Vụ chính quyền Trump trục xuất bà Melissa Trần phơi bày bi kịch của người Việt nhập cư (BBC)

 BBCVietnamese

Cảnh sát di trú đang thực hiện một chiến dịch truy quét nhập cư bất hợp pháp vào đầu năm 2025 tại Chicago (trái); bà Melissa Tran (phải)

Sau hàng chục năm sống tại Mỹ với tấm thẻ xanh, bà Melissa Trần đã bị trục xuất về Việt Nam ngày 17/11/2025.

Hành trình bay 48 giờ được mô tả là “đầy đau khổ”.

Bà Melissa Trần, tên thật là Trần Thị Mộng Tuyền, đã bị cùm tay và chân trong suốt chuyến bay dài 48 tiếng, qua nhiều chặng dừng, từ Mỹ về Việt Nam.

Trong tin nhắn gửi luật sư, bà Melissa Trần nói rằng bà cảm thấy “bị đối xử tồi tệ còn hơn một con vật”.

Hiện bà đang ở với một người anh họ tại Việt Nam, để lại gia đình gồm chồng và bốn con ở Maryland, Mỹ.

Luật sư của bà Melissa Trần nói với BBC News Tiếng Việt rằng vụ trục xuất là “một bi kịch”, trong khi cộng đồng ở Mỹ vẫn đang nỗ lực để đưa bà trở về Mỹ.

“Bà Melissa Trần nhận được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng địa phương.”

“Tất cả những người quen biết bà ấy đều đã bày tỏ rằng họ sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ bà ấy.”

“Cần thấy rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng về mặt tư pháp và chúng ta cần tìm cách đưa bà ấy trở về,” luật sư Jennie Pasquarella nói với BBC News Tiếng Việt, và nhấn mạnh rằng việc này hiện đang phụ thuộc rất lớn vào các chính trị gia Mỹ.

Về khả năng bà Melissa quay lại nước Mỹ, bà Pasquarella nói “khó” nhưng “vẫn có thể”.

Bà Jennie Pasquarella cũng chỉ trích cách thức mà chính quyền Mỹ đối xử với những người bị giam giữ hoặc bị trục xuất, như cùm tay chân họ, là đi ngược lại hiến pháp và và các chuẩn mực quốc tế, có thể cấu thành hành động “tra tấn”.

“Luật pháp Mỹ quy định chính phủ không được phép giam giữ người nhập cư chỉ nhằm mục đích trục xuất, theo cách có tính chất trừng phạt như thể họ đang bị xử lý vì một tội hình sự,” bà Jennie Pasquarella lý giải.

Bà cho rằng đây là một chiến dịch nhằm khiến người nhập cư khiếp sợ và tự nguyện rời đi.

Phóng viên BBC từng tới thăm một trung tâm trục xuất ở New York và chứng kiến cảnh những người di cư bị “đối xử như thú vật”, khiến nhiều người sang chấn tâm lý.

Luật sư Jennie Pasquarella và bà Melissa Trần

Bà Melissa Trần từ Việt Nam đến Mỹ vào năm 1993, khi mới 11 tuổi, với tư cách là người tị nạn.

Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp.

Năm 2001, bà bị kết tội trộm cắp.

Trong thời gian 2003-2004, tòa di trú ra lệnh trục xuất bà, nhưng Việt Nam từ chối nhận lại, nên bà vẫn được ở Mỹ và đi trình báo đều đặn với Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) suốt hơn 20 năm.

Bà khai rằng khi còn trẻ, bạn trai cũ của bà trộm tiền của một chủ lao động, nhưng bà nhận tội, hoàn trả số tiền đánh cắp và ngồi tù sáu tháng, theo luật sư.

Thời điểm đó, bà không biết rằng thỏa thuận nhận tội trong vụ án này có thể dẫn đến việc bà bị trục xuất.

Điều này có nghĩa, về mặt luật pháp, bà Melissa Trần sau khi lãnh án tù đã nằm trong danh sách có thể bị trục xuất.

Điều đáng nói là trong nhiều năm, Việt Nam không nhận những người tị nạn rời khỏi đất nước trước năm 1995.

Do đó, bà Trần trong suốt những năm qua vẫn sinh sống bình thường tại Mỹ và chỉ phải đi trình diện viên chức di trú theo quy định – điều mà bà vẫn tuân thủ.

Đây là một thủ tục đăng ký thông thường mà bà đã thực hiện trong hàng chục năm qua: trình giấy tờ tùy thân, sau đó quan chức ICE cấp cho bà một ngày hẹn tiếp theo để ra trình diện.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump.

Chính phủ Việt Nam gần đây đã chấp thuận những trường hợp bị Mỹ trục xuất và là những người rời Việt Nam trước mốc 1995.

Hồi tháng 2/2025, chính phủ Việt Nam đã cam kết hỗ trợ việc hồi hương của hàng chục công dân bị giam giữ tại Hoa Kỳ và nhanh chóng xử lý các yêu cầu trục xuất mới sau khi chính quyền ông Trump đe dọa áp thuế thương mại và trừng phạt thị thực.

Tháng 10/2025, bà Melissa Trần bị bắt giam khi ra trình diện ICE, sau đó bị giam năm ngày ở Baltimore, Maryland “mà không có lời giải thích”.

Sau đó, bà Melissa Trần được cho về nhà nhưng rồi bị bắt lại vào lần trình diện kế tiếp hồi tháng 11/2025, bị tạm giam, sau đó bị đưa lên máy bay đến Louisiana, rồi lên máy bay về Việt Nam, mà “không có bất kỳ thông báo nào”.

Một trong những giải pháp được xem là mang lại nhiều hi vọng nhất hiện nay là xin ân xá cho bà Melissa Trần từ thống đốc sắp nhậm chức của bang Virginia – nơi bà Trần bị kết tội trộm cắp.

Tuy nhiên, quy trình xin ân xá này rất khó khăn và sẽ kéo dài, theo luật sư.

Trong khi đó, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã trả lời về vụ việc của bà Trần:

“ICE đã bắt giữ Trần Thị Mộng Tuyền, một người nhập cư bất hợp pháp từ Việt Nam, với tiền án bao gồm làm giả, trộm cắp, gian lận và viết séc gian lận. Một thẩm phán di trú đã ban hành lệnh trục xuất cuối cùng cho bà vào năm 2004. Bà ấy có hơn 20 năm để rời khỏi Hoa Kỳ và được hưởng đầy đủ quy trình tố tụng hợp pháp,” Trợ lý Bộ trưởng An ninh Nội địa Tricia McLaughlin viết trong phản hồi với kênh truyền thông WJZ Investigates. “Thông điệp của Tổng thống Trump và Bộ trưởng Noem rất rõ ràng: người nhập cư bất hợp pháp phạm tội không được chào đón tại Hoa Kỳ.”

Thượng nghị sĩ Dân chủ Chris Van Hollen của Maryland đã lên án vụ trục xuất bà Trần, theo CBS News, và nói rằng đây là một câu chuyện “quá bi thảm”, “không đáng để xảy ra”, và rằng văn phòng của ông sẽ nỗ lực đưa bà quay về Mỹ.

Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã bị trục xuất, hàng ngàn người nằm trong nguy cơ cao

Nhiều người Việt đã rời đất nước để sang Mỹ tị nạn sau 30/4/1975

Trong vài tháng qua, đã có hàng trăm người gốc Việt bị Mỹ trục xuất về Việt Nam, đặc biệt trong các tháng Sáu và Bảy, theo luật sư.

Chính phủ Mỹ và Việt Nam không công bố chính thức các con số này.

Ước tính hiện có khoảng 16.000 người từ Đông Nam Á – gồm Việt Nam, Campuchia và Lào – có lệnh trục xuất của chính phủ Mỹ, nhưng chưa bị trục xuất.

Những người này hiện đều có nguy cơ bị giam giữ và trục xuất ngay lập tức, trong khi chính phủ Mỹ đang cố gắng yêu cầu các quốc gia quê hương của họ cấp giấy tờ hồi hương.

Trong trường hợp các quốc gia này không đồng ý, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ cố gắng trục xuất họ sang một nước thứ ba, luật sư cho hay.

“Đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với những trường hợp này, bởi vì việc trục xuất sang nước thứ ba sẽ đưa họ đến những nơi mà họ không có bất kỳ mối liên hệ nào.

“Thường là trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, bao gồm cả việc một số người bị bỏ tù ngay khi họ đặt chân tới nơi.

“Và mọi thứ đều được thực hiện trong bí mật. Chính phủ không hề thông báo trước cho họ rằng họ đang bị đưa tới một nước thứ ba. Họ [chính quyền] cũng không cho họ bất kỳ cơ hội nào để phản đối quyết định trục xuất đó,” luật sư Jennie Pasquarella nói.

Tháng 7/2205, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã nối lại các chuyến bay trục xuất người nhập cư bằng việc đưa năm người từ Việt Nam, Lào, Jamaica, Cuba và Yemen đến Eswatini, một quốc gia nhỏ bé ở miền nam châu Phi.

Một công dân gốc Việt khác bị Mỹ trục xuất sang Nam Sudan hồi tháng 5/2025.

Chấn thương từ Chiến tranh Việt Nam

Nhưng người Việt chạy khỏi Sài Gòn sau năm 1975 để tới Mỹ tị nạn chịu nhiều vết thương tâm lý chồng chất, theo luật sư Jennie Pasquarella

Theo bà Jennie Pasquarella, điều quan trọng là cần phải nhìn thấy toàn bộ bức tranh của việc trục xuất này.

Đó là bức tranh về một cộng đồng người Việt phải di cư sang Mỹ sau khi “chính phủ Mỹ đã can thiệp vào đất nước của họ” thời Chiến tranh Việt Nam.

Những người này chịu các chấn thương tâm lý chồng chất, theo luật sư.

Họ cũng chính là lớp người rời Việt Nam trước năm 1995 mà nay chính phủ Việt Nam mới tiếp nhận họ (trong trường hợp bị Mỹ trục xuất).

Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở Đông Dương. Khoảng 1,5 triệu người Việt đã phải rời bỏ đất nước do cuộc chiến này. Một phần rất lớn trong số đó định cư tại Mỹ.

Người nhập cư Việt Nam và con cái của họ chào đời tại Hoa Kỳ tạo nên một trong những cộng đồng người di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, với 2,3 triệu người.

Khi đến Mỹ, những người vừa trải qua cú sốc chiến tranh và lìa xa quê hương lại trải qua một cú sốc khác do thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ dành cho cộng đồng người tị nạn.

Theo luật sư, nhiều người nhập cư mà bà từng tiếp xúc đã trải qua những khủng hoảng về sức khỏe tâm thần. Đây cũng chính là lý do khiến họ hoặc con cái họ phạm tội thời thanh thiếu niên.

Do Việt Nam không tiếp nhận họ, những người này tiếp tục ở lại Mỹ và đã xây dựng một cuộc sống ổn định, khiến bà Jennie Pasquarella cho rằng “rất đau lòng” khi họ bị trục xuất.

“Phần lớn những người hiện nay bị đưa vào diện trục xuất đều trên 40 tuổi. Họ có sự nghiệp, họ đã học hành ở đây, họ có con, có cháu.

“Họ không biết gì về Việt Nam, và vì thế mức độ tổn hại giờ đây nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc họ bị trục xuất cách đây 20–30 năm,” luật sư nói.

Luật nhập cư ‘lỗi thời’

Nguồn hình ảnh,

Bà Monica Moreta Galarza bị quật ngã xuống đất khi chồng bà bị bắt bên ngoài tòa án di trú ở thành phố New York

Luật nhập cư được cập nhật lần cuối vào năm 1996 và những thay đổi khiến luật này trở nên hà khắc hơn rất nhiều và làm tăng hậu quả cũng như hình phạt cho những trường hợp như bà Melissa, theo luật sư Jennie Pasquarella.

Nhiều thay đổi cần phải được chỉnh sửa. Nhưng bà Jennie Pasquarella tin này điều này sẽ không xảy ra với một Quốc hội hiện tại mà bà đánh giá là không hiệu quả.

Vụ việc của bà Melissa Trần phản ánh rõ luật nhập cư của Hoa Kỳ lạc hậu đến mức nào, theo luật sư.

“Luật này không tính đến thực tế rằng một người có thể mắc sai lầm từ rất nhiều năm trước, nhưng họ đã chứng minh được họ đã thay đổi hoàn toàn, họ đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Và họ không nên bị trừng phạt vì sai lầm đó suốt phần đời còn lại.”

“Nhưng bi kịch là luật không nhìn thấy con người đã thay đổi và đã làm mọi điều mà xã hội mong đợi họ làm. Về cơ bản, luật nói rằng: vâng, anh có thể bị trừng phạt suốt đời, chúng tôi không quan tâm. Bà Melissa là một ví dụ điển hình cho điều đó.”

“Có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực mà chúng ta đang chứng kiến ​​bởi chính phủ liên bang, nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng và rất khó để kiềm chế chính phủ này và buộc họ phải chịu trách nhiệm,” bà Jennie Pasquarella nói.

Với những người hiện đang trong diện bị trục xuất nhưng vẫn còn ở Mỹ, bà Jennie Pasquarell cho rằng họ nên kiếm tư vấn pháp lý trước khi bị ICE bắt giam.

“Hãy quay lại tòa án nơi họ bị kết án và xem liệu có cơ hội nào để bản án có thể được hủy bỏ hoặc sửa đổi hay không,” bà nói.

Bởi một khi đã bị ICE bắt giam, thì họ sẽ không có thời gian để thực hiện các thủ tục pháp lý để cứu mình.

Và tệ hơn nữa là khi bị trục xuất về Việt Nam, thì cơ hội để quay lại Mỹ của họ là rất mong manh, bà Jennie Pasquarell cho hay.


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA KITÔ – Lm. Hưng Phạm, S.J. 

Lm. Hưng Phạm, S.J. 

Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.  Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Rev. 3: 20)

 Mỗi ngày, chúng ta đi qua biết bao nhiêu cánh cửa mà ít khi nào để ý hay trân quý những hàm ý của sự biến đổi đang chờ đợi chúng ta ở phía bên kia.

Những cánh cửa quen thuộc trong mái nhà thân yêu: cửa phòng tắm, cửa bếp, cửa phòng ngủ vợ chồng, con cái, cửa ra vào mở ra một ngày mới.  Những cánh cửa của đời sống xã hội: cửa văn phòng, cửa nhà hàng, cửa siêu thị, cửa phòng gym, cửa sổ màn hình máy tính hay mạng xã hội.  Rồi những cánh cửa của đời sống tâm linh: cửa nhà thờ, cửa tòa giải tội.  Và không thể thiếu, những cánh cửa của các mối tương quan giữa người với người: những ánh mắt, cái bắt tay, vòng tay ôm, hay những buổi gặp gỡ…

 Ẩn sau những cánh cửa hữu hình ấy là những cánh cửa vô hình – cánh cửa của giác quan, của tâm trí, của con tim.  Những cánh cửa, dù hữu hình hay vô hình, cùng nhịp nhàng vận hành, đưa ta đi vào không gian mới, những chiều kích mới – cả thể lý lẫn thiêng liêng. 

Mở hay đóng – là những chọn lựa ta phải đối diện mỗi ngày.  Một cánh cửa mở có thể đưa đến sự sống, sự trưởng thành trong sứ vụ và ơn gọi; nhưng cũng có thể dẫn đến rạn nứt, mất mát và lầm lạc.  Mỗi quyết định, dù nhỏ nhặt như “mở hay không một trang web,” “gửi hay không một tin nhắn,” “lên tiếng hay giữ im lặng,” “tham gia hay rút lui,” “đến phòng tập thể dục hay ở nhà xem phim” – đều là những lần ta mở hoặc đóng không chỉ những cánh cửa bên ngoài, mà còn là những ngưỡng cửa sâu kín trong lòng mình. 

Những chọn lựa tưởng chừng rất bình thường ấy lại là nền tảng hình thành nên lối sống, tính cách, và căn tính của một con người.  Cánh cửa học đường và những lớp học ta chọn có thể định đoạt cả một sự nghiệp.  Một cú click chuột có thể mở ra chân trời tri thức – hoặc cũng có thể kéo ta vào hố sâu tăm tối của thất bại, thậm chí tù tội.  Mở lòng đón nhận một mối tương quan mới – có thể đem đến hạnh phúc, nhưng cũng có thể dẫn đến tổn thương. 

Không phải cửa nào cũng nên mở.  Mở toang lòng mình thì dễ khiến ta bị tổn thương.  Nhưng nếu khoá chặt tâm hồn lại, né tránh mọi tương giao, ta dễ rơi vào đơn côi mộc chiếc.  Sự khôn ngoan của một đời người hệ tại ở chỗ biết khéo léo mở sao cho đúng, khép sao cho khôn.  Bởi thế, người xưa mới dạy: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.” 

Trong văn hóa Việt hiện nay, “cửa” còn mang nghĩa ẩn dụ: là cơ hội, là đặc quyền.  Người ta hay nói: “muốn vào làm ở tòa đại sứ, mình có cửa gì đâu,” hay “đi gặp Đức Thánh Cha, làm gì mình có cửa!” – nghe những câu nói tưởng đùa nhưng lại phản ánh rất thật sức mạnh của “cửa” trong guồng máy xã hội hôm nay. 

Cửa có đóng hay mở được là nhờ có bản lề.  Bản lề – phần kết nối âm thầm giữa cánh cửa và khung cửa, giữa phần trụ và phần đi động – tuy nhỏ bé và ít được người ta chú ý đến nhưng lại là bộ phận thiết yếu làm cho cửa có thể chuyển xoay được.  Phần trụ nhờ ốc xoáy chặt vào gỗ, phần di động gồm hai bản lề xoay quanh cái trục.  Cửa chỉ đóng mở êm xuôi khi cả hai phần hoạt động nhịp nhàng với nhau.  Nếu phần trụ không vững, cửa sẽ lỏng lẻo.  Nếu phần di động thiếu dầu mỡ, cửa sẽ kêu cót két, thậm chí kẹt cứng.  Cửa lòng người cũng vậy, muốn hoạt động đúng đắn cần phải, một phần, biết gắn chặt vào những “bản lề” đạo đức tâm linh vững chắc.  Phần khác, biết mềm mại uyển chuyển trong việc hội nhập dấn thân vào nếp sống mỗi ngày với ân sủng sẵn có ở nơi đó.  

Đối với Giáo Hội Công Giáo, Cửa là biểu tượng trung tâm của Năm Thánh.  Việc bước qua Cửa Thánh của bốn Vương cung Thánh đường không chỉ đơn thuần là những hoạt động bề ngoài để làm cho có, cho xong, hay chỉ để quay phim chụp hình phô trương trên mạng xã hội.  Trọng điểm của những hành động thiêng liêng đó thật sự là một quyết định, một điều cam kết nội tâm là tôi ước ao mở lòng mình để được kết thân với Đức Kitô và bước theo lối sống của một Thiên Chúa đã và đang lao tác ở giữa chúng ta.  Hình ảnh của Đức Mẹ và các thánh in sâu vào những Cửa Thánh này là những chứng tá hùng hồn của đức tin sống động soi dẫn bước chân chúng ta hôm nay.   

Bước vào Cửa Thánh Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả, ta gặp Mẹ Maria – Người đã can đảm dám mở lòng thưa hai tiếng “Xin Vâng” tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa, ngay cả khi đối với hiểu biết con người thì không thể được.
Bước qua Cửa Thánh Thánh Phêrô, ta thấy “Đá” biết nhỏ lệ khi nhận ra lầm lỗi của mình, dẫu biết tình yêu mình chưa được trọn vẹn nhưng vẫn cố gắng trung thành yêu với cả tấm lòng, “Thầy biết hết mọi sự.  Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Qua Cửa Thánh Thánh Phaolô Ngoại Thành, ta đối mặt với vị “Tông Đồ Dân Ngoại,” Người táo bạo hiên ngang sẵn sàng từ bỏ những gì quen thuộc đi ra chốn biên cương, dấn thân “trở nên mọi sự cho mọi người” vì Tin Mừng.
Ngang qua Cửa Thánh Vương cung Latêranô, một bên ta được đón chào bằng “Tiếng kêu trong hoang địa” của Gioan Tiền Hô vẫn tiếp tục mời gọi mọi người “hãy dọn đường cho Chúa đi.” Bên kia, ta được Thánh Gioan tông đồ thánh sử nhắc nhở điều đáng khắc ghi trong lòng là Chúa Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống.” 

Cũng như Đức Mẹ và các thánh, ta chỉ có thể bước qua những cánh Cửa Thánh ấy được vì Đức Kitô đã đi trước khai đường, mở lối cho chúng ta.  Chính Người đã không khép mình vào trong địa vị Thiên Chúa, nhưng đã mở cửa trời xuống thế làm người như chúng ta.  Vì thế, Người trở nên ngưỡng Cửa cho chúng ta đi vào hầu được thông phần với bản tính Thiên Chúa.  Hơn thế nữa, cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô không những đã phá vỡ ranh giới ngăn chia giữa cung thánh và thế tục mà còn mở rộng không gian gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người – vượt cả cánh cửa của sự chết. 

Cậy nhờ vào sức mạnh của của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy mạnh dạn bước theo gương Mẹ Maria và các thánh, biết can đảm và quảng đại mở rộng tâm hồn để gặp gỡ lẫn nhau nơi chính chúng ta là.  Nơi đó, chúng ta sống biết yêu thương và sẻ chia với nhau một cách chân tình hơn.  Là những “người hành hương trong hy vọng,” chúng ta cùng tiếp tục đồng hành tiến về và bước qua Ngưỡng Cửa Kitô.  

Lm. Hưng Phạm, S.J. 

From: Langthangchieutim


 

Chấp Nhận Cuộc Đời – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Làm sao vui vẻ chấp nhận cuộc đời nếu gặp: 

1-Sự bất như ý: 

Nhìn lại quãng đời đã qua của chúng ta, chắc chắn mỗi người trong chúng ta, đa số đều gặp những hoàn cảnh bất như ý:

* Làm nghề nghiệp mà mình không thích, không phải sở trường. Tốt nghiệp ngành này lại đi làm ngành nghề khác. Riêng tôi tốt nghiệp đại học luật khoa, không làm luật sư mà làm nghề dạy học. Rồi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, lại đi tù cộng sản. Năm 1983 ở tù về, không được dạy học, phải làm nhiều nghề để sống: dạy kèm tư gia, giặt bao nylon, bán bia và nước ngọt. Qua Mỹ, làm chỗ sang băng nhạc, tiệm grocery, bán bảo hiểm.

* Nhiều người thất nghiệp, mất nhà, mất xe, không có tiền bạc, sống cơ cực, khổ sở.

* Nhiều người gặp gia đình đỗ vỡ, chia ly tan tác ngoài ý muốn, con cái thất học, nheo nhóc.

*Nhiều khi con cái không làm theo ý mình hoặc hư hỏng, không chịu học hành theo băng đảng, hút sách.

Nếu gặp sự bất như ý mà chúng ta không thể giải quyết được vì nó vượt ngoài tầm tay, sự hiểu biết, khả năng của chúng ta thì ta phải làm sao?

Chỉ có cách duy nhất là chịu đựng, không than van, và liên tục cầu nguyện. Cho nên nhà thờ, đoàn thể, các nhóm cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta chia sẻ những khó khăn, những lo âu, chán nản mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Chẳng những cầu nguyện mà còn cần phải ca ngợi Chúa về những hoàn cảnh bất như ý mà ta đã gặp phải. (1)

Đời sống tâm linh rất quan trọng. Chúng ta thường xuyên đến nhà thờ, cầu nguyện với Thiên Chúa toàn năng, chắc chắn khi Chúa đóng cửa này sẽ mở cửa khác cho chúng ta. “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gỏ thì cửa sẽ mở cho.” (Mt 7, 7-12) 

2- Bịnh hoạn, Tật nguyền 

Nhà Phật có nói: Sinh Lão Bịnh Tử. Ai trong chúng ta cũng phải đi qua con đường này. Không thoát được. 

Bịnh tật là tất yếu phải xảy ra. Khi lớn tuổi, sức khoẻ suy yếu, sinh ra bịnh tật… tiểu đường, cao máu, cao mở, đau nhức… chưa kể có người bị các chứng bịnh nan y như ung thư, đau thận, đau gan, đau phổi, đau tim, mổ tim… Không phải chỉ có những người già cả mới bịnh hoạn, có khi còn trẻ cũng đã vướng nhiều bịnh nan y rồi. Vậy làm sao được bình an khi gặp trường hợp không may xảy ra như bịnh hoạn?

 Rất khó chấp nhận hoàn cảnh đau khổ, bịnh tật. Để được an ủi, để có thể chịu đựng những đau đớn về thể xác và về tinh thần, có thể học hỏi niềm tin, niềm cậy trông của thánh Gióp, niềm tin vào Chúa để chịu đựng khổ sở, khó khăn, chịu nhục hình như các thánh tử đạo Việt Nam. Học tập gương Thánh Giu se, gương Đức Mẹ, nhất là gương Chúa Giê su chịu đựng khổ hình, đau đớn nơi thập giá. Nhờ đó chúng ta có thể chịu đựng được những đau khổ, khó khăn của chính mình. (1) 

3- Đau khổ, cô đơn. 

Sự cô đơn, sống một mình, chịu đựng hoàn cảnh trống vắng, đơn độc.

Đến lúc nào đó, một trong hai vợ chồng phải ra đi sớm. Người còn lại phải chịu đựng sự cô đơn, mất mát vô cùng lớn lao không có gì bù đấp được. Vì gặp cảnh cô đơn chúng ta mới đến với Chúa, chúng ta cần Chúa nhiều hơn nữa. Xem cô đơn là một điều kỳ diệu! 

Làm sao khám phá niềm vui trong đau khổ? 

Trong đau khổ làm sao có niềm vui? Tìm thấy “thú đau thương” chăng?

Thánh Phaolô biểu lộ ước muốn của mình là biết “thông phần những đau khổ của Đức Kitô, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người.”

Thánh nhân đã nghe Chúa phán với mình: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”

“Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.”

Hàng ngày luôn luôn thức tỉnh, học tập, cố gắng thực hành yêu thương và tha thứ. “Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44) Nói thì dễ, nhưng làm rất khó. Với sức con người bình thường chúng ta không làm được, nhưng với ơn Chúa chúng ta có thể làm được.

 4- Sự chết: 

Dầu là dân thường hay vua chúa, quan quyền, đến lúc nào đó cũng phải ra đi. Sự chết là tất yếu của đời sống của con người. Ai ai cũng trúng số “độc đắc” một lần, đó là sự chết. Nhưng vẫn có rất nhiều người, nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ chết? 

Để cảm nghiệm về cái chết, ta nên thường xuyên đi đọc kinh nhà quàn, tham dự các thánh lễ an táng, tiễn đưa những người bạn bè, người thân quen, đã ra đi, để cảm nghiệm: “rồi chính mình cũng sẽ chết” cũng sẽ nằm im lặng, bất động trong quan tài giống như thế. 

Khi nhắm mắt rồi, cát bụi lại trở về với cát bụi hư vô: 

*Khi đôi mắt nhắm nghiền và đôi tay lạnh ngắt

Quả tim không chuyển nổi máu tươi hồng

Thì danh vọng phải trả về cho sắc sắc

Thì bạc tiền đành hoãn lại chốn không không…

Những ân ái, hận thù và mưu chước

Những thăng trầm vinh nhục cũng luôn trôi. (2) 

*Đời sống con nguời mong manh, mỏng dòn:

“Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.” (Thánh Vịnh 90,10)

 *“Con đừng sợ án chết.

Hãy nhớ rằng: có những kẻ đã đi trước con,

Và sẽ có những người theo sau.

Đó là điều Đức Chúa quyết định cho hết mọi người phàm

Tại sao cưỡng lại điều Đấng Tối Cao đã muốn?” (Sách huấn ca 41, 3-4)

Đối với người kitô hữu:

 Người chết là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53)” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com). 

Đức Giê-su khi biết mình sẽ phải chết, đã nhắc đến cuộc ra đi vượt qua của Ngài để các môn đệ yên tâm và không hoảng sợ trước sự chết.Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14, 1-2). 

Trong thư Rô-ma, thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6, 8).”

Với niềm tin tưởng vào Đức Kitô, niềm an ủi lớn lao là chết không phải là yên nghỉ mà là tiếp tục sống. Vì cái chết chính là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu. Với người Ki-tô hữu, “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).

 Quả thật, với một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một niềm tin về đời sống vĩnh cửu, có sự sống lại đời sau nên trong giờ phút lâm chung thi sĩ Tagore đã thốt lên: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”. (3)

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng nói: “Sự chết cũng là một bổn phận cuối cùng mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến”. (Sách Đường Hy Vọng và Dẫn Giải) 

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng 08 năm 2021 

(1) Sách Quyền Năng của Tâm Hồn biết ca ngợi LM Nguyễn Đức Mầu

(2) Trong bài Cảm Nghĩ tuổi già:

xem thêm: Đời Người Luôn Có: 2 Thứ Không Thể Sợ

(3) Trong bài “Kitô Hữu và Sự Chết” của Aug Trần Cao Khải


 

KHỞI ĐẦU MỚI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cha của anh em… không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất!”.

“Xác thịt – một hỏng hóc cố hữu – mang một nội lực hấp dẫn ‘thừa hưởng’ từ sự sa ngã; tự nó, luôn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Nó không thể được cải tạo hay cải thiện. Hy vọng duy nhất là thực hành và thay thế toàn bộ cuộc sống bằng một khởi đầu mới trong Đức Kitô!” – M. Bubeck.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay soi rọi ý tưởng của Bubeck – rằng, mỗi cá nhân và cả cộng đoàn dân Chúa – Giáo Hội – không thể tiến xa nếu không bước vào một ‘khởi đầu mới’ trong Chúa Kitô.

“Sách An Ủi” mở đầu với những lời thật trầm ấm, Thiên Chúa phán, “Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, vì thời nô lệ kết thúc, Israel hồi hương. Nhưng hồi hương không chỉ là trở về mảnh đất cũ, nhưng còn là một ‘khởi đầu mới’ – đoạn tuyệt bóng tối lưu đày – vượt mọi chướng ngại, “Thung lũng phải lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống”. Thiên Chúa dẫn dắt dân như mục tử “ấp ủ chiên con vào lòng”. Toàn dân được quy tụ, không ai bị bỏ lại. Thánh Vịnh đáp ca reo vui, “Kìa Thiên Chúa chúng ta quang lâm hùng dũng!”.

Điều xảy ra trong Cựu Ước được hoàn tất nơi Chúa Kitô. Ngài là Mục Tử tìm kiếm từng con chiên; Ngài bước vào một nhân loại tội luỵ để phục hồi phẩm tính con cái Chúa cho mọi người không trừ ai. Giáng Sinh là khởi điểm của một ‘nhân loại mới’ được Chúa Kitô vác trên vai – mang về, chữa lành, hội nhập lại vào đàn chiên. Con chiên lạc không chỉ là ‘từng cá nhân’, nhưng còn là hình ảnh của một ‘cộng đoàn tan tác’ mà Mục Tử Kitô muốn quy tụ nên một. “Cộng đoàn là nơi khiêm hạ và vinh quang chạm nhau!” – Henri Nouwen.

Đức Phanxicô giải thích, “Trong viễn kiến của Chúa Giêsu, không con chiên nào bị ‘lạc mất hoàn toàn’, mà chỉ có những con chiên ‘phải được tìm lại!’. Không khoảng cách nào ngăn được người mục tử; cũng không đàn chiên nào có thể từ bỏ một người anh em. Tìm thấy người lạc là niềm vui của mục tử, và của toàn thể đàn chiên!”. Đó chính là chiều kích cộng đoàn của ‘khởi đầu mới’ trong Chúa Kitô: chúng ta không chỉ được Chúa tìm thấy, nhưng còn được thúc giục ‘tìm nhau!’. Không ai bước vào ‘khởi đầu mới’ một mình; chúng ta được kêu gọi nâng nhau, đỡ nhau, kéo nhau về lại “đàn” của Chúa.

Anh Chị em,

Mùa Vọng, mùa biết rằng, Thiên Chúa luôn đi tìm tôi; nhưng mọi sự chỉ bắt đầu khi tôi biết đi tìm Ngài – và trong hai chuyển động ấy, chúng ta học cách tìm người khác. “Ai là người có ý nghĩa nhất đời tôi, đó là những ai đã chọn ở lại với nỗi đau của tôi, chạm vào vết thương của tôi bằng một bàn tay ấm áp dịu dàng!” – Henri Nouwen. Hành trình mới không phải là quay về điểm cũ, nhưng là để Chúa chạm vào những vùng tối cài then của cá nhân tôi, của cộng đoàn tôi; hầu chúng ta có thể bước vào những khoảng đời giấu kín của nhau bằng lời cầu nguyện, bằng việc tha thứ, cảm thông, thương xót và chữa lành.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con nhận ra rằng, mùa Vọng, mùa Chúa đi tìm con; cũng là mùa con đi tìm Chúa – và cùng Chúa – con lên đường tìm những anh chị em lạc lối!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************

 Lời Chúa Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng

Thiên Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư vong.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 18,12-14

12 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”


 

Giữ lại phẩm giá cho người khác bằng cách nào?-TG Văn Chương – Truyen ngan HAY

TG Văn Chương

” Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ “

————————

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu “lừa đảo” ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ “Cơ Hội Thứ Hai” này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

“Ê, nhóc,” tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. “Con không có ăn cắp gì hết!”

“Tao biết,” tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. “Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?”

Nó nhìn tôi, bối rối. “Nhãn ghi hai mươi lăm mà.”

“Nhãn ghi sai đấy,” tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. “Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?”

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

“Dạ, có,” nó thì thầm. “Con lấy.”

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

“Cảm ơn ông,” nó nói.

“Quy định cửa hàng thôi,” tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái “quy định cửa hàng” đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là “dây điện bị hở”.

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động “giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba”.

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là “không bán được/đã tiêu hủy” trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy

“Cho mấy cái… sai sót kiểm kê của ông,” cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: “Giữ lại tiền thối cho lần sau… hệ thống gặp trục trặc nhé.”

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

“Ông là Arthur,” anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. “Đúng là tôi.”

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

“Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm,” anh ta nói. “Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng.”

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. “Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé.”

“Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur.” Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. “Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông.”

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

“Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình.”

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

“Trong đây có 500 đô la,” anh ta nói. “Ông dùng nó đi. Tôi biết cái ‘quy định cửa hàng’ của ông tốn kém lắm.”

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. “Tôi không thể…”

“Cái này không phải cho ông,” anh ta nói dứt khoát. “Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé.”

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương


 

Bánh Mì Nửa Ổ – Đoàn Xuân Thu – Truyen ngan HAY

LƯƠNG VĂN CAN K 76. – Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu

Tản văn của một người cha kể lại ký ức tuổi thơ đầy nước mắt và lòng biết ơn người bạn nhỏ.

Năm tôi 13 tuổi, tôi mang trong lòng một nỗi xấu hổ mà chẳng biết nói cùng ai. Gia đình tôi nghèo đến mức nhiều ngày tôi đến trường mà trong cặp không có lấy một mẩu thức ăn. Giờ ra chơi, trong khi bạn bè vui vẻ mở hộp cơm trưa – nào là táo đỏ, bánh quy, ổ bánh mì kẹp thịt – tôi chỉ biết ngồi lặng thinh. Tôi giấu ánh mắt mình sau trang sách, giả vờ như đang mê mải đọc, để không ai thấy chiếc bụng trống rỗng đang sôi lên vì đói. Nhưng cơn đói không chỉ ở dạ dày – nó lan ra cả trong tim, nơi nỗi xấu hổ âm ỉ từng ngày.

Thế rồi, một ngày nọ, có một cô bé cùng lớp đã để ý thấy. Không ồn ào, không làm ai chú ý, cô nhẹ nhàng chìa ra trước mặt tôi một nửa phần ăn trưa của mình. Một nửa ổ bánh mì. Tôi ngượng chín mặt, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Tôi nhận lấy.

Ngày hôm sau, cô lại đưa. Rồi hôm sau nữa. Khi thì là một cuộn bánh ngọt, khi thì một quả táo đã được cắt sẵn, khi thì miếng bánh bông lan thơm mùi bơ mà mẹ cô đã làm.

Với tôi lúc ấy, mỗi phần ăn ấy giống như phép màu nhỏ bé. Lần đầu tiên sau nhiều tháng dài, tôi cảm thấy mình được nhìn thấy – được một ai đó để tâm tới.

Rồi đột ngột, cô bé ấy biến mất. Gia đình cô chuyển nhà, cô không trở lại trường nữa. Mỗi ngày giờ ra chơi, tôi lại len lén nhìn ra cửa lớp, mong thấy bóng dáng cô bước vào với nụ cười quen thuộc và nửa ổ bánh mì trong tay. Nhưng cô chẳng quay lại lần nào.

Tôi đã lớn lên cùng với ký ức ấy. Cùng với món quà nhỏ bé nhưng mang sức nặng của cả một tấm lòng. Cô bé ấy không còn bên tôi, nhưng lòng tốt của cô thì ở lại – như một hạt giống cắm rễ trong tim, âm thầm lớn lên cùng năm tháng.

Nhiều năm trôi qua. Tôi đã là một người cha. Công việc, gia đình, cuộc sống cứ cuốn đi như dòng sông không ngừng chảy. Nhưng trong những khoảnh khắc yên lặng, hình ảnh cô bé năm xưa vẫn trở về. Không rõ mặt, nhưng rõ lòng.

Cho đến hôm qua – một buổi chiều bình thường – tôi trở về nhà và thấy con gái nhỏ của tôi, với đôi mắt nghiêm túc như người lớn, bước lại và hỏi:

– “Ba ơi, ngày mai ba chuẩn bị cho con hai phần ăn đem theo được không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– “Hai phần? Bình thường một phần con còn không ăn hết mà?”

Con gái tôi nhìn tôi, ánh mắt trong veo, nhưng giọng nói lại đằm sâu như một cơn gió cũ:

“Tại có một bạn trai trong lớp con hôm nay không có gì để ăn. Con chia một nửa phần của con cho bạn ấy. Nhưng mai, con muốn có phần riêng để cho bạn.”

Tôi đứng lặng. Trong khoảnh khắc đó, tôi không còn thấy con gái nhỏ trước mặt mình nữa. Tôi thấy lại cô bé năm xưa – người đã chia cho tôi nửa ổ bánh mì trong lặng lẽ. Tôi thấy lại chính mình – thằng bé nghèo khổ ngồi bên góc lớp, giấu đi nỗi đói và sự xấu hổ. Và tôi thấy – một điều kỳ diệu đang xảy ra.

Tấm lòng của cô bé ấy – người mà có lẽ giờ đây đã quên mất tôi – đã không hề mất đi. Nó sống mãi, truyền từ tay này sang tay khác, như một đốm lửa nhỏ cháy mãi không tắt. Hôm ấy, cô đã trao lửa cho tôi. Giờ đây, tôi lại thấy ngọn lửa ấy trong tay con gái mình.

Tôi bước ra ban công. Trời chiều. Gió thổi nhẹ qua, mang theo hương cỏ non và tiếng trẻ con chơi đùa xa xa. Tôi ngước nhìn bầu trời, nước mắt rưng rưng. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi cảm xúc dồn về – đói khát, xấu hổ, biết ơn và hạnh phúc – như sóng cuộn vào nhau trong lòng tôi.

Cô bé ấy, có lẽ chẳng còn nhớ tôi. Có thể cô đang sống một cuộc đời khác, ở một nơi nào đó, làm vợ, làm mẹ, hoặc vẫn đang tiếp tục những điều tử tế mà cô từng làm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên cô. Vì cô đã dạy tôi một bài học quan trọng nhất đời mình: rằng một hành động nhỏ thôi – một nửa ổ bánh mì – cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời.

Và giờ đây, khi thấy con gái mình chia sẻ phần ăn với bạn, tôi hiểu: lòng tốt, nếu được trao đi bằng sự chân thành, sẽ không bao giờ mất. Nó sẽ sống tiếp – qua từng đứa trẻ, từng ánh mắt, từng miếng bánh được chia.

Lời kết: Giữa cuộc sống bộn bề, giữa những ngày tháng con người ngày càng quay cuồng với danh lợi, tiền bạc, đôi khi chúng ta quên mất rằng có những điều giản dị, nhỏ bé – nhưng lại là thứ làm nên chất người: lòng nhân ái, sự cảm thông, tấm lòng chia sẻ.

Chúng ta không cần làm điều gì vĩ đại. Chỉ cần một nửa ổ bánh mì, một cái nắm tay, một lời hỏi han đúng lúc… cũng đủ để sưởi ấm trái tim một con người đang lạnh giá.

Và rồi, như người cha trong câu chuyện, bạn sẽ thấy – một ngày nào đó, điều tử tế bạn từng làm, sẽ quay trở lại với bạn. Có thể trong ánh mắt của một đứa trẻ. Có thể trong lòng biết ơn của ai đó bạn chẳng còn nhớ. Nhưng chắc chắn, nó sẽ không bao giờ mất đi.

Đoàn Xuân Thu.


 

“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44)

Lời Kinh Đêm

 Lạy Chúa của con!

Trong cuộc sống không tránh khỏi việc có những người hợp với mình, yêu thương mình, nhưng cũng có những người ganh ghét mình, hoặc không đủ quý mến để có thể cảm thông cho mình. Và ngược lại, có những người con rất dễ làm việc chung, có thể ở cạnh 24/24 mà vẫn vui vẻ, vì có thể hiểu và chia sẻ với nhau. Nhưng cũng có nhiều người, thật khó để hòa hợp, thật khó để vị tha, thật khó để yêu thương họ!

Mặc dù hôm nay con chọn câu lời Chúa này, nhưng con lại cầu nguyện cho chính con. Yêu người yêu mình thì rất dễ rồi, nhưng yêu người ghét mình, và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình quả là rất khó khăn với con.

Xin Chúa là Cha yêu thương ban sức cho con, để con có thể học từ Chúa cách yêu thương người khác như tình yêu vô điều kiện của Người đối với con người chúng con. Xin Chúa ban ơn cho con, để con có thể yêu thương bao dung người con không thích, mỗi ngày dù chỉ là mỗi chút.

Amen.

*T.A

#lờikinhđêm #loikinhdem #lkd – loikinhdem.org 


 

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG? – Pio Ngô Phúc Hậu

Linh Mục Mi Trầm

Pio Ngô Phúc Hậu

Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Một linh mục cao niên vùng truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…

Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…

– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.

– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một. Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…

– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…

Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời :

– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?

– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha được.

Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và rỉ rả khuyên lơn.

– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng. Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết cũng không tha.

Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng cứng cỏi, giọng chua chát:

– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.

– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.

Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:

– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn quảng đại, bao dung, tha thứ…

– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!

Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng gào lên: “Bố đi mất rồi…”.

Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.

Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ của một linh mục.

Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê tái trên làn da. Buồn quá!

Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.

– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết liệt và cực đoan đến như thế?

– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không thể thực hiện được đối với thân phận con người?

– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?

Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.

۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ…”. Mình đang cao hứng khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.

Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như con cái trong gia đình”. Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!

۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.

– Tại sao mày khóc?

– Thằng Tèo nó đánh con.

– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?

Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của mình. Bà dạy con mình trả thù, ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là buồn!

Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.

۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi. Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh mày. Tao đánh mày. Chừa nhá”. Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.

۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa đánh vừa la : “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con”. Thằng bé được mẹ trả thù giùm, nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.

Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!

Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những nguyên nhân rất cụ thể.

– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.

– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ, thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.

– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt trời lặn xuống thì hãy quên hết đi”. Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.

– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù, thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ”. Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!

“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm, nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và tha thứ ?

Pio Ngô Phúc Hậu


 

Phạm Đoan Trang – Ngọn lửa không bao giờ tắt

Tri Nguyen Ông Tám 

Trong lịch sử Việt Nam đương đại, hiếm có ai khiến người ta vừa kính nể vừa đau đớn như nhà báo Phạm Đoan Trang. Cô không cầm súng, không đứng trên chiến trường, nhưng lại chọn một mặt trận còn khắc nghiệt hơn: mặt trận của sự thật giữa một xã hội bị bịt miệng. Với cô, ngòi bút không chỉ là công cụ, mà là vũ khí; tự do không chỉ là khái niệm, mà là hơi thở mà cô sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời để bảo vệ.

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đoan Trang từng là một cô gái bình thường với ước mơ làm báo tử tế. Cô tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, từng làm việc ở các tờ báo lớn, từng được đồng nghiệp yêu mến vì tài năng và sự sắc sảo. Nhưng càng đi sâu vào nghề, cô càng nhận ra rằng ở nơi cô sống, nói thật là một tội lỗi. Năm 2009, khi viết về vụ Formosa và những bất công môi trường, cô bắt đầu bị công an theo dõi, bị đe dọa, bị đánh đập. Nhiều người chọn im lặng. Cô thì không. Cô chọn viết tiếp, viết mạnh hơn, viết rõ hơn.

Những cuốn sách của Đoan Trang – “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” – không phải là những tác phẩm học thuật khô khan. Chúng là những lời thì thầm gan dạ giữa bóng tối, là ánh sáng lọt qua khe cửa nhà tù. Cô viết bằng thứ ngôn ngữ mà bất kỳ người dân nào cũng hiểu, để họ biết rằng mình có quyền, rằng mình không đơn độc. Cô dịch tài liệu về nhân quyền, về bầu cử tự do, về kháng cự bất bạo động, rồi phát miễn phí, bất chấp biết chắc sẽ bị bắt. Cô từng nói: “Tôi không muốn làm anh hùng, tôi chỉ muốn sống đúng với lương tâm mình”. Nhưng chính câu nói ấy đã biến cô thành biểu tượng.

Ngày 6 tháng 10 năm 2020, công an ập vào khách sạn ở Sài Gòn, bắt cô khi cô đang chuẩn bị ra mắt cuốn sách mới. Họ đánh gãy chân cô, kéo lê cô trên sàn như một tội phạm nguy hiểm. Bản án 9 năm tù dành cho “tội tuyên truyền chống nhà nước” đã khiến cả thế giới sửng sốt. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, Ân xá Quốc tế, Liên minh Châu Âu, Quốc hội Mỹ… đều lên tiếng. Nhưng ở trong nước, rất nhiều người chỉ biết khóc thầm.

Trong tù, Đoan Trang vẫn cười. Người thân kể rằng mỗi lần thăm gặp, cô đều hỏi thăm mọi người trước khi nói về mình. Cô từ chối nhận đồ tiếp tế nếu biết đó là từ những người đang gặp khó khăn. Cô tuyệt thực nhiều lần để phản đối việc bị đối xử tệ bạc với tù nhân lương tâm khác. Cô bị biệt giam, bị cắt hết quyền thăm gặp, bị bệnh tật hành hạ vì đôi chân từng bị đánh gãy không được chữa trị tử tế. Nhưng cô vẫn viết. Bằng cách nào đó, những dòng chữ của cô vẫn lọt ra ngoài: “Tôi không hối hận. Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ làm như vậy”.

Có người hỏi: vì sao một người phụ nữ nhỏ bé, không chồng con, không tài sản, lại sẵn sàng trả giá đắt đến thế? Câu trả lời nằm trong chính cuộc đời cô. Đoan Trang yêu đất nước này theo cách sâu sắc nhất: không phải bằng những lời hô hào trên tivi, mà bằng việc dám chỉ ra những ung nhọt để đất nước được chữa lành. Cô tin rằng một dân tộc chỉ thực sự tự do khi không ai phải sợ hãi vì nói lên sự thật.

Hôm nay, khi cô vẫn đang bị giam giữ ở một nơi mà ngay cả người thân cũng không được biết chính xác, vẫn có hàng ngàn người âm thầm đọc sách của cô, chia sẻ bài viết của cô, và lặng lẽ tiếp nối tinh thần của cô. Mỗi cuốn sách bị cấm là một ngọn lửa được thắp lên. Mỗi năm tù của cô là một năm thêm hàng vạn người Việt Nam biết đến khái niệm “quyền con người”.

Phạm Đoan Trang không phải là thánh nữ. Cô cũng sợ đau, cũng cô đơn, cũng từng khóc. Nhưng cô đã chọn cách sống sao cho khi rời khỏi thế giới này, cô không phải xấu hổ với chính mình. Và chính điều đó khiến cô trở thành người phụ nữ Việt Nam đẹp đẽ nhất mà thời đại này có may mắn chứng kiến.

Cô từng viết: “Tự do không phải là thứ chúng ta có, mà là thứ chúng ta làm”. Hôm nay, ngọn lửa Đoan Trang vẫn cháy. Trong song sắt, trong đau đớn, trong im lặng bị áp đặt, cô vẫn đang làm tự do – từng ngày, từng hơi thở.

Và chỉ cần chúng ta còn đọc cô, còn nhắc đến tên cô, còn dám sống thật với lương tâm mình, thì ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt.

Cảm ơn chị, Phạm Đoan Trang.

Vì chị, chúng ta học được rằng sống đáng sống là sống như thế nào.

Và vì chị, chúng ta tin rằng một ngày nào đó, Việt Nam sẽ tự do – như cách chị đã mơ, đã trả giá, và vẫn đang sống.


 

Nga`y 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký.

Le Thanh Hoang Dan

 Hôm nay 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký. Ông là một trong 18 nhà bác học hàng đầu của thế kỷ 19, và có tên trong Bách Khoa Từ Điển Larousse. Cộng Sản ghét ông lắm.

Ở Sài Gòn có trường Pétrus Ký. Năm 1975 khi Cộng Sản chiếm Sài Gòn  (họ gọi là giải phóng ?), họ lấy tên lãnh tụ Cộng Sản đặt cho thành phố, tên của Tổng Bí Thư Đảng Lê Duẩn đổi tên cho đại lộ Thống Nhất, và tên của một lãnh tụ Cộng Sản khác là Lê Hồng Phong đặt tên cho trường Pétrus Ký.

Pétrus Ký là niềm hãnh diện của nhiều người trong Nam. Nhiều người nổi tiếng trong Nam là cựu học sinh trường mang tên Ông.

Tinh thần độc lập và yêu nước trường này được bộc lộ rõ ràng nhất khi một học trò Pétrus Ký là Trần Văn Ơn bị chánh quyền Pháp nổ súng bắn chết. Trò Ơn đã cùng sinh viên và học sinh Sài Gòn biểu tình chống Pháp đầu năm 1950.

Ông sanh ở tỉnh Vĩnh Long ngày 6 tháng 12 năm 1837, và qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1898. Ông đã để lại hơn 100 công trình viết lách và dịch thuật giúp phát triển sự hiểu biết giữa nước Việt Nam và Âu Châu.

Chính nhờ ông mà chữ Quốc Ngữ ngày nay trở thành chữ viết chánh thức của nước Việt Nam, thay vì chữ Nôm và chữ Hán. Sự đóng góp lớn lao này không được Cộng Sản đề cao.

Ông được coi là ông tổ nghề báo ở Việt Nam, vì ông đã sáng lập và làm Tổng Biên Tập cho tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam tên Gia Định Báo.

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo

NGUYỄN TƯỜNG THỤY: MỘT ĐỜI NGƯỜI CHỌN LÀM BÁO VIẾT SỰ THẬT

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Có những con người, dù đã đi qua hơn nửa đời người, vẫn không thể làm ngơ trước những điều sai trái đang diễn ra quanh mình. Nguyễn Tường Thụy, sinh năm 1950, là một trong số ấy. Ở tuổi mà nhiều người đã chọn sống an nhàn bên gia đình, ông lại chọn bước đi trên con đường đầy bất trắc: con đường của sự thật, của quyền tự do báo chí, của trách nhiệm công dân.

Ít ai biết rằng trước khi trở thành một trong những gương mặt nổi bật của báo chí công dân Việt Nam, ông Thụy từng là quân nhân trong Quân đội nhân dân. Hình ảnh người lính, người từng đi qua chiến tranh và hiểu giá trị của hòa bình, dường như đã góp phần tạo nên một Nguyễn Tường Thụy kiên trì, điềm tĩnh và luôn nghĩ về tương lai đất nước.

Từ giữa những năm 2000, ông Thụy xuất hiện ở nhiều nơi mà lẽ ra một người ở tuổi ông không cần phải đi: các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, các buổi xuống đường bảo vệ cây xanh Hà Nội, các phiên tòa xử dân oan khiếu kiện đất đai.

Ông không phải người hô hào. Ông quan sát. Ông lắng nghe. Ông viết lại.

Qua ngòi bút của ông, người đọc thấy được nỗi đau của từng người dân, sự khốn khổ của những mảnh đời bơ vơ trước guồng máy quyền lực, và cả hy vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt về một xã hội công bằng hơn.

Ông tham gia Hội Bầu bí tương thân, góp phần sáng lập Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, viết bài cho Đài Á Châu Tự Do, và điều hành một blog cá nhân với lượng độc giả lớn. Ở tuổi 60–70, ông vẫn miệt mài đi lại, ghi chép, trò chuyện với từng gia đình nạn nhân môi trường, từng người dân oan trong các vụ cưỡng chế đất.

Ngày 23/5/2020, công an bắt giữ ông tại Hà Nội theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Phiên tòa ngày 5/1/2021 tuyên ông 11 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Một người đã gần 70 tuổi phải đối mặt với bản án hơn một thập kỷ, điều đó vượt quá sức tưởng tượng của nhiều người.

Giờ đây, ông đang bị giam ở Trại giam An Phước (Bình Dương), xa gia đình, xa người thân, xa những câu chuyện mà ông vẫn muốn được kể.

Nguyễn Tường Thụy không phải người hùng theo nghĩa hào nhoáng. Ông chỉ là một người bình thường, lớn lên trong một đất nước nơi tiếng nói trung thực đôi khi phải trả giá đắt. Nhưng chính vì thế, câu chuyện của ông mới đáng trân trọng.

Những gì ông trải qua, nhắc ta rằng:

Làm người tử tế, ngay cả khi điều đó nguy hiểm, vẫn là một lựa chọn đáng sống.

Vân Phong