Lê Khôi – ĐẤU TRƯỜNG DÂN CHỦ (Nhóm Muôn Chiều)
Tháng 5 năm 1975, miền Nam mất vào tay miền Bắc. Tôi là một sĩ quan thua trận ở phía miền Nam. Ngày 07/05/75 chịu chung số phận của những người thua trận, tôi ra trình diện và được đưa đi cưỡng bức lao động ở những trại tù của phe thắng trận. Khi tôi đi vợ tôi mới 20 tuổi đang mang thai đứa con đầu lòng.
Ba tháng sau từ ngày tôi bước chân vô trại tù thì con tôi ra đời. Chúng tôi đã thỏa thuận nhau từ trước đặt tên con là Dương Lục Bình Hạ Uyên.
Lục bình: để nhớ ngày nước mất đẩy cuộc đời của người dân miền Nam lênh đênh như đám lục bình.
Hạ Uyên: Đôi uyên ương mùa hạ (mùa tôi từ biệt vợ con để đi vào trại giam và con tôi cũng sanh ra vào mùa hạ).
Năm 1976, khi con được gần một tuổi, vợ tôi có ẳm con vào thăm tại Đồng Găng Diên Khánh Khánh Hòa, tôi chỉ nhìn con mà ứa lệ vì không được phép ôm nó vào lòng. Cũng vào tháng 6/1976 họ chuyển tôi ra Trại A30 Tuy Hòa Phú Yên.
Cuộc sống khó khăn sau ngày đất nước rơi vào tay kẻ ác, vợ tôi từ một cô nữ sinh trắng trẻo vừa rời ghế học đường ngày nào giờ trở thành một người mẹ 20 tuổi suốt ngày dầm mình dưới nắng mưa để làm ruộng nuôi con. Khi mẹ ra đồng theo tiếng kẻng hợp tác xã thì Lục Bình lấm lem thường ở nhà chơi một mình.
Một ngày nọ Lục Bình bị tiêu chảy và lên cơn sốt. Vợ tôi mang con đến bệnh xá huyện, ở đây những bác sĩ y tá được tốt nghiệp dưới chế độ Xã Hội Chủ nghĩa chẩn đoán là con tôi bị…sốt rét. Họ điều trị bệnh một đứa bé 3 tuổi nhiễm vi trùng đường ruột bằng cách chích thuốc chống sốt rét!
Con tôi yếu ớt chịu không nổi bị xuất huyết đường ruột lên cơn co giật. Một tuần sau thì mất. Đó là tháng giêng năm 1978 con tôi được 3 tuổi và tôi ở tù cũng vừa được 3 năm. Bao hy vọng được nhìn thấy con mình được ôm nó vào lòng đã sụp đổ. Ngày con tôi mất tôi vẫn còn đang trong trại tù tương lai mù mịt không biết ngày nào được thả ra
Ba năm sau ngày Lục Bình mất, năm 1981 được thả về. Tôi ra ngồi trước nấm mộ của con mình. Tôi khóc…
NGỒI BÊN MỘ CON
Đại Chí chiều nay ba trở lại
Cắm nén nhang này trước mộ Uyên
Cảnh cũ giờ đây sau mòn mỏi
lòng ba đau tựa nhát gươm xuyên
chiều lên mờ khói nhạt
hoàng hôn ngậm cỏ sầu
não nùng con dế khóc
chim lạc cánh về đâu
Lá lìa cành run rẩy
Đảo giữa trời co ro
Nghe dường như con gọi
tiếng não nề ba ơi
Ba nhớ làm sao bóng dáng con
Thiếu tình ba thuở lọt lòng son
Hạnh phúc đâu theo người chiến bại
Con chết ba đang ngậm tủi hờn
Ba nhớ làm sao đôi mắt Uyên
Sáng như sao sáng giữa trời đêm
Sáng rọi đường ba hằng mơ ước
Một nhát gươm vung chặt xích xiềng
Ba chẳng hẹn về con vẫn đợi
Ba năm rồi suốt quãng đời thơ
Đâu biết đi là không trở lại
Là xa cách mãi đến nghìn thu
Mẹ nói con thường ra trước sân
Nẻo vắng đường xa dõi mắt trông
Lắng tiếng xe ai ngừng trước ngõ
Có phải ba về với con không
Ngục tối từng đêm ba nguyện cầu
Quì xin thượng đế rất nhiệm mầu
Xiềng xích phá tan ba trở lại
cho đời con trẻ bớt sầu đau
Trở lại thôn xưa chiều nhạt nắng
Đói khổ lan tràn khắp lối đi
Cổng trước cài then nhà sau vắng
Mộ đã xanh màu cỏ biệt ly
Cỏ đã um màu xanh thương nhớ
Bóng hình con trẻ biết tìm đâu
Ba chút tình con nay đã lỡ
Đành hẹn tao phùng ở kiếp sau
Dương Quan
* Người trong hình là vợ tôi đang ẳm Lục Bình trong những ngày đợi tôi về.