Thủ phạm gây ra chiến tranh Việt Nam- Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

30/01/2025

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920.

 

Trong suốt 20 năm chiến tranh Việt Nam cả thế giới lên án miền Nam và đòi miền Nam phải chấm dứt chiến tranh, tạo lập hòa bình. Ngoài các cuộc biểu tình đòi hòa bình diễn ra trên thế giới, nhiều phong trào đòi hòa bình diễn ra tại miền Nam. Trong khi đó tuyệt nhiên không một phong trào hòa bình nào diễn ra tại miền Bắc, đòi chính quyền miền Bắc chấm dứt chiến tranh. Bây giờ thì ai cũng hiểu chính quyền độc tài vô sản ở miền Bắc không cho ai được thành lập hội nhóm, phong trào và nhất là không được công khai bày tỏ chính kiến khác với đảng. Ngày nay, thời gian 50 năm sau chiến tranh đã đủ dài để bình tâm nghiên cứu xem ai là thủ phạm gây ra chiến tranh trên đất nước Việt Nam, đẩy toàn dân vào khổ đau.

Sau khi củng cố được chính quyền tại Liên Xô, Stalin cũng như Lê Nin và Trostky, theo đuổi chủ trương của Karl Marx phát động chiến tranh liên tục qua cái gọi là “Lý thuyết Cách mạng Thường Trực” (Theory of Permanent Revolution). Mục tiêu của Karl Marx là phải xây dựng một phong trào cộng sản toàn cầu (global movement) để “nhuộm Đỏ” thế giới. Thế chiến thứ II bùng nổ, nương theo đà thắng lợi của Đồng Minh Anh Mỹ trước Phát xít Đức, Liên Xô tiến chiếm các nước Đông Âu và nhuộm Đỏ các nước này (Mãi 44 năm sau, 1989, các nước Đông Âu mới thoát khỏi ách thống trị của Liên Xô.) Sau khi nhuộm Đỏ Đông Âu, Liên Xô gia tăng bước tiến của Lê Nin, gieo mầm cộng sản sang Châu Á, nơi đó Trung quốc là quốc gia thích hợp nhất vì dân số đông mà tuyệt đại đa số là nông dân nghèo. Từ 1924 Lê Nin đã gửi Borodin sang Trung Hoa làm cố vấn cho ông Tôn Dật Tiên, rồi sau này cho Tưởng Giới Thạch. Liên Xô cũng gửi ông Hồ Chí Minh sang Trung quốc làm thư ký cho Borodin. Hai hạt giống cộng sản này đã thành công trong việc phát triển phong trào cộng sản tại Trung quốc và cuối cùng, vào năm 1949, ông Mao Trạch Đông đã thành công trong việc xây dựng chính quyền cộng sản tại Trung Hoa. Vẫn tiếp tục lý thuyết Cách mạng Thường trực, Cộng sản Trung hoa tìm cách phát triển phong trào cộng sản tại ba nước Đông Dương, Việt-Mên-Lào.

Với sự giúp sức của Trung Cộng, đảng cộng sản Việt Nam (Việt Minh) đã đánh bại Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Theo lý thuyết Domino, Hoa Kỳ e rằng nếu Việt Nam và toàn thể ba nước Đông Dương rơi vào tay cộng sản thì các quốc gia Thái Lan, Miến Điện rồi Indonesia và cuối cùng là Ấn độ, tất cả sẽ rơi vào cộng sản. Vì vậy Hoa Kỳ phải nhẩy vào Hội nghị Geneve 1954 ngăn chặn cộng sản nhuộm Đỏ trọn Việt Nam. Liên Xô khi đó cũng chưa phục hồi hoàn toàn sau thế chiến Thứ II; Trung cộng còn mệt mỏi sau đụng độ với Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên năm 1953, cho nên cả hai đều tránh đụng độ trực diện với Anh Mỹ; và miễn cưỡng ép buộc Việt Minh phải chấp nhận chia đôi Việt Nam ở Vĩ Tuyến 17. Bài Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960 – Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên báo Quân đội nhân dân ngày 19-12-2019 đã viết, “do mưu đồ của các thế lực phản động quốc tế cũng như tương quan lực lượng và tình hình chính trị phức tạp của thế giới lúc đó, nên nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau.”

Nhưng theo lý thuyết Cách Mạng Thường Trực của Cộng sản thì việc ngưng chiến năm 1954 chỉ là tạm thời để rồi sớm muộn gì cũng phải tiếp tục gây chiến nhuộm Đỏ trọn vẹn miền Nam. Marx viết, Cách mạng không bao giờ ngừng cho tới khi tất cả giới giầu có đều bị đánh đổ và giai cấp vô sản lên nắm quyền, xây dựng nhà nước “Độc tài vô sản” (the dictatorship of the proletariat) [The revolution shall become unceasing until all the more or less wealthy classes have been removed from power and until the proletariat has captured political power. (Karl Marx and Friedrich Engels, Volume 3, Gosizdat, 1921, p 501)] Ở đây tôi thấy phải giải thích thêm nhóm từ Chuyên Chính Vô Sản. Đây là sự dịch thuật bịp bợm của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, thay vì phải dịch theo đúng chữ của Marx dùng là chế độ Độc tài vô sản thì họ đã tránh chữ Độc tài bằng chữ Chuyên Chính mặc dù dân chúng cả miền Bắc, kể cả những cán bộ cộng sản, kể cả thành phần giáo viên triết học Mác Lê, trong mấy chục năm họ cứ “tụng” xây dựng chế độ Chuyên Chính Vô Sản mà chẳng hiểu “Chuyên Chính” là gì.

Để chuẩn bị cho cuộc chiến, cộng sản thực hiện hai việc, gài cán bộ nằm vùng ở lại miền Nam và chôn giấu vũ khí. Để gài cán bộ nằm vùng ở lại, cộng sản lập danh sách chỉ định những cán bộ phải ở lại và những cán bộ được phép ra Bắc. Trái lại, chính quyền Miền Nam không có nhu cầu gây chiến (và cũng không có khả năng gây chiến) nên đã chở tất cả những ai muốn di cư vào Nam, kể cả toàn bộ gia đình con cháu họ. Hầu hết những cán bộ được phép tập kết ra Bắc phải để vợ và con nhỏ ở lại để khi cán bộ Tập kết được đưa trở lại vào Nam hoạt động bí mật thì có cơ sở vợ con làm chỗ dựa. Cán bộ cao cấp nhất được đảng chỉ đạo bí mật ở lại miền Nam để lãnh đạo cuộc nổi dậy trong tương lai là ông Lê Duẫn, sau này làm Tổng Bí Thư Đảng.

Sau hai năm dự trù cuộc bầu cử trên cả nước không thành vì miền Nam không chấp nhận kiểu bầu cử phản dân chủ của miền Bắc (như hiện nay đang diễn ra trên cả nước), tức thì miền Bắc chỉ thị cho các cơ sở nằm vùng ém sẵn tại miền Nam đồng loạt nổi lên chống chính quyền. Sau đó, để gia tăng tấn công phá hoại miền Nam, đảng cộng sản miền Bắc, trong Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 1-1959, “đã vạch ra đường lối, phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Về phương pháp cách mạng, báo điện tử quân đội nhân dân viết, “Được ánh sáng Nghị quyết 15 soi đường, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam…diễn ra mạnh mẽ theo phương châm “hai chân, ba mũi”, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT), giữa chính trị, quân sự và binh vận, đập tan từng mảng lớn bộ máy chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn, giải phóng khoảng 5,6 triệu dân khỏi ách áp bức, kìm kẹp của địch.” (Báo điện tử Quân đội nhân dân ra ngày Thứ năm, 19/12/2019 – https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-viet-quan-doi-anh-hung-quoc-phong-vung-manh/phong-trao-dong-khoi-mien-nam-1960-buoc-ngoat-chien-luoc-cua-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-605650

Tháng 1-1959 Đảng cộng sản công bố nghị quyết 15 phát động chiến tranh. Bốn tháng sau, miền Bắc mở đường xuyên rừng núi Trường Sơn xâm nhập người và khí tài vào miền Nam. Báo điện tử Bộ quốc phòng ngày 17-04-2015 viết, “Ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy Trung ương đã chính thức giao nhiệm vụ cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” – Đoàn 559 có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn, chi viện cho chiến trường miền Nam. Với khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh: “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, ngày 13/8/1959, chuyến hàng đầu tiên vượt Trường Sơn bằng phương pháp thồ gùi đã được cán bộ, chiến sỹ Đoàn 559 đưa tới Tà Riệp – địa danh ở vùng Bắc A Lưới (tỉnh Thừa Thiên – Huế), khẳng định quyết định lịch sử của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, đánh dấu những bước tiến thành công cho chiến trường miền Nam trên con đường huyết mạch 559.)  cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng, 17/04/2015, “Tiếp lửa” trên đường 559 huyền thoại).

Năm 1960, Đảng cộng sản họp Đại hội toàn quốc lần thứ III thành lập 2 cơ quan lãnh đạo cuộc chiến tranh tại Miền Nam: 1-Thành lập Trung ương Cục miền Nam và 2-thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. “Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập. Đại hội chủ trương thành lập Trung ương Cục ở miền Nam để giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Đại hội III của Đảng cũng chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam.” (Bài: 20-12-1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập) và ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Đến đây lịch sử đã rõ. Chạy theo lý thuyết “Cách mạng Thường Trực” của Karl Marx, được hướng dẫn và hỗ trợ bởi Liên Xô và Trung Hoa cộng sản, đảng cộng sản Việt Nam đã phát động chiến tranh huynh đệ tương tàn bằng các biện pháp 1-cắm cài cơ sở nhân lực và vũ khí tại miền Nam sau 1954. 2-Tháng 1-1959 công bố nghị quyết 15 chính thức phát động chiến tranh tại miền Nam, khởi đầu bằng các hoạt động khủng bố, phá hoại, bắt cóc, ám sát nhằm “đập tan từng mảng lớn bộ máy chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn.” 3-Ngày 19/5/1959, đảng chính thức bắt buộc (tình nguyện kiểu cộng sản) nam nữ thanh niên vượt sông Bến Hải vào Nam mở đường Trường Sơn để đưa người và khí tài tấn công miền Nam. 4-Để lừa bịp thế giới, đảng đã che dấu hành động xâm lăng miền Nam, bằng cách cho thành lập ở miền Nam một tổ chức bình phong là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam vào ngày 20-12-1960. 5-Cũng đồng thời trong nghị quyết 15 phát động chiến tranh, đảng cộng sản đã thành lập Trung ương Cục miền Nam để trợ giúp bộ Chính trị giám sát, lãnh đạo cuộc chiến tranh tại miền Nam. Sau 1975, với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật thông tin, nhiều thành phần có trình độ của miền Bắc đã nhận định sự phát động chiến tranh tại miền Nam của đảng cộng sản miền Bắc là một sai lầm. Facebooker Bùi Công Tự (cựu cán bộ miền Bắc) đã viết một stt như sau:

Vài hình ảnh về thành phố Tours (Tua) nước Pháp – nơi mà nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng là điểm khởi đầu những sai lầm lịch sử của chúng ta!

Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920.

Ghi chú của Nguyễn Tường Tâm lấy từ Wikipedia: Nguyên Ngọc (sinh năm 1932), là một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Ông còn được xem là một nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, từng được phong hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tham khảo:
(1) Nikolai Bukharin (1924). The Theory of Permanent Revolution
(2)- [Book] Lenin and Trotsky – What they really stood for.


 

Được xem 3 lần, bởi 3 Bạn Đọc trong ngày hôm nay