 cây số về hướng Tây, rồi được bổ nhiệm làm phó Viện trưởng đại học này.

Trong lúc chờ đợi quyết định của Hội đồng Giáo sư địa phương rồi Hội đồng Giáo sư Paris, tôi được sắp xếp dạy môn Ðịa dư kinh tế năm thứ hai Ban Cử nhân, thù lao lấy trên tài khoản liên khóa 1982-83. Môn này liên quan đến các nguồn tài nguyên kinh tế thiết yếu trên thế giới, các hệ thống chuyển vận liên lục địa đường bộ, hàng không, hàng hải, ít có giảng dạy tại các phân khoa đại học khác. Sau đó Hội đồng Giáo sư Paris chấp thuận cho tôi dạy tại trường Luật khoa Brest về các môn Công pháp thù lao theo mức lương giáo sư thực thụ, qua sự chấp thuận ngân khoản thường niên .

Tôi phụ trách nhiều môn Luật hành chánh, Tố tụng hành chánh, Công pháp kinh tế, Hành chánh địa phương đối chiếu, miễn đủ số giờ ấn định cho cấp giáo sư. Tôi cộng tác với trường Luật khoa Brest từ năm 1983-84 đến năm 1992- 93. Trong thời gian ấy tôi còn lãnh dạy thêm ở viện đại học Maine-et-Loire, miền Tây Nam Paris, thủ phủ là thành phố Angers về môn Thuế vụ và Hành chánh địa phương là một môn tôi rất thích bởi có nhiều điểm tâm lý xã hội liên quan đến nền văn minh nước Pháp là nước đang mở rộng vòng tay cứu giúp gia đình tôi…

LÀM NHÀ HÀNG Ở PHÁP

Khi còn ở với cha mẹ cũng như khi đã lập gia đình, không có lúc nào vợ tôi nghĩ đến việc nấu ăn bởi lúc nhỏ lo đi học, lúc lớn lên lo đi làm việc. Nhưng một khi đã qua đất Pháp vợ tôi phải nghĩ đến sinh kế gia đình. Phải làm nghề gì kiếm sống để phụ giúp chồng nuôi con nhỏ dại. Do đó vào năm 1990 chúng tôi vay tiền ngân hàng mở nhà hàng cơm Việt Nam ở Chalon-sur-Saône, tỉnh Saône-et-Lorie, vùng Bourgogne, cách Paris hơn 400 cây số ngàn về phía Nam.

Do một người cậu vợ tôi sang lại, nhà hàng tọa lạc ngay trước ga hỏa xa, đi hướng Bắc là về Paris, còn đi hướng Nam là đi Marseille. Vợ tôi học ôn cấp tốc các bài nấu ăn thịt bò, thịt heo, tôm kho, chả giò, gỏi cuốn, cách làm nước sauce. Tại phòng ăn có thuê người chạy bàn, biết pha rượu, nước ngọt. tính tiền. Nhà hàng đắt khách qua bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng những khách tại địa phương còn khách từ Bắc Âu đi Vùng Ðịa Trung Hải, khách từ Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha đi lên miền Bắc Âu.

Những lần đi dạy về tôi chịu khó ghé Paris mua sắm các món cần dùng đem về nhà hàng. Những ngày nhà hàng nghỉ bán tôi chở nhà tôi đi Lyon miền Nam bổ túc các thứ cần dùng như gạo, nước mắm. Ðó là thú vui chạy xe theo xa lộ mặt trời, qua những vùng đồng quê, với những tháp chuông nhà thờ cao nhất từng xanh, ghé qua những nhà dừng chân dọc theo xa lộ, ngắm cảnh để nhớ đồng quê cỏ bay thẳng cánh hồi trước của mình. Chúng tôi đã có dịp bách bộ từ nhà hàng đến bờ sông Saône ngồi trên bờ cẩn đá ngắm dòng nước chảy, xem cánh chim bay trên nền trời xanh biếc mà nhớ Sông Tiền Sông Hậu bên nhà. Biết bao giờ mình trở về hay là gửi lắm xương tàn trên đất Pháp này?

Việc gì cũng đến chỗ kết thúc. Các con tôi sau khi thi đỗ tú tài ước ao được về vùng Paris học có nhiều chọn lựa hơn. Vợ chồng tôi sang gấp nhà hàng cơm về tậu nhà vùng Essonne, phía nam thủ đô Paris để các con có điều kiện theo học Ðại học. Giờ này đây các con đã thành gia thất, có nghề nghiệp sinh sống. Nguyễn Thị Kim Oanh, bào chế dược viên, Nguyễn Thị Kim Phượng, Tiến sĩ dược khoa, Nguyễn Thị Kim Loan, quang học viên, Nguyễn Thị Phương Thảo, Tài Chánh kế toán viên, Nguyễn Trung Chánh, kỹ sư Tin học, Nguyễn Thị Thanh Nga, y khoa Bác sĩ. Còn vợ chồng tôi xin hưởng hưu bổng, ít nhiều gì cũng được miễn sống cần kiệm là đủ. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, đó là sự thật muôn đời ở đâu cũng vậy thôi !

KẾT LUẬN

Tại sao tôi để tựa quyển sách mỏng này ” Trường học Trường đời “. Tôi học ở trường rất nhiều, từ lớp 5 Trường làng, lấy bằng tiểu học ở trường tỉnh Sa Ðéc, bằng trung học ở Mỹ Tho, bằng tú tài, bằng cử nhân, bằng tiến sĩ ở Sài Gòn, mong giúp ích xứ sở, giúp đỡ cha mẹ, anh em, các con. Từ trường làng Tân-hựu-Ðông đến Viện đại học Panthéon Sorbornne Paris con đường xa thăm thẳm, phải trải qua Mấy Dặm Sơn Khê. Ðã học nhiều ở trường học, tôi học càng nhiều hơn nữa ở trường đời, cho đến lúc nghiễm nhiên lãnh trách nhiệm góp phần xây dựng nền Ðệ Nhị Cộng hòa miền Nam, rồi bị đưa vào trại tù cải tạo, ăn cơm trộn đá sạn, để nằm gai nếm mật, tưởng chừng như giấc chiêm bao! May mà có nước Pháp ra tay cứu giúp trong cơn phong ba bão táp dập vùi!

Tôi xin độc giả hãy cùng tôi xem lại mấy dòng này của nhà văn Nguyễn Khắc Hiếu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của giáo sư Dương Quảng Hàm: “Người ta ở trong đời khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên xuống xuống như cây thụt máy tàu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giàu, nhà tranh vách đất chưa là nghèo, võng lọng ngựa xe chưa là vinh , xiềng xích gông cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ làm cho ta đương mừng hóa lo, đương buồn hóa sướng, say mê chìm đắm khóc hão thương hoài.”

Mùa đông Kỷ Hợi 2019 Les Ulis 91940 FRANCE

NGUYỄN VĂN TƯƠNG

BIỂU TƯỢNG CỦA BÌNH AN VÀ HY VỌNG-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

BIỂU TƯỢNG CỦA BÌNH AN VÀ HY VỌNG

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

Ngày 14, Tháng 9
SUY TÔN THÁNH GIÁ
Lễ Kính

“Con Người phải được treo lên!”.

Sau Phục Sinh, cô giáo Bitram mang những chiếc hộp hình quả trứng làm quà cho học sinh; mỗi em được yêu cầu ra ngoài, tìm một biểu tượng nào đó cho ‘cuộc sống mới’, đặt nó vào hộp. Nửa giờ sau, từng chiếc hộp được mở ra. Nào hoa, nào bọ, bướm, kiến, lá…; cả lớp ồ lên sung sướng. Bỗng, có một chiếc trống rỗng! Có tiếng la, “Ngu ngốc!”. Philip, mắc hội chứng Down, lên tiếng, “Nó là của tôi!”. Bọn trẻ nhao nhao, “Philip không bao giờ đúng!”; Philip nói, “Tôi đúng! Nó trống rỗng. Ngôi mộ trống rỗng!”. Tiếp đến là im lặng! Philip được trọng nể. Không lâu sau, cậu bé qua đời. Tại đám tang, cùng với cô Bitram, lớp giáo lý các em 8 tuổi tiến lên bàn thờ; không phải với hoa, mỗi em đặt lên đó một quả trứng rỗng, ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’.

Kính thưa Anh Chị em,

Như quả trứng rỗng của Philip, ngôi mộ trống của Đức Kitô đã nói lên một điều gì đó quá ư vĩ đại, thì Thánh Giá hôm nay Giáo Hội suy tôn, ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’, cũng nói lên một điều gì đó vĩ đại không kém! Bởi lẽ, trên đó, Đấng cứu sống nhân loại, đã được treo lên!

Thật thú vị, nói đến việc Thiên Chúa cứu sống, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều nói đến một ‘cái gì đó’, hoặc một ‘Ai đó’ được treo lên! Vấn đề là ai muốn được cứu, phải nhìn lên và tin! Bài đọc Dân Số tường thuật việc Israel nổi loạn, Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Môisen van xin và Chúa thương bảo, “Đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu; để ai bị rắn cắn mà nhìn lên nó, sẽ được sống!”. Rắn đồng được treo lên, hình ảnh tiền trưng cho Đức Kitô được treo lên, rồi đây cũng cứu sống cả nhân loại; cách riêng, những ai nhìn lên và tin vào Ngài. Thập giá Ngài là ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’.

Nếu La Mã treo một tử tội bằng giá treo cổ, cung thánh các nhà thờ sẽ trưng một chiếc thòng lọng; nếu La Mã chọn ném đá một tội nhân cho đến chết, cung thánh sẽ có một đống đá để tín hữu nhìn vào đó mà hy vọng, với thi thể của một Giêusu bầm dập vô hồn nằm sóng soài kề bên. Chúng ta đã quen với thánh giá; đeo nó trên cổ, trên tai, khắc lên bia mộ… thậm chí đặt nó lên đỉnh tháp chuông và chiếu sáng nó khi đêm về. Giáo Hội đã thành công cách ngoạn mục trong  việc truyền đạt sự thật về đau khổ và cái chết, về sự sống và sự sống lại của Chúa Kitô. Thành công đến nỗi con cái quên rằng, qua bao thế kỷ, một thiết bị tra tấn chết chóc đến thế được coi như biểu tượng lớn nhất của thế giới về sự sống, ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’.

Từ biến cố nhập thể, Thiên Chúa đã tự làm rỗng mình. Ngài tự khép mình để sống giữa chúng ta, và tiếp tục trút bỏ tận căn chính mình khi để con người treo Ngài lên. Chúa Giêsu không như một thầy thuốc lạnh lùng chạm vào cơ thể bệnh nhân rồi tắm mình trong thuốc sát trùng; không, nhưng như một bác sĩ trước khi mổ, chỉ về phía mình, Ngài nói với bệnh nhân, “Hãy xem vết sẹo của tôi!”; rồi chỉ vào vết thương hoang hoác trên ngực và nói, “Tôi cũng là nạn nhân của sự dữ”. Ngài chấp nhận cái chết tàn khốc để có thể cạn chung chén đắng và đi sâu vào nỗi đau thập giá của con người, hầu biến nó thành niềm vui và nên ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’.

Anh Chị em,

“Con Người phải được treo lên!”. Lạ lùng thay, Con Thiên Chúa mà “vinh quang các tầng trời chứa chẳng hết” đã được treo lên để mọi người giàu nghèo, sang hèn đều có thể thấy mình trong thân phận làm người của Ngài. Và như thế, bạn và tôi dù đau khổ cùng cực đến mấy, vẫn nhìn thấy ánh mắt của Ngài đang nhìn mình. Hãy chạy đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài trên thánh giá, nhất là những lúc não nuột, ê chề; chắc chắn, chúng ta sẽ múc lấy sự cảm thông, sự ủi an từ trái tim từ ái rộng mở của Ngài. Nhờ đó, mỗi ngày, chúng ta đủ sức ôm lấy thập giá đời mình. Hãy để Ngài đưa nó lên cao, gắn nó với chính thập giá của Ngài! Và như thế, thập giá của Chúa Giêsu hay của mỗi người chúng ta, luôn là ‘biểu tượng của bình an và hy vọng!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin làm rỗng lòng con, để con có thể chỗi dậy sống đời sống mới như Chúa. Xin Thánh Thần Phục Sinh đổ đầy con, biến đổi con, giúp con đi từ sự chết sang sự sống!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

TỰU TRƯỜNG LÀ GÌ HẢ MẸ…?

Lmdc Viet Nam

 *** Những mảnh đời bất hạnh vì lỡ được sinh ra trong thiên đường CH XH CN CSVN

***

TỰU TRƯỜNG LÀ GÌ HẢ MẸ…?

Về đi con, nhà mình còn lon gạo

Về nhà đi, mẹ nấu cháo cho ăn

Nhà mình nghèo khó nhọc kiếm miếng ăn

Con mơ chi chuyện cung hằng sao hỏa.

Về đi con, cả đêm qua đói lả

Mà sáng nay còn tất tả đến trường

Không có tiền, đừng cầu cạnh tình thương

Không học phí thì ra đường mà đứng.

Về đi con, đừng rưng rưng nước mắt

Lòng mẹ đau như ai cắt con ơi

Bởi mẹ cha sinh ra “bất phùng thời”

Lại vô tâm sinh con, đời con khổ.

Về đi con, chữ nghĩa đều vô bổ

Con người ta hùng hổ được nhờ tiền

Người hơn người nhờ cơ cấu, ưu tiên

Học cho giỏi, quá hiền đành thất nghiệp.

Về đi con, lật sách cha đọc tiếp

Chữ nghĩa nhân trong số phận con người

Học yêu thương, học khóc lẫn học cười

Học chân thật giữa kiếp người lừa lọc…

NVQ.

FB Doan Quoc Bao 

 

Hủ Tục Đốt Vàng Mã

Hủ Tục Đốt Vàng Mã

Ngàn năm Bắc thuộc, người Tàu tìm mọi cách truyền bá tập tục, vừa muốn đồng hóa dân tộc ta, vừa có mục đích kinh doanh kiếm lợi.

Thời thượng cổ, người chết cứ để vậy đem chôn, không biết đến phần mộ, quan quách.

Về sau, việc mai táng người chết có nhiều hình thức.

Nhà Chu (1.122 trước Tây lịch) quy định rằng, khi ai chết, tất cả những vật dụng quý giá của người đó khi còn sống kể cả thê thiếp, thuộc hạ được sủng ái cũng đều phải chôn theo.

Tục lệ chôn người vô nhân đạo này đã được thay bằng lệ chôn các sô linh (người bện bằng cỏ).

Năm Nguyên Hưng nguyên niên (105) đời Hán Hoa, ông Thái Lĩnh tìm ra được cách làm giấy bằng vỏ cây dó & giẻ rách.

Tương truyền, lúc bấy giờ, Trung Hoa có tú tài Vưu Văn Nhất dùi mài kinh sử, mong ngày vinh quy bái tổ. Họ Vưu mười năm thi mãi không đỗ, bèn gác bút nghiên theo nghiệp buôn bán.

Một ngày nọ, Vưu tìm đến gia đình họ Đại xin học nghề làm giấy. Được yêu mến, Đại lão gia trao toàn bộ kỹ thuật làm giấy gia truyền.

Khi Đại lão gia qua đời, Vưu tú tài kế thừa sự nghiệp.

Giấy làm ra ngày càng tốt nhưng bán mãi không được. Họ Vưu vô cùng phiền não, bỏ cơm nước, nằm liệt giường, ba ngày sau thì chết.

Vợ Vưu khóc lóc, nói với mọi người:

– Gia cảnh chúng tôi nghèo túng, không có gì có thể chôn cùng. Thôi thì đem giấy đốt chôn cùng ông ấy vậy !

Đốt giấy tới ngày thứ ba, Vưu tú tài đột nhiên khua động quan tài ngồi dậy, miệng luôn mồm bảo:

– Mau đốt giấy, mau đốt giấy !

Ai nấy hoảng sợ, tưởng ma nhập về, bỏ chạy.

Vưu tú tài nói:

– Đừng sợ, tôi sống lại rồi !

Gã kể, nhờ đốt giấy mà y thoát chết. Giấy sau khi đốt , xuống tới âm tào địa phủ liền biến thành tiền. Vưu tú tài lấy tiền này để hối lộ, được Diêm Vương thả về.

Câu chuyện lan truyền khắp huyện thành cả Trung Hoa. giấy bán chạy như tôm tươi, nghề làm vàng mã bỗng chốc trở nên giàu có.

Sự thật, Vưu tú tài không hề chết đi sống lại, chỉ là lập mưu lừa phỉnh người đời.

Nhờ sự việc trót lọt, từ đó việc đốt giấy cho người chết đã trở thành một hủ tục mê muội được lưu truyền mãi, lan sang Việt Nam mãi đến ngày nay.

Lấy từ fb Cha Pham Quang Long

From: TU-PHUNG