KHÔNG SỢ SAI LẦM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHÔNG SỢ SAI LẦM

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Sáu Tuần XXIII- Mùa Thường Niên

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”.

Một người bạn nói với mục sư Adoniram Judson rằng, một bài báo đã ví anh như một số tông đồ. Judson trả lời, “Tôi không muốn giống Phaolô hay bất kỳ ai khác. Tôi muốn giống Chúa Kitô! Tôi chỉ muốn theo Ngài, uống Thánh Linh của Ngài, đặt chân tôi vào dấu chân Ngài, sống lời Ngài, và dạy lời Ngài mà ‘không sợ sai lầm’. Ồ, tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”. Phải chăng đây cũng là ý chí kiên định của Phaolô khi ngài quyết tâm đánh đổi tất cả để nên giống Chúa Kitô, có Chúa Kitô, và muốn muôn dân biết Chúa Kitô, “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”. Uống Thánh Linh của Chúa Kitô, sống lời Ngài, Phaolô can đảm bôn tẩu, rong ruổi, loan báo Tin Mừng Đức Kitô mà ‘không sợ sai lầm’.

Thế nhưng, với chúng ta, phải bắt đầu từ đâu? Phải rao giảng làm sao mà ‘không sợ sai lầm?’. Như Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, coi “mọi sự như rác rưởi trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô”; trước hết, chúng ta phải được nung nấu bởi tình yêu của Chúa Kitô, hiểu biết Ngài nhờ quyền năng của Thánh Thần. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sẽ giải thích điều này rõ hơn; Ngài nói, “Người mù có thể dắt người mù được sao?”. Nghĩa là, trước tiên, tông đồ phải là người biết thật rõ, thấy thật rõ, mình đang đi đâu, trên con đường nào, và sẽ dẫn đến đâu? Là một người chỉ đường, rao giảng Chúa Kitô, chúng ta cần xác tín, ngoài con đường Giêsu, không có con đường nào khác! Ngài là Đấng đến từ Chúa Cha, nên Ngài biết rõ đường. Hãy suy gẫm về tầm quan trọng và vị trí trung tâm của Chúa Kitô đối với hành trình tiến về Nhà Cha của chính chúng ta và của những người chúng ta sẽ hướng dẫn mà ‘không sợ sai lầm!’.

Thứ đến, là người dẫn đưa người khác đến với Chúa, chúng ta cần có ‘một lo lắng’ nào đó; không phải sợ hãi, nhưng thực sự là không thể coi thường! Trước trách vụ lớn lao và cấp bách đó, cách khôn ngoan nhất là chúng ta dựa vào Giáo Hội. Chúa Giêsu không chỉ thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sự dạy dỗ của Ngài, nhưng còn ban cho Giáo Hội ân sủng Thánh Thần để gìn giữ Giáo Hội khỏi sai lầm. Chúng ta không cậy mình, nhưng biết rằng, tôi không hề lẻ loi. Sự tự tin của chúng ta cần bắt nguồn từ sự hiểu biết rằng, chúng ta đang ở trong Giáo Hội, hợp nhất với Giáo Hội và thực hành giáo huấn của Giáo Hội.

Học tập là một ‘tiến trình thường huấn’ kéo dài suốt đời; vậy mà, chúng ta hay coi thường, không cần đào sâu cho mình những hiểu biết đức tin. Vì thế, tuy không sợ sai lầm, nhưng việc giảng dạy của chúng ta thường chỉ dừng lại ở cấp Rước Chúa lần đầu hoặc Thêm Sức! Tại sao, vì chúng ta tự mãn, chúng ta không biết mình ‘nghèo’, nên những người chúng ta dạy dỗ không bao giờ ‘giàu’; và như thế, không ít người lớn chỉ được chúng ta đào tạo với những gì đủ cho một đứa trẻ! Vậy hãy học biết Chúa Kitô mỗi ngày, đào sâu đức tin, suy tư, nghiên cứu, chiêm ngắm những mầu nhiệm của Ngài; đồng thời, cho phép ân điển Thánh Thần biến đổi cuộc sống chúng ta mỗi ngày. Được như thế, chúng ta mới có thể nâng cao đời sống đức tin, làm nóng sốt hồn tông đồ nơi chính mình và nơi những người chúng ta hướng dẫn mà ‘không sợ sai lầm’.

Anh Chị em,

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”. Chớ gì mỗi người chúng ta có chung một thao thức như Phaolô! Vậy mà, chúng ta chỉ có thể rao giảng Chúa Kitô, giúp đỡ và dạy dỗ người khác đến với Ngài bằng chính những gì chúng ta đã học biết và nhận được từ Ngài. Ngài là vị Thầy, Hướng Đạo thông thái, Đức Hôn Phu tuyệt vời của Hiền Thê Giáo Hội vốn là người mẹ khôn ngoan nhất của chúng ta. Ngài còn là Thầy Thuốc đa khoa có thể chữa lành sự mù loà, đánh bại mọi tội lỗi, băng bó mọi thương tích, nâng đỡ bao yếu đuối và lấp đầy những nông nổi của chúng ta. Được như thế, chúng ta có thể dẫn dắt người khác mà ‘không sợ sai lầm!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hạ thấp dãy núi tự mãn nơi con, cho con biết mình ‘nghèo’; xin dạy con mỗi ngày trên đầu gối Giáo Hội. Từ đó, con làm cho anh chị em con ‘giàu’ mà ‘không sợ sai lầm!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

From: Kim Bang Nguyen 

CÓ MỘT TẤM LÒNG…!

CÓ MỘT TẤM LÒNG…!

Người Nhật khi dời trụ điện bằng gỗ đã bị mục nát để thay bằng trụ điện bê tông thì những người thi công vô tình phát hiện ra trên cây trụ điện gỗ đang có một tổ chim. Thế là họ vẫn tiến hành trồng cây trụ điện mới và khéo léo để lại đoạn cây trụ điện có tổ chim kia…!

Cũng vậy, người Tây khi làm nhà mái ngói họ thiết kế ra một góc nhỏ có gắn sẵn cái tổ chim để chim thiên nhiên có thể trú ngụ mà không phải cất công sức làm tổ nữa…

Người Nhật còn phải mua ngũ cốc, thóc gạo rải trên các cánh đồng khi mùa đông về, tuyết che trên các cánh đồng cho chim sếu và chim di cư, chim trời ăn vì sợ chúng không kiếm được mồi…!

Người Hàn khi thu hoạch trái cây trong vườn lớn. Bao giờ cũng chừa lại một góc nhỏ để chim, sóc… và người đi đường dùng giải khát…!

Nhân bản đến thế…!

 Đinh Trực 

From: Tu-Phung

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên (1580-1654)-Cha Vương

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên (1580-1654)

Chúc Bạn một cuối tuần an lành trong Tình Yêu Thiên Chúa. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 09/09/2022

Hôm nay 09/09, Giáo hội mừng lễ nhớ Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên, truyền giáo tại nước Colombia, Nam Mỹ Tây ban nha-Columbia (1580-1654). Sau khi tốt nghiệp  tại đại học Barcelona nước Tây ban nha, cậu quyết định theo ơn gọi Dòng Chúa Giêsu. Dưới sự giám hộ của thánh Alphonsô Rodriguez cậu được huấn luyện làm chiến sĩ truyền giáo cho Nam Mỹ.

Người Tây ban nha truyền giáo tại Colombia: Khấn dòng rồi, thầy được gửi đi Cartagena nước Colombia năm 1610, được chịu chức linh mục năm 1615.  Làm việc truyền giáo tại một trung tâm mua bán người nô lệ da đen. Mỗi tháng có tới hàng ngàn nô lệ được đổi chác.

Tự nhận mình là “nô lệ của những người nô lệ”, cha đã dành hầu cả cuộc đời mình (40 năm) để phục vụ người nô lệ.  Mỗi khi nghe có tàu Âu châu cập bến, cha đem quần áo,  thực phẩm, thuốc và nước uống cho họ, vì thế mà cha chinh phục được nhiều người trở lại với Chúa.  Ngài đã rửa tội được 300,000 người nô lệ tại Cartagena.

Cha Peter khi cầu nguyện, thường mở cuốn sách “Đời sống Chúa Giêsu “, nhìn vào hình ảnh Chúa trong đó mà cầu nguyện theo lối thánh Ignatio chỉ dạy.  Ngài mở nhiều đến nỗi sách rách và cũ mèn. Hình coi cũ nhất là hình Chúa Giêsu đau khổ cầu nguyện trong vườn Giêtsimani, Chúa bị đánh đòn, đội mũ gai, và chết trên thánh giá. Nhớ tới Chúa Giêsu tử nạn làm tăng sức cho cha Peter thương những người da đen cùng khổ.

Nguyên tắc nên thánh: Cha Peter viết trong tập sổ tay 4 nguyên tắc hướng dẫn đời ngài, những nguyên tắc giúp ngài nên thánh: (1)Tìm Chúa trong mọi sự, (2) vâng lời các bề trên như vâng lời Chúa, (3) làm mọi sự cho vinh danh Chúa hơn, (4) vui lòng đón nhận bất cứ đau khổ nào, hoặc việc làm nào có thể cứu các linh hồn.

Năm 1560, cha Peter bị bệnh dịch, mệt mỏi vì công việc, ngài nằm liệt giường 4 năm. Ngài chết tại Cartagena ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ  8 tháng 9 năm 1654.  Ngài được phong thánh năm 1888.  Năm 1896, Đức Giáo Hoàng Lêô 13 đã tôn ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo da đen. (Nguồn: Dân Chúa, Hạnh các thánh)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân:

 Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay rộng lượng trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.

Tìm kiếm Chúa trong mọi sự và bạn sẽ tìm thấy Chúa ở bên cạnh bạn. 

Để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ chính mình: càng chết cho chính mình, thì càng sống cho Thiên Chúa. (Thánh Peter Claver)

Hôm nay mời Bạn hãy nói gương thánh nhân để nên thánh trong mọi hoàn cảnh của mình nhé.

From: Đỗ Dzũng

THIÊN CHÚA CHỜ MONG-TGM Giuse Vũ Văn Thiên

THIÊN CHÚA CHỜ MONG

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Chuyện kể rằng, có cậu bé hư hỏng, bỏ nhà đi hoang, nay muốn hối lỗi trở về, nhưng lại sợ bố mẹ không chấp nhận.  Trước khi về, cậu viết thư cho cha mẹ, với lời xin nếu cha mẹ sẵn sàng đón nhận, thì hãy treo trên cành cây trước cửa nhà một đồ chơi là chiếc xe tăng mà cậu bé rất thích.  Cậu sẽ trở về nếu nhận được tín hiệu vui.  Nhận được thư này, cha mẹ cậu bé treo trên cành cây, không chỉ là chiếc xe tăng, mà còn cả quần áo, đồ dùng và đồ chơi của cậu bé.  Khi lén đi ngang qua nhà và nhìn thấy, cậu bé cảm động và bước vào nhà, lao vào vòng tay âu yếm bao dung của cha mẹ.

Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng thánh Luca thường được đọc trong Mùa Chay, với lời mời gọi hãy trở về với Chúa, vì Ngài giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương.  Quả vậy, nếu chúng ta có thể tự tin trỗi dậy từ tình trạng tội lỗi để trở về với Chúa, là vì chúng ta tin vào lòng bao dung của Ngài, bởi “Người nổi giận, giận trong giây látnhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29, 6).

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.  Ngài luôn chờ đợi chúng ta.  Người cha trong dụ ngôn, kể từ khi người con thứ bỏ nhà ra đi, luôn chờ mong con trở về.  Trong khi người con đi hoang, với ảo tưởng có thể vươn cao vươn xa trong cuộc đời, thì người cha lại vẫn trông chờ và hy vọng nó sẽ trở về.  Bằng chứng là ông vẫn vỗ béo con bê, để khi người con thứ trở về, thì đã có sẵn thực phẩm để đãi bạn bè láng giềng.  Tình Cha thật cao siêu vời vợi.  Sự chờ mong này cũng thể hiện ở chi tiết, khi người con thứ còn ở đàng xa, người cha đã nhận ra và chạy ra đón cậu.  Tình thương vô bờ được thể hiện ở chỗ, ông không để cho cậu nói hết câu cậu định nói, mà gọi gia nhân mang đồ ra cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo và giày cho cậu đi.  Người cha muốn thay đổi thân phận của người con trở về, từ một người chăn heo thành một người con được yêu thương chiều chuộng.

Lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả trong suốt bề dày của lịch sử.  Tác giả sách Xuất Hành kể với chúng ta: khi Thiên Chúa giận dữ vì tội lỗi của dân Do Thái trong sa mạc, Ngài quyết định sẽ tru diệt họ, vì họ đã phản bội Ngài và tôn thờ con bê vàng.  Ông Môisen đã năn nỉ với Chúa.  Lời xin của ông đã làm Chúa nguôi cơn giận, và Ngài không trừng phạt dân.  Nếu đọc sách Xuất Hành, chúng ta còn thấy nhiều trường hợp như vậy.  Mỗi lần dân phản loạn, Thiên Chúa muốn trừng phạt, nhưng rồi Ngài lại thứ tha.  Chúa nghiêm khắc đối với dân Do Thái, giống như một người cha trong gia đình.  Sự nghiêm khắc ấy xuất phát từ tình thương và thiện ý muốn cho con nên người.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể.  Phụng vụ Chúa nhật này nối kết ba dụ ngôn: người chăn chiên bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được một con chiên lạc; người phụ nữ vất vả kỳ công để tìm cho được một đồng bạc đã mất.  Cả hai dụ ngôn này cũng diễn tả sự chờ mong của Thiên Chúa.  Ngài vừa chờ đợi tội nhân trở về, vừa đi tìm kiếm những gì đã mất.  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để đi tìm kiếm những tội nhân.  Trong câu chuyện ông Giakêu, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Con người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).  Dụ ngôn người chăn chiên và người phụ nữ, là những minh chứng cho điều Chúa đã khẳng định, đồng thời nêu lên sứ mạng của Người.  “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi” (Bài đọc II).

Nếu Thiên Chúa thương xót con người, thì con người lại không thương yêu đồng loại.  Người con cả trong dụ ngôn là đại diện cho những người cố chấp, ghen tương và thù hận.  Anh đã từ chối mối tương quan huyết nhục khi tuyên bố với cha mình: “Thằng con của cha kia…” (câu 30).  Hình ảnh người con cả cũng phổ biến trong xã hội của chúng ta hôm nay.  Ghen tương thù hận đã dẫn tới tranh giành và xung đột huynh đệ tương tàn.  Hậu quả là bạo lực, chém giết rồi tù tội.  Thái độ người anh cả cũng là thái độ của những người hay kỳ thị coi thường những người đã một thời lầm lỗi, làm cho họ khó hoàn lương hội nhập cuộc sống bình thường.

Mỗi khi khởi đầu Thánh lễ, chúng ta thưa với Chúa ba lần: Xin thương xót chúng con!”  Lời van xin này thể hiện tâm tình sám hối của chúng ta trước nhan Chúa.  Thánh Phaolô nhận mình là kẻ tội lỗi đầu tiên được Chúa cứu.  Kinh nghiệm của ông trên đường đi Đa-mát vẫn sống động và ghi dấu ấn suốt cuộc đời ông.  Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu giúp ông cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa.  Ngài chờ đợi ông trên đường đi Đa-mát, để cải hoá và làm cho ông trở thành Tông đồ.  Điểm đến hành trình của ông vẫn là thành Đa-mát, nhưng mục đích đã thay đổi.  Ông đã là con người mới.

Ước chi kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của mỗi chúng ta.  Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta.  Ngài luôn phát đi tín hiệu gọi mời chúng ta trở về.  Bạn và tôi, chúng ta có ý thức được điều đó không?

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

September 7, 2022

Đằng-Giao/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Cuốn “Fortunes of Jaded Women” của tác giả Carolyn Huỳnh xoay quanh câu chuyện của những người mẹ và những đứa con gái tại Little Saigon, Westminster.

Tác giả Carolyn Huỳnh tại thư phòng ở Los Angeles. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Lâm li, hóm hỉnh và có hậu

Cuốn sách kể câu chuyện của nhiều nhân vật thuộc nhiều thế hệ lần tìm về với nhau sau khi bị cuộc sống trên quê hương mới làm cho tình cảm rạn nứt, sứt mẻ.

“Và trong quá trình tìm về với nhau, họ tìm được con người của chính họ,” tác giả Carolyn Huỳnh nói.

Nhưng thông điệp lớn nhất của cuốn sách là sự cứu chuộc của cá nhân.

Cô nói: “Cho dù cuộc đời có tàn ác với chúng ta đến đâu thì chúng ta vẫn có thể viết lại câu chuyện của mình.”

Bằng giọng văn thân mật, khi thì dí dỏm, hóm hỉnh, khi thì căng thẳng, nghiêm chỉnh, Carolyn khéo léo lôi cuốn độc giả vào một cuộc hành trình của trái tim đầy thú vị và cảm động.

“Fortunes of Jaded Women” được nhà xuất bản Atria Books thuộc công ty Simon & Schuster, Inc. có trụ sở ở New York, London, Toronto, Sydney, và New Delhi phát hành.

Cuốn sách của Carolyn Huỳnh viết bằng tiếng Anh nhưng tâm tư, tình cảm, nỗi lo âu, niềm hy vọng, những giọt nước mắt và những nụ cười ý nhị lại hết sức Việt Nam.

Hai tầng ý nghĩa

“Tựa đề cuốn sách này có hai ý nghĩa,” cô Carolyn cho biết. “Chữ ‘fortunes’ vừa có nghĩa là vận may mà cũng có nghĩa là giá trị của những phụ nữ này. ‘Jaded’ vừa có nghĩa là mệt mỏi vừa có nghĩa là cẩm thạch.”

Cô muốn để độc giả tự hiểu toàn bộ câu chuyện theo cảm nhận của mình chứ không muốn áp đặt ý nghĩa của cuốn sách, buộc độc giả phải hiểu theo ý cô.

Những nhân vật trong “Fortunes of Jaded Women” hoàn toàn linh hoạt, sống động và có cá tính chứ không tẻ nhạt, mập mờ và rập khuôn như những nhân vật nhan nhản trong những cuốn sách thị trường theo thị hiếu khán giả bình dân.

Chỉ cần đọc qua vài trang đầu là độc giả thấy ngay sự thực tâm chăm sóc mà tác giả dành cho từng nhân vật của mình. Phải quý trọng nhân vật như người nhà thì cô Carolyn mới có giọng văn ân cần, nâng niu như vậy.

“Fortunes of Jaded Women” của Carolyn Huỳnh kể về tình cảm gia đình của người gốc Việt. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Chuyện riêng tư nhưng lại rất… “chung”

Câu chuyện của “Fortunes of Jaded Women” không vội vàng hời hợt với diễn biến tình tiết nhanh mà chậm rãi, từ tốn đào sâu vào nội tâm để tìm kiếm cái “hồn” sâu lắng của câu chuyện.

Cô Carolyn nói: “Những nhân vật có những nỗi niềm không nói được thành lời.”

“Fortunes of Jaded Women” nói về những câu chuyện gia đình riêng tư nhưng cũng là câu chuyện chung ở mọi nơi trên thế giới: sự xung đột, hiểu lầm của những thế hệ khác nhau.

“Câu chuyện cũng về khả năng phục hồi và hy vọng. Tôi muốn viết về cuộc đấu tranh đồng hóa và những gì xảy ra sau đó, cho nhiều thế hệ tiếp nối,” cô trình bày.

Nếu độc giả cảm thấy vui khi đọc “Fortunes of Jaded Women” là cô Carolyn cho rằng mình đã thành công.

Cô nói: “Chỉ cần một số ít người thôi là tôi đủ vui rồi. Với tôi, đó là thành công. Danh tiếng và tiền bạc không quan trọng bằng niềm vui của độc giả.”

Sinh ra tại Fountain Valley và lớn lên tại Santa Ana, cô Carolyn lấy rất nhiều cảm hứng cho cuốn sách từ những ngày còn bé ở Santa Ana theo mẹ đến Little Saigon.

Sau khi so sánh lối sống của ngưởi gốc Việt tại nhiều nơi, cô nhận xét rằng cuộc sống của người Việt ở Orange County rất khác với kinh nghiệm cuộc sống của người gốc Việt ở Houston (Texas) hay New Orleans (Louisiana).

Cô nói: “Người Việt ở Nam California khác ở cách ăn mặc thời trang cũng như thái độ sống của họ khác với người ở nơi khác và họ tự tin hơn rất nhiều bởi vì có đông người Việt chung quanh để thành lập một cộng đồng. Nơi khác không được như vậy.”

Cô Carolyn Huỳnh cùng cha mẹ tại Santa Ana. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Cuốn “Fortunes of Jaded Women” là một món quà ý nghĩa và thú vị bậc phụ huynh có thể mua tặng con em mình để gia đình có thể hiểu và thông cảm cho nhau hơn

Sách có bán khắp nơi, Amazon, Barnes & Noble hay Walmart, Target. [qd]

____________________

Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com

Các cựu bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ cảnh báo phân cực chính trị trầm trọng

Các cựu bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ cảnh báo phân cực chính trị trầm trọng

September 8, 2022

WASHINGTON, DC (NV) – Có 13 cựu bộ trưởng Quốc Phòng và cựu tướng lãnh hôm Thứ Ba, 6 Tháng Chín, lên tiếng cảnh báo rằng sự chia rẽ chính trị vô cùng trầm trọng ở Mỹ đang tạo ra “một môi trường quân sự-dân sự đặc biệt thách thức,” theo UPI.

Trong một bức thư ngỏ đăng trên trang web an ninh quốc gia “War on the Rocks,” tám cựu bộ trưởng quốc phòng và năm cựu tham mưu trưởng quân đội Mỹ đã nêu ra 16 “nguyên tắc cốt lõi và thực tiễn tốt nhất” cho các chuyên gia dân sự và quân sự trong thời kỳ chia rẽ chính trị cùng cực hiện nay.

Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mark Esper, một trong những người ký vào thư ngỏ. (Hình: Michael Reynolds-Pool/Getty Images)

“Về mặt chính trị, các chuyên gia quân sự phải đối mặt với một môi trường cực kỳ bất lợi bởi sự chia rẽ, đỉnh điểm là cuộc bầu cử đầu tiên trong hơn một thế kỷ khi việc chuyển giao quyền lực chính trị một cách hòa bình bị ngăn trở,” lá thư cho biết, ngầm nhắc đến tuyên bố gian lận bầu cử của cựu Tổng Thống Donald Trump và vụ bạo loạn tại tòa nhà Quốc Hội Mỹ ngày 6 Tháng Giêng, 2021.

Các nhà lãnh đạo cũng chỉ ra các nguyên nhân khác như căng thẳng địa chính trị, chẳng hạn như cuộc chiến Iraq và Afghanistan, đang dần hạ nhiệt, cũng như căng thẳng xã hội do đại dịch COVID-19 và sự bất ổn kinh tế gây ra.

“Trong một môi trường như vậy, sẽ rất hữu ích khi nhìn lại các nguyên tắc cốt lõi và thực tiễn mà các chuyên gia quân sự và dân sự đã áp dụng khi duy trì mối quan hệ quân sự-dân sự lành mạnh ở Mỹ trong quá khứ, để có thể tiếp tục áp dụng ở thời điểm hiện tại, nếu có sự thận trọng và quan tâm,” lá thư cho biết.

Những người ký lá thư là các cựu bộ trưởng quốc phòng của các chính quyền Trump, Obama, Bush, Clinton, bao gồm ông Mark Esper, Ashton Carter, William Cohen, Robert Gates, Chuck Hagel, James Mattis, Leon Panetta và William Perry. Trong khi đó, những cựu tham mưu trưởng trong bức thư bao gồm Martin Dempsey, Joseph Dunford, Michael Mullen, Richard Myers và Peter Pace.

Trong số các thực tiễn cốt lõi mà các nhà cựu lãnh đạo này kêu gọi là phi chính trị hóa quân đội, cho rằng “các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự phải có nhiệm vụ giữ quân đội tách biệt khỏi hoạt động chính trị đảng phái.”

Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, cựu Tổng Thống Trump đã tổ chức một cuộc diễn hành ngày 4 Tháng Bảy, 2019 với sự góp mặt của quân đội và xe tăng, trong khi Tổng thống Joe Biden gần đây đã làm mờ ranh giới giữa quân sự và chính trị khi có hai quân nhân TQLC đứng cạnh lúc đọc bài phát biểu ở Philadelphia, trong đó kêu gọi người dân Mỹ bác bỏ những người “Cộng Hòa MAGA.”

Bức thư hôm Thứ Ba nhắc lại quyền lực hiến định đối với quân đội là thuộc về công dân Mỹ.

“Sự kiểm soát đối với quân đội là một phần nền tảng của nền dân chủ Mỹ,” bức thư cho biết. “Theo Hiến pháp Mỹ, quyền kiểm soát dân sự đối với quân đội được chia sẻ trên cả ba nhánh của chính quyền. Cuối cùng, quyền kiểm soát dân sự được thực hiện bởi ý chí của người dân Mỹ, được thể hiện thông qua các cuộc bầu cử.” (V.Giang)

Phong bì chính là kẻ sát nhân!

Phong bì chính là kẻ sát nhân!

Đoàn Bảo Châu

8-9-2022

Nguyên nhân các vụ cháy quán Karaoke là gì? Với tôi đấy là do cơ quan quản lý không làm tốt chức năng của mình. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào vấn đề và giải quyết cho triệt để, đừng mơ màng mộng mị, đừng giả dối lấp lửng, đừng mập mờ để những mạng người trẻ phải ra đi một cách vô cùng đau lòng như vậy nữa.

Các quán Karaoke được thiết kế như những cái bẫy mạng người. Cầu thang máy, một lối đi bộ, với chất liệu cách âm, khi cháy tạo nhiều khói độc, hít phải, chỉ vài phút là ngộ độc, mất sức và gục ngã. Khi chập điện thì cầu thang máy sẽ mất, khả năng các phòng mất điện, bước ra khỏi cửa phòng là tối đen, cộng với khói mịt mù thì biết chạy đường nào?

Số người chết ở quán Karaoke ở Bình Dương đa phần là nhân viên quán, họ biết đường mà còn chết thì khách chạy làm sao được?

Nguyên nhân là bởi cơ quan quản lý phòng cháy chữa cháy làm qua loa, không chặt chẽ. Đáng nhẽ ra các phòng Karaoke phải có lối ra ban công, từ ban công có cầu thang thoát hiểm bên ngoài, giống như rất nhiều hình ảnh mà chúng ta thấy ở các nước.

Mà cái kiểu thoát hiểm ấy có cả đến trăm năm rồi, không phải là một phát minh gì vĩ đại, vậy tại sao Việt Nam không chịu học tập và áp dụng? Hãy nhìn thẳng vào sự thật đi.

Ai đã kinh doanh Karaoke, khách sạn thì quen với việc đưa phong bì. Có ngày phải đưa phong bì cho nhiều đoàn khác nhau. Mà đã dính tới phong bì thì làm sao mà việc kiểm tra an toàn cháy nổ tử tế được? Nói cách khác thì chính phong bì là nguyên nhân cướp đi nhiều mạng người vô tội.

Việc này nhiều người phàn nàn riêng nhưng không ai dám nói chỗ công cộng, bởi nói chính là chặt đi đường sống của mình. Chúng ta hời hợt, cơ quan chức năng hời hợt, để rồi những mạng người trẻ phải chết trong tức tưởi đau khổ như vậy.

Sự việc cứ lặp đi lặp lại, nguyên nhân y như nhau là do chập điện, là do hàn nhưng cứ xảy ra là chết người. Tôi thương xót những nạn nhân, họ đi giải trí hay đi làm việc, họ không có lỗi.

Tôi tức giận với lối quản lý hời hợt của cơ quan chức năng. Các vị thu thuế của các doanh nghiệp nhưng các vị làm ăn không tử tế, không có trách nhiệm. Nếu không cương quyết thay đổi thì các tai nạn kiểu này sẽ còn tiếp tục xảy ra nhiều.

Tìm thằng Phong Bì, đánh bỏ mẹ nó đi anh em!

CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIỀN SƯ

CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIỀN SƯ

Có một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm đang chiếu cố túp lều tranh của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài đang mặc trên người và đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm kinh động tên trộm.

Tên trộm vừa quay ra thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng vị thiền sư liền nói: “Anh bạn! đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng để anh về tay không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này mà về cho đỡ lạnh. Nói xong ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm. Tên trộm xấu hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại.

Thiền sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng thương cảm nói: “ rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi.

Vài hôm sau, khi thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy chiếc áo mà ngài khoác lên thân tên trộm mấy hôm trước đó được xếp rất ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẻ nói : “ Cuối cùng thì ta cũng đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi”.

Lại có câu chuyện khác cũng tương tự. Trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nổi cái cảnh vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Vào những buổi tối vị tăng sinh này thường ra vách tường sau chùa, đặt một cái ghế để leo qua tường ra bên ngoài chơi.

Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với ai. Một lần, vị tăng sinh này trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía sau và đem chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chỗ đó đợi vị học tăng trở về. Đêm khuya vắng vẻ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã bị di chuyển nên vẫn leo qua vách tường và thò chân xuống ghế như mọi khi để vào chùa, nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế dưới chân mình sao mềm mại là lạ, cúi xuống nhìn thì hoá ra mình đang đứng trên vai vị thiền sư thầy mình. Lập tức vị học tăng hồn bay phách tán quỳ xuống nói không ra lời. Thiền sư liền đỡ vị học tăng đứng lên và nhẹ nhàng nói : “Đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh hãy nhanh vào phòng nghỉ ngơi.”

Sau khi về phòng vị tăng sinh cứ phập phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết. Vị tăng trẻ tự trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng, từ đó về sau không dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học, cuối cùng trở thành một vị tăng nổi tiếng đương thời.
Nếu bạn là thiền sư bạn sẽ xử lý thế nào với hai sự việc như thế? Tôi nghĩ, trong câu chuyện thứ nhất. Những người bình thường thì sẽ cùng tên trộm vật lộn hoặc sẽ la lớn lên “Trộm, trộm…”. Câu chuyện thứ hai, đối những với người bình thường thì sẽ đem lỗi của vị học tăng nói trước mặt mọi người, sau đó sẽ có hình thức trách mắng quở phạt riêng cho vị ấy.

Nếu làm như vậy kết quả sẽ như thế nào nhỉ? Tôi nghĩ có thể xảy ra hậu quả thế này, câu chuyện thứ nhất: Tên trộm sẽ đánh bị thương hoặc giết chết vị thiền sư hoặc có thể vị thiền sư đánh tên trộm bị thương và tên trộm sẽ trở lại trả thù thiền sư vào một ngày gần đó. Câu chuyện thứ hai, sau khi vị học tăng bị quở phạt trước mọi người sẽ cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè, trong lòng buồn phiền thối chí tu học cuối cùng trở thành con người bình thường, và có thể từ bỏ lối sống thiền môn.

Hai vị thiền sư này xử sự không giống những người bình thường như chúng ta, mà lấy sự khoan dung đại trí, đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh tăng. Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung.

Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc đây là phương pháp giáo dục tốt nhất.

Khoan dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoan hồng tha thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoan dung còn hơn cả vàng, khoan dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng ta.

From: Đo Tan Hung & Kim Bang Nguyen

PHÉP NHIỆM MẦU CÓ THẬT

PHÉP NHIỆM MẦU CÓ THẬT

(Chuyện khó tin nhưng có thật)

Tôi sinh ra không biết cha mẹ mình là ai. Từ bé tí, tôi đã ở cũng với mõ già trong một ngôi chùa ở làng. Mọi người vẫn quen gọi nơi đây là chùa làng, nhưng nó bé lắm, do làng xây dựng từ thời xa xưa để cho bà con dân làng thờ Phật. Phía ngoài chùa có một am nhỏ mõ nói là thờ Thành Hoàng làng, và một cái chái phía bên cạnh am để cho mõ già và tôi ở.

Chùa làng không có sư, chỉ có mõ già được làng cắt cử ra trông coi chùa. Có việc lễ cúng gì thì người làng gọi mõ, sai mõ sửa soạn để các cụ trong làng ra cúng. Mõ không phải làm nghề đi thông báo công việc của làng xã, nhưng không hiểu sao người làng lại gọi là mõ.

Mõ già kể mõ nhặt được tôi trước cổng chùa. Người mẹ nào đó nhẫn tâm bỏ tôi lại trước cửa chùa không một mảnh vải che thân, dây rốn còn dài lòng thòng chưa kịp cắt. Thân thể mình mẩy tôi dính đầy máu, gọi kiến đen kiến đỏ kéo nhau đến bu kín. Lúc ấy là canh ba, tôi khóc như xé vải, mõ già nghễnh ngãng, tai đực tai lành, chẳng nghe thấy tiếng trẻ con khóc trước cửa chùa đâu.

Mõ nói, như có trời xui đất khiến, đêm ấy mõ không ngủ được nên lần ra cửa chùa. Nhìn thấy một bọc máu đỏ hỏn, ngo ngoe dưới chân, kiến bu đen bu đỏ, mõ giật mình. Bế tôi lên, mõ xót xa chửi rủa quân vô lương, phường chó sói, hổ dữ còn không ăn thịt con thế mà có đứa nó dám đẻ con rồi vứt cho kiến ăn.

Tôi thành con của mõ già, sống cùng mõ trong ngôi chùa làng. Mõ dạy tôi trồng lúa, trồng rau, nuôi gà để lấy cái ăn. Ngày rằm mồng một, trong làng có ai cúng nải chuối, đĩa xôi thì hôm đó hai mõ con có chút thức ăn tươi tỉnh.

Tôi lớn lên tự biết thân phận bất hạnh của mình, một mắt tôi bị mù do kiến đục sâu vào thủy tinh thể hồi lọt lòng. Tôi lại bị khèo một tay nên mõ thương tôi lắm. Mõ già chăm bẵm tôi, mỗi lần tắm cho tôi, mõ lại than thở, chắc khi đẻ ra nó biết mày mù mắt khoèo tay nên nó sợ nuôi mày sẽ vất vả, cho mày làm người lớn lên sẽ tủi nhục con ạ, nên con mẹ mày mới ngậm đắng nuốt cay bỏ mày đi để hóa kiếp cho mày. Ai ngờ số mày không làm ma được mà phải làm người con ạ. Thôi gắng sống cho nên người. Con người ta có số cả, ông trời không lấy của ai hết tất cả đâu mà lo!

Đó là câu cửa miệng mõ già luôn nói với tôi: “Ông trời không lấy của ai hết tất cả mọi thứ đâu con” để động viên tôi ráng vượt lên hoàn cảnh.

Tôi dứt khoát không đi học, vì mặc cảm thân phận. Mõ thương tôi, không nỡ ép. Mõ già dạy tôi biết tính nhẩm cộng trừ con số đủ để đi chợ bán rau không bị nhầm tiền. Mõ dạy tôi biết đọc và biết mỗi việc ký tên tôi nếu phải dùng đến chữ ký trong trường hợp nào đó mà không phải điểm chỉ như những người mù chữ thực sự. Mõ nói, mõ chỉ có thể dạy tôi được đến thế, và đó cũng là tất cả những vốn liếng văn hóa mà mõ có được thời bình dân học vụ. Mõ trút lại hết cho đứa bé côi cút tội nghiệp là tôi.

Mõ già lắm rồi, đau yếu quanh năm nên mọi việc trông nom trong chùa và công việc đồng áng một mình tôi gánh vác. Mõ không có chồng, không có con. Mãi sau này, khi giờ phút lâm chung, mõ mới nói cho tôi biết rằng, mõ có chồng nhưng hai người cưới nhau chưa kịp có con, chồng mõ đi bộ đội rồi hy sinh ở chiến trường. Mõ ngã quỵ vì buồn đau, ốm một trận thập tử nhất sinh. Nhà chồng đưa mõ ra ngôi chùa làng để sư thầy trông coi chùa có nghề thuốc nam, thuốc thang cứu mõ.

Khỏi bệnh, mõ xin phép nhà chồng và nhà mẹ đẻ được ở lại chùa hầu hạ công việc tâm linh cho sư thầy. Vậy là mõ rời nhà đến chùa làng ở, coi như xuống tóc đi tu. Thật ra mõ chỉ nhận mình là mõ, chưa bao giờ mõ nhận mình là sư, vì mõ biết con đường tu tập phải học nhiều mà mõ thì chẳng có kiến thức. Mõ chỉ ở đây giúp đỡ sư thầy thôi. Nhưng từ khi có mõ ở chùa làng, sư thầy ra đi vì đã có mõ để gửi gắm công việc ở làng.

Nghe nói sư thầy ra tỉnh để nhận trụ trì ở một ngôi chùa to hơn. Từ đó đến nay, chùa làng không có sư, chỉ có mõ sống thui thủi một mình ở chùa cho đến ngày nhặt được tôi.

Mõ chỉ lên bát hương đặt sau ban thờ Thành Hoàng làng và nói với tôi, hăm hai tháng chạp là ngày giỗ của chồng mõ, sau này mõ khuất núi, con nhớ thắp hương cho linh hồn ông ấy khỏi tủi phận.

Mỗi lần mõ ốm là tôi lại khóc vì sợ mõ chết, bỏ tôi lại một mình. Mõ thương tôi, nước mắt đục rỉ ra từ hai khóe mắt nhăn nheo. Mõ thều thào: “Ông trời không lấy đi của ai tất cả. Con cố gắng sống và kiếm đứa con mà nuôi. Người như con lấy chồng chắc là khó, không ai người ta thương mình tàn tật đâu con. Kiếm lấy mụn con, sau này nương tựa lúc tuổi già”.

Mõ ốm nằm liệt giường 2 năm rồi mới mất. Có lẽ mõ thương tôi, đi không dứt nên cứ leo lắt sống để mỗi ngày lại bày dạy cho tôi thêm một việc quan trọng ở đời mà lúc sinh thời có thể mõ đã dại dột mà đánh mất. Cứ mỗi lần mõ định đi, mõ lại kêu tôi đến bên giường, thều thào cái điệp khúc ông trời không lấy đi của ai tất cả, cố gắng kiếm lấy đứa con để nương tựa, đừng sống một mình thui thủi như mõ…

Nhưng không ai cưỡng được sinh lão bệnh tử. Cuối cùng mõ cũng rời bỏ ngôi chùa làng và tôi để trở về cõi âm trong một ngày mùa đông hửng nắng. Tôi buồn đau đến nỗi không thể gắng gượng được để lo tang ma cho mõ. Hội người cao tuổi trong xã lo đưa mõ ra đồng an nghỉ ngàn thu.

Cuộc sống trong ngôi chùa hẻo lánh những ngày không có mõ buồn hiu hắt. Năm đó tôi bước sang tuổi 18. Một mình trong ngôi chùa làng tôi vào ra thơ thẩn vì nhớ mõ. Tôi khóc nhiều lắm, khóc vì mất một người thân duy nhất để nương tựa trên đời. Mõ vừa là mẹ, vừa là cha, chăm sóc tôi từ khi tôi đỏ hỏn. Thế nên mất mõ, tôi thấm thía thế nào là mồ côi, là cô độc.

Năm đó, có thể là phép nhiệm màu đầu tiên của đời tôi đã xảy ra. Tôi vẫn chua chát nghĩ vậy mỗi lần nhớ đến sự kiện đó. Sau này càng ngẫm, tôi càng tin rằng mõ đã xui khiến cho tôi có sự gặp gỡ như vậy. Linh hồn mõ đã không bỏ rơi đứa con côi cút của mõ nhặt về. Sau này, trong tận cùng của cơn bĩ cực, tôi vẫn không một lần nào oán hận người đàn ông đã cho tôi một đứa con, dù đứa con đó đau ốm và bệnh tật từ trong trứng nước.

Tôi không một lần oán hận số phận, dù cuộc sống của tôi toàn những bất hạnh và buồn đau. Tôi tin lời mõ và luôn tâm niệm một điều, ông trời sẽ không lấy đi của ai tất cả.

Những ngày tháng sau cái chết của mõ, tôi rất buồn. Trong làng, các bậc cao niên sau cái chết của mõ già cũng đã họp và bàn bạc cử người ra trông chùa. Không thể để cho một đứa con hoang, lại là con gái, tàn tật như tôi không rõ gốc gác ở đâu, do mõ già nhặt về, giờ lại thay mõ coi sóc chùa làng được. Sớm muộn gì thì tôi cũng phải ra đi. Nếu tôi có ở lại thì cũng phải có người chính để coi chùa làng, tôi mới chỉ là một đứa con gái 18 tuổi, không thể đảm đương công việc soạn sửa ở chùa của làng. Nếu có thì tôi chỉ là làm những việc phụ giúp ở chùa làng thôi chứ không thể đứng ra thay mõ được. Điều đó khiến tôi càng buồn bã, mất phương hướng hơn.

Trong làng có một ông giáo già đã về hưu thường hay ra lễ chùa và cứ ngày rằm mồng một lại viết chữ nho cho dân làng ra xin sớ về dâng lễ ở gia tiên. Ông giáo dạy tôi chữ quốc ngữ để cho tôi biết đọc biết viết. Và điều gì đến đã đến. Tôi chưa kịp nghĩ đến việc sẽ xin ai đó một đứa con bầu bạn sớm hôm lúc tuổi già thì tôi đã bị chính ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi cam phận và nhớ lời mõ dặn, thôi thì đây cũng là cơ hội cho tôi kiếm đứa con mà không phải mất công mất sức đi xin ở đâu xa, mà xin chắc gì thân phận tàn tật như tôi người ta đã cho.

Sau mấy lần cưỡng hiếp tôi, ông giáo già nói với tôi: “Ông được người làng cử ra trông chùa làng thay mõ. Ông thương mày côi cút, cho mày đứa con để bầu bạn lúc tuổi già. Mày có chửa thì đừng ở lại đây nữa mang tiếng cho cả ông và mày. Ông già rồi, có gia đình, con cháu đã phương trưởng ông không thể cưu mang mày được. Mày còn trẻ, ông cho mày ít tiền, ông dạy mày biết đọc biết viết rồi, mày ráng lên thành phố mà tìm cơ hội để làm việc sinh con làm lại cuộc sống, đừng có ở đây, mà chết già. Mày đi đi, đừng bao giờ trở về làng nữa mà tủi nhục con ạ”. Đau đớn và tủi nhục, tôi khăn gói quần áo và cầm ít tiền ông giáo chuẩn bị cho rồi ra đi.

Chưa một lần được hưởng lạc thú giữa đàn ông và đàn bà, hay được hưởng niềm hạnh phúc bình thường của một người con gái, một người đàn bà có một người đàn ông chăn gối cho đúng nghĩa, tôi đã mang thai và có con trong hoàn cảnh trớ trêu và bi kịch như vậy. Cắn răng lên thành phố, tôi xin việc ở một gánh chè trong ngõ. Ngày đi làm, tối về ngủ ở gầm cầu xó chợ. Khi cái bụng chửa đã vượt mặt, tôi đến cửa chùa xin được nương tựa để sinh con.

Nhưng chưa thấy ông trời thương tình ở đâu, chỉ thấy ông trời luôn tàn nhẫn với tôi, một số phận quá bất hạnh. Tôi sinh con trong thiếu thốn, bản thân thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng nên tôi đã không biết để tiêm phòng cho con. Con gái tôi lên 5 tuổi bị ốm một trận, hai chân teo tóp lại không đứng vững được nữa. Tôi đưa con đi khám mới biết con bị bại liệt do sơ sinh không được chủng ngừa đầy đủ. Nước mắt tuôn rơi, tôi ôm con mà chỉ muốn được đi ra cây cầu, đứng trên đó mà gieo mình xuống lòng sông để dòng nước cuốn mẹ con tôi trôi đi mãi, để tôi không phải sống kiếp người đau khổ…

Mình tôi tàn tật, tứ cố vô thân đã là cực khổ, tủi phận; đằng này, làm mẹ đơn thân, rồi lại sinh ra đứa con nhưng do thiếu hiểu biết, tôi đã vô tình làm hại con, tước đi cuộc sống bình thường lành lặn của con gái tôi, đó là một tội lỗi mà tôi không thể tha thứ cho bản thân được.

Khi bác sĩ giải thích căn bệnh bại liệt của con vô phương cứu chữa, và khả năng con phải đối diện với việc không còn đi lại được nữa, cả cuộc đời sẽ gắn liền với chiếc xe lăn mà tôi gần như ngất đi. Tôi ôm con trên tay, nước mắt tuôn rơi lã chã. Tôi không biết kêu ai, không biết than thở cùng ai. Tôi hận cuộc đời, hận chính bản thân mình, và tôi rơi vào tận cùng của tuyệt vọng. Tôi ôm con từ bệnh viện trở về nhà trọ đi như trôi trong vô định, mấy lần đứng sững trước làn đường ôtô đang chạy. Tôi chỉ muốn được chết.

Từ đó trở đi, tôi thường xuyên nghĩ đến cái chết. Tôi muốn kết thúc hết những đau khổ hiện tại để giải thoát cho cả hai mẹ con. Tôi không thể gắng gượng để sống tiếp. Tôi không dám nhìn vào đôi chân bại liệt của con, càng không dám hình dung con tôi sẽ lớn lên như thế nào trên chiếc xe lăn. Tôi khèo tay, đã đủ khổ, giờ con tôi hai chân không đi lại được, nó sẽ khổ cực gấp trăm lần tôi. Sau này tôi già đi, không đi làm được nữa, ai sẽ chăm sóc cho con tôi, ai sẽ nuôi nấng nó, ai sẽ bao bọc cho cuộc đời nó.

Chỉ nghĩ đến đấy thôi, nước mắt tôi đã lại tuôn rơi. Tôi không muốn tiếp tục với bể khổ trên vai. Tôi muốn tìm cách để kết thúc. Tôi sám hối trước con, bao nhiêu lần tôi ý định tự tử cùng với con nhưng mỗi lần bế con lên, nhìn gương mặt như thiên thần của con gái, nụ cười rạng rỡ của con, tôi không cầm lòng nổi. Không ít lần tôi ôm con gái tôi đi lên trên những chiếc cầu vắt qua sông Hàn với ý định sẽ nhảy xuống dòng sông chảy xiết để kết thúc những đau khổ ân hận. Nỗi ân hận giày vò tôi, hành hạ tôi, vì tôi mà con gái tôi tật nguyền, rằng tôi đã hại đời con gái mình một cách ngu xuẩn.

Chính sự thiếu hiểu biết của tôi mà con gái tôi mất đi sự cử động phát triển bình thường của một đôi chân. Càng nghĩ đến điều đó, tôi càng đau đớn, càng cảm thấy tội lỗi với con. Càng ân hận, lại càng nghĩ quẩn, vì thế tôi chỉ muốn được chết để giải thoát tất cả. Nhưng không biết có phải ông trời đã không lấy đi của ai tất cả như lời mõ già nói năm xưa không mà mỗi lần ôm con gái lên với ý định gieo mình xuống sông thì con gái tôi lại ngước ánh mắt trong veo ngây thơ nhìn tôi và nhoẻn miệng cười.

Con bập bẹ gọi mẹ, dụi mái đầu tóc tơ vào ngực tôi lần tìm bầu sữa mẹ. Con gái tôi gọi Mẹ! Mẹ! âu yếm như trong con chưa từng trải qua những cơn đau thể xác ở đôi chân. Con gái tôi vẫn lớn lên, với một sức sống mãnh liệt vô cùng. Con không đi được thì con bò, con lết chân rất nhanh và lúc nào cũng nhoẻn miệng cười với mẹ. Con gái tôi đã níu tôi lại với cuộc đời, ràng buộc tôi vào sự sống mãnh liệt của nó. Và tôi đã thua cuộc. Con gái tôi dù bị tật nguyền hai chân, con không chạy nhảy được, không chơi được cùng với các bạn cùng trang lứa nhưng con luôn tỏ ra là đứa bé lạc quan yêu đời.

Từ bé con đã như biết thân biết phận mình nên rất ít khi con quấy khóc. Con là đứa trẻ vui vẻ, thông minh và đáng yêu. Con cười suốt và luôn mang lại niềm vui cho tôi. Tôi cắn răng nuôi con lớn lên chấp nhận hoàn cảnh. Tôi mang con vào xin tá túc ở chùa. Ngày ngày tôi đi phụ bán chè, tối về lại vào chùa chăm con tìm chốn trú chân mưa nắng.

Con gái tôi thích đi học. Tôi không thể tước đoạt niềm khát khao của con. Hằng ngày tôi cõng con đến trường và chiều lại đến cõng con về. Suốt 5 năm cấp 1, dù mưa hay nắng, tôi đều dành thời gian để đưa con đến lớp mà không bỏ buổi nào trừ những hôm không may con bị ốm.

Lúc đầu tôi chỉ nghĩ cho con học đủ để biết đọc biết viết là được, rồi cho con ở nhà chăm sóc nuôi nấng giúp đỡ con, hai mẹ con nương tựa vào nhau mở gánh chè để sống. Nhưng con gái tôi rất thông minh, học giỏi xuất sắc, các thầy cô giáo rất yêu quý cháu và gần như miễn giảm hết các khoản nộp ở trường lớp để động viên con tiếp tục tới trường.

Nguyện vọng của con gái tôi là được tiếp tục học lên nữa nên tôi đã không thể tước bỏ ước mơ của con. Tôi đã tước bỏ đôi chân của con, làm cho con chịu đời sống tật nguyền, giờ đây tôi không có quyền để tước đoạt ước mơ của con. Nhà chùa nơi mẹ con tôi xin ghé nhờ tá túc người ta quyên góp mua tặng cho con gái tôi một chiếc xe lăn.

Từ đó khi con gái tôi lên cấp 2, con được bạn qua chùa đẩy xe lăn giúp con gái tôi tới trường. Niềm vui vì con ngoan, học giỏi đã giúp tôi vượt qua bao khó khăn cực khổ, giúp tôi vượt qua nỗi tủi hận về thân phận mình vốn đã chôn sâu trong tận cõi lòng.

Con gái tôi lớn lên như một phép màu cuộc đời đậu xuống cuộc sống khốn khổ và bất hạnh của tôi. Cùng với chiếc xe lăn con vượt qua bao gian khó để đến với những ước mơ của riêng con. Con vượt qua bao kỳ thi học sinh giỏi, qua bao thử thách của số phận để đón những điều tốt lành. Con thi đỗ vào Đại học Ngoại thương, một ngôi trường mà bao bạn bè lành lặn khác, có điều kiện sống tốt hơn con nhưng vẫn không với tới. Con trở thành sinh viên đại học trên chiếc xe lăn, và ngày tốt nghiệp đại học, con được một công ty lớn mời con về làm việc.

Thưa các anh các chị!

Từ ngày con gái tôi vào một công ty tài chính của nước ngoài làm việc, hai mẹ con tôi không phải tá túc ở chùa nữa, con gái đã đưa lương về phụ đỡ mẹ để mẹ có thể tìm chỗ thuê nhà. Tôi cũng đã mở được gánh chè trong hẻm bán cả ngày. Những đồng tiền dành dụm từ mồ hôi nước mắt của tôi từ gánh chè giờ không cần dùng đến nữa. Tôi tích cóp lại trong sổ tiết kiệm để mơ ước có một ngày mẹ con tôi mua được một gian nhà nhỏ trong thành phố để ở, để cho hai mẹ con an tâm có một chỗ của riêng mình.

Nhưng mơ ước chỉ là ước mơ thôi vì tiền lãi lời từ gánh chè có đáng là bao. Con gái đi làm lương đã có thể đủ trang trải cho cả hai mẹ con một cuộc sống không quá khổ nữa. Với đôi chân tật nguyền, chiếc xe lăn sớm tối, con gái bé nhỏ của tôi đã đến và bước vào đời sống này như một niềm ân huệ trời ban cho người mẹ đau khổ là tôi

Nhưng các anh chị ơi!

Phép nhiệm màu đã đến với mẹ con tôi không phải con gái tôi làm được tiền, hay có công việc ổn định, mà con tôi đã có một người đàn ông đích thực, một người đàn ông giàu yêu thương đã đến từ phía bên kia quả địa cầu và chia sẻ cùng con hành trình trên đường đời phía trước.

Ngày có một người đàn ông cao lớn, mắt xanh, tóc vàng đẩy xe lăn đưa con gái tôi về nhà và quỳ xuống nắm lấy hai bàn tay tôi nói bằng ngôn ngữ tiếng Việt rất sõi rằng: “Mẹ ơi, con xin phép mẹ cho con được yêu thương Nga và cưới cô ấy về làm vợ. Con nguyện cả đời chăm sóc và yêu thương cô ấy mẹ ạ” thì trái tim tôi vỡ òa ra nức nở.

Cả đời tôi không biết bố mẹ là ai. Cả đời tôi không được gọi một tiếng bố tiếng mẹ. Tôi chỉ có mõ già, lớn lên trong côi cút, hiu quạnh. Đời tôi chưa một lần được yêu đương, tôi có thai từ những lần bị ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi sinh con gái ra trong tận cùng cay cực. Vì ám ảnh tội lỗi mình gây ra cho con, khiến cho tôi khép chặt lòng mình vĩnh viễn, tôi ở vậy để dồn tất cả tình yêu thương, mối quan tâm để nuôi dạy con nên người. Tôi cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con gái tôi có thể học lên được đại học, tốt nghiệp giỏi, rồi ra trường có được một công ty lớn mời về làm việc. Càng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con có được một chàng trai yêu thương và lấy làm chồng.

Nếu có mơ thì cũng chỉ dám mơ con gái tôi tìm được người cùng hoàn cảnh, thấu hiểu hoàn cảnh thiệt thòi của nhau mà có thể thương yêu nhau nên vợ nên chồng. Càng không bao giờ dám hy vọng có một người con trai khỏe mạnh lành lặn đường hoàng thương con gái tôi chứ chưa nói đến việc chọn con gái tôi làm vợ.

Ấy thế mà đứa con tật nguyền không nhà, không cha là bé Nga nhà tôi không những trở thành một nhân viên giỏi, được bạn bè đồng nghiệp quý trọng, con còn tìm được tình yêu của một người đàn ông xuyên biên giới. Cậu ấy là người Pháp, cùng làm việc trong công ty tài chính mà con gái tôi đang làm hiện nay, và chàng trai đó đã về tận ngôi nhà thuê trọ nhỏ bé trong hẻm để quỳ xuống xin phép tôi chấp nhận cho cậu ấy được lấy bé Nga làm vợ.

Kính thưa các anh các chị!

Cuộc đời tôi có là mơ không. Đám cưới của con gái tôi được các đồng nghiệp ở công ty tổ chức một bữa tiệc nhỏ ấm cúng ở Việt Nam. Bố mẹ con rể tôi bay từ Pháp sang dự tiệc và đến tận nhà trọ nơi hai mẹ con tôi ở để ăn bữa cơm thân mật do tôi tự tay nấu, các con tôi đang đi hưởng tuần trăng mật tại Phú Quốc. Bố mẹ chồng của con gái tôi đã bay trở về Pháp để chuẩn bị tổ chức tiệc cưới vào đúng ngày Valentin cho cả hai đứa ở bên Pháp. Vé máy bay mời dự đám cưới của con gái ở Pháp cũng đã được con rể tôi mua sẵn cho mẹ vợ rồi. Nhiều lúc tôi không dám tin đây là sự thật nữa.

Tôi viết những dòng chữ này để chia sẻ câu chuyện của đời tôi mà nước mắt tôi chảy giàn giụa. Tôi nhớ mõ già, người đã nhặt tôi ở cổng chùa về nuôi, người đã trao cho tôi một niềm tin mãnh liệt để sống, để vượt qua cay đắng tủi cực. Tôi nhớ mõ luôn động viên tôi: “Con hãy tin đi, ông trời không lấy đi của ai tất cả”. Tôi đã sống bằng niềm tin mong manh ấy. Tôi đã đến được bến bờ hạnh phúc cũng chỉ bằng một niềm tin bé nhỏ trong vũ trụ bao la này.

Thưa các anh các chị!

Tôi định khi các con ổn định sau đám cưới, tôi sẽ kể cho con gái tôi nghe gốc gác của con và ai là bố của con. Tôi sẽ dẫn con gái, con rể tôi trở về làng, vào ngôi chùa làng để thắp nén hương, lạy tạ cho Mõ già, cho Đức Phật ở đó. Tôi tin rằng, Mõ già vẫn dõi theo tôi và chở che cho tôi đến được bến bờ hạnh phúc hôm nay.

Và còn một điều nữa, tôi muốn con tôi biết mặt bố, cho dù ông ấy là một kẻ hèn hạ, độc ác, hay giờ chỉ còn là một nấm mộ ngoài nghĩa trang đi chăng nữa thì con tôi vẫn có quyền được biết bố của mình là ai, và tôi cũng nói với ông ấy một lời hàm ơn rằng vì ông ấy mà tôi có được kho báu của đời mình.

Đà Nẵng (NTMN)

 From: Phong Dương

Người Việt Nhưng Không Phải Người Việt

Người Việt Nhưng Không Phải Người Việt

Câu nói này có khó hiểu hay không? Vì sao người Việt nhưng không phải là người Việt

Đây là nhan đề một bài báo của Bác Sĩ Trần Văn Tích, một nhân sĩ ở Đức Quốc đã lên tiếng kêu gọi chính quyền và quần chúng địa phương xác định rõ ràng rằng cộng đồng tị nạn ra đi từ miền Nam Việt Nam không dính dáng gì đến những tội hình và tội hộ do người Việt gốc gác ở miền Bắc gây ra trên đất Đức.
 
Câu chuyện khởi đi từ một việc xảy ra cách đây vài năm tại một thành phố nhỏ, Andernach, nước Đức. Đó là câu chuyện về con mèo Mungo. Một người Việt tên Trần Quý, gốc gác từ miền Bắc Việt Nam, đã bắt một con mèo của một người cao niên hàng xóm, đốt nó bằng một ngọn đèn xì hiệu benson, để nhậu nó với nước mắm, nước cốt chanh, rau thơm và tỏi, vì “nhớ hương vị quê hương!”

Tin tức tai tiếng này được loan tải trên nhiều tờ báo cả tiếng Anh lẫn tiếng Đức ở Âu Châu. Đặc biệt trong trường hợp Trần Quý được ghi đầy đủ tên họ, không phải như những trường hợp khác tên của can phạm được viết tắt. Cả cộng đồng dân cư Andernach náo động. Hai bà hàng xóm của Trần Quý, Christina Sarwatka và Stephanie Jung kêu cứu với cảnh sát. Tất cả những con mèo ở Andernach đều bị “cấm trại” 100%. Ba mươi con mèo đã bị mất tích, người ta đồ chừng, chúng đã đi qua lò nướng của Trần Quý.

Một vết dơ vấy lên mặt thủ phạm hay lây lan qua chúng ta, và người Đức sẽ nhìn tất cả người Việt ở đây như thế nào?

Nhân danh Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại CHLB Đức, Bác Sĩ Trần Văn Tích đã viết thư cho Sở Cảnh Sát Andernach, trấn an giới chức công quyền địa phương là người tị nạn Việt Nam không có thói quen ăn thịt mèo và xin hai bà hàng xóm của gia đình thủ phạm giết con mèo Mungo nhận cho lời chia buồn và niềm tiếc nuối.

Trước năm 1975, nhiều sinh viên kỹ thuật miền Nam đi du học ở Tây Đức, là những thành phần chống Cộng nổi tiếng. Sau 1975, một số thuyền nhân vượt biên được vào tỵ nạn tại Đức Quốc, đương nhiên là những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản Bắc Việt, thường chọn Đông Âu và Nga Xô để xuất ngoại. Sau khi Liên Xô sụp đổ, rất đông những người Việt của miền Bắc từ Nga đã di cư sang Đông Âu. Khi nước Đức thống nhất, người Việt gốc gác từ Miền Bắc đều xin định cư ở lại nước Đức.

Hiện nay, các quốc gia có nhiều người Việt định cư trên thế giới, như nước Đức, nửa quốc gia nửa Cộng Sản. Phần nửa Cộng Sản làm xấu mặt phần nửa quốc gia vì các nạn trộm cắp, băng đảng, trồng cần sa, buôn lậu…

Nhiều băng Bắc Việt đã trồng cần sa tại trại Atzendorf, tiểu bang Sachsen-Anhalt, thuộc lĩnh vực Đông Đức cũ, rửa tiền bất hợp pháp. Ngay cả đại sứ Việt Cộng tại Thổ Nhĩ Kỳ, mang vào Đức gần hai chục ngàn Euro mà không khai báo.

Nhân viên Đại Sứ Quán Việt Cộng nhập bệnh viện điều trị, phí tổn lên đến từ 10 đến 15,000 Euro, nhưng không chịu thanh toán.

Chỉ trong vòng ba năm trước ngày Phạm Thị Hoài lên tiếng về “nghề ăn cắp của người Việt tại Đức” (tháng Bảy, 2015) mỗi năm cộng đồng 84,000 người Việt tại Đức, đã có 5,000 mang tội hình sự, trong đó đã có 1,000 vụ ăn cắp, còn tệ hơn người Tàu (11,000 người với 200 vụ ăn cắp mỗi năm.) Tại Đức băng đảng người Việt lộng hành, trong cuộc chiến giành thị trường thuốc lá lậu, đồng chí giết đồng chí, băng Ngọc Thiện “xử tử” sáu đối thủ trong một căn chung cư thì băng Quảng Bình đáp lễ bằng ba xác người vứt ngoài đường tàu. Thành phần chính của băng đảng là những “bộ đội anh hùng” súng ngắn giắt cạp quần.

Về chuyện người Việt ở Đức, bài báo “Người Việt ăn cắp ở Đức” của Phạm Thị Hoài đã gây chấn động. Ai cũng biết rằng người Việt được nói trong bài là người Việt mới, người Việt tiến bộ, người Việt XHCNVN. Phạm Thị Hoài kể rõ lai lịch của họ: họ gốc gác Nghệ an, Quảng bình; họ tụ tập sinh hoạt tại chợ Đồng Xuân Berlin.”

Ông Trần Văn Tích cho rằng: “Một số người Đức cũng hiểu như thế. Dẫu vậy, vấn đề thanh minh cho công luận Đức am tường sự thực vẫn thường cứ phải đặt ra.”

Trong thư gửi cho cộng đồng người Đức, Bác Sĩ Trần Văn Tích cũng xác định là Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Đức, không dính dáng gì đến Hội Liên Hiệp của người Bắc Việt tại Đức, trái lại vì biết rất rõ rằng đây là một tổ chức thống thuộc Đại sứ quán Việt cộng ở Berlin “nên chúng tôi, vì lý do an ninh bản thân, luôn luôn tìm cách xa lánh nó.”
Phải chăng vì luật pháp nước Đức quá nhẹ tay theo cách nói của Phạm Thị Hoài: “Xã hội càng yên, luật pháp càng hiền!” Luật pháp càng hiền thì người Việt “xã hội mới” ở Đức càng lộng! Trong khi người Việt ở Đức giàu có nhờ nghề thuốc lá lậu, thì bây giờ ở Anh, người Việt đua nhau trồng cần sa để mau làm giàu. Người Việt muốn làm giàu nhưng không thích cần cù làm việc, chỉ muốn đi đường tắt, hầu hết là con đường phi pháp.

Thanh niên mới đến Đức hai tuần, chưa làm đơn xin tị nạn đã hành nghề ăn cắp. Bọn này ăn mặc rất sang chảnh nên, thay vì gọi tên theo căn cước của chúng, Phạm Thị Hoài đã gọi chúng là bằng tên những thương hiệu nổi tiếng là Nike, Dolce Gabbana…
 
Nói chung, di dân từ Bắc Việt vẫn xem nước Đức là chỗ béo bở để kiếm ăn, mặc dầu ăn nhờ ở đậu nơi này, lãnh trợ cấp, chúng vẫn gọi Đức là “Phát-Xít,” “bọn Đức lợn…”
 Và gần đây vụ Bắc Việt dùng lối hành xử côn đồ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh trong một khách sạn ở Berlin, hồi tháng Bảy, 2017 đã là một giọt nước tràn ly. Ở xứ này, còn ai muốn làm người Việt Nam nữa!

 Xin hãy nghe lời kết đau đớn của một người Việt Nam tử tế ở Đức tên Trần Văn Tích: “Một người Việt Nam chỉ không muốn làm người Việt Nam nữa mà cũng thật vất vả quá chừng!”

From: Anh Dang & KimBang Nguyen

 Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria-Cha Vương

 Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay Thứ 5, 8/9, con cái Mẹ Maria trên khắp bốn phương mừng Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria. Happy Birthday Mẹ Yêu! 

Cha Vương

Thứ 5: 08/09/2022

Khi thánh Gioan Damascus dâng lễ tôn kính ngày sinh nhật của Đức Nữ Đồng Trinh Maria trong thánh đường thánh Ana ở Jerusalem, ngài long trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người hãy vui mừng lên, đây là ngày trọng đại, một niềm vui lớn lao cho toàn thế giới. Hôm nay trời đất giao hòa. Hôm nay chính là ngày bắt đầu cuộc cứu độ cho nhân loại.”

   Sứ mệnh làm Mẹ của Đấng Cứu Thế lá ánh sáng bình minh của sự cứu độ. Nếu Đấng Kitô là Mặt Trời huy hoàng của sự Công chính thì Mẹ Người là ánh sáng rạng đông. Khi một người con được sinh ra thì người ta hết lòng chúc tụng người làm cha và làm me. Thánh Damascus chúc tụng: “Ana và Joachim thật là một đôi vợ chồng có phúc! Tất cả mọi loài thọ tạo đều mang ơn của các ngài, Đấng Tạo Hóa đã ban một ân huệ cao cả vô cùng không gì sánh kịp: Phúc thay người cha và người mẹ, những bàn tay đã nâng niu âu yếm một người sẽ làm Mẹ của Đức Chúa Trời!”

    Giáo Hội đã tôn kính ngày sinh nhật của Đức Nữ Đồng Trinh cách đây sáu thế kỷ. Ngày sinh nhật được chọn vào ngày 8 tháng 9 này để trùng hợp với ngày lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội được ấn định vào ngày 8 tháng 12. Kinh Thánh không đề cập đến ngày sinh của Đức Maria nhưng được người Công giáo tôn kính như một truyền thống.

    Thánh Ana và Joachim son sẻ nhưng đã hết lòng cầu nguyện để có một người con. Các ngài nhận được lời Thiên Chúa hứa là người con đó sẽ giúp hoàn tất kế hoạch của Thiên Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Niềm tin này nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa khi Đức Maria mới được thụ thai.

     Thánh Augustine nối kết ngày sinh của Đức Maria với sứ mệnh cứu chuộc của Chúa Kitô. Thánh Augustin loan báo là thế gian hãy vui mừng lên và nhận lãnh ánh sáng khi Đức Maria được sinh ra: “Đức Nữ Đồng Trinh Maria là hoa huệ tinh tuyền chớm nở ngoài đồng nội. Nhờ Đức Maria mà số mệnh nhận loại vướng tội tổ tông đã được thay đổi.” (Nguồn: Dân Chúa)

Xin bạn hãy làm một bó hoa thiêng liêng nhỏ nhỏ (gợi ý: một việc hy sinh, đọc 1 tràng Kinh Mân Côi, xin vâng theo thánh ý Chúa…) để tặng Mẹ hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng