ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG. Không hương hoa. Không đèn nến

ĐẾN VỚI MẸ HẰNG CỨU GIÚP

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ giữa đền thờ Thánh Phêrô – một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn.

Ngài đã chọn sống nghèo khó và khiêm hạ – và ra đi cũng như thế.

Mong sao các đám tang Công giáo cũng bày trí đơn sơ như thế này.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô, chứng nhân của Tin Mừng, người hành hương của hy vọng.


 

Di Chúc Cuối Cùng Của Giáo Hoàng Francis: Một Lời Nguyện Cho Hòa Bình và Một Nơi An Nghỉ Giản Dị

Ba’o Dat Viet

April 23, 2025

Không vương miện vàng, không cỗ quan tài dát ngọc, không lễ tang xa hoa trong hầm mộ Vatican – chỉ một mong ước duy nhất: được yên nghỉ trong lòng đất, nơi ngài từng đến cầu nguyện trước mỗi chuyến tông du. Đó là điều mà Đức Giáo hoàng Francis, vị giáo hoàng của lòng khiêm nhường và đức ái, để lại trong bản di chúc thiêng liêng được Vatican công bố hôm 21 Tháng Tư.

Được lập ngày 29 Tháng Sáu 2022 – khi ngài vẫn còn minh mẫn và đầy tâm lực – bản di chúc không nói về quyền lực, tài sản hay địa vị. Thay vào đó, toàn bộ nội dung chỉ là một lời nguyện cuối cùng dành cho Mẹ Maria và một chỉ dẫn chi tiết về nơi chôn cất ngài.

“Cảm thấy rằng hoàng hôn cuộc đời trần thế đang đến gần, với niềm hy vọng sống động vào Cuộc sống Vĩnh hằng, tôi muốn viết di chúc của mình chỉ liên quan đến nơi chôn cất tôi…”

Trong di chúc, Giáo hoàng Francis bày tỏ nguyện vọng được an táng tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore) ở Rome – ngôi đền thánh lâu đời gắn bó với ngài suốt hành trình mục vụ. Mỗi chuyến tông du, dù xa xôi đến đâu, ngài đều ghé nơi đây để cầu nguyện trước Đức Mẹ. Và giờ đây, đó cũng sẽ là nơi khép lại hành trình trần thế của ngài.

Ngài yêu cầu được chôn dưới lòng đất, trong một hốc giữa Nhà nguyện Pauline và Nhà nguyện Sforza, không có bất kỳ trang trí đặc biệt nào, và chỉ khắc một dòng chữ duy nhất bằng tiếng Latinh: Franciscus.

Chi phí cho việc chôn cất sẽ được thanh toán từ quỹ ân nhân mà ngài đã sắp xếp trước và giao phó cho Đức ông Rolandas Makrickas quản lý.

Nhưng điều khiến hàng triệu người xúc động không chỉ là sự đơn sơ, mà là tấm lòng mục tử bao trùm cả nhân loại trong lời kết của di chúc:

“Xin Chúa ban phần thưởng xứng đáng cho những người đã quý mến tôi và sẽ liên lỉ cầu nguyện cho tôi. Tôi đã dâng Chúa những đau khổ vào cuối đời mình để cầu xin cho hòa bình trên thế giới và tình huynh đệ giữa các dân tộc.”


 

NIỀM VUI LẠ THƯỜNG- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”.

Một ấn phẩm Anh trao giải cho ai định nghĩa hay nhất về “Một Người Bạn Tốt Nhất”. Trong hàng nghìn câu trả lời, có những câu sau đây: “Một người hiểu được sự im lặng của bạn!”; “Một người đến, khi cả thế giới ra đi!”; “Một người xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui, chia sẻ hạnh phúc và nỗi đau; giúp bạn trải nghiệm một niềm vui lạ thường ngay giữa những mất mát!”. Câu trả lời cuối cùng đạt giải.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chỉ ra “Người Bạn Tốt Nhất!” – Giêsu – Đấng Phục Sinh, người xuất hiện đúng lúc cho các bạn của Ngài. Luca ghi lại một tâm trạng khó tả vì vừa không thể, lại vừa rất thật, “Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. Họ vui mừng nhưng chưa chuẩn bị đủ để có thể trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ này.

Bất cứ cuộc gặp nào với Chúa Giêsu đều luôn dẫn đến trải nghiệm một ‘niềm vui lạ thường!’. Nó là một kinh nghiệm rất khác vượt quá sự nhiệt tình, hâm mộ hoặc phấn khích. Các môn đệ vui mừng, nhưng ‘điều này là không thể’. Hãy chụp lại ‘cái khung tâm trí’ đẹp đẽ này! “Chưa tin” có nghĩa là không chắc mình phải tin điều gì. Kìa, một Giêsu bị đóng đinh đang đứng trước họ với những hõm sâu còn chưa khô trên thân mình; nhưng kìa, một Giêsu đang yêu cầu một chút gì đó để ăn. Họ sốc! Nhưng dường như nơi họ, vẫn có một niềm vui đang chực bùng nổ vì những gì đang thấy nhưng có một điều gì đó đang kìm hãm. Tất cả là quá tốt nhưng không biết có đúng như vậy không?

Một đôi khi, được hưởng nếm ân sủng Chúa, nhưng chúng ta vẫn do dự! Một trong những lý do là sự nản lòng! Trước cái chết của Thầy, các môn đệ vô cùng nản lòng; và bây giờ, dù Thầy ở trước mặt, họ vẫn tần ngần để ‘buông bỏ’ nó – điều mà họ đang cố ‘ôm chặt’. Cũng thế, chúng ta dễ dàng để sức nặng của thế giới, sức nặng tội lỗi của mình hoặc của người khác ghì xuống; chúng ta tức giận, khó chịu và ủ rũ. Chúng ta ‘ôm chặt’ chúng; đang khi nhận lấy niềm vui phục sinh giả thiết là phải ‘buông bỏ’ sự nản lòng để chăm chút nhìn vào thực tại Chúa muốn chúng ta tập trung vào. Ngài mời bạn nhìn xa hơn để đạt được một điều gì đó vĩ đại hơn; nhìn vào chiến thắng của Ngài để vui mừng.

Kìa, Phêrô đang hướng niềm vui của đoàn người đang chạy theo ông đến việc trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ở Đấng mà nhờ danh Ngài, anh què đi được – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi hân hoan, “Lạy Chúa, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!”.

Anh Chị em,

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. “Chúa Giêsu không phải là một “bóng ma”, mà là một Người sống; khi đến gần chúng ta, Ngài lấp đầy chúng ta bằng niềm vui đến mức không tin. Trở thành Kitô hữu trước hết, không phải là người của một học thuyết hay một lý tưởng đạo đức; nhưng là sống mối quan hệ sống động với Ngài – Chúa Phục Sinh!” – Phanxicô. Ngài là “Người Bạn đến, khi cả thế giới ra đi”; “Người Bạn Tốt Nhất xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui”; “Người Bạn Tốt Nhất” có thể giúp bạn và tôi trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ngay giữa những mất mát, đổ vỡ. Hãy sống chết cho tình bạn cao cả này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, lấy khỏi con những vui thú ‘tầm thường’; giúp con buông bỏ những gì vô nghĩa, hầu có thể hưởng nếm niềm vui ‘khác thường’ mang tên “biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 24,35-48

35 Khi ấy, hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo : “Bình an cho anh em !” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói : “Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : “Ở đây anh em có gì ăn không ?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

44 Rồi Người bảo : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”


 

Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người – Cha Vương

Happy Easter đến bạn và gia quyến nhé! Alleluia! Alleluia! Ước mong bạn nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong mọi sự của ngày hôm nay nhé.

Cha Vương

Thứ 4, BNPS, 23/4/2025

TIN MỪNG: Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:30b-32)

SUY NIỆM: Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”… vì thực ra có những biến cố xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn, và chính Thiên Chúa cũng không muốn bạn lúc nào cũng phải trải nghiệm những điều này. Như các môn đệ trên đường Em-mau, trong lúc bối rối và thất vọng, lòng trí họ hoá ra lung lay và “thật là chậm tin”.  Có bao giờ, khi bị một cú “sốc” đến, bạn cảm thấy đức tin của bạn bị lung lay chưa? Có lẽ các môn đệ đang rớt vào tình trạng này sau khi Chúa chết. Đúng!Chỉ có Chúa mới hiểu thấu con tim yếu đuối của họ cho nên Ngài đã củng cố đức tin của họ bằng cách giúp cho họ nhận ra Ngài qua 3 yếu tố: 

(1) Nhận ra Chúa trong Kinh Thánh: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5:24)

 (2) Nhận ra Chúa trong Bí tích Thánh Thể: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51), 

(3) Nhận ra Chúa trong cộng đoàn sống đức tin: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18:20)  Vậy khi đức tin của bạn bị lung lay, bị thử thách, bạn cần kiểm điểm lại coi thái độ của bạn đối với 3 yếu tố trên như thế nào nhé.

LẮNG NGHE: CHÚA nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc,  

hãy đến mà thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thành trời đất.” (Mt 25:34)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, con thật là người có phúc vì Chúa đã tìm gặp con trong lữ hành cuộc đời, giữa những mất mát ê chề trong cuộc sống, xin khơi dậy trong con niềm tin yêu bừng cháy. 

THỰC HÀNH: Tích cực sống 3 yếu tố kể trên.

From: Do Dzung

***********************

Trên Đường Emmau (St: Thành Tâm) | Nhật Hạ, Chiron, Xuân Mai


 

20 năm và 50 năm vẫn nguyên vẹn giá trị Việt Nam Cộng Hòa

Ba’o Nguoi-Viet

April 23, 2025

Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Như nhiều người cùng thế hệ, tôi đã sống trọn 20 năm trong lòng chế độ Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) và cảm thấy tự hào là người Việt Nam. Nhìn trở lại, với tôi, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động.

Đường phố Sài Gòn trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào Tháng Mười Một, 1968. (Hình: Terry Fincher/Daily Express/Hulton Archive/Getty Images)

Hai mươi năm ấy và 50 năm sau, biết bao nước chảy qua ghềnh, qua thác, qua suối, qua cầu, qua sông, qua biển… Trong khoảng thời gian vừa ngắn lại vừa dài dằng dặc đó, tôi trải qua ít nhất là bốn cuộc đời: như một công dân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), như một tù nhân trong trại tù Cộng Sản, như một công dân Việt Nam hạng chót (nếu tôi nhớ không lầm, thì là hạng thứ 14 quy cho những ai bị đi tù “cải tạo”) và sau cùng, như một người lưu vong.

Hai mươi năm đầu: giữa chiến tranh và hòa bình, giữa hận thù, nhiễu nhương và hoa mộng, tươi vui, giữa tuyệt vọng và hy vọng.

Năm mươi năm sau: cuộc đời lộn ngược. Nhiều lần. Đối với tôi mà cũng là đối với vô số người. Xem như cộng nghiệp!

Giá trị VNCH

Trong một lần gặp gỡ bà con, một người cháu thuộc thế hệ của những người trưởng thành trong nước sau năm 1975, giáo viên về hưu, thành thật hỏi tôi: “Tại sao đã gần nửa thế kỷ trôi qua rồi mà các chú các bác ở ngoài đó [hải ngoại] vẫn còn giữ mãi thái độ không thân thiện với nhà nước hiện nay vậy?”

Tôi cười, trả lời: ở nước ngoài, chuyện “không thân thiện” hay nói cho rõ ra, chống đối nhà cầm quyền, là chuyện “thường ngày ở huyện,” một sinh hoạt vô cùng bình thường như mọi sinh hoạt khác trong xã hội. Trong chế độ dân chủ, cứ phải tâng bốc, ca tụng nhà cầm quyền hay im lặng trước những sai trái của họ mới là điều lạ. Các ông tổng thống, thủ tướng hay các dân biểu nghị sĩ hay bất cứ quan chức nào đương nhiệm vẫn bị dư luận và báo chí phê phán, chỉ trích, thậm chí rủa sả hàng ngày về đủ thứ chuyện (thực cũng như bịa), nhưng chẳng ai bị lên án là phản động, là bán nước hay phá hoại. Người cầm quyền chỉ có một quyền duy nhất: phản bác lại, cũng qua báo chí, hay kiện ra tòa, chứ tuyệt đối không quy chụp và bắt bớ dựa trên các lời phát biểu.

Người cháu gật gù, tỏ ra hiểu. Tôi đoán: hiểu nhưng chưa chắc đã thông. Không sao. Người cháu sống thời của cháu: chịu đựng và làm quen với chịu đựng trở thành một nếp sống, một quán tính sinh tồn. Đụng chạm đến nhà nước, dù đúng hay sai, đều là “taboo,” điều cấm kỵ.

Còn tôi, tôi sống thời của tôi. Vâng, thời của tôi! Hai mươi năm và 50 năm với những quãng đời đứt đoạn, chập chờn nổi trôi giữa cuộc thăng trầm.

Trong chế độ VNCH, tôi được học hành vui chơi, được mơ ước, được phục vụ, được hưởng thụ và không những thế, tham gia tranh đấu chống lệ thuộc ngoại bang, chống bất công, chống đàn áp, đòi hỏi bầu cử tự do, dân chủ. Và đã từng ăn cơm nhà tù vài lần. Có bênh có chống.

Với tôi, VNCH không hoàn hảo, nhưng rộng mở, có chỗ cho thế hệ chúng tôi mở mang kiến thức đa dạng, có chỗ cho kẻ sĩ và người lương thiện, không cần phải nhịn nhục, bợ đỡ và hô khẩu hiệu để được sống yên thân.

Những ưu điểm đó làm nên cái mà tôi gọi là “giá trị VNCH.” Còn nhớ, sáng 30 Tháng Tư, 1975, đứng trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhìn những chiếc xe tăng bộ đội Cộng Sản chạy vào từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất, tôi bàng hoàng nghe như cả bầu trời sụp xuống. Trời nắng mà tràn đầy bóng tối. Trong phút chốc, VNCH biến mất. Tưởng đã vĩnh viễn đi vào hư vô.

Nhưng không!

Khác với các triều đại ngắn ngủi trước đây, tuy chế độ thì không còn nữa, nhưng giá trị VNCH không biến mất, vẫn tiếp tục kéo dài đến ngày nay, 50 năm sau. Ở hải ngoại, đã đành, mà còn lan tỏa vào trong nước dưới nhiều khía cạnh khác nhau.

Khởi đầu, do những đợt ra đi liên tục làm chấn động lương tâm nhân loại sau năm 1975. Từ đó, dù vì chính trị hay kinh tế, bằng cách vượt biên hay có giấy tờ, dù định cư ở Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Anh hay các nước khác ở Âu Châu, Phi Châu, Á Châu, những người rời bỏ đất nước mang theo tấm lòng của những người sống trong, sống với và yêu mến các giá trị đó. Nói như nhạc sĩ Ngô Thụy Miên trong “Em Còn Nhớ Mùa Xuân,” đó là những “hôm qua” và những “mai sau” trong tâm thức “hồi hương:”

“Những thành phố em sẽ đi qua
Đây Ba-Lê, đây Luân Đôn, đây Vienne
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau
Em có mơ ngày hát câu hồi hương”

“Ra đi” này kéo theo “ra đi” kia. “Ra đi,” cuối cùng, không còn có nghĩa là “bỏ đi” mà là để trốn thoát, để gìn giữ và để nối dài. Tôi thích nhóm chữ “VNCH nối dài” của sử gia Tạ Chí Đại Trường. Vâng, có một VNCH nối dài. Đó là sự “nối dài” đầy ý nghĩa của một mô thức xã hội, vừa có tính thừa kế những giá trị có sẵn, vừa được bổ sung thêm những giá trị mới từ văn minh Tây phương. Nó đánh dấu sự tồn tại những nét son của phe thua cuộc.

Người miền Nam ra đi kéo theo người miền Bắc (cũng tìm cách) ra đi. Những đợt ra đi “không có phép” được nối tiếp với những cuộc ra đi “có phép.” Cho đến nay, người ta vẫn tiếp tục ra đi, dưới dạng này hay dạng khác. Trong số đó, không thiếu những người đã từng hoạt động cho Cộng Sản và con cháu của họ, kể cả con cháu của nhân vật cao cấp trong chính quyền. Nối dài và nối dài và nối dài…

Những “nối dài” đó khiến cho cộng đồng Việt Nam, trong 50 năm qua, từ những nhóm người tị nạn tả tơi, rách nát trong quá khứ cho đến hiện nay, bành trướng ra, lớn mạnh hơn, có mặt hầu như trên khắp thế giới, hình thành nên một hiện thực chưa hề có trong lịch sử nước nhà: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Hai chữ “hải ngoại” vừa là một khái niệm địa lý lại vừa đồng nghĩa với một cái gì “khác hẳn” – và trong một số trường hợp, “đối lập” – với (nhà cầm quyền) trong nước. Hiểu cách nào thì hải ngoại cũng là một chỗ dựa, là chỗ bù đắp cho những gì thiếu vắng, thiếu thốn hay bị cấm đoán – cả tinh thần lẫn vật chất – ở trong nước. Hải ngoại động viên, dung chứa, lưu giữ và phổ biến, không những nền văn hóa dân tộc đa dạng, mà còn những tiếng nói phản biện mọi mặt từ trong nước ra toàn thế giới bằng cách thực hiện các cuộc phỏng vấn, phát hành ca khúc, xuất bản các tác phẩm văn chương, các sách biên khảo xã hội và chính trị của họ. Hải ngoại trở thành một đối trọng (contre-poids) cần thiết, góp phần thúc đẩy tiến bộ và cải cách đất nước.

Thương xá Phước Lộc Thọ ở thành phố Westminster, California, ngay trung tâm Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Little Saigon – căn cước của một VNCH nối dài

Ở một mặt nào đó, có thể nói hải ngoại là một thực thể Việt Nam khác, phong phú, cởi mở và tự do hơn. Nhất là ở Hoa Kỳ. Với tổng dân số được ước tính hiện nay hơn 2.2 triệu người, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ chiếm khoảng một nửa số người Việt trên toàn thế giới, với một cái tên mà cũng là một nơi chốn đã trở thành biểu tượng để hướng về: Little Saigon.

Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn – bây giờ là ID (căn cước) của một VNCH nối dài. Tuy không phải là một chính quyền, một tổ chức, một cơ cấu, nhưng Little Saigon hoàn toàn mang không khí và hơi thở của những tháng năm VNCH ngày cũ, từ chợ búa, truyền thanh, truyền hình, báo chí cho đến văn chương, âm nhạc và, tất nhiên, lá cờ vàng, bây giờ được xem là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Vietnamese Freedom and Heritage Flag) của người Mỹ gốc Việt.

Little Saigon – Sài Gòn Nhỏ – tượng trưng cho sự tồn tại của một Sài Gòn Lớn, vốn là thủ đô của VNCH, đã bị đổi tên. Cứ nhìn những ứng cử viên người Việt ra ứng cử các chức vụ hành pháp và lập pháp (trung ương hay địa phương) trong các cuộc bầu cử Tháng Mười Một, 2024, tại Little Saigon là thấy rõ sự kiện đó: ứng cử viên, dù thuộc đảng nào, cũng đều nêu bật những giá trị VNCH để thu hút sự ủng hộ của cử tri.

Sự lớn mạnh và ảnh hưởng của nó về nhiều mặt khiến Little Saigon trở thành đề tài nghiên cứu cấp đại học. Chẳng hạn như tiểu luận “Creating a Sense of Place: The Vietnamese-Americans and Little Saigon” của Sanjoy Mazumdar, Shampa Mazumdar, Faye Docuyanan và Colette Marie McLaughlin. Theo các tác giả, ở Hoa Kỳ, hầu hết những nhóm người mới đến định cư đều có nhu cầu phải diễn tả căn cước cộng đồng của họ bằng cách tạo ra một không gian và nơi chốn riêng của họ. Chẳng hạn “Chinatown” (Khu Phố Tàu), “Polish enclave” (Cộng Đồng Ba Lan), “Lebanese enclave” (Cộng Đồng Li-Băng/Lebanon), Germantown (Khu Phố Đức), “Little Havana” (Tiểu Havana/cho người Cuba).

Tương tự, các tác giả cho biết: “Kinh nghiệm của người Việt Nam là câu chuyện về sự đau đớn và mất mát, mất nước, mất nhà, mất gia đình, mất văn hóa và căn cước.” Cho nên, Little Saigon xuất hiện như là “trung tâm của căn cước và sự gắn bó của cộng đồng.” Nó đã trở nên, “không chỉ là trung tâm thương mãi mà còn là trọng điểm xúc động của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.”

Vì thế, những người Việt nào không cư trú ngay tại Little Saigon, thì đến “Little Saigon giống như thực hiện một cuộc hành hương. Đối với họ, đó là một ngôi nhà thay thế, một ngôi nhà cách xa nhà (a home away from home), một nơi chốn họ có thể dễ dàng đến để có được một chuyến về thăm nhà. (…) Đối với một cộng đồng người tị nạn đã mất quê hương, trong đó có thủ đô Sài Gòn, việc thành lập Little Saigon tượng trưng cho niềm hy vọng từ ‘không nhà’ (homeless) trở thành ‘có nhà’ trở lại (a ‘home’ again). Cuối cùng, chính sự hiện diện của Little Saigon đã truyền tải một cách đầy biểu tượng đến xã hội sở tại khao khát của cộng đồng di dân Việt Nam muốn bám rễ thường trực trên vùng đất tạm dung mới (trong đất Mỹ) trong lúc vẫn duy trì được bản sắc dân tộc riêng của họ thông qua sự chuyển dịch thành công tôn giáo, văn hóa và doanh nghiệp của họ.”

Điều thú vị là, Little Saigon này làm phát sinh ra những Little Saigon khác.

Hiện nay, đã có khá nhiều Little Saigon hiện diện tại nhiều địa phương, ở Hoa Kỳ cũng như ở một vài nước khác. Cái tên dễ thương này đã trở thành – hoặc đang được vận động để trở thành – chính thức, như Little Saigon San Jose (California), Little Saigon San Francisco (California), Little Saigon Sacramento (California), Little Saigon Houston (Texas), Little Saigon Vancouver (Canada), Little Saigon in Sydney (Úc), Little Saigon Plaza Bankstown (Úc).

Ở những nơi mà cộng đồng người Việt nhỏ bé hơn, lại sống tản mác, không có đại diện trong chính quyền địa phương để vận động đặt tên, cư dân Việt vẫn tự gọi khu sinh hoạt hay khu thương mại địa phương mình cư trú là Little Saigon. Dần dà, dưới mắt người Mỹ, Little Saigon đồng nghĩa với “Khu Phố Việt.” Tại các khu phố này, có nơi tuy chỉ thu gọn trong một vài cơ sở thương mại (đôi khi chỉ là một cái chợ nhỏ), mọi mặt sinh hoạt hằng ngày của chúng đều đậm nét quê hương, hình thành những thỏi nam châm thu hút và quy tụ đồng hương.

Nhật báo Người Việt đón Tết. Tờ báo ra đời ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, là một trong những tờ báo tiếng Việt lớn nhất tại hải ngoại. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Nền” văn học, báo chí riêng

Nối kết các khu phố Việt rải rác trên toàn thế giới là âm nhạc, báo chí và văn chương, những phương tiện xuyên quốc gia hữu hiệu trong thời đại điện tử. Các nhóm chữ “âm nhạc hải ngoại,” “báo chí hải ngoại” hay “văn chương hải ngoại” để chỉ các hoạt động văn hóa của người Việt trên toàn thế giới đã trở thành từ vựng chính thức trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay. Hoạt động của các trung tâm hay cơ sở này quá đa dạng và quá nhiều đến nỗi, chưa người viết nào có đủ điều kiện để tìm biết và liệt kê đầy đủ.

Về mặt âm nhạc và báo chí, ngoài những cái tên vô cùng quen thuộc như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn hay Người Việt, Viễn Đông, Việt Báo, Thời Luận, vân vân, nằm ngay trong Little Saigon “thủ đô,” còn có nhiều cơ sở âm nhạc và hàng trăm, hàng ngàn tạp chí hay tuần báo, nguyệt san khác (vừa giấy vừa mạng) nằm rải rác trong tất cả các Little Saigon “địa phương,” cung cấp món ăn tinh thần cho hàng triệu người Việt.

Về mặt văn chương, tuy không sôi động và gây ảnh hưởng tức thời như hai lãnh vực trên, cộng đồng người Việt hải ngoại đã tạo nên được một “nền” văn học riêng (cả tiếng Việt lẫn Anh hay tiếng Pháp) vô cùng phong phú với một số lượng tác giả, tác phẩm và tạp chí văn chương dồi dào. Đó là một tổng hợp của nhiều dòng văn chương khác nhau: Văn Chương Miền Nam trước 1975, Văn Chương Miền Nam “nối dài,” văn chương của những cây bút mới xuất hiện ở hải ngoại, văn chương của những nhà văn phản kháng hay bất đồng chính kiến, vân vân và vân vân.

Có rất nhiều tạp chí văn chương, giấy cũng như mạng: Làng Văn, Ngôn Ngữ, Da Màu, Thư Quán Bản Thảo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Gió-O, Đàn Chim Việt, Diễn Đàn Forum, Thất Sơn Châu Đốc, Tân Hình Thức, Tiền Vệ, T. Vấn & Bạn Hữu, Phố Văn, Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai… Cũng có khá nhiều nhà xuất bản: Tiếng Quê Hương, Văn Mới, Văn Nghệ, Nhân Ảnh, Văn Học Press, Thế Kỷ 21, Da Màu Press, Người Việt Books, Nhà Xuất Bản Trẻ, Anh Thư, Tân Thư, Thư Ấn Quán, Literary Hub…

Các tạp chí và nhà xuất bản này, ngoài việc đăng tải hay tái bản các tác phẩm của Văn Học Miền Nam trước 1975, xuất bản các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, còn xuất bản hàng trăm tác phẩm bị cấm của những cây bút, hoặc đã qua đời hoặc còn ở trong nước hay đã thoát ra ngoài như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Viện, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Bình Phương, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải, Tiêu Dao Bảo Cự, Hoàng Hưng, Trần Đĩnh, Huy Đức…

Đặc biệt nhất, một số tác giả và tác phẩm văn chương của họ đã đi vào lãnh vực quốc tế (do được viết bằng ngoại ngữ hoặc được chuyển dịch từ tiếng Việt) như Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vương (Mỹ), Kim Thúy (Canada), Dương Thu Hương, Trần Thị Hảo (Pháp)… Văn chương hải ngoại, với sức sống mạnh mẽ của nó, hiện đã trở thành một dòng văn học với sắc thái riêng biệt, nhất định sẽ chiếm một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mẹ và con đi chợ Tết. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Người ngoại quốc gọi Tết là “Tết!”

Một điều lý thú khác cũng cần được ghi nhận, đó là ngôn ngữ. Qua một thời gian dài sống chung với nhiều nền văn hóa khác nhau, ngôn ngữ Việt Nam dần dà phổ biến, do đó, một số từ ngữ Việt Nam như “banh mi” (bánh mì), “pho” (phở), “ao dai” (áo dài), “tet” (Tết) trở thành từ vựng có tính cách quốc tế, được đưa vào một số tự điển tiếng Anh, trong đó có Merriam-Webster, Cambridge Dictionary, Oxford English Dictionary, Collins Dictionary, Dictionary.com, vân vân.

Dictionary.com định nghĩa “banh mi” là “a Vietnamese sandwich on a crisp baguette spread with mayonnaise, typically containing pork or chicken and pâté, with pickled vegetables, cucumber, and cilantro” (Một loại bánh mì giòn có phết sốt mayonnaise kẹp thịt heo hoặc thịt gà và pa-tê kèm thêm rau, dưa leo và ngò).

William-Webster định nghĩa “ao dai” là “the traditional dress of Vietnamese women that consists of a long tunic with slits on either side and wide trousers” (Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam gồm áo dài xẻ hai bên và quần ống rộng).

Riêng chữ “Tet,” trước đây, người nước ngoài đã biết đến và sử dụng nó, nhưng để chỉ biến cố Tết Mậu Thân 1968: “Tet Offensive.” Bây giờ, chữ Tết với nghĩa phổ thông hơn, cũng đã chính thức được ghi vào tự điển tiếng Anh. Xin ghi lại định nghĩa về chữ “Tet” trong hai tự điển tiếng Anh nổi tiếng:

-Tự điển Merriam-Webster: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year observed during the first several days of the lunar calendar beginning at the second new moon after the winter solstice” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt được tổ chức vào những ngày đầu tiên của âm lịch bắt đầu từ ngày trăng non thứ hai sau ngày đông chí).

-Tự điển Dictionary.com: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year celebration, occurring during the first seven days of the first month of the lunar calendar” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt, diễn ra vào bảy ngày đầu tiên của Tháng Giêng Âm Lịch).

Tết Việt Nam, như thế, đã được tách hẳn khỏi Tết Tàu, “Chinese New Year.”

Xét cho cùng, theo tôi, đó cũng là một thành tựu. Nhưng không chỉ là thành tựu về mặt ngôn ngữ.

Thành tựu đó gắn liền với nỗ lực bảo vệ truyền thống của mọi người Việt Nam khi bị buộc phải xa rời cội nguồn, chủ yếu là qua hình thức ẩm thực và lễ hội. Trong suốt 50 năm ở xứ người, năm nào cũng như năm nào, ở đâu có người Việt cư ngụ là ở đó có hội Tết, dù nhỏ dù lớn. Tha hương, buồn thì buồn, nhớ thì nhớ, nhưng vẫn ăn mừng: “Ăn” và “Mừng.” “Ăn” Tết, “Mừng” Xuân là mang quê hương đến với mình. Đồng thời, cột chặt mình với quê hương. Có Tết là có quê hương. Không kể Little Saigon, nơi mà không khí Tết rộn ràng và rực rỡ mà cao điểm là các cuộc Diễn Hành Tết và Hội Chợ Tết, ở các vùng khác, sinh hoạt Tết đều diễn ra hằng năm, cũng thấm đẫm màu sắc quê hương không kém.

Gia đình tôi sang định cư ở một thành phố nhỏ miền Đông Bắc nước Mỹ, nơi mà Tết bao giờ cũng rơi vào lúc cao điểm của mùa tuyết. Không có Tết nào là vắng tuyết, thậm chí có năm, bão tuyết lớn rơi vào đúng đêm Giao Thừa với lượng tuyết lên đến 10-15 inch. Chữ “Tết,” vô hình trung, gắn với và nằm trong chữ “T(uy)ết.”

Tết trong tuyết, tuyết trong Tết! Tết và tuyết chỉ cách nhau một bước chân: bước vào, Tết, bước ra, tuyết! Có năm, cúng Giao Thừa xong, muốn cắm một cây nhang ở ngoài trời cũng không được, vì toàn là tuyết và tuyết. Không sao! Dù chỉ là những ngày cuối năm “giả thuyết,” những chiều 30 “bịa đặt,” những Giao Thừa “tự chế” (biến), những ngày đầu năm “hư cấu,” thế nhưng, năm nào gia đình tôi cũng lấy một hay vài ngày nghỉ phép (nghỉ làm, nghỉ học) để “ăn Tết.” Mứt bánh thiệp chúc mừng quà cáp tiền lì xì cúng ông Táo cúng Tất Niên đi chợ Tết đi chùa hái lộc đi thăm bạn bè… Có đủ.

Ngoài Tết nhà, là Tết chợ. Không khí Tết dồn vào trong ba, bốn cái chợ, tọa lạc ở những khu riêng biệt, cách xa nhau. Dẫu vậy, đối với cộng đồng Việt Nam nhỏ bé ở đây, chợ là hình ảnh của một quê nhà thu nhỏ. Không thiếu thứ gì: chậu mai, chậu đào, phong pháo, bánh chưng, bánh tét, mứt dừa, mứt khoai, mứt gừng, mứt bí, hạt dưa, bao lì xì, dưa hành, câu đối, lịch coi ngày, hương đèn, hoa quả, nhạc xuân, báo Tết…

Đi chợ cũng là một cách ăn Tết: người người mua sắm, tiếng cười đùa, trò chuyện râm ran hòa cùng với tiếng hát vang vang từ băng nhạc Xuân: “…Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa một chiều Xuân tôi đã hẹn hò… bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng trông bánh chưng chờ trời sáng”… Ngậm ngùi lắng nghe tuổi thơ, lắng nghe quê nhà, lắng nghe xóm giềng qua tiếng trò chuyện lao xao của đồng hương chen chúc, lắng nghe những đói nghèo, lắng nghe những ước mơ đơn sơ và mộc mạc ngày cũ. Quá khứ quê nhà trộn lẫn với hiện tại tha hương.

Ngoài “Tết chợ,” là “Tết chùa” hay “Tết nhà thờ,” nơi mà tối 30 và ngày Mùng Một, các cơ sở tôn giáo này đều có những chương trình đặc biệt dành trọn cho các sinh hoạt Tết, cũng múa lân, hái lộc, cho tiền lì xì, đốt pháo… Và xôm tụ nhất là “Tết Cộng Đồng.” Đây là một lễ hội truyền thống (với đủ thứ sinh hoạt: hội chợ, đánh bài, thi áo dài, thi tiếng Việt, chợ hoa, xổ số, hái lộc, múa lân, đốt pháo…) diễn ra ở nơi công cộng, dành cho không những tất cả cư dân Việt trong vùng, mà còn mở rộng ra chào đón cư dân các sắc tộc khác, với sự tham dự của các viên chức hành pháp và lập pháp địa phương như thị trưởng hay nghị viên Hội Đồng Thành Phố.

Tết Cộng Đồng, một mặt, duy trì và chuyển tải truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau và một mặt, giới thiệu và giao thiệp văn hóa Việt Nam với các cộng đồng sắc tộc bạn. Đặc biệt lúc nào cũng có các “ca sĩ Cali” trong chương trình văn nghệ. Sự hiện diện của họ vừa để giúp vui, lại cũng vừa để Little Saigon “địa phương” chia sẻ phần nào không khí rộn ràng của Little Saigon “thủ đô.”

Trong suốt hàng chục năm gia đình tôi cư ngụ ở vùng tuyết giá này, mùa Xuân không lúc nào vắng mặt. Đã ấm áp tình đồng hương, lại còn được sống trọn mùi vị và cảnh sắc quê nhà, từ bàn thờ tổ tiên, áo quần truyền thống cho đến mứt, bánh, hoa, pháo, bao lì xì, múa lân và đặc biệt nhất là được sống lại không khí thanh bình tươi vui của một miền Nam trước 1975 với bàn thờ tổ tiên, áo dài, khăn đóng, cờ xí, nhạc lính, nhạc tình, nhạc Xuân… Chẳng thế mà, đám con cháu tôi, dù đa phần sinh trưởng ở xứ người, nhưng vẫn còn rất là Việt Nam. Một niềm an ủi lớn! (Trần Doãn Nho) [qd]


 

 TÁC GIẢ BỨC TƯỢNG THƯƠNG TIẾC: NGUYỄN THANH THU ĐANG PHẢI THỞ DƯỠNG KHÍ…

 NHỮNG BÀI POST HAY – Vũ Phan Anh

   ☆ Tin từ quê nhà ngày 19.4.2025 cho biết:

 Đại úy điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc, hiện đang phải nằm trong phòng cách ly của nhà thương Hoàn Mỹ, để được chăm sóc đặc biệt, khi ông bị bịnh loét bao tử, suy thận và viêm phổi.

Được biết ông Nguyễn Thanh Thu sanh năm 1934, đến Mỹ theo diện H.O, nhưng sau 10 năm đã từ California trở về Việt Nam, sống với con cái tại Gò Vấp cho tới nay.

Giấc mơ lớn nhứt mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hằng mong ước, là phục dựng lại được bức tượng Thương Tiếc (theo đúng bản cũ) tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng nay có lẽ ông sẽ phải ngậm ngùi đưa nỗi niềm mơ ước ấy theo mình xuống huyệt mộ!

Yến Ngọc Hải Âu


 

Giáo hoàng Francis chỉ để lại tài sản trị giá 100 USD sau khi qua đời

Những câu chuyện Nhân Văn – My Lan Pham

 Giáo hoàng Francis chỉ để lại tài sản trị giá 100 USD sau khi qua đời ở tuổi 88! Lúc còn sống, Ngài từ chối nhận lương, từ chối ở tại khu biệt thự trong Điện Tông tòa, từ chối đi xe sang, khong sử dụng trang phục và phục sức đắt tiền. Giáo hoàng sống cuộc đời giản dị cho đến khi về với Chúa!

Ngài cũng không nhận bất kỳ khoản tiền lương nào kể từ khi trở thành giáo hoàng vào tháng 3-2013. Kể cả sau khi được tấn phong hồng y vào năm 2001, Ngài vẫn sống trong một căn hộ nhỏ và sử dụng phương tiện công cộng như xe buýt hay tàu điện ngầm thay vì những chiếc ô tô sang trọng có tài xế riêng hay có đội bảo vệ riêng dành cho các hồng y để giữ gìn tinh thần khó nghèo, vâng phục lời khấn “khó nghèo” mà Ngài tuyên hứa với Dòng Tên. (Trích từ TT)

Trong ký ức của những người dân nghèo ở Buenos Aires, nhất là khu ổ chuột lớn nhất thủ đô Argentina Villa 21-24, Giáo hoàng Francis, khi đó là linh mục Jorge Mario Bergoglio, mãi mãi là “linh mục của dân nghèo”, là người cha luôn yêu thương, giúp đỡ những người nằm bên rìa xã hội.

Tôi là người ngoại đạo nhưng vô cùng trân trọng nhân cách của Ngài- những người ngày càng hiếm trong thời đại này.

Nhà báo Hà Phan


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ký sinh & tầm gửi

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

22/04/2025

Họa sỹ Lê Huy Cầm cho biết: “Vừa dứt xong cái tranh cho cựu sinh viên Đại Học Dalat sẽ đấu giá kiếm tiền cho sinh viên nghèo trong ngày họp mặt 20 năm.” Bên dưới thông tin này là lời nhắn của FB Hue Chau (“Nếu dành cho cựu SV ĐH Dalat pre 75 thì trên tháp chuông nhà Nguyện Năng Tĩnh kg phải là cái…ngôi sao – Lê Huy” và hồi đáp của tác giả: “Sinh viên ra trường năm 2000 nên vẽ như vậy.” )

Tôi rời Viện Đại Học Đà Lạt đã lâu, ngay sau Mùa Hè Đỏ Lửa, vào năm 1972. Gần nửa thế kỷ đã vụt đi với không biết bao nhiêu là nước suối, nuớc sông (cùng với nước mưa/nước mắt) đã ào ạt qua cầu và qua cống. Nhìn lại hình ảnh trường xưa không khỏi có thoáng chút bồi hồi, và cũng thấy có hơi hụt hẫng.

Tuy thế, tôi hoàn toàn đồng ý với lời giải thích thượng dẫn của tác giả bức tranh. Thấy sao thì vẽ vậy thôi. Mà sao vàng và cờ đỏ thì được “gắn” vào tất cả những công trình kiến trúc ở VN (trường học Yersin, nhà ga Đà Lạt, bưu điện Sài Gòn, Toà Đô Chính, Dinh Gia Long, Dinh Độc Lập …) chớ có sót chỗ nào đâu.

Ngó riết rồi cũng quen mắt mà!

Chỉ riêng có “chỗ” này thì phải công nhận là nhìn hơi quá chướng, theo nhận xét của một nhà văn miền Nam – lần đầu đặt chân đến Hà Nội – hồi năm 1989 :

“Ô nhưng cái gì thế kia? Trên đỉnh Tháp Rùa có một ngôi sao! Cái này ra ngoài dự kiến của tôi về cảnh trí ở đây. Tôi chợt hiểu và liên tưởng ngay đến các ngọn tháp chuông ở điện Cẩm Linh mà tôi thấy trên báo chí Liên Xô, trên mỗi tháp cũng có gắn một ngôi sao. Dấu hiệu của Cách Mạng.

Chỉ tiếc khi nhìn ngôi sao trên đỉnh tháp Rùa thì trí tưởng tượng của tôi về câu chuyện con rùa đòi thanh gươm của Lê Lợi không thể nào hoạt động được, nó tê cứng như con chuột bị con rắn thôi miên vậy.

Tôi tự hỏi có phải trong trường hợp nào cũng cần phải đem cái hiện tại đè lên trên cái cổ truyền như thế không. Thỏa mãn một nhu cầu nhất thời có khi lại làm hại một sự thành tựu đã lâu đời. Và nếu ‘ý chí’ muốn rằng cái nhất thời phải thành vĩnh viễn trong tương lai thì nên tạo ra một công trình mới, ở chỗ khác, chứ sao lại sống tầm gửi vào những gì đã thành lịch sử như thế.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. NXB Thế Kỷ: Westminster 1994).

Ah, thì ra thế! Thế ra là chủ trương “sống tầm gửi” có nguồn gốc tuốt bên Nga, quê hương cách mạng tháng mười, từ hồi đầu thế kỷ trước lận (và đã trở thành truyền thống chung của khối anh em vô sản trên toàn thế giới) chớ đâu có phải là chuyện tình cờ hay cá biệt! Tuy thế, khách quan mà nói, chính sách “tầm gửi” khi vào đến Việt Nam thì mới phát huy được thêm hai “mảng” mới tinh: đám thuyền nhân (boat people) và bọn công nhân xuất khẩu.

Những kẻ trôi sông lạc chợ này sinh sống gần như là một loài cá vậy, cá hồi. Họ được (hay bị) Đảng và Chính Phủ đẩy ra khỏi nước, tứ tán khắp nơi, tha phương cầu thực. Tất cả đều chăm chỉ cần mẫn mưu sinh, và cần kiệm từng đồng, để mỗi khi hồi hương thì có được một mớ đô la nặng túi. Đó là chưa kể số tiền gửi về hàng quí, hay hàng tháng, cứ như thể là đóng hụi (chết) vậy.

Theo tạp chí Thương Gia Online: “Việt Nam tiếp tục trong top 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới. Kiều hối chuyển về năm nay ước đạt 16,7 tỷ USD … tăng nhẹ so với 16 tỷ USD của năm 2018.” Nếu không có những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi (và nước mắt) của hàng triệu khúc ruột xa ngàn dặm thì cái  “chính phủ tầm gửi” hiện hành, chắc chắn, đã không thể nào tồn tại được tới ngày nay.

Trong cái đám dân bá vơ này (thảng hoặc) cũng có vài cá nhân nổi bật, được Nhà Nước VN đặc biệt quan tâm. Nghệ sỹ dương cầm Đặng Thái Sơn là một người như thế. Từ Nga, có lần, ông gửi thư về cho thân phụ (một nhân vật bất đồng chính kiến – nhà thơ Đặng Đình Hưng) với những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt :

“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vac-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-ta-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp đươc Chopin – Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…” (Thế Giang. “Cây Đắng Nở Hoa.” Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: Westminster 1987).

Ngay sau khi “cây đắng nở hoa” thì … thánh đế hồi tâm. Đặng Thái Sơn được trao  danh hiệu Nghệ Sỹ Nhân Dân, cùng với nhiều lời tung hô thái quá (tung toé) trên khắp những trang báo quốc doanh:

  • Âm thanh thế kỷ 20 dưới tiếng đàn Đặng Thái Sơn
  • Huyền Thoại Dương Cầm Đặng Thái Sơn
  • Cánh chim tìm về tổ
  • Đặng Thái Sơn, tiếng đàn vọng lên từ những căn hầm trú ẩn
  • Đặng Thái Sơn, những nổi đau của một dân tộc đấu tranh đòi độc lập

Bên cạnh câu chuyện đắng cay này, có không ít những lời bình vô cùng cay đắng:

  • Đặng Chương Ngạn: “Tiền đi thi không cho, đến cả cái danh xưng thí sinh Việt Nam cũng không cho, nhưng sau khi đoạt giải lại nhận ông ấy là người Việt Nam.”
  • Lê Công Định: “Tôi nhớ ngày anh Đặng Thái Sơn đoạt giải về nước, cả hệ thống truyền thông bu lại ca ngợi đảng và nhà nước đã hun đúc tài năng của dân tộc!”
  • Hoàng Khởi Phong: “Cha anh, nhạc sĩ và nhà thơ Đặng Đình Hưng được nhìn thấy con ông như một con cá kình, quẫy thủng cái lưới mà thoát ra biển khơi.”
  • Nhat Vu Hong: “Chính vì sự bội bạc đó nên Đặng Thái Sơn không về VN mà định cư tại Canada.”
  • Son Nguyen & Bùi Phi Hùng: “Cũng giống như Ngô Bảo Châu, người Việt được chăm bón, vun trồng ở tận đẩu tận đâu rồi thành quả, về ‘báo công’ cho nhà nước hít hà, phả ra đầy khí quyển những lời hào sảng hết cỡ; đưa tất cả lên đỉnh, tưởng chừng như thế gian này chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho TG thăng hoa…”

Trường hợp của G.S Ngô Bảo Châu thì tương đối vẫn còn mới mẻ, rất nhiều người biết nên cũng chả cần phải rườm lời, trừ sự kiện này: ông không phải là một con cừu nên không quen bám lề, và thỉnh thoảng lại đi “trật đường rầy” một khoảng (hơi) xa. Có lẽ xa nhất là lời bình luận của ông vào hôm 19 tháng 5 năm 2016, nhân ngày sinh nhật lần thứ 126 của Hồ Chí Minh: “Có quý‎ mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.”

Thế là Nhà Nước VN xùy chó ra cắn ngay :

  • Ngô Bảo Châu tiếp tục cổ súy cho các hành động sai trái chống phá đất nước của những tên phản động như Lê Công Định, Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Mẹ Nấm…
  • Ngô Bảo Châu một con trâu biết làm toán
  • Ngô bảo Châu đã tìm cho riêng mình một con đường khác, đi ngược lại con đường mà đảng, Bác Hồ cùng nhân dân đã chọn hơn 70 năm qua…
  • Ngô Bảo Châu trên con đường ngụy dân chủ phản bội dân tộc.

Ngó bộ thì lũ chó này chưa chắc đã cắn rách được gấu quần của nạn nhân nhưng tư cách của đám chủ thì ai cũng nhìn thấy rõ, theo như ghi nhận của blogger Trương Nhân Tuấn: “ĐCSVN chỉ là một loại cây tầm gởi, là một thứ ký sinh, hút cạn kiệt mồ hôi nước mắt, lẫn máu mủ của người dân”.


 

TỔN THẤT NHÂN MẠNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Lê Châu An Thuận

 Chiến tranh Việt Nam là một cuộc xung đột kéo dài và tàn khốc với số người chết cao. Việc ước tính chính xác số người chết là rất khó, nhưng đây là những gì được biết dựa trên các nguồn có sẵn:

–   Thương vong của người Việt Nam:

. Tổng số người Việt Nam tử vong (quân sự và dân sự): Ước tính từ 970.000 đến 3 triệu.

. Dân thường Việt Nam: Chính quyền Việt Nam báo cáo có tới 2 triệu thường dân tử vong ở cả hai bên vào năm 1995.

. Chiến binh Bắc Việt và Việt Cộng: Việt Nam chính thức ước tính khoảng 1,1 triệu người tử vong vào năm 1995.

. Binh lính Nam Việt Nam: Quân đội Hoa Kỳ ước tính rằng có từ 200.000 đến 250.000 binh lính Nam Việt Nam tử vong.

–   Các quốc gia khác:

. Hoa Kỳ: Hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã tử trận hoặc mất tích trong khi chiến đấu.

. Các lực lượng đồng minh khác:

– Hàn Quốc mất hơn 4.000 binh lính,

– Thái Lan mất khoảng 350,

– Úc mất hơn 500 và

– New Zealand mất khoảng ba chục.


 

CÂU CHUYỆN LỚN HƠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”.

Anh trộm bị đóng đinh thủng cả hai tay để không thể làm gì cho Chúa; một cái đinh xuyên hai bàn chân để anh không thể chạy vặt cho Ngài. Vậy mà Chúa Kitô đã tặng anh món quà cứu rỗi. Ngài ném cho anh tấm hộ chiếu và anh vào thiên đàng! Câu chuyện tuy gãy gọn nhưng nó là một ‘câu chuyện lớn hơn’ câu chuyện một đời bôn tẩu của bạn và tôi!

Kính thưa Anh Chị em,

Cùng với câu chuyện của anh trộm lành, Lời Chúa hôm nay là những câu chuyện thật đẹp! Chuyện anh què ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, chuyện hai môn đệ Emmaus nhận ra người khách lạ đồng hành, cũng là người sẽ kể cho họ một ‘câu chuyện lớn hơn!’.

Trước hết câu chuyện anh què, rồi đây sẽ khá rắc rối! “Ngày ngày, họ đặt anh bên cửa Đền Thờ”; ở đó, anh xin bố thí. Phêrô và Gioan “nhân danh Đức Giêsu Kitô”, tặng anh món quà ‘đôi chân mới’ và “anh vào đền thờ, vừa đi vừa nhảy nhót mà ca tụng Thiên Chúa” – bài đọc một. Câu chuyện anh què chứng tỏ một ‘câu chuyện lớn hơn’ về Đấng Phục Sinh, Đấng mà rồi đây, Phêrô rao giảng, khiến “3.000 người trở lại”. Và mọi người ngợi khen Chúa, “Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Câu chuyện thứ hai – Emmaus – hấp dẫn hơn! Emmaus – phía tây, so với Giêrusalem – phía đông. Hai môn đệ đi về phía mặt trời lặn, phía đêm tối, chết chóc và tuyệt vọng. May thay, ở đó, Chúa Phục Sinh kịp có mặt, dù lúc ẩn lúc hiện. Ngài đồng hành và lòng họ cháy lên; Ngài lắng nghe họ, trách họ ‘vô tín’. Đoạn, kể cho họ một ‘câu chuyện lớn hơn’, “Bắt đầu từ Môsê, giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Thật hồi hộp với phần kết! Khi gần tới làng, hai người “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Để khi ngồi ăn, “Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người”, Đấng buộc họ quay lại Giêrusalem, phía mặt trời mọc!

Nhân loại cần nghe câu chuyện vĩ đại đó! Ai sẽ kể về Chúa Kitô cho thế giới nếu không phải bạn và tôi? Nhưng trước hết, câu chuyện lớn nhất là bạn và tôi phải được Chúa Phục Sinh biến đổi! Từ đó, chúng ta mới có thể đồng hành với những ai đang trên ‘đường Emmaus’ đời họ, kể cho họ về Giêsu, Đấng Cứu Độ họ, cứu độ thế giới, hầu mắt họ cũng sáng ra mà ‘quay về phía Mặt Trời’.

Anh Chị em,

“Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”. “Có lẽ toàn bộ lịch sử của Chúa Giêsu nằm trong chuỗi cử chỉ này! Ngài ‘cầm lấy’ chúng ta, ‘chúc lành’ chúng ta, ‘bẻ’ cuộc sống chúng ta – vì không có tình yêu nào mà không có hy sinh – và tặng nó cho người khác, cho mọi người. Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với hai môn đệ Emmaus cho biết rằng, cộng đồng Kitô hữu không thể bị nhốt trong một thành trì kiên cố, nhưng đúng hơn là một hành trình dọc theo môi trường thiết yếu nhất của mình, đó là con đường – trên đó – Kitô hữu trao tặng Lời Sự Sống, chứng tá của một tình yêu trung thành cho đến cùng. Và như vậy, trái tim của mọi người bừng cháy hy vọng!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xô con trở lại phía mặt trời mọc; con sẽ kéo theo anh chị em con, kể cho họ ‘câu chuyện lớn hơn’ rằng, Chúa đã thương xót con và luôn thương xót họ!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

********************************************************

Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19 Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy.”

25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.

28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”

33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.


 

Nguyên nhân trực tiếp gây ra tử vong cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nguyên nhân trực tiếp gây ra tử vong cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô

VietCatholic Media

21/Apr/2025

Theo giấy chứng tử do Vatican công bố, Đức Giáo Hoàng Phanxicô qua đời vì đột quỵ, dẫn đến hôn mê và suy tim “không thể phục hồi”.

Ngài qua đời trong căn phòng của ngài tại nhà trọ Santa Marta ở Vatican, lúc 7:35 sáng ngày 21 tháng 4 năm 2025, giờ địa phương, tức là 12:35 trưa thứ Hai theo giờ Việt Nam, sau một thời gian dưỡng bệnh vì nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng.

Vị Giáo Hoàng 88 tuổi đã qua đời gần một tháng sau khi được xuất viện sau 5 tuần nằm bệnh viện, nơi ngài gần như đã tử vong vì bệnh viêm phổi kép.

Tuy nhiên, ngài qua đời không phải vì các vấn đề liên quan trực tiếp đến bệnh viêm phổi nhưng vì “đột quỵ não, hôn mê, suy tim mạch không hồi phục”, giấy chứng tử cho biết.

Đức Giáo Hoàng từng bị suy hô hấp cấp tính khi ngài bị viêm phổi kép trong bệnh viện, giấy chứng tử cho biết thêm.

Ngài cũng bị tăng huyết áp động mạch, giãn phế quản nhiều lần và tiểu đường loại 2 – một căn bệnh trước đó chưa từng được biết đến.

Giấy chứng tử được ký bởi giám đốc y tế của Thành phố Vatican, bác sĩ Andrea Arcangeli.

Viêm phổi kép là tình trạng nhiễm trùng phổi ảnh hưởng đến cả hai lá phổi, làm viêm các túi khí trong phổi hoặc phế nang, chứa đầy dịch hoặc mủ.

Tình trạng viêm này khiến việc thở trở nên khó khăn và nếu nhiều phân đoạn phổi bị nhiễm trùng, dù ở một lá phổi hay cả hai lá phổi, thì bệnh có khả năng trở nên nghiêm trọng hơn.

Giáo hoàng Phanxicô có tiền sử bệnh tật kéo dài trong suốt cuộc đời, một số bệnh có từ thời trẻ và một số bệnh khác phát triển trong thời gian làm giáo hoàng.

Ở tuổi21, ngài đã phải cắt bỏ một phần phổi do nhiễm trùng nặng, có thể là viêm phổi hoặc u nang phổi.

Mặc dù vậy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô được cho là đã sống một cuộc sống rất năng động và không bao giờ để bệnh ảnh hưởng đáng kể đến sức sống của mình.

Ngài cũng bị đau thần kinh tọa mãn tính, một tình trạng đau thần kinh thường khiến việc đi lại trở nên khó khăn. Tình trạng này khiến ngài đôi khi phải hủy các sự kiện hoặc tỏ ra khó chịu rõ rệt trong các buổi lễ dài.

Trong suốt cuộc đời, có nhiều báo cáo cho rằng ngài bị các vấn đề nhẹ về tim, bao gồm nhịp tim không đều, mặc dù có vẻ như tình trạng này chủ yếu được kiểm soát mà không có bất cứ sự việc nào.

Khi bước vào độ tuổi cuối 80, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên phải sử dụng xe lăn do các vấn đề về khớp và đau đầu gối, vì ngài được chẩn đoán bị rách dây chằng ở đầu gối và viêm xương khớp mãn tính.

Quay trở lại tháng 7 năm 2021, ngài đã trải qua cuộc phẫu thuật đại tràng để cắt bỏ một phần ruột do viêm túi thừa, một tình trạng phổ biến ở người cao tuổi có thể gây đau và viêm.

Trong những năm cuối đời, Đức Giáo Hoàng đã bị nhiễm trùng đường hô hấp tái phát, bao gồm viêm phế quản và viêm phổi, có khả năng dẫn đến cái chết của ngài.

Ngài vừa xuất viện sau 38 ngày nằm viện.

Vào Chúa Nhật Phục sinh, Đức Giáo Hoàng đã bất ngờ xuất hiện trước công chúng tại Vatican, ban phước lành cho đám đông chỉ vài giờ trước khi qua đời vào sáng Thứ Hai.

Bất chấp các vấn đề sức khỏe trước đó, ngài vẫn giữ lịch trình bận rộn cho đến những tuần cuối đời.

Vào tháng 9 năm 2024, ngài đã thực hiện chuyến công du kéo dài 12 ngày qua Đông Nam Á và Châu Đại Dương, bao gồm các chuyến thăm tới Indonesia, Papua New Guinea và Singapore. 

Nguyên nhân trực tiếp gây ra tử vong cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô