Tất cả những gì có mặt trong cuộc đời này, từ con người, mối quan hệ, đến tài sản, danh vọng… đều khởi lên từ nhân duyên. Không có gì tự nhiên mà đến. Cũng không có gì mãi mãi thuộc về ta.
Việc ta gặp một người, yêu quý hay ghét bỏ họ, tất cả đều là quả của những nhân duyên đã tạo trong nhiều kiếp sống trước.
Có người vừa gặp đã thấy thân thương, như đã từng gắn bó sâu sắc đâu đó trong quá khứ. Có người vừa nhìn đã khó chịu, bực bội, đó không phải vì họ xấu, mà bởi ta và họ từng oán kết sâu dày trong quá khứ.
Mỗi đứa con, mỗi người bạn đời, mỗi người thân… chỉ là người lữ khách có duyên ghé qua đời ta. Họ đến, rồi họ đi. Họ đến khi duyên khởi. Và sẽ rời đi khi duyên tan.
Chúng ta thường khổ vì lầm tưởng rằng: “Cái gì đến với mình thì là của mình.”
Thật ra không phải vậy.
Người con ngoan ngoãn, tài giỏi, đột nhiên rời cõi đời sớm… không phải là oan nghiệt, mà có thể là họ chỉ ghé ngang cõi người một đoạn, để trả một chút duyên, rồi tiếp tục hành trình theo phước nghiệp cao hơn.
Như một số tiền chuyển nhầm vào tài khoản, ta vui mừng, nghĩ là tài sản của mình. Nhưng đến khi ngân hàng xin lại, ta buồn bã, than trách.
Nhưng đó chưa bao giờ là của ta cả. Chỉ là một duyên tạm.
Người con ấy, người bạn ấy, người thân ấy… cũng thế.
Sự thật là: Chúng ta chỉ có thể đồng hành cùng người khác một đoạn đường.
– Cha mẹ chỉ đi với ta đến một khúc tuổi thơ, rồi rời đi trước.
– Con cái chỉ gắn bó một giai đoạn, rồi có cuộc đời riêng.
– Người bạn đời cũng đến rồi đi, theo cách đời sống sắp đặt.
– Bạn bè, người thân, ai rồi cũng có lúc không còn bên nhau nữa.
Vậy nên, hãy trân quý từng khoảnh khắc hiện tại, khi duyên còn. Hãy yêu thương đúng cách, không dính mắc. Biết rằng: Gặp nhau là duyên. Ở bên nhau là nợ. Hết duyên, hết nợ, ai rồi cũng phải đi.
Tập buông để nhẹ lòng.
Đừng khư khư giữ lấy những thứ vốn không thuộc về mình mãi mãi.
Tất cả tài sản, người thân, địa vị, tình cảm… đều chỉ là duyên trần, có thì quý, hết thì buông.
Nếu không buông, thì khi duyên tan, ta sẽ khổ. Nếu biết buông, thì ngay cả khi chia ly, ta vẫn mỉm cười.
Hãy nhìn đời bằng con mắt nhân duyên, để:
– Không quá đau khi mất mát.
– Không quá chấp khi được trao.
– Và không quá khổ khi phải chia xa.
Ai đi qua đời ta, xin cảm ơn họ.
Ai rời khỏi đời ta, xin chúc họ bình yên.
Vì tất cả chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường.
Nguyện cho tất cả ai hữu duyên đọc được bài này, biết trân trọng những gì đang có, biết buông bỏ những gì đã qua, và sống nhẹ nhàng, thảnh thơi giữa cõi đời vô thường.
(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc). Sébastien. Ch. Le Comte (le masque de fer)
Cách đây vừa đúng 50 năm, 1975-2025, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7. Người ta nhận thấy có một số nhân vật trong chính quyền My mà đặc biệt có một số ký giả từng có mặt trong cuộc chiến VN.
Họ tề tựu khá đông đủ nơi đây như những chứng nhân quan sát cơn hấp hối của Saigon từ trên biển một cách bình thản.
Người ta nhận thấy có ký giả Stanley Karnow, tác giả cuốn: Viêt Nam. A hístory.
David Haberstam với cuốn The best and the Brightest. Và Frank Snepp, người mới tháp tùng tt. Nguyễn Văn Thiệu từ Đài Loan trở về, tác giả các cuốn Decent interval và An Insider Account of Saigon.
Frank Snepp có mặt ở đây lúc này là để chuẩn bị đón tiếp đại sứ Mỹ Martin- người Mỹ cuối cùng sắp rời Saigon.
Ngoài khơi, người ta nhận thấy những con thuyền nhấp nhô như những lá tre trôi trên biển.
Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?
Chẳng ai trong số những ký giả đang chứng kiến cảnh tượng bi đát ấy và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có câu trả lời và tiên đoán được điều gì!!
Trong khi đó, Stanley Karnow với cái nhìn mỉa mai như chế nhạo nói với Haberstam:
Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?
Haberstam, một ký giả một thời từng phê phán cuộc chiến tranh một cách hăng say lạnh lùng, tỉnh bơ đáp:
“ Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Đâu phải chỉ có sức mạnh của B.52? Anh đồng ý chứ?
Và hôm nay chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.
-Karnow đáp lại:
Phần tôi, sẽ không quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ, trong đó có tôi.
Trong khi đó, trong phòng chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với ngài Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:
Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông đại sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ thất bại.
-Thưa ngài Kissinger, ông đại sứ nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần được cứu vớt.
Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe: Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời Viet Nam. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn “chó chết” đó không chết phứt đi cho rồi.
Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đó đã đưa ra nhận xét:
“ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi những người đang lố nhố trốn trên biển là những đống rác mà chúng tôi cần tống ra biển ‘
Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Mỹ đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:
“Người Mỹ đến VN như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Đó là thành công của ông cũng như của chúng ta. Congratulation!!
Ngay sau đó, đại sứ Martin đã nhận được từ dưới bong tàu chỉ huy, một cựu tướng lãnh VN mà ông từng quen biết muốn gặp ông.. ông đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy viên nhắn lại:
“Nói với ông ta, ở đây không phải Sài gòn mà là nước Mỹ trên biển.. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người “ vô tổ quốc”. Ông ấy phải tự tước bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì.
Người tùy viên đã tuân lệnh nói lại và ghi lại như sau: ông cựu tướng đã quỳ xuống sàn tàu một cách tuyệt vọng và dơ hai tay ngửa mặt lên trời kêu lên rằng:
“Ta thề với trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về.”
(Câu truyện và hình ảnh như một bi kịch biểu tượng vho những ngày mất Saigon, Tuy nhiên được biết, sau này ông có trở về thật, nhưng không phải để chiến đấu chông cộng sản, mà để bắt tay hòa giải với cộng sản.)
Tin tức sau này cho hay rằng, đã có khoảng 250.000 ngàn người đã được vớt trên biển và được định cư trên nước Mỹ.
Ngày nay, nhiều người ngồi hồi tưởng lại không thể mường tượng nổi, họ đã có thể liều lĩnh làm một việc như vậy.
Nhưng cái “ sô” vớt người trên biển đầy tình người của người Mỹ nói lên rằng: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng , ngay cả việc trốn chạy.
Hãy cứ tưởng tượng trong số 250 ngàn ấy, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên và nay nếu muốn diễn tả lại tâm trạng của họ thì có thể tóm tắt là tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai..
Vậy mà nay giới trẻ ấy đã đóng góp tích cực, đóng góp vào cộng đồng hải ngoại mà không cần nói hết ra ở đây.
Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng tùy theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản mại bản”. Và cuối cùng, chính sách”đi bán chính thức” nhằm xua đuổi giới Hoa kiều ra khỏi VN.
Con số nay không còn là 250.000 người mà nhảy vọt lên hơn hai triệu người.
Giữa sự ra đi của 250.000 người và của hai triệu người sau này có sự khác biệt sâu xa về tính chất và về nục đích. Về tính chất, con số 250.000 người chỉ do sự hoảng kinh mà bỏ chạy. Trong khi những người đi sau từng nếm trải kinh nghiệm sự tột cùng khốn khổ. Họ bị đẩy vào chân tường và lối thoát duy nhất là bằng mọi giá, bằng mọi phương tiện, bằng sự trả giá ngay cả sự sống để trốn thoát ra khỏi Việt Nam mà sau này người ta gọi là “ boat people”. Ngoài những người may mắn sống sót, còn biết bao nhiêu người bị hãm hiếp, bị giết bởi hải tạc Thái Lan, để xác trên biển cả?
Cho đến nay, con số này chẳng ai biết là bao nhiêu. Gia đình các nạn nhân chỉ còn ngậm ngùi trong bóng tôi trong sự tiếc thương. Người chết thì đã chết. Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa. Thời gian rồi sẽ xóa nhoà tất cả.
Và như tiêu đề bài viết; Ngày nào đó, các con sẽ trở về.
Về phía nhà cầm quyền cộng sản.
Họ cho rằng chính thức nhà nước không cưỡng bức bất cứ một ai muốn bỏ nước ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để tránh tình trạng xô bồ vượt biển gây khó khăn cho các nước láng giềng. Chính quyền cộng sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình ra đi có trật tự (ordely departure program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển đã giảm mức độ.
Tất cả cái thảm cảnh trên biển nay đã đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của cộng sản
( Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “ Những con bò sữa thuyền nhân”
Từ nay gió đã đổi chiều.. Gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh sắp tới thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại nhà cửa, tài sản, ruộng vườn. Nay Bộ Nội Vụ quản lý toàn bộ các tài sản, tiền bạc, nhà cửa. Đây lại cho thấy một hình thức “ nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm việc nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước 25 tấn vàng.
Nhưng tính lại, 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.
Và để gọi tên những thuyền nhân này tùy thuộc vào từng thời kỳ. Thoạt đầu là bọn phản quốc, bọn bán nước hại dân, bọn tay sai, bọn Mỹ-Ngụy.
Cho mãi đến năm 1990, người ta vẫn còn nghe có người gọi là bọn việt gian.
Sau này, chữ dùng xem ra có vẻ khách quan hơn cả là: Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Viêt Nam Thương Tín để cùng suy gẫm lại.
Trên báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày mồng 3/7/1977, ở trang ba, có viết như sau:” Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976 đã ấn định rõ như sau: Tội chạy trốn sang hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình.
Về số phận những người đi tàu Việt Nam Thương Tín theo báo chí, họ đã bị phân tán đi Lào Cay, Yên Bái, Thái Nguyên.
Về phía những người Việt Nam ra hải ngoại như các nhà văn, nhà thơ, xin ghi lại một vài tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ như bài viết của Nguyễn Đình Toàn hay nhà thơ Cao Tần.
“ Thù quê hương như tên hề ốm nặng.
Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười.
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mày ngu ngơ
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xi
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng.
Nếu mai mốt đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương.
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương.
Gió chướng không còn nữa. Gió đâ đổi chiều .
Những thành phần trước đây bị coi là rác thải nay trở thành rác quý chế biến thành những sản phẩm. Rác thải cứ thế mà thay hình đổi dạng.
Những chiếc xe Mercdes, những biệt thự sang trọng như ở Mỹ, những khách sạn Sofitel Vinpearl Resort-Spa, 5 sao tại Hòn Tre. Khu Vinpearl Resort tại Nhatrang..
Những đại gia mà trước đây có thể chỉ là dân thuyền chài sang Mỹ trở thành chủ tàu đánh cá nay trở về. Những mệnh phụ phu nhân mà trước đây có thể là chị bán cá chợ Trần Quốc Toản. Họ nói tiếng Mỹ eo éo, trơn tuột, liến thoắng đến không ai hiểu.
Phải chăng trước đây cuộc di tản là nỗi bất hạnh nay trở thành đại hạnh cho chính họ và con cháu.
Hà Nội đã trải thảm đỏ đón họ từ phi trường Tân Sơn Nhứt trở về như đón một đứa con phung phá nay đã trở về thành đạt.
Câu truyện về họ nay như những câu truyện thần thoại. Mà những câu truyện trước đây kể về họ ngày càng trở nên nhạt phèo như nước ốc.
Gió chướng không còn nữa, gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng
lưỡi đổi giọng.
Không còn thứ chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.
Trên sách báo, trên các trang nhà, không còn tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa, nói gần đến chế độ miền Nam. Những chữ như “bọn ngụy quân”, “ngụy quyền”, “bọn tay sai” đã không còn tìm thấy chính thức trên báo Nhân Dân nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “ tổ quốc VN luôn mở rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.. “ Nhà nước bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”.
Luật quốc tịch ghi rõ ràng thế này ở điều II: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam.. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”
Hãy nhìn vào những con số
Năm 1987 mới chỉ có 8000 người về thăm quê hương. Năm 1993, con số đã là 160.000 người. Năm 2002 là 380.000..
Nay thì con số đã lên tới 2 triệu người và trong vài năm nữa, con số nhắm tới là 10 triệu người như Thái Lan với các đường bay thẳng Sài Gon- Mỹ, Sài Gòn- Âu Châu..
Giả dụ, mỗi Việt Kiều về Việt Nam ở hai tuần lễ, chi tiêu khoảng 4000 đô la.
Cán cân kinh tế được kích cầu lên không nhỏ. Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đày hứa hẹn.
Đó là một nền kinh tế dựa trên một kỹ nghệ không khói.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, nhà nước chỉ giữ có một độc quyền không thay đổi.
Mang tiền về thì được, nhưng đừng mang “chữ” về.
“Chữ” hiểu theo nghĩa rẩt rộng như sách báo, tư tưởng, âm nhạc, ca hát, nghệ thuật.
Cần nhớ rằng từ khi thành lập đảng đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín. Chủ nghĩa hay ý thức hệ, bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị.( Ideology, terror and totaliarian government).
Hiểu như thế, chẳng lạ gì, khi về Việt Nam, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm, chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái gú đủ kiểu, sex đủ kiểu, ăn đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, lưu manh đủ kiểu, thằng ăn cướp xử thằng ăn cắp đủ kiểu..
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng chạm đến chính trị .
Vài mẫu người việt di tản nay về sống ở Việt Nam.
Phải nói thẳng với nhau rằng họ là những người “ ngoại quốc” sống trên chính quê hương họ: tách biệt và đẳng cấp.
Họ ở những khu riêng biệt với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.
Những khu nhà có những bãi cỏ xanh, hồ bơi, những mái nhà mái màu cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, bên cạnh có chữ tiếng Anh “Welcome”.
Họ lái những chiếc xe SUV ra khỏi cổng săt tự động mở.
Chẳng hạn anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên là là Larry trước đây là sĩ quan không quân cùng với bà vợ có tên cúng cơm là Ngọc, nay là Linda.
Anh năm nay đã 70 tuổi, về hưu. Anh ở trong một ngôi nhà với đồ dùng toàn Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết kế theo kiểu jacuzzi của Ý.
Toàn đồ xịn không à. Anh tỏ ra hãnh diện. Anh thiệt là Việt kiều.
Có điều oái ăm là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhở và nhớ về Sài gon và đặt các tên như Little Sài gòn, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Dakao, restaurant Hoài Hương, phở Hà Nội, phở Nguyễn Huệ, Brodard restaurant vv.. để gợi nhớ về một miền Nam thân yêu của một thời..
Nay ở Việt Nam thì họ lại tiếc lối sống ở Mỹ, nhớ những kỷ niệm về Mỹ.
Họ trở thành người ngoại quốc trước đồng bào của họ.
Trường hợp anh chàng Hoàng Tiến rất bực mình khi người hàng xóm đã vứt những bao rác trước cửa nhà anh. Lại còn mở nhạc karaoke ầm ĩ bất kể giờ giấc.
Hoàng Tiến khi ở Mỹ thì bắt con học tiếng Việt. không muốn trở thành một thứ Melting Pot.
Về Việt Nam, anh lại chỉ quen xổ tiếng Mỹ. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn gặp nhiều điều rất khó chịu. Chẳng hạn, một anh cán bộ phường cứ xồng sộc vào nhà mà chẳng điện thoại trước.
Trường hợp Nguyễn Anh lại ở một dạng khác. Anh tốt nghiệp kỹ sư, năm nay 35 tuổi làm việc cho một công ty nước ngoài.
Những khó chịu của Nguyễn Anh cũng khá nhiều. Vào ngân hàng, ở siêu thị khi trả tiền, anh chứng kiến cái cảnh chen lấn, huých khủy tay.
Nhất là mấy cô thiếu nữ.
Nguyễn Anh còn sững sờ khi giúp đỡ một người khác mà không bao giờ nhận được tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết.
Hầu như tiếng cám ơn là một điều xa xỉ với họ.
Về môn giải trí xem đá banh thì thực sự Nguyễn Anh đến ngỡ ngàng không hiểu được. Đá thì các đội có lúc được có lúc thua.
Họ sẵn sàng thức trắng đêm để xem các trận đấu. Họ la lối, tức tối, cởi phanh áo ngực, chửi thề như thể họ mới là cầu thủ.
Phần các cô thiếu nữ có những lối bày tỏ đến ngỡ ngàng đến không ở đâu trên thế giới này có cảnh tượng như vậy. Có thiếu nữ còn đứng trên yên xe, cởi chuồng trơ chẽn la hét mà không biết ngượng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh Nguyễn Anh lại không hiểu gì về người mình.
Chưa kể những thiếu nữ miền Bắc, xinh đẹp dễ sợ, sexy dễ sợ, ăn mặc thiếu vải không che đậy, hấp dẫn con mắt không chịu được.
Vậy mà mở cái mồm xinh đẹp ra là địt cha, địt mẹ, liếm nọ liếm kia như chỗ không người.
Thanh niên thì ngồi ăn nhậu tối ngày, đụng một tý là rút dao ra đâm chém chỉ vì một câu nói khích và coi mạng người như cỏ rác với một thứ luật rừng..
Phần người viết bài này tự hỏi :
Phải nhìn nhận ở Việt Nam có nhiều điều không hiểu được.
Không biết cái tương lai bảng chỉ đường đất nước chỉ về đâu hay vẫn có thể chỉ trật đường?
Và tôi có cảm tưởng, họ, tất cả không trừ đang chơi một canh bạc giả mà Hà Nội là tay chủ sòng.
“Quan niệm sai lầm về sự toàn vẹn và thánh thiện của Giáo Hội nằm ở chỗ, bạn có thể ‘cộng thêm’ Chúa Kitô vào cuộc sống mà không cần phải ‘trừ bớt’ tội lỗi. Đó là thay đổi niềm tin mà không cần thay đổi hành vi; phục hưng mà không cần cải cách; trở lại mà không cần ăn năn! Điều quan trọng là cần thắp lên một ngọn đuốc sám hối, và mỗi người cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm canh tân!” – Patrick Morley.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm biến đổi của ân sủng – đó là một hành trình không ngừng ‘canh tân!’.
Trong Chúa Kitô, Phaolô mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, “Trong Người, muôn vật được tạo thành!”; “Nhờ Người”, muôn vật được đổi mới – bài đọc một. Trong bài Tin Mừng, các kinh sư và biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống?”. Đây là một lời kết án ‘khéo nguỵ trang!’. Đáp lại, Ngài kể cho họ dụ ngôn áo mới, vải cũ; bình cũ, rượu mới. Ngài muốn nói, hãy có một tầm nhìn mới, ‘tầm nhìn xót thương’, đó là sự ‘canh tân’ của con tim. “Nếu không có sự đổi mới từ trái tim, mọi cuộc cải cách đều chỉ là lớp phấn son bên ngoài!” – Henri Nouwen.
Với giới kinh sư biệt phái, “rượu mới” chính là tin nhận Chúa Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến; với chúng ta là trở nên tạo vật mới trong Ngài nhờ phép Rửa và ân sủng các Bí tích tuôn trào từ thập giá. Nhờ đó, chúng ta trở nên mạnh mẽ và hoan lạc trong Thánh Thần mà Ngài luôn ân ban. Thánh Vịnh đáp ca mời gọi, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!”; nhưng các điều ấy xảy ra làm sao nếu chúng ta cứ ‘cộng thêm’ Chúa vào cuộc sống, mà không cần ‘trừ bớt’ tội lỗi? “Chúa Kitô không chỉ muốn làm sạch bạn, Ngài muốn biến đổi – ‘canh tân’ bạn. Ngài không đến để sửa một mái nhà dột, nhưng đến để xây một lâu đài mới, nơi Ngài có thể ngự trị!” – C.S. Lewis.
Anh Chị em,
“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta đón nhận “rượu mới” bằng cách sẵn sàng từ bỏ con người cũ tội lỗi để trở nên một con người mới thánh khiết. Nhưng “Đi đôi giày cũ vẫn dễ chịu hơn!”, việc đổi thay có thể rất khó khăn; vì lẽ, đổi mới bao hàm cắt tỉa, bỏ mình và chết đi. “Mọi cuộc canh tân đều đòi cái chết của con người cũ, để con người mới có thể trỗi dậy!” – Thomas Merton. Đó là một hành trình hoán cải, từ niềm tin đến hành vi; từ lối sống đến cách nhìn vốn phải luôn kèm theo một lòng sám hối chân thành. Chúng ta dễ tự mãn và hài lòng với cuộc sống; vậy mà điều đó sẽ cản trở rượu mới ân sủng của Chúa Kitô những muốn đổ lai láng vào linh hồn mỗi người. Ước gì bạn và tôi biết rằng, một sự ‘canh tân’ bên trong ngày càng sâu sắc hơn sẽ là dấu của vầng hồng phục sinh đang lấp ló ở cuối chân trời!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thêm Ngài thì dễ, bớt tội thì khó; cho con – mỗi ngày – can đảm trừ bớt tội lỗi, cộng thêm ân sủng và nhân lên niềm vui!”, Amen.
Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, khách dự tiệc mới ăn chay.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 5,33-39
33 Khi ấy, các người Pha-ri-sêu và các kinh sư nói với Đức Giê-su rằng : “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !” 34 Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, họ mới ăn chay.”
36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này : “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.
37 “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói : ‘Rượu cũ ngon hơn’.”
Thứ Năm rồi bạn ơi! Cuộc đời đã ngắn ngủi rồi đừng làm cho nó ngắn thêm qua việc lãng phí thời gian nhé.
Cha Vương
Thứ 5: 4/9/2025. t4. – 24
GIÁO LÝ: Đức tin là gì? Là nhân đức giúp ta đi lên tới Thiên Chúa, trông cậy ở Thiên Chúa, nhận biết sự thật của Người, và hiến thân mình cho Người. (YouCat, số 307)
SUY NIỆM: Đức tin là con đường Thiên Chúa làm để dẫn ta đến sự thật, là chính Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,6), đức tin không thể chỉ là một thái độ đơn thuần, một “tin tưởng” vào sự gì đó. Một đàng đức tin bao gồm những dữ kiện chính xác: Hội thánh tuyên xưng trong kinh Tin Kính, và có trách nhiệm gìn giữ. Ai đón nhận ơn đức tin, nghĩa là muốn tin, thì tự mình tuyên bố theo đức tin đã được trung thành gìn giữ qua mọi thời và mọi nền văn hóa. Đàng khác, tin cũng là dấn thân vào một quan hệ cậy trông với Chúa, hết lòng hết trí khôn, hết sức lực hữu hình của mình. Vì điều quan trọng là “đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Không phải qua những lời nói hay mà ta biết người nào tin Chúa thật, nhưng là xem các hành động tình yêu của họ.
Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.—Ga 14,12
❦ Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. 1 Ga 2,4 (YouCat, số 307 t.t.)
LẮNG NGHE: Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt 10:32.33)
CẦU NGUYỆN: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”, xin tuôn độ Thánh Thần tình yêu xuống đầy tâm hồn con, để con có sức nhổ tận gốc tất cả những nghi nan và sống bằng lòng trung thành với Chúa cho đến cùng.
Đọc xong hai cuốn sa’ch “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.
Tôi đã học Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.
Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định,Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)
Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.
Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng…
Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà… Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)
Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện… Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ là một ảo ảnh. Từ lúc đó trở đi, suốt buổi chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)
Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.
Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ BìnhTriệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”(3)
GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo(4)
Paris, Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc. Trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt: Ông đã thấy ơn Đức Mẹ.
Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.
Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo Sư đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.
Tác giả: Phùng văn Phụng
17-04-2012
(1) trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II
(2) trang 542 Sđd
(3) trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).
Đêm Văn Điển hun hút gió. Nghĩa trang mênh mông những gò mả mới, ánh trăng loang loáng trên bia đá lạnh. Phượng ngồi thu mình bên gốc bạch đàn, hai bàn tay gầy run rẩy ôm chiếc cuốc cũ. Bụng đói cồn cào, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt hai đứa em gầy guộc đang ngủ trong căn nhà dột.
“Chỉ một lần thôi,” Phượng thì thầm, rồi quỳ xuống trước ngôi mộ vừa mới đắp. Cô thắp ba nén hương, giọng run rẩy:
– Con xin lỗi… Con chỉ muốn các em con được đi học…
Chiếc cuốc cắm xuống đất. Ngôi mộ vừa chôn. Đất còn chưa khô. Những vòng hoa vẫn tươi. Âm thanh khô khốc vang vọng giữa đêm, như cứa vào da thịt chính cô. Mồ hôi rịn ra lạnh buốt, mùi đất tanh nồng trộn lẫn mùi tử khí. Khi lớp ván mộ bật ra, cô thấy những vật dụng nhỏ lấp ló. Tay run bần bật, nước mắt chảy xuống hốc mộ. Cô cầm lên từng món, khấn lạy, rồi bỏ vào túi. Đêm ấy, lần đầu tiên, Phượng trở thành “kẻ đào mộ”.
Nhưng rồi một lần biến thành trăm lần. Năm năm ròng rã, cái cuốc cũ in hằn bao dấu vết trong nghĩa trang Văn Điển. Lần nào cũng có ba nén hương, có lời xin lỗi run run. Lần nào cô cũng tự nhủ: “Đây là lần cuối.” Nhưng sáng hôm sau, khi thấy hai đứa em ngủ gục trên sách, bụng lép kẹp, Phượng lại ra đi.
Có một đêm, khi bật ván mộ, trong khi loay hoay lột quần áo của thi thể một người đàn bà to béo nặng nề, bất ngờ bà đổ sập xuống, đè lên thân hình mảnh khảnh của cô. Cái lạnh bủa vây, mùi tử khí xộc thẳng vào ngực. Cô ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới cái xác đã bốc mùi, cô òa khóc như đứa trẻ, vừa run vừa khấn: “Con sẽ dừng lại… con thề sẽ dừng lại.”
Nhưng rồi, cô lại xách cuốc ra nghĩa trang.
Một sáng Hà Nội se lạnh, cái tên Phượng vang lên trên loa phóng thanh trước Tòa án Nhân dân. Người ta tụ lại, không phải chỉ vì tò mò, mà còn vì căm phẫn. Thân nhân của những gia đình bị một cô gái trẻ cậy mộ quây kín toà án. Phiên toà mở công khai cho toàn dân chứng kiến.
Trong phòng xử, cô bước vào, dáng nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian luật pháp. Người ta nhìn cô như nhìn một bóng ma. Bản cáo trạng đọc dõng dạc: “Đào trộm mộ tại nghĩa trang Văn Điển, tái phạm nhiều lần.”
Chủ tọa cất giọng cứng rắn:
– Bị cáo có hiểu tội danh không?
Phượng cúi đầu:
– Dạ… con hiểu.
– Vì sao bị cáo lại làm như vậy?
Giọng ông rơi xuống, nặng nề như hòn đá. Cả phòng xử nín thở.
Phượng im lặng rất lâu. Rồi cô ngẩng lên, đôi mắt trũng sâu, giọng khàn đặc:
– Vì… hai đứa em của con.
Một làn sóng rúng động tràn khắp khán phòng. Người ta thì thầm, rồi lặng đi. Chủ tọa gật đầu ra hiệu, giọng bớt gay gắt:
– Nói rõ hơn.
Phượng bắt đầu kể. Bố mẹ mất sớm, cô gánh lấy mái nhà khi mới chưa đầy 16. Hai đứa em đang tuổi ăn học, còn cô làm thuê, bán hàng rong, cấy thuê, đổi công, làm hàng xáo, mò cua bắt ốc thôi thì không từ việc gì. Đầu tiên, cô chỉ mò vào nghĩa trang lấy trộm bát cơm quả trứng mấy chị em ăn cho qua bữa, sau là tấm áo manh quần, rồi đào những ngôi mộ mà cô biết người ta chôn theo những đồ quý giá… Mỗi lần đều thắp nhang, đều khấn xin. Mỗi lần đều hứa “chỉ một lần thôi.”
Đến đoạn thi thể đổ sập xuống, Phượng bật khóc, giọng nghẹn đặc. Nước mắt chảy dài xuống hai gò má hốc hác.
Bỗng từ hàng ghế khán giả, hai đứa trẻ òa khóc, lao lên phía trước. Đó là hai đứa em của Phượng. Chúng quỳ sụp, ôm lấy chị, nghẹn ngào:
– Chị ơi! Chúng em không biết… Chúng em không biết…
Khán phòng chấn động. Người tham dự phiên toà cúi mặt, nhiều người đưa tay lau vội nước mắt.
Thẩm phán im lặng rất lâu. Ông nhìn xuống hồ sơ, rồi nhìn cô gái gầy gò quỳ trong vòng tay hai đứa em.
Toà xử án treo.
–
Mấy hôm trước nhà mình vừa xem xong bộ phim 150 tập của Hàn quốc. Bộ phim nói về cuộc đời của ba người chị thay cha mẹ đã chết nuôi em trai ăn học thành tài. Họ không ai đi ăn trộm, càng không trộm mộ- vì của nả cha mẹ để lại đủ ăn cả đời. Nhưng ông xã mình kể cho mình nghe vụ án chị gái đào mộ nuôi hai em, được xử khoan hồng do yếu tố nhân đạo. Nửa thế kỷ trước- chồng mình khi đó còn nhỏ, đã đi xem xử án.
Không biết ai ở Hà nội những năm đó còn nhớ vụ này không? Mình chỉ biết nghe rồi kể lại thôi…
Hồi đó… con người ta cũng thật biết thương lấy nhau. Giờ vì nghèo mà làm bậy- không biết toà xử sao? Lương tâm phán thế nào?
Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.
Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ.
Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh.
Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn.
Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:
“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,
“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,
“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.
Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.
Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con.
Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.
Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi.
Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.
Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.
Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.
Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.
Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con.
Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.
“Con có biết điều khó nhất khi già đi là gì không?”
“Là gì ạ?”
“Là trở nên vô hình. Khi còn trẻ, con vẫn là ‘ai đó’: xinh đẹp, vui vẻ, lôi cuốn, mạnh mẽ… ít nhất cũng là người được chú ý. Nhưng rồi tất cả phai tàn. Và bỗng nhiên, con chỉ còn là ‘ông già khoác áo sờn cũ’ hay ‘bà cụ đội mũ len và mặc chiếc áo len bạc màu’. Cảm giác như mình chẳng tồn tại nữa. Như thể mình trong suốt.”
Đoạn thoại này lấy từ một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Anh. Nghe buồn, nhưng lại đúng lắm.
Quá nhiều khi, thứ duy nhất người ta nhìn thấy ở một người già chính là… tuổi tác. Không ai nói: “bà từng là cô giáo dạy ngoại ngữ” hay “ông từng là kỹ sư.” Họ chỉ buông một câu: “bà ấy ngoài tám mươi rồi,” “ông chắc cũng gần chín mươi.”
Theo thời gian, số người thực sự biết câu chuyện đời bạn — bạn từng là ai, yêu thích điều gì, giỏi điều gì — ngày một ít đi. Bạn bè mất dần. Người còn sống thì chẳng ra ngoài nổi. Chuyến đi xa nhất trong ngày có khi chỉ là xuống cửa hàng tạp hóa mua ổ bánh mì.
Trong khi đó, con cháu ai cũng bận rộn với guồng quay riêng. Thỉnh thoảng mới gọi điện. Hiếm hoi lắm mới ghé thăm. Ở khu chung cư, đã có hàng xóm mới: những cặp vợ chồng trẻ, ông bố bận rộn xách túi đồ, những chiếc xe nôi lăn qua lại. Không ai biết tên bà cụ sống ở tầng hai. Cửa hàng góc phố cũng đổi nhân viên mới, chẳng còn khuôn mặt thân quen. Nhiều nhất, người ta chỉ biết số phòng và chừng tuổi của bạn. Còn sau cánh cửa ấy là gì? Chẳng ai quan tâm. Và thế là khoảng trống len vào.
Chúng ta thường thắc mắc: tại sao mẹ gọi điện mười lần một ngày chỉ để nói chuyện vụn vặt? Sao cha cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi?
Sự thật là: họ chỉ sợ bị lãng quên. Họ muốn được chú ý. Muốn được lắng nghe. Dù chỉ qua điện thoại.
Bởi già đi không chỉ là cộng thêm tuổi. Già đi còn là cảm giác dần bị xóa khỏi thế giới.
Già đi còn là nỗi cô đơn.
Già đi còn là khao khát vẫn còn ý nghĩa với ai đó.
Đừng đợi đến khi quá muộn. Hãy gọi điện. Hãy ghé qua. Hãy hỏi một câu: “Hôm nay bố mẹ thế nào?”
Với bạn, đó chỉ là một phút.
Với họ, đó là cả một thế giới.
Đôi khi, chỉ một câu đơn giản: “Con vẫn nhớ” cũng đủ để ai đó thấy mình vẫn còn sống — được nhìn thấy, được trân trọng, không bị bỏ quên.
Việc này xảy ra quá nhiều rồi và tôi tin là sẽ còn xảy ra nữa với người lao động ít cập nhật thông tin. Các bạn đi mát-xa, bấm huyệt, phần cổ, cột sống rất phải cẩn thận. Tôi có ông bạn đi mát-xa ở NY, liệt cho 6 tháng sau khi bẻ cổ, may mà sau đấy khỏi. Nhiều năm trước có mấy cậu thợ đóng gạch, giờ nghỉ giải lao tẩm quất bẻ cổ cho nhau, cố tạo ra tiếng rắc, khiến bạn chết ngay lập tức.
Trường hợp này thì là gặp bác sỹ nắn chỉnh xương.
“Vào năm 2022, Caitlin Jensen đến gặp một bác sĩ nắn chỉnh xương ở Georgia để điều chỉnh cổ và phải chịu những chấn thương thay đổi cuộc đời.
Ngay sau khi thực hiện thủ thuật, cô cảm thấy không khỏe và được đưa đến phòng cấp cứu, nơi các xét nghiệm cho thấy bốn động mạch ở cổ bị rách.
Điều này dẫn đến ngừng tim, đột quỵ và mất mạch hơn 10 phút trước khi được hồi sinh.
Cô đã sống sót nhưng không còn khả năng nói và bị hạn chế vận động.”
“Phép lạ không tự nó là cùng đích; chúng là những dấu chỉ hướng đến một phép lạ lớn hơn: những tâm hồn được đổi thay!” – Fulton Sheen.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến những cuộc ‘đánh bắt’ kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử, những cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ.
Phaolô nói đến cuộc ‘đánh bắt’ vĩ đại nhất từ tạo thiên lập địa; qua đó, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót hải hà của Ngài khi “Giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái!” – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!”. Câu chuyện Tin Mừng xoay quanh Chúa Giêsu và Phêrô – người đã chứng kiến nhạc mẫu mình được một người có tên “Giêsu” chữa lành – cũng là người đã mượn thuyền ông để giảng; giảng xong, bảo ông chống ra xa để thả lưới. Phêrô làm theo và bắt được rất nhiều cá.
Đó là mẻ cá thần kỳ trong đời các ngư phủ miền Galilê, nhưng điều thần kỳ không phải là ‘cá’, nhưng là ‘những người đánh cá’ vốn đã bị ‘đánh bắt!’. Phép lạ không thuộc về vật chất, nhưng hoàn toàn tinh thần! Ông Giêsu này không để Phêrô và các bạn trở nên chán nản sau một đêm hoài công, nhưng giúp họ trở nên tuyệt vời khi làm môn đệ Ngài – rồi đây – sẽ đi khắp tứ phương thiên hạ mà lưới người như lưới cá. “Chúa không làm phép lạ để gây choáng ngợp, nhưng để lôi kéo bạn vào kế hoạch cứu độ của Ngài!” – Von Balthasar.
Vậy điều gì đã dẫn đến cú ‘đánh bắt’ ngoạn mục mang tính cứu độ này? ‘Cứu độ’, vì đó là mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Những con người này đã để Đấng Cứu Độ bước xuống thuyền mình, ngoan nguỳ làm theo những gì Ngài dạy. Cũng thế, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta đón Ngài vào thuyền đời mình, giữ Ngài ‘đủ lâu’, đi với Ngài ‘đủ xa’, đến những vùng biển ‘đủ mới’. “Chúa Kitô không xin lưới của chúng ta, nhưng xin lòng tín thác: đi sâu hơn, xa hơn, mới hơn với Ngài!” – Fulton Sheen. Đừng để Ngài lừng khừng! Hãy nhớ, Ngài giỏi ‘đi trên nước’; vì thế, hãy ‘cột chân’ Ngài bằng dây yêu mến và tập ‘lắng nghe’ câu chuyện dài ‘Nghìn lẻ một đêm’ Ngài sẽ kể! Và tiếp nối Ngài, tiếp nối các ngư phủ đầu tiên, bạn và tôi ra khơi ‘quăng chài’.
Anh Chị em,
“Họ bắt được rất nhiều cá!”. Phép lạ thật lạ không ở chỗ thuyền đầy cá, nhưng nơi những tâm hồn đã để Chúa Giêsu chiếm lấy. Điều kỳ diệu không phải là ê hề vật chất, mà là biến đổi nội tâm. Chỉ khi để Chúa Giêsu bước xuống thuyền đời mình, con người mới thật sự trải nghiệm cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ: bóng tối được chiếu sáng, tội lỗi được thứ tha, cái chết được hồi sinh. Đời chúng ta không thiếu những đêm thả lưới mệt nhoài, những sáng về không; nhưng cũng từ những thất bại ấy, đáp lại một lời mời “chèo ra chỗ nước sâu” có thể làm nên tất cả. Chúa Giêsu không muốn chiếm lưới hay con thuyền, Ngài muốn chiếm trọn trái tim. “Thuyền đầy cá rồi sẽ vơi; trái tim đầy Chúa không vơi bao giờ!” – Augustinô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cá nhiều thì con mừng, nhưng Chúa nhiều thì con sống! Đừng để con chỉ ‘thả lưới’ cho vui, mà quên ‘thả mình’ cho Ngài!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*****************************************
Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ
Các ông bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giê-su.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 5,1-11
1 Khi ấy, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .
Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.
Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!
Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!
Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .
Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.
Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!
Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm ahy, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!
Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.
Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.
Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .”
Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!
Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?
Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .
Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!
Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . . làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.
Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .
Đó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.
. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.
. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.
. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.
. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .
. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!
Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .
. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.
Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .
Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?
Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…
Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “
Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường . . .
Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!
Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .
* * *
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”
Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .