10 CÁI NGU THƯỜNG GẶP NHẤT                      

Kimtrong Lam          

                                                                                                                                1 – Cho mấy thằng bài bạc mượn tiền.

Muốn giúp nó làm lại cuộc đời nhưng cuối cùng phải kêu nó bằng ông nội, rồi suốt ngày quỳ lạy nó mà cũng chẳng lấy được đồng nào.

2 – Bỏ tiền để thuê người quen làm.

Nghĩ rằng sẽ tốt, giá cả phải chăng và dễ kêu khi hư hỏng đặc biệt là tạo việc làm cho họ.

Nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại. Ngậm bồ hòn khen ngọt mà mang ơn hệ suốt đời hoặc là sẽ trách nhau rồi mất đoàn kết.

3 – Hùn vốn làm ăn chung chạ.

Nghĩ rằng anh em bạn bè thì lo gì, nhưng thành công hay thất bại rồi cuối cùng cũng m.ất đoàn kết hoặc tan rã.

4 – Làm thầy dạy thằng dại.

Cứ nghĩ sẽ dạy nó khôn lên nhưng kết quả là nó mang họa về hết cho mình và biến mình thành thằng dại.

5 – Bán đất lấy tiền gửi ngân hàng.

Nghĩ cho chắc ăn và tiện lợi, nhưng bán 3000m2 gửi ngân hàng 3 năm rút ra 300m2 cũng không mua nổi.

6 – Làm thuê cho người chủ không có đạo đức.

Nghĩ rằng mình chỉ làm thuê lấy tiền. Nhưng cuối cùng mình biến mình thành th.ằng thất đức vì ông chủ chỉ nói còn mình thì làm.

7 – Kết hôn mà không có tình yêu.

Nghĩ rằng cưới về rồi yêu, nhưng chưa kịp yêu thì đã ly hôn còn không thì sống bên nhau nhưng không biết mùi hạnh phúc.

8 – Gửi tiền người khác mua đất mà không đứng tên.

Vì l.òng tin tưởng và cũng chẳng bao nhiêu tiền.

Nhưng mấy năm sau giá đất nhảy lên mấy chục lần kèm theo lòng tham con người nổi dậy bắt đầu sinh tranh chấp.

9 – Sống thiếu lập trường (đẽo cày giữa đường).

Nể người nên ai nói gì cũng theo, nhưng kết quả mình chẳng làm được việc gì cho tốt hết.

10 – Sống hà tiện.

Cứ nghĩ nhịn ăn để tích góp về gi.à, nhưng chưa già đã chết hoặc già rồi thì tiền núi cũng chẳng cần vì đã kiệt sức.

ST.


 

GIÁ TRỊ CON NGƯỜI – KHÔNG BẮT ĐẦU TỪ TIỀN, CŨNG KHÔNG KẾT THÚC Ở SẮC ĐẸP

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

 

Nhà toán học vĩ đại người Ả Rập – Al-Khwarizmi – từng đưa ra một ví dụ giản dị mà sâu sắc đến lặng người.

Ông bảo:

Nếu con người có đạo đức, đó là con số 1.

Nếu có thêm trí tuệ, thì thêm một số 0, giá trị là 10.

Nếu có thêm tài sản, lại thêm số 0 nữa, là 100.

Nếu thêm sắc đẹp, lại thêm 0 nữa, là 1000.

Nhưng nếu mất đạo đức – tức là mất số 1 đầu tiên – thì tất cả những con số 0 sau đó chẳng còn ý nghĩa. Tất cả trở thành số 0 tròn trĩnh.

Lời dạy ấy – tưởng chừng chỉ là một ẩn dụ cổ xưa, lại có giá trị vô cùng thức tỉnh với xã hội hôm nay, nhất là trong đời sống Việt Nam hiện đại, nơi mọi thứ đang được đong đếm ngày càng nhiều bằng những con số: số người theo dõi, số căn nhà, số tiền tài khoản, số năm học vị, số cúp vinh danh, số lượt like…

Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhiều người không ngại đánh đổi danh dự để đạt được “số 0 tiếp theo”. Có người bẻ cong sự thật để được tung hô. Có kẻ im lặng trước cái sai, chỉ để được yên ổn trong cái đúng giả tạo. Có người trượt dài trong thành công vật chất, nhưng lại rỗng hoác khi phải trả lời câu hỏi giản dị nhất: “Mình sống để làm gì?”

Từ doanh nhân tới trí thức, từ cán bộ tới người lao động bình dân – mỗi người đều có thể vấp ngã nếu thiếu “con số 1” của đời mình. Có người rất giỏi, rất giàu, rất nổi tiếng – nhưng người khác không muốn gần. Vì họ không giữ được nhân cách, không biết xấu hổ, không có lòng tử tế. Họ có thể sống giàu – nhưng không sống đáng kính.

Rất nhiều bậc cha mẹ bây giờ, vì thương con, nên chỉ lo bồi đắp cho con thật nhiều “số 0”: học thêm, học giỏi, nói tiếng Anh như gió, cầm máy tính như vũ khí… nhưng lại quên dạy con làm người tử tế, trung thực, biết nhận lỗi, biết nghĩ cho người khác. Rồi một ngày, ta ngỡ ngàng vì đứa trẻ học giỏi, nhưng sống ích kỷ. Lên đại học thì lạnh lùng. Đi làm thì thủ đoạn. Về nhà thì bất hiếu.

Chúng ta đã nhầm khi nghĩ rằng đạo đức chỉ dành cho những người đi tu, hoặc giảng dạy trong môn Giáo dục công dân. Không. Đạo đức là nền móng. Mọi thành tựu nếu không đặt trên nền móng ấy, đều là lâu đài cát. Sóng đến là tan.

Và kỳ lạ thay, người có đạo đức thật sự – dù không ồn ào, không bon chen – nhưng luôn để lại dấu ấn. Họ có thể chỉ là một người công nhân bình thường, một cô giáo dạy làng, một bác bảo vệ hiền hậu… nhưng trong mắt người khác, họ có giá trị. Họ là “số 1” đầu tiên, âm thầm nhưng bền vững.

Ngược lại, có người mặc đồ hiệu, đi xe tiền tỷ, ăn nói hào sảng… nhưng ai cũng biết, họ chỉ là những con số 0 sắp ngã đổ – vì thiếu mất nền tảng.

Hãy tự hỏi:

Ta đang sống để làm gì?

Ta đang cố gắng vì điều gì?

Và điều gì sẽ còn lại sau khi ta không còn hiện diện?

Đừng quá mải miết cộng thêm các số 0 – mà quên giữ cho mình chữ “1” đầu tiên.

Không cần phải vĩ đại, chỉ cần sống tử tế.

Không cần phải nổi tiếng, chỉ cần được tôn trọng.

Không cần phải giỏi hơn người khác, chỉ cần sống đúng với lương tâm mình.

Bởi giá trị con người, không bắt đầu từ tiền – cũng không kết thúc ở sắc đẹp. Mà bắt đầu từ đạo đức – và kết thúc bằng nhân cách.

Nếu bạn thấy bài viết này chạm đến điều gì đó trong lòng mình, hãy chia sẻ cho bạn bè – hoặc gắn thẻ một người bạn mà bạn tin là “chữ số 1” trong cuộc sống này.

Vì có thể, chỉ một lời nhắc dịu dàng cũng đủ giúp ai đó giữ lại phần Người, giữa thế gian đầy những con số 0 rực rỡ.

Tu Le


 

“Cao Hổ Cốt” – by Khuyết Danh / Trần Văn Giang (ghi lại)

Trần Văn Giang

Trong dịp gần đây, có khá nhiều người bạn, cả trên mạng lẫn ngoài đời, hỏi tôi về “Cao Hổ Cốt.”  Có lẽ vì nhiều người biết tôi là Dược sĩ, lại có thời gian khá dài làm việc ở miền núi, cũng từng hành nghề nấu cao khá nhiều năm. Nhưng nếu chỉ trả lời câu hỏi này qua một vài tin nhắn thì không hết lẽ. Còn ngồi nói chuyện cả buổi thì cũng không có đủ thời gian. Nên tôi dành chút thời gian viết một bài về cao hổ cốt nói riêng, và cao xương các loại động vật nói chung, hy vọng cung cấp ít thông tin cho mọi người cùng biết.

 Con hổ, tên khoa học là Panthera Tigris, họ Mèo (Felidae,) là một loại động vật có vú, ăn thịt. Dân gian nước ta gọi là Cọp, Hùm, Ông Ba Mươi…

 Ở góc độ thức ăn và vị thuốc, toàn thân con hổ giá trị nhất là bộ xương, để đem nấu cao. Xương hổ được làm sạch, đập nhỏ, nạo bỏ tủy, phơi sấy sao tẩm rồi đem đi đun nấu, rút lấy dịch chiết, cô đặc thành cao hổ. Một bộ xương hổ trưởng thành thường nặng từ 5 đến 15 kg, tùy theo. Tỷ lệ cao thu được khoảng 20% trên trọng lượng xương. Bộ xương hổ có các đặc điểm định tính không thể trộn lẫn với xương các loài động vật khác, như ở xương bả vai của nó có một lỗ nhỏ, gọi là lỗ thông thiên. Và tỷ lệ các bộ phận trong cả bộ xương hổ trưởng thành rất ổn định: Xương đầu đủ răng chiếm 15%, xương 4 chân là 52%, xương sống chiếm 14%, xương sườn là 5,5%, xương chậu 5,5%, xương bả vai chiếm 4%, xương đuôi 2,2%, và 2 xương bánh chè chiếm 0,45%.

 Thành phần hóa học trong xương hổ đã được nghiên cứu kỹ: có nhiều “Collagen,” các muối “Can-xi” như “Can-xi Phốt-phát,” “Can-xi Cac-bon-nat,” mỡ, và một số muối khoáng khác…

 “Collagen” là thành phần chính của xương hổ. Trong “Collagen” xương hổ, lượng “Acid amine” khi thủy phân thu được sau quá trình nấu cao rất lớn, gấp nhiều lần xương các loài động vật khác. Nhưng sau khi thành ra sản phẩm là cao động vật có thể sử dụng thì lượng “Acid amin” trong cao hổ cũng lại gần giống như cao của các loài khác như cao gấu, cao khỉ, cao ban long, cao xương động vật hỗn hợp… Nó đều dao động trong khoảng 14,39% – 16,66%. Như vậy quý vị sử dụng cao hổ hay cao xương động vật hỗn hợp như ngựa, trâu, bò… thực chất là đang đưa vào cơ thể một lượng “Acid amin” mà thôi. Bởi như đã từng nói, cấu trúc “Collagen” làm nên hình thể và sự vững chắc của bộ xương các loài có thể khác nhau. Thế nhưng tất cả các”Collagen” kia, sau quá trình thủy phân dưới tác động của nhiệt độ cao, thời gian dài, đều trở thành các “Acid amin” thiết yếu, không có gì khác nhau. Đến lúc này, cao hổ xem ra cũng “xêm-xêm” như một loại cao xương động vật nào đó, không hơn không kém.

 Trong y học cổ truyền cao hổ thường được dùng làm thuốc bổ dương, vì có nhiều chất đạm. Ngoài ra nó còn được dùng làm thuốc giảm đau, mạnh gân cốt, trừ tê thấp. Nhưng những tác dụng này mang tính truyền thuyết nhiều hơn là thực chứng. 

Còn y học hiện đại, hầu như không có một công trình nào nói về tác dụng của cao hổ! Cao hổ cũng như cao xương các loại động vật khác, thường không được xếp loại là thuốc, mà chỉ là thực phẩm có chức năng, có tác dụng cung cấp “Acid amin” cho cơ thể. Nhưng xin hỏi quý vị trong thời đại hiện nay, chúng ta có thiếu thốn nguồn cung cấp “Acid amin” không? Khi mà thức ăn hàng ngày của đa số chúng ta không hề thiếu thịt, cá, tôm, cua… đủ các loại; Nguồn cung cấp “Acid amin” tươi ngon bổ rẻ, lại nhanh. Tại sao phải đợi đi săn hổ nấu cao cho cầu kỳ vậy? Còn với người ốm yếu suy kiệt do không ăn được, hiện đã có sẵn các loại dung dịch tiêm truyền “Acid amin” để truyền nhỏ giọt thẳng vào máu, bảo đảm an toàn và hấp thu tuyệt đối, người bệnh sẽ rất nhanh hồi phục.

 Cách nấu cao hổ cũng gần như cách nấu cao xương một loại động vật nào đó. Đều bắt đầu từ làm sạch xương, sao tẩm, đưa vào nấu, rút dịch chiết ra cho cô đặc, xong đóng thành bánh, xẻ ra thành miếng. 

 Với cao hổ, vì là xương của loài chúa rừng xanh nên người ta thường vẽ vời thêm những nghi thức thần bí, để tăng thêm cái sự oai linh quý báu.  Ngày nay ta gọi cái thể thức thương mại này là “PR” (“Public Relation”), để làm tăng thêm giá trị của sản phẩm, thế thôi. Còn thực tế thì cao hổ bị làm giả, bị pha chế thêm cao khác khá nhiều. Dân nấu cao hổ chuyên nghiệp từng có câu “Phi sơn dương bất thành cao hổ!” Xương của loài dê núi được các tay nấu cao rất ưa chuộng đem pha trộn thêm vào. Nhưng làm như thế là còn khá tử tế, bởi rất nhiều tay nấu cao còn rỉ tai nhau một bí quyết “gia truyền” là khi sắp thành cao, họ pha thêm một lượng cao thuốc phiện cô đặc vào. Nên khi uống cao hổ, người ta thấy khỏe mạnh, hưng phấn, mọi đau đớn tiêu tan tức khắc: Nhờ tác dụng của “Morphin” (một loại ma túy) có trong thuốc phiện! Thật là nguy hiểm và không chừng có thể dẫn đến nghiện ngập. 

 Nhưng thật may, với giá thành đến mấy chục triệu đồng Việt Nam một lạng (100 gram) nên hình như cũng ít người đủ tiền mua dùng hàng ngày để mà có thể vô tình thành con nghiện ma túy…  Cón có một kiểu pha chế đơn giản rẻ tiền nữa mà dân nấu cao hổ hay dùng đó là cho thêm vào một lượng lớn thuốc “Dexamethasone,” một thứ thuốc giảm đau xương cốt mình mẩy cực kỳ hiệu quả. Kết quả là các bạn khi đang đau mình mẩy, uống lạng cao hổ đắt tiền cứ tưởng là thần kỳ, biết đâu đó chỉ là tác dụng của những viên “Dexamethasone” vốn vô cùng phổ biến, rẻ tiền bán đầy ở các nhà thuốc.

 Ở nước ta hổ hầu như đã tuyệt chủng. Trên thế giới, nhiều nơi vẫn còn hổ thiên nhiên. Tuy nhiên, hiện nay hổ đã được đưa vào danh sách đỏ (thú hiếm), cấm săn bắt và buôn bán. Thế nhưng cao hổ vẫn được âm thầm lưu hành, buôn bán khá nhiều. Thậm chí có lúc có chỗ còn khá công khai.

 Khuyết Danh – Trần Văn Giang (ghi lại)

Cuộc Sống Không Bán Vé Khứ Hồi

Kimtrong Lam                                           

1. Không có gì chắc chắn rằng bạn sẽ làm một công việc đến hết đời, hay được một người yêu mãi mãi. Trong xã hội nhiều ồn ào này, bạn phải luôn trong tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới mà không thể thỏa hiệp.

2. Đừng phí phạm thời gian để tìm hiểu xem người khác đánh giá bạn như thế nào. Bạn không cần quan tâm đến họ, bạn chỉ cần làm tốt công việc của mình, sống một cuộc đời hạnh phúc và thoải mái. Kể cả nếu bạn có bận tâm đến những lời người khác nói về mình, bạn cũng không thể kiểm soát được hết chúng, vậy thì chẳng việc gì phải đánh đổi những giây phút quý báu của bản thân để nhận lấy những lời bàn tán vô nghĩa.

3. Cũng đừng ghét bỏ một ai đó làm gì. Bạn ghét người ta nhưng chắc gì người ta đã biết điều đấy. Như thế chỉ có mình bạn phải khó chịu mà thôi. Nếu đã không thích thì đơn giản là không tiếp xúc, không bận tâm, không để cho người ta có cơ hội lọt vào trong suy nghĩ của bạn.

4. Bạn không thể nào hạnh phúc nếu cứ để những thứ thuộc về quá khứ làm phiền cuộc sống hiện tại. Buông bỏ quá khứ khiến bạn có thể sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn cho ngày hôm nay.

5. Khi còn trẻ còn khỏe, ai cũng có suy nghĩ phải tìm được một công việc thật tốt, nỗ lực hết mình vì nó để kiếm được nhiều tiền lo cho cuộc sống giàu sang hạnh phúc. Nhiều người đã chấp nhận đánh đổi cả gia đình, bạn bè, sức khỏe chỉ vì công việc. Nhưng đổi lại thì sao, khi bạn ốm đau, công việc trì trệ, sếp sẽ la mắng nhưng gia đình thì không bao giờ quay lưng lại với bạn. Kiếm tiền cũng tốt nhưng gia đình là điều vô giá mà không một đồng tiền nào có thể mua được.

6. Có rất nhiều chuyện, trước khi kịp quý trọng thì đã thành chuyện xưa. Có rất nhiều người, trước khi kịp để tâm thì đã thành người cũ. Cuộc sống không bán vé khứ hồi – mất đi vĩnh viễn không có lại được! Chúng ta đều già quá nhanh – nhưng sự thông minh lại đến quá muộn.

ĐẮC NHÂN TÂM

THEO CON ĐƯỜNG CHÚA GIÊ SU ĐÃ ĐI – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 (Suy niệm Tin mừng Luca (13, 22-30) Chúa nhật 21 thường niên năm C)

Sứ điệp: Đi đường hẹp là đường Chúa Giê-su đã đi để đến nơi vinh phúc mà Ngài đã đến.

*** 

Nếu có hai con đường dẫn đến thủ đô, một đường cao tốc rộng thoáng và một đường chật hẹp khó đi, tất nhiên ai nấy đều muốn chạy trên đường cao tốc.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực tinh thần, muốn đạt tới quê trời, thì phải đi con đường chật hẹp, phải qua cửa hẹp mà vào. Vì thế, Chúa Giê-su dạy:

“Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”

Chọn đường chật mà đi, chọn cửa hẹp mà vào như Chúa mời gọi thì thật là phiền toái, đòi hỏi nhiều hy sinh và theo lẽ tự nhiên, không mấy ai thích điều đó.

Tại sao không chọn đường rộng mà đi, không chọn cửa rộng mà vào cho thoải mái?

Chúa Giê-su cho ta câu trả lời:

“Vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7,13-14).

Qua lời nầy, Chúa Giê-su lưu ý chúng ta hai điều quan trọng

Thứ nhất, “Cửa rộng và đường thênh thang đưa đến diệt vong.”

Cuộc đời lão phú hộ được Chúa Giê-su nêu lên trong Tin mừng Lu-ca tiêu biểu cho hạng người chọn đi đường thênh thang rộng rãi. Hằng ngày ông chỉ biết hưởng thụ, ăn chơi, tiêu xài xa hoa phung phí… chẳng chút quan tâm đến anh La-da-rô khốn khổ đói khát đang ngồi ăn xin trước cổng nhà mình. Thế là sau khi từ giã đời nầy, ông phải trầm luân trong hỏa ngục (Lc 16,19-31).

Tương tự như thế, người đi đường rộng là người ham mê lạc thú đời nầy mà bỏ quên những người bất hạnh, là người tiêu xài phung phí mà chẳng biết chia cơm xẻ áo cho người thiếu thốn…

Chúa Giê-su báo cho biết sống như thế là đi đường rộng, là đường đưa đến diệt vong.

Thứ hai, “Cửa hẹp và đường chật đưa đến sự sống.”

Trong cuộc sống đời thường, Muốn đạt được bất cứ thành tích nào thì cũng phải kinh qua nhiều gian truân, khổ ải, phải kiên trì rèn luyện thường xuyên.

Muốn đoạt huy chương vàng hay bạc trong các cuộc thi đấu thể thao, các lực sĩ phải kiên trì luyện tập ngày đêm;

Muốn đạt thành tích cao trong học tập, nghiên cứu, học sinh và nghiên cứu sinh phải miệt mài học hỏi không ngừng…

Nói chung, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải “cố công mài sắt mới có ngày nên kim.”

Còn những kẻ ngồi chờ thời, không ra công luyện tập, hy sinh, phấn đấu… thì chẳng đạt được thành tích nào và những ai “nằm há miệng chờ sung” thì chẳng được gì.

Trong lĩnh vực thiêng liêng, đi cửa hẹp là hy sinh, quên mình để phục vụ: Thay vì yến tiệc linh đình thì giảm bớt chi tiêu, chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói; thay vì mua sắm những đồ tiêu dùng sang trọng xa xỉ mắc tiền thì biết tiết kiệm để giúp cho những người thiếu thốn. Đi đường hẹp là xoá bỏ cái tôi vị kỷ để sống vị tha sẵn sàng hy sinh phục vụ những người chung quanh mình.

Hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” và Ngài khẳng định rằng những ai theo con đường chật hẹp nầy sẽ được cứu độ và hưởng phúc trường sinh.

Lạy Chúa Giê-su,

Mặc dù Ngài là Chúa tể quyền năng, nhưng khi hạ thân xuống thế làm người, Chúa đã chọn con đường hẹp, con đường hy sinh quên mình, con đường thập giá để cứu độ muôn dân.

Xin ban ơn giúp sức để chúng con bước theo chân Ngài, đi theo đường hẹp như Chúa để được hưởng phúc đời đời với Chúa trên thiên quốc. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

****************

Tin mừng Lc 13, 22-30

22Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.  

23Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ:  24″Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

  25″Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’ 26Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’   27Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’

 28″Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.   30″Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

NỮ VƯƠNG – NỮ TỲ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Nữ hoàng Mary, Scotland, thường đi thăm dân chúng một mình. Chiều kia, trời đổ mưa, bà ghé một ngôi nhà, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, ngày mai tôi sẽ trả?”. Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa; một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một cơ hội – không trao cho nữ hoàng cái tốt nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất”, Nữ Hoàng ở đây chính là Mẹ Maria. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ là ‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Với triều thiên vinh hiển Chúa ban, Mẹ là ‘Nữ Vương’ thiên đàng nhưng cũng là ‘nữ tỳ’, là môn đệ và là ‘Ái Nữ’ của Đấng mà “Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa, nên Mẹ Ngài là ‘Nữ Vương’ bởi “huyết thống thần linh” trong tư cách Mẹ Đức Chúa Trời. Mẹ là ‘Nữ Vương’ bởi sự lựa chọn duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người bình thường có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng nhờ sự lựa chọn của dân chúng, thì sự lựa chọn của chính Chúa Cha còn vĩ đại hơn biết bao! “Phẩm giá vương giả của Maria phát xuất từ sự gắn bó độc nhất với Chúa Kitô, Con của Mẹ, Vị Vua thần linh!” – Bênêđictô XVI. Vương vị của Mẹ phát sinh từ vương vị của Con.

Đức Phanxicô trích dẫn Thánh Kinh ba lần để chứng tỏ Vương Quyền của Mẹ. Lời các ngôn sứ về Đấng Cứu Thế xem ra đều nói về một vị Vua, chẳng hạn, “Người sẽ mở rộng quyền bính, lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít” – bài đọc một. Trong cuộc Truyền Tin, dù chỉ là một ‘nữ tỳ’, Mẹ được sứ thần báo trước về ngai vàng của Đấng Mẹ cưu mang, “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”. Sau cùng, vương vị của Mẹ được tìm thấy trong Khải Huyền, “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”; miêu tả Mẹ là ‘Nữ Vương mới’ chia sẻ quyền quản cai vũ trụ với Chúa Con. “Maria là Nữ Vương vì Mẹ là Mẹ của Vua các vua!” – Piô XII.

Anh Chị em,

“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Là Mẹ của Đấng vô cùng vô tận, nhưng Đức Maria cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. “Mẹ là người đầu tiên lãnh nhận trọn vẹn ân sủng, và là người luôn chuyển cầu cho chúng ta bằng trái tim của một người Mẹ!” – Lêô XIV.  “Hãy gõ cửa nhà Mẹ! Chúng ta không được tưởng tượng Đức Maria ‘như một bức tượng sáp bất động’, nhưng nơi Mẹ, chúng ta có thể nhìn thấy một ‘người chị’ với đôi dép mòn cùng biết bao mệt nhọc!” – Phanxicô. Riêng Fulton Sheen thì hài hước, “Chúa sẽ chào đón một người trên thiên đàng bằng những lời này: ‘Mẹ tôi nói rất tốt về bạn!’”. Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, ‘Nữ Vương’ uy phép nhưng cũng là ‘Nữ Tỳ’ khiêm hạ, đừng để con vất vưởng như con mồ côi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Lời Chúa lễ Đức Maria Nữ Vương, 22/8, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên

Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 1,26-38

26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”

35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


 

Từ Nam Phong tới Bách Khoa- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

16/08/2025

  • Văn hóa và chính trị: thực chất hay huyền thoại

Chính trị là cái nhất thời của một thời kỳ. Văn hóa là cái tồn tại, kéo dài nhiều thế hệ.

Bài học trước đây với học giả Trương Vĩnh Ký, với Nguyễn Trường Tộ. Nay cái gì nơi họ còn để lai, cái gì còn, cái gì mất.

Sau này với Văn Cao, với Trịnh Công Sơn, với Phạm Duy cũng cùng một lẽ ấy. Cái gì còn đọng lại sau họ? Cái gì người ta còn nhớ và cái gì người ta đã quên?

Tóm lại cái gì là thực chất và cái gì chỉ còn là huyền thoại.

Phạm Quỳnh nằm trong giai đoạn những vòng xoáy lịch sử bắt buộc có những chọn lựa, hướng đi cho riêng mình và cho đồng loại và đâu là nỗi oan khiên?

Học giả Phạm Quỳnh vốn sinh thời cộng tác với Pháp với rất nhiều huyền thoại vây quanh như: huyền thoại khai hóa , huyền thoại  Pháp-Việt đề huề, trong đó đâu là sự thật đâu là giả?

Chúng ta cùng chờ xem.

Trong Nam Phong số 33 có đăng một bài luận thuyết dài của Tông đốc Thân Trọng Huề tri’ch đăng một lá thư  của Le Myre de Vilers, nguyên soái Nam Kỳ, gửi cho  Dục tôn để chứng minh người Pháp  không muốn xâm lăng Việt Nam. Nhưng vì triều đình Huế bất lực, trộm cướp hoành hành, quan lại tham ô, dân chúng thì lầm than nghèo khổ. Người Pháp dù không muốn chiến tranh, bắt buộc phải dùng những biện pháp thich nghi dùng võ lực chỉ vì bó buộc mà thôi”.

Cũng vậy, sở dĩ người pháp phải can thiệp qua những vụ sau này như Dupuis, Garnier, Rivière chỉ là ngẫu nhiên chứ nước Pháp không hề cố ý chiếm Việt Nam.

Phần De Courcy cho rằng sở dĩ Annam thua vì quân lính kém quá. Tây chỉ có 90 người mà lấy được thành Hà nội: “ Xưa nay chưa thấy ai đến nước người ta, có ít quân mà lấy được thành dễ như vậy. Nghĩ đến lúc đánh giặc ở Bắc Kỳ như trò chơi trẻ con, kẻ học sử không hiểu lúc bấy giờ tổ chức thế nào mà yếu đến thế.

Cũng vậy, Việc Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi đi trốn đêm mồng 4 tháng 7 là rất dở. Nước Nam đã ký hòa ước với Pháp sang bảo hộ nước Nam mà khi Toàn quyền De Courcy chưa kịp yết kiến vua thì vua đã bỏ chạy…

Phải chăng tất cả đây chỉ là những huyền thoại được người Pháp dựng lên?

Muốn hiểu thêm nhiều chi tiết, nhiều thảm cảnh, nhiều dấu ấn xã hội, xin mời đọc Pierre Loty phơi ba`y tất cả tâm lý của người thực dân lúc sang xâm chiếm  VN…. Ông đã tham dự vào các trận đánh ở Đà Nẵng, đổ bộ ở cửa Thuận Hóa trong cuốn sách L’ésotisme( những cảm nghĩ về lưu đầy.)

Trong một bài viết của Phạm Quỳnh nhan đề:” Essai Franco-Annamites. Un problème d’éducation des races à l’académie des sciences morales, juillet, 1922, Phạm Quỳnh phát biểu: Toàn thể giới thượng lưu Annam tín nhiệm ở nước Pháp và hơn nữa còn giao phó hoàn toàn việc học vấn cho nước Pháp coi sóc. Thật là cảm động và độc nhất trong lịch sử nhân loại, cử chỉ của cả một dân tộc phó thác số phận của mình cho một dân tộc khác.”.

Đây là một nhận đinh thực tế hay một tâng bốc hùa theo kẻ mạnh?

Chỉ biết rằng, nhiều người đã đánh giá Phạm Quỳnh là “theo Tây”:.

Việt Minh sau này đã sát hại  Phạm Quỳnh cùng với cha con ông Ngô Đình Khôi tại Huế cũng nằm trong cái tinh thần ấy.

Phần bài viết này, xin phép để vào trong ngoặc những thái độ, những phát biểu chính trị của Phạm Quỳnh và chỉ chú tâm đến những đóng góp về sinh hoạt văn hóa của ông.

  1. CON ĐƯỜNG TỪ NAM PHONG

Trong số Nam Phong 154, tháng chín 1930,  Phạm Quỳnh có dịch lại một bài viết của chính ông nhan đề: Ce que sera l’Annam dans cinquante ans ( An Nam sẽ ra sao sau năm mươi năm nữa ? ) đăng trong France-Indochine. Trong những điều mà Phạm Quỳnh mong mỏi cho một nước Việt Nam tương lai là có một nền giáo dục không phải chỉ đào tạo ra một số thầy thông thầy ký. Một lối học chỉ để “đi làm mướn” hoặc đi làm quan tước mà ông vốn không ưa.

Ông viết: “Người thanh niên An Nam bây giờ bập bẹ nói chút tiếng Pháp có thật đã văn minh, đã hấp thụ được nhiều Văn hóa hơn các cụ nho ngày xưa chưa?”

Và tấm lòng mong mỏi của ông cũng như người đi trước ông là Nguyễn Văn Vĩnh (tạp chí Đông Dương chỉ tồn tại có ba năm từ 1913-l916) là làm báo để dạy tiếng mẹ đẻ, viết tiếng mẹ đẻ cho con dân Việt.

Đó là một cái nhìn viễn kiến về tiền đồ văn hóa Việt đáng được trân trọng!!!

Cái tương lai mà Phạm Quỳnh mong mỏi và tiên đoán về tiếng Việt đã đạt được ngoài sự mong đợi của Phạm Quỳnh và của nhiều người.. Không phải đợi đến 50 năm sau mà chỉ sau 30 chục năm, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ có chuẩn mực, được giảng dạy từ tiểu học, trung học và cả đại học.

Thành công đó có sự đóng góp rất nhiều của báo chí, trong đó có Nam Phong.

 Đó cũng là mục tiêu của bài viết này:

  • Hành trình từ báo Nam Phong đến Bách Khoa.
  • Và phải chăng Bách Khoa là điểm hẹn của con đường đi của chữ quốc ngữ, từ dạng thô sơ đến hoàn chỉnh? Ông Phạm Quỳnh ra làm báo Nam Phong từ 1917-1932 (Báo NP tiếp nối đến 1934), sau đó nhận chức Thượng thư bộ học ở Huế.

Trong vòng 15 năm làm báo, ông đã gây được một phong trào báo chí với một số cây bút như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật và đặc biệt có hai người trẻ tuổi là Đông Hồ và Tương Phố.

Sau này Đông Hồ và Tương Phố là gạch nối từ Nam Phong đến Bách Khoa. Cả hai đều viết và cộng tác với tờ Bách Khoa.

Câu chuyện như thể phải được coi là kỳ thú.

Chỉ chưa đầy 30 năm sau câu hỏi trông đợi của Phạm Quỳnh trở thành sự thực hiển nhiên.

Chữ quốc ngữ đã đi những bước chân của người khổng lồ.

Cần phải nhắc nhớ nhau rằng, thời của Trương Vĩnh Ký trong Nam, thứ chữ gốc La Tinh này đã có mặt, nhưng không ai chịu học cả. Phải ra lệnh ép người ta mới chịu học. Con đường đi của chữ quốc ngữ cũng nhiều gian nan, đánh dấu bằng những cột mốc lớn như có Gia Định báo, rồi truyện Kiều, Lục Vân Tiên được phiên âm sang chữ quốc ngữ. Chưa kể chương trình của Đông Kinh Nghĩa Thục kêu gọi hô hào hai điều: Cắt búi tó củ hành và học chữ quốc ngữ vào những năm 1907.

Rồi đoạn đường tiếp nối Nam Phong với sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa, Ngày Nay 1932-1940.

Nếu Phạm Quỳnh xây dựng chữ quốc ngữ với sự “phát hành ra hàng ngàn tiếng mới”, mở đường, xây dụng thì TLVĐ làm “phong phú, đơn giản” chữ Quốc ngữ.

 Chỉ có một điều bất công là TLVĐ đã mang  Phạm Quỳnh ra chế diễu đủ kiểu một cách rất rẻ tiền. Vì thế sau này đến lượt TLVĐ lại trở thành nạn nhân của nhóm Sáng Tạo?

Sau đó, có một khoảng trống văn học từ 1940-1954. Khoảng trống vì có chiến tranh Việt-pháp.

Trong Nam, sau 1955, có một sự bùng nổ văn học. Không có cuộc di cư của một triệu người, thử hỏi có thể nào có một sự bùng nổ văn học như thế không? Chắc là không. Cuộc di cư ấy gắn liền vào định mệnh cũng như tương lai lịch sử chính trị kinh tế, học thuật của miền Nam sau 1955.

Trong đó có báo chí.

  • Bùng nổ thứ nhất là tiếng Việt được giảng dạy từ tiểu học, trung học và sau này cả đại học. Bùng nổ thứ hai là báo chí được hồi thịnh đạt với rất nhiều báo chí ra đời. Báo chí đã có những thay đổi lớn lao khác xa thời của Phạm Quỳnh với các nhóm Sáng Tạo, rồi Bách Khoa.

Nếu sự nghiệp Nam Phong với Phạm Quỳnh là làm giàu thêm về tiếng Việt, về dịch thuật, về phổ thông, về học thuật, về tư tưởng Tây phương và khảo cứu về văn minh, chính trị nước Pháp. Sự nghiệp ấy có thể được nối tiếp sau này với tờ Bách Khoa vào năm 1957 với đầy đủ các kiến thức đủ loại: Từ văn chương đến nghệ thuật, đến khảo cứu phê bình, đến sử học và triết học Đông Tây…

Và xin trích dẫn lời nhận định của Vũ Ngọc Phan, trích lại từ Thế Kỷ 21, số 122, về  Phạm Quỳnh như sau:

 “Một người chỉ biết đọc quốc ngữ mà có khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ Bách khoa toàn thư bằng Quốc văn.”

Chính trong cái ý trên mà người viết bài này muốn nối kết lại con đường học thuật từ Nam Phong tới Bách Khoa.

 Phải nhìn nhận rằng con người Phạm Quỳnh đã làm được nhiều điều mà cộng chung tất cả những người cộng tác với ông cũng không thể so sánh bằng.

 Văn học, chính trị, chữ quốc ngữ thời Phạm Quỳnh giống như một cánh đồng với luống cầy vỡ đất. Phạm Quỳnh là người cầy xới mảnh đất đó lên và vun xới chăm sóc.

Và kể từ Phạm Quỳnh đến Bách Khoa, số phận văn học đã có những lúc nổi trôi cùng với số phận đất nước để sau cùng có được những điều như ngày hôm nay.

 Tôi chỉ biết kinh ngạc và cảm phục những nhà văn, nhà báo của thời kỳ Nam Phong cũng như Bách Khoa sau này.

Họ đã làm được những điều phi thường, đã đóng góp, xây dựng cho công việc này. Mặc dầu, những bài báo của Phạm Quỳnh còn nặng lối văn biền ngẫu, lý luận cũng  thiếu sắc bén mà cũng ngây ngô về những điều

mà bây giờ chỉ là những kiến thức khá sơ đẳng. Nhưng chúng vẫn có giá trị tinh thần của những người đi bước đầu. Khó lắm và cũng gian nan lắm.

  • CON ĐƯỜNG TIẾP NỐI CỦA BÁCH KHOA

Mục đích chính của bài viết này là nối kết chặng đường từ Nam Phong tới chặng đường Bách Khoa. Những gì Nam Phong chưa làm, Phạm Quỳnh chưa viết, hoặc chưa đủ điều kiện thực hiện, hoặc chưa phải lúc thì Bách Khoa và các tạp chí văn học khác đã làm được. Sau đây là những hiện thực đấng ghi lại

  • VỀ LÃNH VỰC TIỂU THUYẾT, THI CA

Phạm Quỳnh hầu như không để tâm mấy về lĩnh vực này. Trừ cuốn La Poesie Annamite ( Thơ An Nam ) xuất bản 1931. Từ cái thi ca

 Việt Nam trong Poésie Annamite này đến thứ thi ca của Nguyên Sa, Quách Thoại, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư là một cuộc vượt mốc. Chắc là khác xa nhau lắm.

 Đó là khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.

 Phần Phạm Quỳnh, ông chỉ viết về những bài du ký như truyện đi dự Đấu xảo ở Paris với Pháp du hành trình nhật ký, Mười ngày ở Huế hay Một tháng tại Nam Kỳ.
Riêng một tháng ở Nam Kỳ xem ra ông chưa thấu đáo về văn học Nam Kỳ mà sau này Nguyễn Văn Trung đã có công sưu tầm và viết cuốn sách: Lục Châu học.

 Sau này, theo sự tiết lộ của gia đình, ông đang viết dang dở một bản văn tìm thấy trên bàn viết sau khi ông bị Việt Minh bắt dẫn đi và được coi như tùy bút với nhan đề: Hoa Đường tùy bút. Thật ra gọi là tùy bút, nhưng đọc nội dung cho thấy đó chỉ là những Meditations (thiền định ), những suy niệm về cuộc đời, về lẽ sống ở đời hay về thế thái nhân tình hơn là thứ Tùy Bút theo nghĩa bây giờ.

 Nó không giống thứ tùy bút của một Nguyễn Tuân, của Mai Thảo, của Vũ Bằng và nhất là tùy bút hay tạp bút của Võ Phiến.

Thật ra, muốn làm giầu và phong phú cho tiếng Việt thì không thể không viết và đọc truyện, đọc thi ca, đọc tùy bút. Những công việc này không nhất thiết chỉ Bách Khoa đã làm mà hầu hết cáp tạp chí trong Nam, sau 1955 chú trọng đến phần Văn học, nghệ thuật dưới nhiều dạng thơ, văn, truyện, tùy bút.

Họ đã bỏ xa cái thời của Phạm Quỳnh.

Nhưng thơ văn, truyện, trong Bách Khoa cũng không hẳn là “mặt mạnh” của tờ báo, mặc dầu sau này, có các nhà văn như Phan Văn Tạo và trẻ như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Thế Uyên v.v… Đặc biệt dưới dạng gọi là Tạp bút và tùy bút thì có sự đóng góp của Võ Phiến khá nhiều coi như thành công và xuất sắc của tờ Bách Khoa.

Ông có khoảng vài chục tùy bút như: Một ngày để tùy nghi, Cái còn lại, Mùa xuân con én, Nhớ làng, Những đám khói... Và Tạp luận như Vui buồn, Nhìn lại 15 năm Văn Nghệ Miền Nam, Đông Tây.

Võ Phiến có cái tỉ mỉ chi li từng sợi tóc, tế vi, nhẹ nhàng, không phấn son kiểu Mai Thảo. Nhưng có những nhận xét góc cạnh và sắc bén trong đó.

 Hay như Nguyễn Ngu Í, một trong những người viết nhiều cho Bách Khoa với nhiều bài viết, nhất là viết về những nhà văn, nhà báo. Sau này, ông tập trung tất cả những bài trên Bách Khoa in thành sách mang tựa đề Sống Và Viết. Khá là sinh động và trung thực. Viết có gói ghém một tấm lòng, dễ ưa mà đọc ông.

Nguyễn Hiến Lê thì đem ngôn ngữ Việt vào khắp chốn: từ giáo dục đến lịch sử đến văn chương, dịch thuật và cao chót là đến triết học.

  • VỀ MẶT BIÊN KHẢO

Thời kỳ Nam Phong đã có nhiều người cộng tác như quý ông Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng-(con rể phạm Quỳnh) Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục và các nhà văn nhà thơ như Phạm Duy Tốn ( thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), Đông Hồ và Tương Phố.  Phạm Duy Tốn với truyện: Sống chết mặc bay..nổi bật về tính cách táo bạo và đạt tới hiện thực xã hội.)

Mặc dầu vậy, tên tuổi Phạm Quỳnh vẫn nổi bật trên tất cả những người cộng tác ở trên về mặt dịch thuật và biên khảo.

Theo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, cái vốn liếng ấy, cái vốn liếng học thức hơn người ấy của Phạm Quỳnh chỉ có được với 9 năm Phạm Quỳnh làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Mặc dù đỗ đầu trường Hậu Bổ, năm 1908. Phạm Quỳnh đã không đi theo con đường hoạn lộ. Theo đường đó thì cụ Phạm Quỳnh sẽ rơi vào cái cảnh “sáng vác ô đi, tối vác về”. Hay tệ hơn như cụ viết, lối giáo dục của Tây chỉ đào tạo được các thầy thông, thầy phán ti toe mấy chữ tiếng Tây và “đi làm mướn”.

Và như lời nhận xét của Đoàn Văn Cầu về Phạm Quỳnh: “Kiến văn quảng bác của tiên sinh được hun đúc phần lớn ở trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ” (Trích Tạ Chí Đại Trường, thế kỷ 21, số 122, tháng sáu 1999, trang 42).

 Sau này, 15 năm làm báo, Phạm Quỳnh đã dùng cái sở học chín năm của trường VĐBC giúp Phạm Quỳnh đi sâu vào các lãnh vực triết học, văn học, văn chương kim cổ. Và rất nhiều người đọc thời ấy đã là học trò của Phạm Quỳnh theo nghĩa đọc Nam Phong để có cơ hội mở mang thêm kiến thức.

Dĩ nhiên, nếu so sánh với những hiểu biết bây giờ thì công việc của Phạm Quỳnh chỉ là giới thiệu tổng quát trào lưu tư tưởng Tây Phương như các học thuyết của Rousseau 1712-1778. Montesquieu, 1689-1755. Voltaire 1694-1778.

Tôi tự đặt vấn đề là tại sao Phạm Quỳnh lại chọn các nhà tư tưởng như Rousseau, Montesquieu, Voltaire của thế kỷ 18? Có cổ quá không? Phải chăng chỉ vì những tư tưởng chính trị, xã hội của các nhà tư tưởng này thích ứng được cho xã hội, chính trị Việt Nam lúc bấy giờ? Khảo luận về Rousseau hay Montesquieu là tự mình lùi về hai thế kỷ ở đằng sau? Trong khi đó thì sau cách mạng 1789, nước Pháp về mặt tư tưởng đã bỏ xa những nền tảng triết lý, chính trị, giáo dục của Rousseau hay Montesquieu rồi.

 Ngoài ra, ông còn giới thiệu tư tưởng Đông Phương như Phật giáo, Khổng giáo v.v… Những tư tưởng đó cả ngàn đời vẫn là thế nên chẳng có thể làm gì khác được.

Nhưng dù thế nào, đối với thời ấy, phải nhìn nhận rằng, cái mặt mạnh, trổi bật của Phạm Quỳnh và Nam Phong, chính là phạm vi biên khảo học thuật.

 Nó giới thiệu các tư tưởng học thuật ấy đối với đa số bạn đọc còn mù mịt về thế giới Tây Phương. Và coi như là những khám phá mới, những bước khai sáng mở đầu.

 Nhiều bạn đọc đã hẳn coi tạp chí Nam Phong cũng như cụ Phạm Quỳnh là thày dạy cho cả một thế hệ.

Đã có một thế hệ Nam Phong. Thế hệ Phạm Quỳnh.

Cũng theo con đường đó, cái mặt mạnh nhất của Bách Khoa sau này là phần biên khảo.

  • Tờ Bách Khoa

Những người có công đầu trong tờ Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Nhưng cũng để lọt một tay cộng sản nằm vùng lọt vào Bách Khoa. Tên y là Vũ Hạnh.

 Nhưng nay là biên khảo về những nhà tư tưởng, triết gia đương thời, thế kỷ 20 mà không phải thế kỷ 18 như trước đây nữa.

Cộng thêm là những biên khảo về đủ mọi mặt.

Có thể mặt trổi bật và mạnh nhất của Bách Khoa là lãnh vực triết học. Thứ triết học đã ảnh hưởng trên phạm vi tư tưởng, văn học một phần lớn thế hệ thanh niên thời ấy.

  • NGÀNH TRIẾT HỌC

Việc giới thiệu triết lý hiện sinh hay các thuyết cơ cấu luận, hiện tượng luận, tuy là rất mới mẻ đốí với Việt Nam, nhưng cũng đã kể là trễ so với bên Pháp. Vì những triết gia này đã nổi tiếng một thời ngay sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Trễ gần hai chục năm. Nhưng có sao? Cũ người, nhưng mới ta là được rồi.

Lần đầu tiên các danh từ như nôn mửa, phản kháng, tù đầy, hư vô, tự thân, en soi, pour soi, tha nhân, thân phận, hỏa ngục, lưu đày, hữu hạn, vô hạn tràn ngập văn chương tiểu thuyết, nơi cửa miệng thanh niên thiếu nữ.

 Hai tác giả đóng góp nhiều hơn cả trên Bách Khoa là Nguyễn Văn Trung và Trần Thái Đỉnh. Nguyễn Văn Trung, người viết khỏe, sung sức với 50 bài viết đủ loại và Trần Thái Đỉnh 30 bài. Tất cả những bài viết đó thường liên quan đến những triết gia đại diện hàng đầu nhu J.P Sartre, Heidegger và nhà văn như A. Camus.

 Cao hơn một chút, có mhững bài biên khảo về thuyết Hiện tượng luận và Cơ cấu luận. Nhưng để hiểu được nội dung những cơ sở lý thuyết này, chắc người đọc cần kinh qua ngưỡng cửa đại học.

Nội dung những bài viết của Nguyễn Văn Trung có tính cách tản mạn triết học như Tự tử, Cần lao, Tình yêu trong tác phẩm kịch của G. Marcel, Trường hợp F. Sagan hay vấn đề luân lý trong tiểu thuyết, Cái nhìn hay đám cưới với cuộc đời, Chủ nghĩa hiện sinh (Trả lời phỏng vấn của Trần Thái Đỉnh).

Nội dung các bài viết của Trần Thái Đỉnh có tính cách trường ốc, sư phạm. Ông đã viết đều đặn liên tiếp mấy chục bài trên Bách Khoa như:

 Siêu Việt thể của Jaspers từ số 125-126-127. Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lý, số 132. Kierkegaard, ông tổ của triết học hiện sinh chính thức, số 117, 118. Tổng kết về phong trào Hiện sinh, số 135- 136.

 Những bài viết của Trần Thái Đỉnh đã giúp ích rất nhiều cho bất cứ ai muốn mon men vào lãnh vực triết học, hiểu được những nét cơ bản về các triết gia hiện sinh. Công của Trần Thái Đỉnh không phải là nhỏ đối với đa số bạn đọc.

Về triết Đông Phương tương đối còn mới mẻ trong đại học nên phần đông là sự đóng góp phần dịch thuật hoặc chú giải.

Có một số tác giả như Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Hiến Lê… Sau này có Kìm Định viết rất nhiều về Triết Đông với một góc độ nhìn từ Triết Việt với các bộ sách khoảng 30 cuốn như: Cơ cấu Việt Nho, Nhân chủ, Những dị biệt giữa hai nền triết học Đông Tây, Sứ điệp trống Đồng và đặc biệt hai bộ Cửa Khổng và Chữ Thời. (Muốn đọc thêm thêm Kim Định, xin mời vào (dunglac.org)

  • VỀ KHOA NGÔN NGỮ

Chúng ta không thể ngờ rằng khoa ngôn ngữ học đã khởi xướng rất sớm với Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Trước Nam Phong của Phạm Quỳnh cũng vài chục năm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi bằng cách nào, Truơng Vĩnh Ký đã trở thành nhà ngôn ngữ học, một nhà bác học của Việt Nam? Ông là người đồng thời với những nhà ngữ học tài danh thế giới như F. de Saussure. Dựa vào sự nghiệp trước tác của ông cho thấy có đến 52 công trình viết của ông về ngôn ngữ, chiếm 43% công trình trước tác của ông.

Bẵng đi một khoảng cách gần 100 năm, chúng ta không có những người kế tục Trương Vĩnh Ký.

Tờ Nam Phong thì không ai đá động gì đến ngôn ngữ học.

Đó là một lỗ thủng văn học về ngôn ngữ học từ Nam Phong, kéo dài qua nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Kể cũng là điều kỳ lạ.

Sau này, ở miền Nam, chẳng biết do duyên văn học nào mà có một số không nhỏ các tác giả đi sâu vào lĩnh vực ngữ học.

 Thoạt đầu có thể là linh mục Lê Văn Lý có bằng tiến sĩ với tác phẩm Le Parler Vietnamien ( Nói tiếng Việt ), thập niên 1940-1950, giáo sư Đại học văn khoa Sài Gòn. Các vị khác nối đuôi theo đều cũng tự học như Trương Vĩnh Ký.

Đó là các quý ông Nguyễn Bạt Tụy, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ và  giáo sư Trần Ngọc Ninh, Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, nhà văn Bình Nguyên Lộc.

Không viết cho Bách Khoa, nhưng có công trình khảo cứu về ngữ học phải kể thêm linh mục Nguyễn Hưng, nhất là linh mục Nguyễn Huy Lai.( thuộc Dòng Tên)

Đa số họ viết cho Bách Khoa, rồi ra sách với các công trình nghiên cứu như Khảo luận về ngữ pháp, Ngôn ngữ học Việt Nam, Bàn về tiếng Việt, về chính tả tự vị.

Mặc dầu là những đề tài chuyên môn, nhưng chịu khó mầy mò thì cũng có thể hiểu được đôi phần. Nhờ những công trình khảo cứu như thế, có thể coi tờ Bách Khoa như một thứ bách khoa tự điển bỏ túi.

  • VỀ LÃNH VỰC SỬ HỌC

Đây là môn học lâu đời nhất của Việt Nam. Nhiều bộ sách sử được viết ra kể không hết như: Sử Quốc triều chánh biên toát yếu, Hoàng Lê nhất thống chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Phủ Biên tạp lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lực tiền biên, Gia Định thành thông chí, Đại Nam liệt truyện tiền biên…

 Có thể nói tắt một lời, sử học là ngành học lâu đời và phong phú với hằng trăm sách nghiên cứu, hằng trăm tác giả đủ loại. Chưa kể cũng đến hằng trăm sách sử mà tác giả phần lớn là người Pháp.

Phần sử học viết trong Nam Phong tạp chí cũng không nhìều. Quá ít nữa, gần như không được ghi chép lại. Nhưng tôi cũng tìm thấy được một số tài liệu trong phần phụ lục, viết bằng Hán Văn. Chẳng hạn viết về Ngọc Hân Công Chúa và qua Quang Trung trong Nam Phong số 103, số 177, số 111, năm 1926.

Sau này, ông Tạ Quang Phát đã phê dịch và được đăng trong Tập san Sử địa, số đặc biệt về Quang Trung.

Từ những tài liệu sử viết bằng chữ Hán, trong phần phụ trương của Nam Phong đến các sử liệu viết trên Bách Khoa có một khoảng cách lớn cả về số lượng bài vở lẫn số lượng tác giả.

Người đầu tiên tôi muốn nhắc tới là Nguyễn Thiệu Lâu, tốt nghiệp sử học ở Pháp, chuyên chú về nhà Tây Sơn. Sau này có những nhà sử học trẻ hơn mà tôi rất quý mến.

 Đó là truờng hợp Tạ Chí Đại Trường. Ông có trình luận án cao học với đề tài: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802. Ông viết rất sắc bén, phân tích kỹ lưỡng. Ông viết chẳng những cho Bách Khoa mà còn cho Tập San sử địa cũng như tạp chí Đại Học.

Đây là mẫu điển hình của loại người có chân tài.

Xin được liệt kê một số bài của ông như: Vai trò cửa Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính, Chiến thắng Nguyễn Huệ trước viện binh Trung Hoa, Dân Đại Việt ở cuối thế kỷ 18, Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn và chân dung anh em họ.

Ngoài Tạ Chí Đại Trường không thể quên một tên tuổi có vẻ xa lạ đối với độc giả người Việt.

 Đó là ông Chen Ching Ho, tên Việt là Trần Kinh Hòa. Tôi không chắc là ông có viết cho Bách Khoa không? Ông viết rất nhiều dựa trên văn bản như: Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên, Kẻ chợ, Thành trì Chí của Trịnh Hoài Đức.

Đối với giới sử học miền Nam, chắc hẳn ông là người được kính nể không ít.

Tôi cũng nhận ra ở miền Nam, có một xu hướng viết sử trân trọng, cổ súy Quang Trung Nguyễn Huệ trong đó có các tác giả Hoàng Xuân Hãn với La Sơn Phu Tử, Hồ Hữu Tường, Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, Tạ Quang Phát, Đặng Phương Chi, Phạm Văn Sơn… Và sau này, tôi cũng thấy xu hướng viết về Tây Sơn tương tự như vậy ở miền Bắc.

Thứ đến, tôi có cảm tưởng môn sử học là nơi ra vào của bất cứ ai, không cứ là nhà sử học. Vì thế có thể thấy tên những tác giả như Nguyễn Đăng Thục, Vương Hồng Sển, Hoa Bằng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Kham, Lê Ngọc Trụ, Phan Văn Luận, Bửu Cầm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam va` ngay cả thi sĩ Quách Tấn, Đông Hồ.

Nhân tiện đây, chúng tôi xin được một lần nêu danh tính tất cả các tác giả đã một thời đóng góp cho ngành sử học ở Việt Nam, kể từ sau 1955, bất kể là họ đã viết cho Bách Khoa hay không? Có thể tên tuổi họ còn thiếu sót.

Đó là Tạ Chí Đại Truờng, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thế Anh, Bửu Cầm, Phan Khoang, Lâm Thanh Liêm, Phạm Văn Sơn, Thái Việt Điểu, Phạm Cao Dương, Trần Anh Tuấn, Quách Thanh Tâm, Nguyễn Khắc Ngữ, Đặng Phương Nghi, Nguyễn Huy, Phạm Long Điền, Trần Quốc Giám, Lê Thọ Xuân, Tô Nam, Lê Văn Ngôn, Bửu Kế, Nguyễn Văn Dương, Linh mục Nguyễn Phương, Nguyễn Khắc Xuyên, Mai Chưởng Đức, Nguyễn Sao Mai, Chen Chin Ho hay Trần Kinh Hòa, Hồ Hữu Tường, Nghiêm Thẩm, Ưng Trình, Phạm Văn Diêu, Nguyễn Như Lân, Tiên Đàm Nguvễn Tường Phượng, Nguyễn Như Lân, Thích Thiện Ân, Nguyễn Khắc Kham, Tạ Trọng Hiệp, Nguyễn Trần Huân, Lê Văn Hảo, Lê Hữu Mục, Tô Nam, Trần Nhân Thâm, Nhất Thanh, Lê Hương, Hãn Nguyên, Đào Duy Anh, Ưng Trình, Lê Thọ Xuân, Nguyễn Nhã, Nguyễn Văn Hầu, Phù Lang Trương Bá Phát, Nguyễn Bá Thế, Lưu Hải Nam, Trần Trọng Kim, Lãng Hồ, Lê Thanh Cảnh, Lê Thành Khôi, Trương Bá Cần.

Và có thể còn nhiều tác giả khác mà chúng tôi đã thiếu sót không ghi chép đủ. Một phần dựa vào Tập san Sử Địa. Cũng do khoảng cách chính trị, chúng tôi thực sự không được biết nhiều đến các người viết sử miền Bắc.

Sự liệt kê danh sách nhiều người viết sử như thế chứng tỏ rằng thời kỳ Nam Phong tạp chí đã bị bỏ qua rất xa đến không ngờ được.

  • VỀ LUẬT PHÁP

Đây cũng là ngành khá mới mẻ mà thời kỳ báo Nam Phong hầu như không có một ai có sách vở, tài liệu nghiên cứu. Xin được vắn tắt một vài vị như quý ông Trần Thúc Linh và đặc biệt là quý ông Lê Tài Triển và Nguyễn Toại. Hình như ngoài đời, chức vụ của họ đều là thẩm phán cả.

Riêng ông Lê Tài Triển là người mà tôi nhớ nhiều nhất với bài viết về vụ án cầu Rạch Hào liên quan đến vụ tai nạn lật xe chết người trên đường Sài Gòn đi Vũng Tầu, liên quan đến con gái của ông triệu phú Nguyễn Đình Quát. Ông còn viết các bài như: Cá nhân đứng trước pháp luật, Nạn nhân với tố quyền của nạn nhân.

  1. TỔNG KẾT BÀI THAM LUẬN TỪ NAM PHONG TỚI BÁCH KHOA

Con đường học thuật chẳng khác gì con đường Nam tiến. Từng bước, từng chặng đường lịch sử mà chúng ta đã đi qua. Nó đánh dấu những thăng trầm, những ngưng đọng cũng như những tiến bộ không ngừng.

Công khó là của nhiều người.

Nếu thời kỳ báo Nam Phong, xin mượn lời Thanh Lãng: ca tụng Nam Phong tạp chí là một bộ Bách Khoa tự điển, kết hợp được tất cả tư tưởng mọi ngành từ khoa học đến văn chương và là tờ văn học có ảnh hưởng lớn nhất từ trước đến nay. Và rồi còn quy tụ được tất cả những nhà văn hóa thời danh của đầu thế kỷ XX mà người đứng đầu là Phạm Quỳnh.

Tất cả những mỹ từ ấy chỉ cần chuyển hai chữ Nam Phong thành Bách Khoa thì đều đúng cả.

Vì thế, con đường từ Nam Phong đến Bách Khoa là con đường thẳng, một chiều. Cái gì ở Nam Phong không có thì Bách Khoa có hết, mà có hơn bội phần, có dồi dào và phong phú. Chỉ có vấn đề danh xưng là khi nói đến Nam Phong, người ta liên hệ trực tiếp ngay tới Phạm Quỳnh. Điều đó trở thành lúng túng và dè dặt hơn trong trường hợp của tờ Bách Khoa. Nhưng dù là một người hay nhiều người thì Bách Khoa vẫn là một thứ Bách khoa toàn thư cho bất cứ ai muốn mưu cầu mở mang kiến thức.

Bách Khoa là một bộ sách dạy cho bất cứ ai khi rời khỏi ghế nhà trường.

Nó là sự kéo dài từ trường học ra đến trường đời.

Nó là thứ trường học liên tục, cập nhật và bổ túc cho những gì còn chưa đủ của truờng học.

 Cái gì chưa học ở nhà truờng thì học ở đây.

Một người anh của tôi thú nhận rằng: ngoài vốn liếng chuyên môn dành cho một y sĩ mà ông học ở trường Y khoa, hầu như tất cả vốn liếng kiến thức đủ thứ còn lại, ông đều nợ tờ Bách Khoa cả.

Một thú nhận khiêm tốn mà không thiếu phần hãnh diện.

 Điều đó nói lên rằng, tờ Bách Khoa đã thực sự đóng góp cho nhu cầu văn hóa, học thuật cho tất cả tầng lớp thanh niên trí thức miền Nam như một hành trang giúp họ vào đời.

Miền Bắc đã không có được điều đó.

Cho nên sẽ không lấy gì làm lạ về sự tồn tại, có mặt lâu dài như thế của tờ Bách Khoa. Bởi vì hơn bất cứ tờ báo nào, nó đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu hiểu biết của một người.

Một điều nữa cần hiểu rằng sách vở chuyên ngành, sách vở khảo cứu của chúng ta chưa có đầy đủ, người viết cũng không có. Báo chí như Bách Khoa thay thế vai trò của sách vở, giải quyết tạm thời sự thiếu thốn ấy.

Vì thế, vai trò báo chí trong sự mở mang học thuật, kiến thức là điều cần thiết, cấp bách không có không được.

Hiểu được như thế mới thấy vai trò của Nam Phong cũng như Bách Khoa quan trọng như thế nào. Con đường học thuật đi từ Nam Phong đến con đường của Bách Khoa là con đường Nam tiến mà chúng ta nên hãnh diện.


 

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào…- Cha Vương

Xin Chúa thay lòng đổi dạ những tâm hồn nguội lạnh để họ biết tìm đến Chúa đang mong đợi từng phút giây đó.

Cha Vương

Th 5: 21/8/2025 cn 22

TIN MỪNG: Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. (Lc 13:24)

SUY NIỆM: Tình yêu, lòng thương xót của Chúa và ơn cứu độ không bị lệ thuộc bởi “số lượng”.  Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng thì quả là không thích hợp, ơn cứu độ không lệ thuộc bởi đi bao nhiêu Thánh Lễ, đọc bao nhiêu kinh, giữ được bao nhiêu luật… Nếu tất cả mọi người đều được cứu rỗi thì bạn sẽ có thái độ ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu rỗi thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công. 

Do đó khi được đặt ra câu hỏi về “số lượng”, Chúa Giê-su không trả lời thẳng nhưng Ngài dùng hình ảnh “đi qua cửa hẹp” để giúp họ thay đổi thái độ của họ về việc cứu rỗi.

“Đi qua” diễn tả sự thay đổi cách sống, còn “cửa hẹp” diễn tả sự cố gắng. Vậy ai được cứu rỗi? Muốn được cứu rỗi thì bạn phải làm gì? Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào, cộng đoàn nào cả. Nhưng ơn cứu rỗi sẽ được ban cho những ai cố gắng thay đổi cách sống mỗi ngày của mình, biết sống đúng theo Lời Chúa và ứng xử với nhau phù hợp với tinh thần của Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời. 

Thiên đàng không dành cho những ai ỷ lại hoặc biếng nhác. Hãy cố gắng chiến đấu để đi qua cửa hẹp nhé bạn!

LẮNG NGHE: … những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. (Hr 12:11b)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con không chỉ là những người Ki-tô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Ki-tô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói và việc làm của con hôm nay.

THỰC HÀNH: Có những người tự nguyện tăng ca làm việc 12g để được hưởng tiền lương cao hơn gấp đôi gấp ba nhưng lại thật biếng nhác trong việc cầu nguyện và đi Lễ hằng ngày. Tại sao vậy nhỉ? Có lẽ là vì họ có thái độ ỷ lại. Mời bạn thay đổi thái độ của mình trong việc này. Đừng chỉ có đi lễ Chúa Nhật mà thôi. Hãy cố gắng đi lễ thêm các ngày trong tuần vì Chúa luôn mong chờ được gặp bạn từng phút giây đó.

From: Do Dzung

*********************

Chúa Chờ Con Dưới Mưa (Sáng Tác: Thiên Phúc) – Angelo Band 

NỖI BUỒN LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ !

Có một người con kể:

“Tôi mua cho mẹ một chiếc điện thoại thông minh. Mẹ nhờ tôi hướng dẫn. Tôi chỉ cho mẹ những chức năng cơ bản, rồi quay lại bàn làm việc.

Một lát sau, mẹ vào hỏi lại. Tôi chỉ tiếp.

Rồi khi tôi đang xoay xở với cả đống việc, mẹ lại hỏi thêm. Lần này, tôi bắt đầu khó chịu.

Cuối cùng, mẹ thở dài: ‘Điện thoại này phức tạp quá, chắc mẹ không dùng được đâu’.

Tôi đáp vội: ‘Tùy mẹ, mẹ muốn thế nào cũng được’.

Khuya hôm ấy, tôi nhận được tin nhắn:

‘Con à, mẹ đã già, hay quên lắm. Nhiều khi mẹ còn chẳng nhớ mình vừa nói gì. Con đừng trách mẹ nhé.’

Tôi đọc mà mắt cay xè. Mẹ không nói trực tiếp, chắc vì sợ tôi cáu. Mẹ sợ làm phiền, sợ tôi mệt.

Từ hôm ấy, mẹ không hỏi nữa. Bà tự mày mò, lặng lẽ, chậm chạp… và chắc hẳn gặp không ít khó khăn.”

Người con ấy chợt nhận ra: thái độ nóng nảy của mình đã vô tình gửi đi một thông điệp đau lòng – rằng mẹ đã già, đã lẩm cẩm, đã phiền hà, đã vô dụng.

Khi chúng ta còn bé, cha mẹ là người biết tất cả, mạnh hơn tất cả. Họ như hai ngọn núi sừng sững, che chở con khỏi bão giông.

Nhưng rồi một ngày, những ngọn núi ấy bắt đầu lùi thấp xuống – không phải vì họ muốn, mà vì sức lực không còn như xưa.

Tuổi già đến, trí nhớ hao mòn, tay chân chậm chạp, mắt mờ tai kém. Những việc đơn giản với chúng ta – với họ lại trở thành thử thách.

Nhưng điều làm họ buồn nhất không phải là sức khỏe, mà là cảm giác mình đang dần “làm phiền” chính những đứa con mà cả đời mình đã nuôi lớn.

Họ bắt đầu ngại hỏi, ngại nhờ, ngại than phiền.

Ngại cả việc gọi điện lâu vì sợ con bận.

Ngại kể chuyện buồn vì sợ con lo.

Ngại hỏi đi hỏi lại vì sợ con khó chịu.

Và rồi, họ chọn im lặng.

Nhưng im lặng đâu phải vì không có gì để nói.

Chỉ là họ sợ mình không còn đủ chỗ trong cuộc sống của con.

Người trẻ thường quên rằng, suốt bao năm thơ ấu, cha mẹ đã kiên nhẫn trả lời hàng trăm câu hỏi “vì sao” của mình – từ chuyện vì sao bầu trời xanh, cho đến vì sao mặt trăng theo con về nhà.

Họ không bao giờ thấy phiền, dù câu hỏi ngây ngô đến mức nào.

Vậy mà khi họ già đi, chỉ hỏi lại một điều đơn giản thôi, chúng ta đã thấy “phiền”.

Chúng ta quên mất rằng, câu trả lời của mình hôm nay không chỉ giải đáp một thắc mắc, mà còn cho họ biết: họ vẫn còn được lắng nghe, vẫn còn quan trọng.

Nếu hôm nay cha mẹ bạn vẫn còn, hãy kiên nhẫn hơn một chút.

Khi họ hỏi lại điều bạn đã nói, hãy nhớ: đó là cơ hội để bạn làm lại một điều tử tế.

Khi họ chậm chạp làm điều gì, hãy nhớ: từng bước đi đầu tiên của bạn cũng chậm chạp như thế, và chính họ đã kiên nhẫn chờ bạn.

Sẽ đến lúc, bạn muốn bị hỏi lại, cũng không còn ai để hỏi.

Sẽ đến lúc, bạn muốn dặn dò ai đó đi đường cẩn thận, cũng không còn người để dặn.

Và khi ấy, bạn mới hiểu, nỗi buồn lớn nhất của tuổi già không phải là bệnh tật, mà là cảm giác mình không còn chỗ đứng trong trái tim con cái.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh – Cha Vương

Ngày Thứ 4 tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa nhé. Nếu bạn bước theo chân các Thánh, thế nào bạn cũng sẽ gặp Chúa Kitô và Đức Maria Mẹ Ngài. Hôm nay ngày 20/08, Giáo Hội mừng kính Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy, và mời bạn hãy noi gương ngài để đến gần với Chúa và Mẹ hơn.

Cha Vương

Thứ 4: 20/08/2025   Tht7-22

Bê-na-đô sinh năm 1090 tại Fontaines-les-Dijon, Burgundy, nước Pháp trong một gia đình quý tộc. Khi 20 tuổi, Bê-na-đô từ giã quê nhà ở Burgundy để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux. Năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bê-na-đô làm đan viện trưởng. Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng. Ngài có tài phân xử và cố vấn. Do đó, càng ngày ngài càng phải xa đan viện để giải quyết các tranh chấp đã có từ lâu trong Giáo Hội. Thánh Bê-na-đô là người đã can thiệp vào một vụ li giáo đang bùng nổ mạnh và đã đứng về phía đức giáo hoàng ở Rôma để chống với phe ngụy giáo hoàng.

     Theo truyền tụng, những lời than thở “Ôi khoan thay, nhân thay, diệu thay, Trinh Nữ Maria!” đã được thánh Bê-na-đô ứng khẩu thêm vào cuối câu kinh Chào Kính Nữ Vương. Thánh nhân đã có công phổ biến thánh thi ấy trong các cộng đoàn tu trì và các đền thánh. Năm 1220, dòng Citeaux đã quyết định buộc mọi phần tử trong dòng phải đọc thánh thi ấy hàng ngày. Kinh Hãy Nhớ, một bản kinh Thánh Mẫu rất được yêu chuộng cũng được cho là của thánh Bê-na-đô ở Claiveaux, mặc dù xác quyết này thỉnh thoảng cũng bị phản đối.

   Thánh Nhân qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại đan viện Clairvaux. Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux được Đức Giáo Hoàng Alexander III tôn phong hiển thánh năm 1170. Đức Giáo Hoàng Pius VIII đã tuyên xưng Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1830. (Tóm tắt từ Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những lời nói của Thánh Bê-na-đô:

(1) Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

(2) “Đấng chiếm đoạt những con tim” là tước hiệu mà thánh Bê-na-đô đã yêu tặng Mẹ.

(3) Ơn chiêm niệm chỉ được ban cho khát vọng thao thức và nài nẵng. 

(4) Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người.

(5) Tôi biết các binh lính phải khổ sở rất nhiều và phải chịu đựng trong âm thầm. Giả như mỗi sáng khi thức giấc, họ chịu khó thân thưa với Thiên Chúa lời than thở đơn sơ này: “Lạy Thiên Chúa của con, con ước ao làm và chịu đựng mọi sự trong ngày hôm nay vì yêu mến Chúa.” Họ sẽ tích lũy được nhiều vinh quang muôn đời.

(6) Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Ðức Maria, hãy kêu cầu Ðức Maria. Liên lỉ kêu cầu danh ngài, hễ có đau khổ thì hãy chấp nhận trong lòng vì danh ngài. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giờ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 5 đánh động mình nhất.

Thánh Bê-na-đô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**********************

Trên Con Đường Về Quê (Nguyễn Khắc Xuyên) – Hoàng Oanh