Nguyễn Hoàng Vi là một trong bảy phụ nữ của thế giới được IFEX vinh danh

Nguyễn Hoàng Vi là một trong bảy phụ nữ của thế giới được IFEX vinh danh

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-03-09

nguyen-hoang-vi-305.jpg

Blogger Nguyễn Hoàng Vi

Photo courtesy of Dân Làm Báo

Tổ chức IFEX, chữ viết tắt của International Freedom of Expression Exchange network, có trụ sở tại Canada, vừa vinh danh 7 phụ nữ của nhiều quốc gia vì đã có những nỗ lực tranh đấu cho quyền tự do phát biểu. Blogger Nguyễn Hoàng Vi của Việt Nam vinh dự là người thứ năm có tên trong danh sách này.

Đứng đầu danh sách là Tanya Lokshina, một phụ nữ hoạt động nhân quyền nổi tiếng của Nga. Người thứ hai là luật sư Quinsayas của Philippines. Thứ ba là nhà hoạt động của Bahrain, chị Khawaja. Thứ tư là Suprani, nữ họa sĩ biếm họa người Venezuela. Thứ năm là blogger Nguyễn Hoàng Vi của Việt Nam. Thứ sáu là nhà báo Lima của Colombia; và thứ bảy là Iryna Khalip, nhà báo, nhà hoạt động của Belarus.

Trả lời IFEX, Nguyễn Hoàng Vi nói về những thách thức của bản thân mình như sau:

“Chúng tôi không cho phép nỗi sợ hãi làm tê liệt bản thân mình. Trong tận cùng tâm thức, chúng tôi nhận ra rằng nên tha thứ tất cả những gì họ đã làm trên thân xác của chúng tôi. Tuy nhiên tha thứ không có nghĩa là chấp nhận.

Chúng tôi phải cho họ biết rằng những gì chúng tôi làm không dựa trên hận thù của cá nhân đối với kẻ gây ra; chúng tôi hành động chỉ để bảo vệ những quyền căn bản của chúng tôi, những quyền mà họ đang có cũng như tất cả chúng tôi phải có.”

“Khi chấp nhận đấu tranh không ai nghĩ mình đấu tranh để được vinh danh hay giải thưởng nào đó cho nên có hay không có mình vẫn tiếp tục con đường mình đã chọn. Giải này giống như một sự cổ động thêm tinh thần để mình tiếp tục khẳng định con đường mình đi.”

Nguyễn Hoàng Vi

Trả lời về cảm tưởng của mình Nguyễn Hoàng Vi cho đài Á Châu Tự Do biết:

“Khi biết mình được vinh danh như vậy thì tôi rất vui và cảm thấy phần nào được an ủi vì đã đánh đổi, trả giá những gì mình đã trải qua. Nhưng còn rất nhiều người phải trả giá hơn mình nữa. Khi chấp nhận đấu tranh không ai nghĩ mình đấu tranh để được vinh danh hay giải thưởng nào đó cho nên có hay không có mình vẫn tiếp tục con đường mình đã chọn. Giải này giống như một sự cổ động thêm tinh thần để mình tiếp tục khẳng định con đường mình đi.”

Blogger Nguyễn Hoàng Vi là người từng bị cơ quan công an xâm phạm thân thể rất nặng nề khi cô cố gắng tới phiên tòa xử ba blogger Tạ Phong Tần, Điếu Cày và Anh Ba Sài gòn.

Trong vài ngày qua thế giới liên tiếp có những vinh danh cho các blogger Việt Nam vì những đóng góp và hy sinh của họ. Trước tiên là blogger Tạ Phong Tần, vào ngày 3 tháng 3 bà được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là một trong 10 phụ nữ can trường. Ngày 7 tháng 3 blogger Huỳnh Ngọc Chênh được tổ chức Phóng Viên không biên giới vinh danh là công dân mạng Internet vì những đóng góp của ông trong việc tranh đấu cho tự do ngôn luận, và hôm nay là blogger Nguyễn Hoàng Vi được vinh danh là người phụ nữ dấn thân tranh đấu cho quyền tự do phát biểu.

Cha Mẹ nuôi con bằng Trời …..

Cha Mẹ nuôi con bằng Trời …..

Tác Giả: Phụng Vũ

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”( N.Du
)

Ở xứ Mỹ, tháng 5 có ngày lễ Mother’s day, là ngày các con vinh danh ghi nhớ công ơn của các bà mẹ; đó là một nét đẹp của văn hóa Mỹ, dù nền văn hóa này nghiêng nhiều về hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân hay là vì nghiêng về hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân nhiều qúa nên cần có một ngày để họ nhớ về cội nguồn??
Bây giờ đã qua rồi những rộn ràng của văn nghệ, tiệc tùng, của những bó hoa tươi chúc mừng Mẹ. Suốt cả mấy tuần trước trước ngày lễ Mẹ, các phương tiện truyền thông: radio, tivi, báo chí..đua nhau phát thanh những bài hát, đăng những bài viết nói về Mẹ hoặc quảng cáo những

chương trình ca nhạc, quà, thuốc uống, nhà hàng..để các con chọn lựa cho ngày lễ Mẹ..Đó là tất cả những gì được phô bày trước “sân khấu đời” trong “ tháng 5 của Mẹ”, nhưng có mấy ai vén bức màn nhung để nhìn vào hậu trường sân khấu ấy hầu nhìn thấy những giọt lệ lặng lẽ rơi, để lắng nghe những tâm tư rất thật, rất đời thường và cũng rất buồn của nhiều bà mẹ VN trên xứ người.
Tôi thứ 7 tuần rồi trong chương trình radio “tâm tình với Thái Hà” có đọc một bức thư tâm sự của một bà mẹ : bà có 6 người con, bà đã hoàn tất nhiệm vụ nuôi con trưởng thành, nên người. Bà hiện ở với một người con trai (có lẽ là tốt nhất trong các con của bà), bà chăm sóc nuôi nấng các cháu nội và rất yêu thương chúng. Rồi vì một xích mích nào đó, nay con trai bà đòi đuổi bà ra khỏa nhà. Bà cảm thấy lưu luyến các cháu và bơ vơ nơi xứ lạ quê người, không biết phải đi đâu?, phải làm gì?..Thính giả gọi vào để góp ý , chia xẻ tâm tình với bà. Có một bà gọi vào kể chuyện của mình một cách rất an nhiên, tự tại:
“Tôi cũng qua đây từ lâu, nuôi 3 đứa con ăn học thành tài. Bây giờ tụi nó lo thân tụi nó, tui lo thân tui. Mỗi tháng tôi lãnh tiền gìa của chính phủ ½ để trả tiền share phòng, ½ để ăn tiêu lặt vặt. Thỉnh thoảng, con tôi có đứa nhớ gọi phone hỏi thăm:
–  Má khoẻ không má?
– Cám ơn con, má khoẻ !
Lúc nào tôi đau ốm thì tôi trả lời:
-Má đang bịnh qúa con ơi!
-Vậy má nhớ đi bác sĩ nghen má !
-Ờ, má biết rồi!
Chỉ có vậy thôi, không thăm nom, không giúp đỡ gì hết vì nó còn bận rộn lo cho gia đình của nó. Mình tự lo cho thân gìa của mình, may mà có chính phủ giúp đỡ. Sống ngày nào biết ngày đó, chết là hết nợ đời. Buồn làm gì chị ơi!”
Nghe chị kể chuyện đời mình “tỉnh rụi”,nghe có vẽ bình thuờng trong môt cảnh “không bình thường”, tôi chợt thấm thía một lời hát của TCSơn:
“Rồi người bỗng hết buồn, đã hết buồn
Người chợt nghe đá lên trong hồn.”
Khi nghe radio tới đây, tôi bỗng nhớ đến câu chuyện em của một chị bạn, định goi phone nói chị mở radio cùng nghe để chị cảm thấy đỡ buồn vì “thế gian không phải một mình ta”, nhưng thấy khuya qúa nên thôi.
Hoàn cảnh chị mẹ góa con côi, từ lúc con gái còn rất nhỏ. Một mẹ một con, nhưng chị hy sinh cho con đi vượt biên qua Mỹ để đời con tươi sáng hơn, chị ở lại chăm sóc mẹ gìa..Năm rồi chị được con gái bảo lãnh sang. Ai cũng mừng cho chị vì đã mấy chục năm xa cách, nay mẹ con mới được đoàn tụ. Từ đây chị sẽ được an hưởng tuổi gìa bên con gái duy nhất. Trước khi đi, tiền bán căn nhà, theo yêu cầu của con gái, chị đã chuyển qua hết cho nó vì chị nghĩ:
“Của mẹ là của con, của con là của mẹ”
Con gái chị lại dặn: “Phải giữ yên lặng, không được kể cho ai hết”. Thế là chị nghe lời con giữ yên lặng kể cả với bà chị ruột ở Mỹ, người đã gửi tiên về nhiều lần để sửa sang căn nhà chung của cha mẹ. Chị đi Mỹ trong âm thầm lặng lẽ với tất cả tình thương to lớn và niềm tin cậy vào đứa con gái yêu qúy và nỗi vui mừng vì từ nay có mẹ có con, có nơi nương tựa tình thương vững chắc lúc về gìa..
Nhưng ở đời có ai học được chữ NGỜ..chưa đầy 6 tháng sau, may nhờ người quen,( chị gặp lúc đi chùa,) tốt bụng giúp đỡ. Cán sự xả hội và cảnh sát phải đến nhà con gái chị để bảo vệ cho sự ra đi an toàn của chị. Chị ra đi với một túi xách nhỏ đựng quần áo, nước mắt chảy tuôn, mà lòng thầm cám ơn Trời Phật đã giúp đỡ mình thoát khỏi “địa ngục trần gian”, dù ra đi với 2 bàn tay trắng nhưng lòng vẫn tạ ơn Trời đất.
Ca dao VN có câu:
“Khó đi mẹ dẫn con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đời”
Nhưng có ai dè “trường đời” người mẹ phải học để đối phó, lại bao gồm cả chính những đứa con, mình dứt ruột đẻ ra, lo bú mớm chăm sóc từng ngày, đặc biệt là lúc con ốm đau, mẹ phải :
“Đêm canh dài thức đủ năm canh”
để lo lắng chăm sóc con với cả tình thương yêu to lớn không gì sánh nỗi..Rồi khi con khôn lớn, con thành đạt, con lại rẻ rúng bội bạc, coi thường, coi khinh mẹ. Mỗi lần, mẹ làm điều gì không vừa ý con quát nạt la rầy, làm lòng mẹ đau đớn biết bao.
Nhìn gương những bà mẹ bị con bạc đãi, có những bà mẹ khôn ngoan đã rút ra bài học cho mình “Đừng bao giờ dốc hết tài sản tiền bạc cho con, Phải biết “phòng thân”, lỡ khi hữu sự, còn có cái dùng..Khi chết rồi để lại di chúc cho con cũng không muộn”
Các bà mẹ VN thường hay “sĩ diện” nên đi đâu thấy người ta “khoe con”, thì cũng phải “khoe con” cho bằng chị bằng em, hay theo như người xưa nói “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”, nhưng trong chỗ riêng tư thân thiết, hoặc những lúc nỗi buồn u uất lên cao qúa độ, gặp người “đồng cảnh đồng thuyền” thì bao tâm tư uất ức tự động tuôn trào ra. Bấy giờ là lúc ta nghe được những tiếng lòng thực sự của các bà mẹ!
Sáng qua, một buổi sáng âm u, đầy mưa gió, tôi đến một phòng trị liệu (năm giường massage có tia hồng ngoại để trị đau lưng nhức mỏi ) ở khu Bolsa. Không biết có phải vì
“Cảnh buồn, người có vui đâu bao giờ”
hay vì thiên nhiên u ám đã tác dộng đến tâm tư u buồn của các bà mẹ, mà bỗng dưng tôi được nghe nhiều tâm tư sầu nảo và rất thực của các bà mẹ. Thấy không khí trong phòng có vẽ trầm lắng, lại mới đọc tin trên tờ báo cũ trong phòng nói về những bữa tiệc nhân ngày lễ Mẹ, tôi bèn gợi chuyện nói cho không khí vui vẻ với bà bên cạnh:
-Ngày lễ Mẹ, các con chị tặng chị qùa gì?
-Ngày lễ Mẹ, con tôi nó dẫn tôi đi ăn nhà hàng, rồi tặng tôi bó hoa tươi , nhưng cô ơi, môt năm tôi sống 365 ngày, chứ có sống chỉ 1 ngày đó đâu. Tôi cần con tôi thương yêu và kính trọng  mẹ qua những cư xử, thái độ và lời nói hằng ngày. Hôm qua tôi mới làm trái ý nó, bèn bị nó la rầy, tôi giải thích cho nó hiểu thì nó la: “Im, cái tật mẹ, nói cái gì cũng cãi, không bao giờ chịu chấp nhận..” Ôi , tôi có cảm tưởng thời buổi văn minh bây giờ giấy khai sinh bị đảo lộn vị trí con thành mẹ, mẹ trở thành con..
Một bà khác bèn lên tiếng:
-Ôi vậy là còn đỡ, vì nó còn nhớ ngày lễ mẹ, tôi có mấy thằng con trai, ngày lễ mẹ, nó không gọi phone hỏi thăm một tiếng chứ đừng nói gì đến qùa cáp.Thôi kệ ! đời là vậy chị ơi ! bà bạn tôi có con là bác sĩ giàu có sang trọng, nhà ở trên hill, bà ở nhà lo trông cháu và lo com nước. Một hôm bà mệt trong người nên chỉ lo trông cháu mà quên lo cơm chiều. Khi con gái bà đi làm về đã quát hỏi bà: “con không hiểu mẹ làm cái gì mà ở nhà suốt ngày, có bữa cơm chiều cũng không chịu lo là làm sao ??Thật chán qúa sức”
-Vậy cũng chưa tệ bằng bà quen hay tới đây, bà có tật hay quên, môt bữa bà bắt nồi cơm điện mà quên bấm nút. Tới chiều nồi cơm bị chương xình, con bà là bác sĩ về thấy giận qúa bèn gọi xe chở bà vào nhà thương tâm thần.
Ôi đúng là :
“Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi mẹ con tính từng ngày”
Hoặc “Một mẹ nuôi được tám con
Nhưng tám con không nuôi được một mẹ”
Khi đem con qua Mỹ, cha mẹ nào cũng tâm niệm hy sinh đời mình để đời con được tốt hơn, nhưng tiếc thay khi con “đủ lông, đủ cánh” để bay vào đời thì chúng lại tiêm nhiểm qúa nặng chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ nên thường chủ trương  “Phận ai nấy lo, không ai làm phiền ai hết” Có đứa con thành đạt giàu có, nhà cao cửa rộng khi được hỏi thăm mỗi tháng có giúp đỡ cho cha mẹ không ? nó trả lời “Cha mẹ vẫn sống bình thưòng, tại sao phải giúp?. Khi nào cha mẹ không có chỗ ở, phải ra đứng đường, không có cơm ăn, phải đi xin mà không giúp, lúc đó mới mang tội bất hiếu”
Ôi ! đúng là lý luận của con cái xứ Mỹ thế kỷ 21. Thật ra ông bà mình cũng đã từng nói
“ Thèm lòng chứ không ai thèm thịt”
Gìa rồi, ăn uống bao nhiêu, cần là cần tấm lòng tình nghĩa hiếu thảo của con cái để ấm lòng lúc tuổi gìa. Hình như tinh thần đạo lý VN: con cái phải ăn nói lễ độ, tôn kính, hiếu thào với cha mẹ như là một bổn phận”trả hiếu” phải làm tròn, nhất là khi cha mẹ về gìa, sang đến Mỹ này, nó đã không cánh mà bay mất hút. Hay là vì thế hệ trẻ ngày nay, trường học không hề giáo dục chúng những đạo đức căn bản nhất của một con người : Tiên học lễ, hậu học văn, bổn phận làm con phải thảo hiếu với cha mẹ, phải biết kính trên, nhường dưới, anh em như thể tay chân, phải sống hòa thuận thương yêu nhau để cha mẹ vui lòng…
Nói tới “trả hiếu”, tôi lại nhớ cách đây đã lâu, khi nghe tin con tôi tốt nghiệp đại học ra trường có việc làm tốt, một anh bạn thân từ thuở còn sinh viên Sàigòn, ở một tiểu bang xa, đã gọi diện thoại chúc mừng và bảo tôi:
-Thôi “trồng cây đã tới ngày có quả”, chị ngồi nhà mà “hưởng phước” để con nó “trả hiếu”. Đi làm chi nữa cho nó cực thân ,bị stress nhiều lắm.
Tôi cười bảo:
-Mình lo cho con, tới lúc nó thành đạt là mừng vì từ nay mình an tâm, không còn phải lo cho nó nữa!. Còn ở đây là xứ Mỹ, chứ có phải ở VN đâu, nói chi đến vụ “trả hiếu”!
-Đâu được, nếu chị nói xứ Mỹ không có vụ “trả hiếu” o.k., nhưng nếu đã chọn chơi theo lối Mỹ thì phải “Fair”. Cha mẹ nuôi con cực khổ mấy chục năm trời để nên người thành đạt!.Vậy bây giờ tính sòng phẳng,( miễn tính lời cho nó) nó chỉ cần trả lại “tương đương”, nghĩa là nó phải “phụng dưỡng” cha mẹ, chăm sóc lo cho cha mẹ đủ mọi mặt như ngày xưa cha mẹ lo cho nó trong mấy chục năm. Đó là chỉ mới nói về phương diện vật chất, chứ chưa nói đền  những gía trị tinh thần, sự hy sinh, tình thương yêu lo lắng cho nó từng ly từng tí..Điều này không gì có thể đền đáp được.
-Anh nói chí lý qúa tôi chịu thua, nhưng chẳng lẽ mình đi kể lể với con. Thôi! để nó tự giác tốt tới đâu, nhờ tới đó.
Nói đúng ra không phải con cái ở xứ Mỹ này, ai cũng tệ hết! Có những đứa con rất có hiếu, lo cho cha mẹ chu đáo. Tôi nghe chị bạn kể có bà khoe có 4 người con, mỗi đứa tự động chuyển vô account của mẹ 500$/1 tháng, vị chi mỗi tháng bà có 2000$ từ các con, để bà chi tiêu theo ý mình cho thoải mái: đi du lịch, làm từ thiện, giúp đỡ bạn bè thân nhân bên VN…Có con thỉnh thoảng dẫn mẹ đi tour du lịch chỗ này chỗ kia, rồi hằng năm lo mua vé máy bay và cho tiền mẹ về VN ăn tết cho vui. Đi đâu thấy quần áo đẹp, bóp xách tay đẹp, mua về tặng mẹ..Nhưng số những bà mẹ có phước như vậy thì hơi ít. Ngược lại có những đứa con còn chiếm dụng luôn số tiền gìa nhà nước cho mẹ mỗi tháng với lý do “mẹ gía rồi cần tiền làm gì?” hay lạm dụng lòng thương cháu của mẹ để biến mẹ thành  Free babysitter cho gia đình mình..
Ở đời nói đi cũng phải nói lại, cũng có một số các cụ gìa “trái tính trái nết” làm phiền các con không ít, nhưng hãy thông cảm cho tuổi gìa của các cụ, như bài “Thư dành cho con”, tôi đọc được trên internet:
“..Nếu mẹ cha mà nhớ, quên tùy lúc
Đừng cằn nhằn cha mẹ ngu khờ
Biết bao lần con quên sách vở ở nhà
Mẹ phải chạy như bay về nhà lấy..
Nếu cha mẹ tay run không cầm nỗi
Một tô cơm mà đánh đổ ra nhà
Xin con dừng mắng gắt hạng người gìa
Vì lúc bé con vẫn thường rơi vãi
Mẹ cha vẫn phải khom lưng nhặt lại..”
Nói chung tuổi gìa rất cần tình thương yêu và sự tôn trọng cha mẹ của các con. Tình nghĩa và đời sống tinh thần rất quan trọng đối với người gìa, thiếu những yếu tố này thì dù Mỹ là “thiên đàng nhiều người mơ ước” các cụ cũng không cần, và vẫn mong muốn trở về VN
…Sau khi nằm giường massage xong, môt chị trông có vẽ chất phác, gốc Trà Vinh, được con trai bảo lãnh qua Mỹ 4 năm, nhưng nhìn sắc vóc và cách phục sức của chị vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh một bà mẹ quê miền Nam. Chị ngồi đợi con dâu tới đón về, bèn tỉ tê tâm sự:
-Tui muốn về VN ở qúa, nhưng ngặt con tui không chịu.
Mấy người chung quanh nghe vậy bèn lao xao;
-Xứ Mỹ là thiên đàng nhiều người mơ ước tới mà không được, còn chị “ngược đời” lại đòi bỏ về là sao ??
Chị chủ tiệm có lẽ biết nhiều về chị, vì chị hay tới đây nằm giường massage, vội lên tiếng:
-Trời ơi chị sướng qúa mà không biết, “được voi đòi tiên” Lễ Mother’s day, con chị mới mua cho chị dây chuyền vàng, cô chủ nhà tốt bụng mua cho chị nhẫn hột xòan, đeo tùm lum đầy người mà chị còn chưa vừa lòng ! đòi về VN chị làm gì để sống mà đòi về??
Chị cười buồn nhỏ nhẹ trả lời:
-Cùng đường qúa thì đi “ăn xin” sống cũng được vậy!
Mọi người nghe xong cùng ồ lên:
-Trời!chắc bà này khùng rồi !
Đằng sau những chi tiết vừa được nghe, tôi cảm thấy có cái gì mâu thuẩn, nghịch lý và rất “tội nghiệp”, vì nhìn dáng vẻ chân chất hiền lành của chị, tôi thấy chị không phải loại người bon chen “được voi đòi tiên”. Có thể có một uẩn khúc nào đó mà chị chưa nói ra.
Lát sau, khi có dịp ngồi gần chị, tôi hỏi
-Chị đòi về VN ở, nhưng bên đó chị còn thân nhân không mà đòi về?
Ánh mắt chị mùng rỡ, vì có lẽ tôi là người không lớn tiếng phản đối chuyện chị đòi về VN, chị nhìn tôi trả lời:
-Tui còn 2 đứa con gái ở Trà Vinh, tuy nghèo nhưng sống ở đó tui thấy vui và thoải mái có tình mẹ con, có tình bà cháu, có tình chòm xóm láng giềng, chạy qua chạy lại có nhau. Còn ở đây…
Nói tới đây chị không nói tiếp nữa, mắt bắt đầu rơm rớm. Tôi nắm tay chị:
-Nếu chị nghĩ như vậy thì chị nên về VN sống.
-Đâu phải nỗi khổ nào cũng nói ra được đâu, cô ơi !
Tôi hiểu lòng chị vì “Có những niềm riêng lòng không muốn nói”. Có những bà mẹ có những niềm đau về chồng con, nhưng không dám kể cho ai nghe, vì “nói ra xấu thiếp hổ chàng”, niềm đau về con cũng vậy thôi, có người còn quan niệm “sống để dạ. chết mang theo”
Ở đời có ai lại muốn từ bỏ nơi mình đang sống sung sướng hạnh phúc?? Mỗi người có một cảm nhận riêng về hạnh phúc, về nơi chốn sống cuối cuộc đời của mình. Xin đừng vội lên án, chê trách, khi thấy nó không giống cảm nghiệm riêng của mình, nhưng hãy tôn trọng cảm nghiệm riêng của người khác. Đối với người gìa thì niềm vui về đời sống tinh thần quan trọng hơn đời sống vật chất rất nhiều. Xin hãy yêu thương và tôn trọng cha mẹ thực lòng, để cha mẹ đỡ buồn tủi và ấm lòng lúc tuổi gìa. Không biết các con có hiểu rõ điều này không ? Ở đâu có tình thương, có ấm cúng, ở đó sẽ níu được bước chân cha mẹ gìa. Các con cũng nên nhớ lời ông bà xưa đã dạy “Ở có đức, mặc sức mà ăn” Điều này tôi thấy khá đúng khi quan sát những hoàn cảnh chung quanh, những đứa con hiếu thảo, trời thương cuộc sống ít gặp gian truân và có nhiều may mắn hơn.
Trở lại việc “ước mong trở về cố hương” để sống những ngày cuối đời là chuyện bình thường, tôi thấy trên thế giới có biết bao nhêu người giàu có, thành đạt, có cả những nhà văn đoạt giải văn chuơng Nobel, khi về gìa họ vẫn muốn quay trở về cố hương để sống những ngày cuối đời, tuy quê hương họ vẫn còn nghèo khổ khó khăn. Trong cộng đồng cao niên VN, có nhiều cụ cũng  “tha thiết mong ngày trở về cố hương” sống rồi chết trong lòng quê hương còn hơn là gửi nắm xương tàn nơi xứ lạ quê người, nhưng các cụ còn “tiếc” tiền gìa ! Bởi thế tin”cá tháng 4” loan báo chính phủ đồng ý chi trả một lần ,một số tiền lớn để các cụ về VN an hưởng tuổi gìa. Tin này đã gây chấn động trong giới cao niên, mọi người hồ hởi bàn tán sôi nổi, vì nó đánh trúng vào lòng mong ước sâu xa thầm kín của quý cụ. (Thậm chí sau này đã được đính chính là “tin cá tháng 4” các cụ vẫn còn chưa tin, vẫn cứ hỏi thăm) Đó là chưa kể, bây giờ với chính sách mới gắt gao, các cụ nhớ quê hương về thăm, khi trở lại Mỹ, sở xả hội sẽ gọi lên để trừ tiền vé máy bay vào tiền gìa hằng tháng của các cụ. Không biết ai có sáng kiến “tàn nhẫn” như vậy?
Nhưng không phải cụ nào cũng đặt đồng tiền lên vị trí số 1 trong mọi quyết định quan trọng của đời mình. Tôi biết có nhiều cặp vợ chồng gìa sau khi sống ở Mỹ môt thời gian dài, ky cóp dành dụm được một số tiền kha khá, các cụ đã mạnh dạn quyết dịnh trở về VN để sống những ngày cuối đời trên quê hương yêu dấu như “Lá rụng về cội”. Tôi cảm phục các cụ vì không để đồng tiền “chỉ đạo” cuộc đời mình. Cầu chúc các cụ có thời gian cuối đời yên ả thảnh thơi trên quê hưong mình…
Khi chị Trà vinh ra về rồi, môt chị có lẽ cũng thường xuyên đến đây như chị Trà vinh, khều tay tôi nói nhỏ:
-Chị ơi, “ngó vậy chứ không phải vậy”Tội nghiệp bả lắm, qua đây coi 2 đứa cháu nội cho vợ chồng con trai đi làm, rồi coi thêm 2 đứa con nhỏ cho cô chủ nhà, để cô cho ở free một phòng nhỏ phía sau, thành ra bả cực lắm, tối ngày xà quần với 4 đứa nhỏ,  tối tăm mặt mũi, chưa kể lúc tụi nhỏ ốm đau, lỡ làm gì sai sót, con trai bả dủa bả te tua, nhiếc móc đủ thứ..Thành thử qua đây bả thành “ở đợ” free tới 2 chủ một lượt. Bây giờ chắc thấy bả đòi về VN không ai coi con , nên lễ Mother’s day rồi, nó mới mua cho bả sợi dây chuyền mấy trăm, cô chủ nhà mua cho bả nhẫn hột xoàn nhân tạo rồi đi khoe tùm lum. Thành thử “ở trong chăn, mới biết chăn có rận”
Tôi gật gù:
-À, thì ra là vậy! hèn chi tôi nghe có vẻ nghịch lý thế nào đó !…
Loay hoay chờ đợi tới phiên, vậy mà đã tới trưa, nhìn ra ngoài trời nắng đã lên hực hở khắp nơi. Hy vọng cuộc sống tâm tư của các bậc cha mẹ ở xứ Mỹ này cũng sớm thoát qua cảnh mây mù ảm đạm của buổi sáng âm u, để đón nhận ánh sáng tươi vui của trưa hè nắng đẹp, khi các con thuộc được bài học ca dao VN về chữ Hiếu mà nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã phổ thành bài hát “Ơn Nghĩa Sinh thành”
“Uống nước nhớ nguồn,
Làm con phải Hiếu
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…
Người ơi làm nguời ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân
Vì đâu ta nên người tài ba?
Hãy nhớ công sinh thành, vì ai mà có ta ?..

Phụng Vũ

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Bến Tre: Nhà 4 Người Tự Tử; Hà Tĩnh: 2 HS Lớp 7, 11 Tự Tử

Bến Tre: Nhà 4 Người Tự Tử; Hà Tĩnh: 2 HS Lớp 7, 11 Tự Tử

(03/08/2013)                   nguồn:vietbao.com

HANOI — Tự tử đang trở thành nan đề tại Việt Nam. Những bản tin mới đây cho biết nhiều trường hợp tự tử rất đau lòng đã xảy ra: báo Người Lao Động hôm Thứ Năm kể chuyện một gia đình 3 người ở Bến Tre đã tự tử cùng lúc, trong đó người phụ nữ đang mang thai tháng thứ 7; và VietnamNet hôm Thứ Tư kể chuyện một học sinh lớp 7 ở Hà Tĩnh đã treo cổ tự tử trong nhà, và cũng ở Hà Tĩnh một nữ sinh lớp 11 nhảy sông tự tử.

Báo Người Lao Động ghi nhận rằng vào khoảng 10 giờ ngày 7-3, người nhà ông Lê Thành Trung (36 tuổi ngụ ấp 1 xã Sơn Đông, TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre) phát hiện ông chết trong tư thế treo cổ. Vợ ông Trung là bà Nguyễn Thị Kim Phượng (35 tuổi, đang mang thai tháng thứ 7) và con là Lê Huy Phát (7 tuổi) nằm chết trên giường.

Khám nghiệm các nạn nhân, Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Đình Chiểu (bệnh viện tỉnh Bến Tre) kết luận bà Phượng và cháu Phát chết do uống thuốc rầy.

Bản tin cũng nói, Công an tỉnh Bến Tre cho biết cả hai vợ chồng ông Trung là nhân viên ngân hàng, nguyên nhân dẫn đến bi kịch có thể do nợ nần.

Trong khi đó, thông tấn VietnamNet hôm Thứ Tư ghi nhận tin từ Phó Trưởng Công an xã Cẩm Thạch Trần Duy Thiệu cho biết, theo như người nhà kể lại, khoảng 18h tồi ngày 06/3, chị Nguyễn Thị Tiến (mẹ cháu, trú thôn 4) đi làm về thì phát hiện con trai là Đinh Văn Tuấn (SN 2000, đang học lớp 7 trường THCS Cẩm Thạch) treo cổ ngay bên cửa sổ.

Bản tin nói, lúc đó, người nhà tháo dây ra, gỡ người xuống để sơ cứu nhưng đã quá muộn. Cậu bé đã tử vong, người bầm tím, co cứng.

Viên chức Trưởng xóm 4 nói rằng: “Cháu bé này rất ngoan, học giỏi, gần đây không có biểu hiện gì bất thường. Chỉ nghe bạn học kể lại là lúc chiều cháu vi phạm lỗi nên bị cô phạt lau nhà.”

Cũng tin VietnamNet, nói rằng trước đó, rạng sáng ngày 6/3, tại huyện Thạch Hà cũng đã xẩy ra một vụ học sinh chết đuối thương tâm do tự tử. Nạn nhân là nữ sinh đang học lớp 11 Trường THPT Nguyễn Trung Thiên.

Bản tin viết: “Nhiều dấu hiệu cho thấy, nữ sinh này đã bị ức chế tâm lý do bị thầy chủ nhiệm truy chuyện mất ghế nhựa trong lớp.”

Nếu những chuyện học sinh tự tử xảy ra tại Mỹ, Bộ Giáo Dục hẳn là phải điều tra các giáo viên liên hệ, có thể sẽ truy to hình sự nếu có yếu tố bạo hành bằng ngôn ngữ hay kỳ thị, đồng thời sẽ khiển trách ban giám hiệu. Tuy nhiên tại VN, ban giám hiệu và thầy cô đều đứng chung dưới “lá cờ của đảng lãnh đạo,” cho nên không ai bận tâm gì.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh đoạt giải thưởng Công dân mạng 2013

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh đoạt giải thưởng Công dân mạng 2013

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

(huynhngocchenh.blogspot.com)

RFI

Ngày 07/03/2013, tổ chức Phóng viên không biên giới, với sự hỗ trợ của tập đoàn tin học Google, quyết định trao tặng giải thưởng Công dân mạng – Netizen 2013 cho blogger Việt Nam Huỳnh Ngọc Chênh. Trong thời gian từ 27/02 đến 05/03, hơn 40 000 người sử dụng internet đã bỏ phiếu qua mạng YouTube của tổ chức Phóng viên không biên giới, lựa chọn người được giải, trong số 9 ứng viên.

Theo Phóng viên không biên giới, ông Huỳnh Ngọc Chênh là một trong những blogger có ảnh hưởng nhất tại Việt Nam. Hiện nay, blog của ông mỗi ngày có khoảng 15 000 người đọc, nhưng lại bị ngăn chặn ở Việt Nam. Người đọc phải dùng phần mềm để vượt qua hệ thống kiểm duyệt.

Ông Huỳnh Ngọc Chênh không ngần ngại chỉ trích chính phủ và bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Ông tập trung vào các vấn đề dân chủ, nhân quyền và các tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông. Do các bài viết này, ông đã bị chính quyền đe doạ, bị theo dõi và nghe trộm điện thoại. Bất chấp tất cả các vấn đề gặp phải, ông vẫn tiếp tục viết và trả lời các câu hỏi của các cơ quan truyền thông nước ngoài về những chủ đề nhậy cảm nhất ở Việt Nam.

Khi biết tin được trao giải Công dân mạng 2013, ông Huỳnh Ngọc Chênh cho biết giải thưởng tác động lớn đối với bản thân ông, tạo cho ông một nguồn cảm hứng mới, động viên toàn thể các blogger, những nhà báo tự do khác ở Việt Nam, những người đang bị ràng buộc, hạn chế về tự do ngôn luận.

Lễ trao giải thưởng Công dân mạng sẽ được tổ chức vào ngày 12/03/2013, tại trụ sở của chi nhánh Google Pháp, ở Paris, nhân Ngày Thế giới chống kiểm duyệt internet.

Năm 2008, lần đầu tiên, tổ chức Phóng viên không biên giới khai trương Ngày Thế giới chống kiểm duyệt internet, với mục đích duy trì mạng internet tự do, tất cả mọi người đều có thể tiếp cận. Năm 2010, tập đoàn Google liên kết với Phóng viên không biên giới lập giải thưởng Cộng dân mạng và hàng năm, trao giải thưởng này cho những người sử dụng internet, blogger hoặc nhà ly khai sử dụng internet có những hoạt động nổi bật trong lĩnh vực bảo vệ quyền tự do ngôn luận trên internet. Giải Công dân mạng có tiền thưởng là 2500 euro.

Trả lời phỏng vấn RFI, blogger Huỳnh Ngọc Chênh cho biết cảm tưởng của ông khi biết tin được trao giải thưởng này:

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh-08/03/2013

 

08/03/2013

 

Nghe (08:20)

 

 

 

Miếng bánh mì cháy

The Burned Biscuits

The Burnt Biscuits (Story)

When I was a kid, my mom would prepare special breakfast every now and then. And I remember one night in particular, after a long, hard day at work. On that evening so long ago, my mom placed a plate of eggs, sausage and extremely burned biscuits in front of my dad. I remember waiting to see if anyone noticed! Yet all my dad did was reach for his biscuit, smile at my mom and ask me how my day was atschool. I don’t remember what I told him that night, but I do remember watching him smear butter and jelly on that biscuit and eat every bite!

When I got up from the table that evening, I remember hearing my mom apologize to my dad for burning the biscuits. And I’ll never forget what he said: Honey, I love burned biscuits.

Later that night, I went to kiss Daddy good night and I asked him if he really liked his biscuits burned.

He wrapped me in his arms and said, Your Momma put in a hard day at work today and she’s real tired. And besides – a little burnt biscuit never hurt anyone! You know, life is full of imperfect things…..and imperfect people. I’m not the best at hardly anything, and I forget birthdays and anniversaries just like everyone else.

What I’ve learned over the years is that learning to accept each other’s faults – and choosing to celebrate each other’s differences – is one of the most important keys to creating a healthy, growing, and lasting relationship.

And that’s my prayer for you today. That you will learn to take the good, the bad, and the ugly parts of your life and lay them at the feet of God. Because in the end, He’s the only One who will be able to give you a relationship where a burnt biscuit isn’t a deal-breaker!

We could extend this to any relationship. In fact, understanding is the base of any relationship, be it a husband-wife or parent-child or friendship!

Don’t put the key to your happiness in someone else’s pocket – keep it in your own.

God Bless You….. now, and always….
Miếng bánh mì cháy

Khi tôi còn là một đứa trẻ, mẹ luôn tất bật chuyện nấu nướng, dọn dẹp, và chuẩn bị chu đáo cho tất cả mọi người. Tối nọ, sau cả ngày lao động vất vả, mẹ đặt đĩa trứng, xúc xích và những miếng bánh mì quá lửa lên trước mặt ba tôi. Tôi đã chờ đợi xem phản ứng của ba như thế nào, hẳn ông sẽ rất giận dữ. Tuy nhiên, tất cả những việc ông làm là lấy bánh mì bị cháy, quệt bơ mứt, ăn với xúc xích từng miếng một, và mỉm cười với mẹ. Sau đó, ba quay sang hỏi tôi hôm nay đi học thế nào.Khi tôi đứng dậy vào phòng học bài, tôi nghe tiếng mẹ nói xin lỗi ba vì làm bánh mì cháy. Và tôi sẽ không bao giờ có thể quên điều ba tôi nói: “Em yêu à, anh rất thích những miếng bánh mì cháy”.Tối muộn đó, ba vào giường hôn lên trán và chúc tôi ngủ ngon. Không kìm nén được, tôi liền hỏi ba rằng “Ba thực sự thích ăn những miếng bánh bị cháy?”. Ba ôm tôi vào lòng và nói: “Mẹ của con đã phải làm việc rất vất vả cả ngày, và mẹ thực sự mệt, bên cạnh đó chỉ một chút bánh bị cháy không bao giờ có thể làm tổn thương bất kỳ ai. Con biết không, trong cuộc sống, còn có rất nhiều thứ không hoàn hảo, và cả những con người không hoàn hảo. Ba cũng không phải là người tốt nhất, có lúc ba đã quên ngày sinh nhật của mẹ, quên những kỉ niệm giống như bất kỳ ai, nhưng mẹ con chưa bao giờ đòi hỏi hay trách móc gì cả”. Cái mà tôi học được trong nhiều năm qua, chính là biết chấp nhận những lỗi lầm của nhau, và vui mừng với những nét độc đáo của nhau. Chúng ta có thể mở rộng bất kì mối quan hệ nào, thực tế, sự thấu hiểu là nền tảng cơ bản cho mọi mối quan hệ bao gồm tình bạn, tình vợ chồng hay cha mẹ – con cái. Đừng đặt chìa khoá hạnh phúc của bạn trong túi người khác, hãy giữ nó cho mình nhé.

(Theo LFD)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa

Trước khi chết Tổng Thống Chavez làm hoà với Giáo Hội và trở về với Chúa
Nguyễn Long Thao

3/7/2013                                                  nguồn:Vietcatholic.net
Caracas, Venezuela, Thông tấn xã CNA của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ trích dẫn một nguồn tin đáng tin cậy ở Venezuela cho biết Tổng thống Hugo Chavez trước khi chết vì bệnh ung thư đã sám hối trở về với Giáo Hội Công Giáo và đã được chịu các phép bí tích sau cùng.

Khi thông báo cho quốc dân biết về cái chết của Tổng Thống Chavez vào ngày 5 tháng 3, Phó Tổng thống Nicolas Maduro nói Tổng Thống đã trở về với Chúa và ông đã dùng cụm từ “bám lấy Chúa Kitô (Clinging to Christ) để chỉ hành động của Tổng Thống Chavez trong những tuần lễ cuối đời. Vào lúc lâm chung Tổng Thống đã yêu cầu được phó linh hồn và xin nhận bí tích xức dầu.

Kể từ khi ông lên nắm quyền vào năm 1999, Tổng thống Chavez là một người hung hăng chống đối Giáo Hội Công Giáo. Ông chống lại chính sách công bằng xã hội của Kitô Giáo và muốn thiết lập một chính sách xã hội chủ nghĩa theo ý mình. Năm 2002, Tổng thống Chavez đã gọi các Giám Mục Venezuela là “khối ung nhọt” phá hoại các mục tiêu cách mạng của mình. Đồng thời ông nêu đích danh Tòa Thánh Vatican đừng can thiệp vào công việc nội bộ đất nước của ông.

Trong những năm gần đây, Tổng thống Chavez đôi khi tham dự nghi thức tôn giáo tại các nhà thờ của giáo phái khác. Rồi vào tháng Tư năm 2012, giới truyền thông rất ngạc nhiên khi ông xuất hiện tại một nhà thờ Công giáo ở quê hương minh là vùng Barinas để tham dự nghi thức Tuần Thánh. Ông đeo tràng hạt quanh cổ của mình và cầu nguyện xin cho được lành bệnh. Các ống kính truyền hình ngoại quốc thường chiếu hình ông Chavez cầm thánh giá hôn trước mặt các ký giả. Tháng Bảy năm ngoái, Tổng thống Chavez đã yêu cầu được gặp Hội Đồng Giám Mục Venezuela

Sau cái chết của Tổng thống Chavez, Đức Hồng Y Jorge Urosa của tổng giáo phận Caracas đang ở tại Rome tham dự bầu Giáo hoàng đã gửi lời chia buồn tới chính quyền Venezuela và yêu chính quyền áp dụng các điều khoản trong Hiến pháp để duy trì trật tự công cộng, hòa bình và đoàn kết nhân dân.

Nguyễn Long Thao

TRỞ VỀ

TRỞ VỀ
Nguoi cha nhan hau 2.jpg

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.

Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó.  Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.

Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.  Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.

Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.  Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út.  Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.

Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.  Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.  Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.

Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.  Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh.  Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.  Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm.  Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.  Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.

Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.  Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha.  Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.

Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.  Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.

Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.

Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.  Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con.  Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.  Đó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.

Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.  Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

***************************************

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.  Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.  Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.  Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.  Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.  Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.  Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.  Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

Trích trong ‘Manna’

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Tu sĩ Michael Paul Gallagher, SJ (Dòng Tên), giải thích rằng nền văn hóa mới mà chúng ta đang sống ngày nay không nhất thiết là chống lại niềm tin Kitô, nhưng nó kêu gọi giới trẻ ngày nay quyết định cuộc sống và tâm linh của mình.

Vài tháng trước tại Rôma, tôi có hẹn và đến sớm, tôi dùng thời gian ngắn ngủi đó để cầu nguyện. Bên trong nhà thờ đang có thánh lễ kỷ niệm ngày cưới. Đôi vợ chồng lớn tuổi ngồi ở ghế đặc biệt ngay trước bàn thờ và con cháu ngồi ở hàng ghế trước, ai cũng tươm tất và lộng lẫy.

Linh mục đang giảng, khoảng cầu nguyện riêng của tôi không đủ thinh lặng như tôi muốn. Tôi nghe lời giảng – nhưng với cảm giác buồn gia tăng. Linh mục khen đôi vợ chồng già đã sống chung thủy với nhau 50 năm qua, nhưng rồi tiếp tục chỉ trích “văn hóa hiện đại” thiếu nền tảng, xa rời các giá trị Kitô giáo, ích kỷ và vụn vỡ luân lý. Ngài có vẻ hơi khác với các thế hệ đang nghe ngài nói. Tôi an tâm vì phải rời nhà thờ để đi theo lịch hẹn.

Tại sao hồi tưởng giai đoạn này ở đây? Vì linh mục đó có phần đúng: văn hóa hiện đại có thể làm con người tản mác như đoàn chiên không người chăn mà Phúc âm nói tới. Tiếng nói của ngài có vẻ không đúng với tôi. Ngài không cố gắng bước vào thế giới của giới trẻ hoặc không nhận ra các nhu cầu khác của họ. Ngài có vẻ không thấy cái gì tốt trong cách sống mà họ phải sống.

Từ chủ đề xử lý đức tin theo dạng văn hóa này, hãy để tôi tưởng tượng ra một cách khác. Không chỉ trong một bài giảng. Có nhiều điều để suy nghĩ.

Khi còn sống, ĐGH Gioan-Phaolô II đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa (Pontifical Council for Culture) tạiVatican. Tôi làm việc ở đó 5 năm trong đầu thập niên 1990. Ý tưởng đầu tiên của ngài là vươn xa ra thế giới của văn hóa sáng tạo: các nhà tư tưởng, các nghệ sĩ, các văn sĩ, các nhà trí thức,… Đó là lĩnh vực mà ĐGH Gioan-Phaolô II đã quan tâm đặc biệt, tự hóa thân thành một triết gì, một thi sĩ và một kịch sĩ.

Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, ngài mở rộng phạm vi của Hội đồng bao gồm điều mà ngài gọi là “văn hóa sống” (living culture). Dần dần giáo hội nhận ra rằng văn hóa bình thường này là một cách thể hiện mạnh mẽ, định hình cách sống của mỗi người. Như không khí chúng ta hít thở, chúng ta đồng hóa cách nhìn của thế giới, một số giả định thường ẩn về quyền ưu tiên của cuộc sống. Loại văn hóa này là vấn đề của cách sống hơn là các tư tưởng minh nhiên. Nó giống như một tảng băng, lớn có thể nhìn thấy nhưng nhưng không ảnh hưởng gì. Nó như một ngôn ngữ mà chúng ta học và cứ cho là vậy. Nó cho chúng ta những gì chúng ta gọi là “ý nghĩa chung”.

Đại dương văn hóa bình thường này bao quanh chúng ta và đã thay đổi nhiều trong thế hệ vừa qua hoặc khoảng đó. Chúng ta có thể mô tả thế nào về các sự thay đổi này và tầm ảnh hưởng của chúng đối với đức tin? Trước hết, nó đơn giản và hợp nhất hơn trước. Ít nhất là tại Ai-len cho tới thập niên 1960. chúng ta sống trong một thế giới được che chở, theo nghĩa đen là văn hóa vùng đảo (island culture). Đức tin Kitô giáo là một phần di sản hầu như của mọi người. Đức tin đó được lưu truyền trong các gia đình, các giáo xứ và các trường học.

Nhưng ngày nay, tôi nghĩ đây là vấn đề lớin bị linh mục Rôma kia khinh suất, đức tin không thể là một di sản trơn tru như vậy. Nó phải là một quyết định và thường là quyết định lội ngược dòng. Thế nên vấn đề chính là: Giáo hội có thể làm gì để nuôi dưỡng quyết định đó? Có thể ngôn ngữ cũ hơn của đức tin, với sự nhấn mạnh về đức vâng lời và thực hành các bí tích, sẽ nuôi dưỡng người ta như trong quá khứ.

Đôi vợ chồng già kỷ niệm kim khánh hôn nhân kia đã trưởng thành trong thời kỳ đầu của sự chuyển giao đức tin. Có thể họ thấy ý nghĩa sâu xa về Thiên Chúa qua lòng chung thủy của họ đối với việc tham dự phụng vụ. Nhưng con cháu của họ có thể “bơi” trong vùng biển khác, lẫn lộn những dòng nước trái ngược, để nói như vậy. Con đường của họ đến với Chúa Kitô sẽ phải ít thụ động hơn, cá nhân hơn, tâm linh hơn, nhiều tận tụy minh nhiên hơn.

Điều này có phải “văn hóa hiện đại” là kẻ thù của đức tin? Không nhất thiếtnhưng nó phức tạp hơn và dễ lầm lẫn hơn. Trong thời đại mới và kỹ thuật mới, những cách diễn tã cũ về đức tin có thể không có vẻ không quá khả nghi và không thực tế như vậy. Cần có những lối vào mới, không quy trách cho văn hóa.

Vài tháng trước khi được bầu làm giáo hoàng, lúc đó Hồng y Ratzinger đã trả lời phỏng vấn của một tờ báo của Ý hơi chống giáo hội và trả lời câu hỏi về tình hình mới đối với đức tin bằng những từ thế này: “Cốt lõi của Kitô giáo là câu chuyện yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Nếu chúng ta có thể hiểu điều này bằng ngôn ngữ cảu ngày nay, mọi sự khác sẽ theo sau… Cách sống ngày nay rất khác và do đó mà cách tiếp cận thông minh là chưa đủ. Chúng ta phải cho người ta những khoảng sống của cộng đồng và của sự phát triển dần dần chung với nhau”.

Nhận biết thử thách mới này là bước đầu tiến về cách nói mới. Đó sẽ là tiếng nói của sự mời gọi chứ không là mệnh lệnh. Đó sẽ là cố gắng đánh thức những ước muốn còn ngủ quên trong tâm hồn mọi người. Điều đó sẽ cho họ khí cụ để hỏi về các phương diện nông cạn của văn hóa đang bao quanh.

Theo một ý nghĩa nào đó, đức tin sẽ luôn ở trong độ căng với đức tin, nhưng như vậy không có nghĩa là chỉ nên than vãn về điều đó. Theo cách nói của thần học gia người Đức Dorothy Soelle: “Điều gây thất kinh trong văn hóa của chúng ta là đa số người ta không có ngôn ngữ để nói về chiều kích tâm linh”.

Lời nhận xét nổi tiếng của Karl Rahner cũng tương tự: “Các tín hữu ngày mai sẽ là những người thần bí hoặc không còn đức tin nữa”. Ông không có ý nói mọi người sẽ trầm mặc hoặc có cảm nghiệm khác thường về Thiên Chúa. Ông nói về sự thần bí hàng ngày, về khả năng nhận ra tiếng gọi và hoa trái Thánh Thần trong những cách chọn lựa và cảm nghiệm bình thường.

Những điều này có nghĩa là đức tin trong tương lai sẽ cần chín muồi hơn để “sống sót” trong một nền văn hóa nhiêu khê hơn, như cây cối chỉ có thể sống trong giông bão nếu rễ của nó đâm sâu và mạnh. Hãy lặp lại lời thơ của thi sĩHopkins:

Niềm hy vọng với lời cầu

Làm đâm bén rễ vào sâu đất màu

(Our hope and our prayer becomes: send our roots rain).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

Anh chị Thụ& Mai gởi

 

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

Ai sinh ra cũng khóc. Đứa bé khóc được là thân nhân vui mừng, đứa bé không khóc thì thân nhân… lo. Vậy khóc là “tín hiệu tốt” chứ không phải là cười.

Rồi khôn lớn dần, trong cuộc sống, ai cũng đã từng hơn một lần rưng rưng nước mắt hoặc đầm đìa nước mắt. Mà nói đến nước mắt là nói đến trạng thái khóc. Thường thì khóc là thể hiện tâm trạng buồn. Nhưng cũng có thể khóc vì vui, như thi hào Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Buồn mà lại cười, đó là lúc người ta quá buồn, buồn muốn phát điên, buồn muốn khóc, và rồi khóc đến cạn nước mắt. Có thể đó là “cái bí ẩn” trong cách nói của người Việt Nam thường nói: “Buồn cười quá!”.

Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng “khóc”, vì ông đã “ngồi buồn mà trách ông xanh” và mong ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức-Kitô-tử-nạn-và-phục-sinh, chúng ta có quyết tâm tích cực hoàn toàn khác:

Kiếp sau xin vẫn làm người

Và làm thánh giữa Nước Trời trường sinh

Chúng ta không chỉ “vẫn làm người”, vì thân xác chúng ta cũng được sống lại và lên trời, đặc biệt là còn làm “thánh nhân”. Nhưng trước khi “về Nhà Cha” hưởng phúc trường sinh vinh quang, chúng ta không thể không phải chịu đau khổ, nghĩa là có những lúc buồn nẫu ruột, buồn đến chết, buồn đến bật khóc,… đến nỗi những người kém lòng tin đã tự tử.

Khóc có nhiều kiểu. Khóc có nhiều nguyên nhân. Khóc có nhiều mức độ. Thế nên nước mắt cũng có nhiều loại, kể cả “nước mắt cá sấu”. Và tất nhiên, nước mắt không chỉ có vị mặn mà còn có những vị khác nữa!

Với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông có “giọt nước mắt ngà”: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa. Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu… Thôi một giọt nước mắt này, cho cuộc tình đam mê, cho người tình trăm năm… Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay… Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên!”. Giọt-nước-mắt-ngà của NS họ Ngô là giọt-lệ-tình-sầu, một “kiểu” nước mắt của riêng ông.

Người đời có nhiều loại nước mắt, riêng người Công giáo có thêm loại nước-mắt-ăn-năn, nước-mắt-khóc-cho-tội-mình mang vị mặn chát, nhưng đó là loại nước-mắt-thánh-thiện rất cần thiết. Nước mắt làm cho sáng mắt, và nước mắt có thể làm “trôi đi” phần nào nỗi buồn.

Tác giả Thánh vịnh có kiểu khóc thế này: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14). Nước mắt chảy nhiều đến nỗi tác giả “xin lấy vò mà đựng nước mắt” (Tv 56:9), và thường đem “nước mắt hoà nước uống” (Tv 102:10). Có những giọt nước mắt bình thường hoặc tầm thường, nhưng có những giọt nước mắt quý giá – gọi là châu lệ.

Thánh Phaolô cũng đã từng phải khóc: “Tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm” (2 Cr 12:21).

Thánh sử Luca tường thuật: “Có một phụ nữ tội lỗi cúi sát chân Chúa Giêsu mà khóc. Chị lấy nước mắt mình mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7:38). Những giọt nước mắt như vậy thực sự là châu lệ, vì đầy tâm tình sám hối và tin yêu. Do đó, Chúa Giêsu đề cao tấm gương của phụ-nữ-tội-lỗi này: “Yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc 7:47).

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội, đúng ra là Thế Giới Tang. Nhiều người chú trọng nhiều đến “bề ngoài”, lo “bày tỏ” bằng những cách để đánh vào thị hiếu của giới bình dân. Nếu thực sự ngoại tại có thể giúp nội tại thì cũng tốt, nhưng đừng thái quá. Điều cần là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2:13). Khóc cho tội và chết cho tội là thành tâm sám hối và quyết tâm chừa tội, đó mới là cách Chúa muốn. Cứ lo “diễn” bề ngoài mà không chú ý nội tâm thì chắc chắn Chúa không muốn.

Chính Đức Giêsu cũng đã khóc vì thương tiếc thành Giêrusalem (x. Lc 19:41), nhưng khi người ta than khóc Ngài vì thấy Ngài vác Thập giá, dù Ngài đang rất mệt mỏi và đau đớn mà vẫn ráng quay lại nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Đó cũng chính là lời cảnh báo Ngài nói thẳng với chúng ta. Và rồi khi “Ngài ngự đến giữa đám mây”, nghĩa là lúc Ngài đến thế gian lần thứ hai, “ai nấy sẽ thấy Ngài, cả những kẻ đã đâm Ngài. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Ngài” (Kh 1:7).

Cuộc đời là chuỗi-đau-khổ-đầy-nước-mắt, nhưng chính đau khổ lại là diễm phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Khóc không bị chê trách mà được chúc phúc. Giọt-nước-mắt đó đầy vị-mặn-yêu-thương. Chỉ có một loại nước mắt tệ hại nhất và vô phúc nhất là giọt-nước-mắt-trong-hỏa-ngục, vì phải đời đời “khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12; Mt 13:42; Mt 13:50; Mt 22:13; Mt 24:51; Mt 25:30; Lc 13:28).

Chúa Giêsu đã dùng chính sự thất bại để chiến thắng, dùng chính đau khổ để đạt vinh quang, và dùng chính cái chết để đạt sự phục sinh. Đấng Cứu Thế đã vậy thì chúng ta không thể không như Ngài – nghĩa là cũng phải khóc lóc và rơi lệ hằng ngày. Tuy nhiên, Ngài đã chết để chúng ta được sống, và rồi “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Chúa Cha hằng hữu đầy lòng thương xót, vì tội lỗi khốn nạn của chúng con mà Ngài bắt Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, phải chết đau thương. Chúng con thành tâm xin lỗi Đức Giêsu Kitô, xin cho nước mắt của chúng con được hòa với Máu và Nước của Ngài để nài xin lòng thương xót cho chính chúng con và toàn thế giới. Chúng con khẩn thiết Chúa Cha thương xót và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con trung tín với Ơn Chúa để đừng làm khổ Đức Giêsu chút nào nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đừng để đến mai.

Đừng để đến mai.

Margaret Mitchell, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Gone with the Wind”, dịch ra nhiều thứ tiếng, tiếng Việt là “Cuốn theo chiều gió”.

Trong tiểu thuyết này, nhân vật chính là cô Scarlet, từ đầu tới cuối chuyện cô thường nói câu: “Để mai sẽ lo chuyện đó“. Tới trang cuối cùng khi đã mất người chồng thứ ba là Rhod Bluster, Scarlet còn nói: “Để mai tôi sẽ chiếm lại Rhed Bluster“.

Chính người thuật truyện nói rằng Margaret là một người Công Giáo xa Giáo Hội đã nhiều năm, cứ hoãn việc trở về với Giáo Hội.  Và có ai nhắc thì bà ta chuyên lặp lại câu:  “Để mai sẽ lo chuyện đó” .

Bà bị tai nạn xe hơi tại Atlanta, Georgia.

Một người bạn rất thân của bà ta kể lại rằng khi mê man bất tỉnh, bà ta cứ lặp đi lặp lại câu này:  “Để mai sẽ lo  chuyện đó”. Nhưng đã không có “mai” nữa!!!

Bà chết ngày 16 tháng 6 năm 1949.

Lời Chúa: (Luca 12,39-40):  Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta đã không để nó khoét tường nhà mình. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Lm. Đoàn Quang

chị Nguyễn Kim Bằng gởi