BÌNH AN GIỮA NHỮNG LÀN TÊN, MŨI ĐẠN

BÌNH AN GIỮA NHỮNG LÀN TÊN, MŨI ĐẠN

tác giả PM Cao Huy Hoàng

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh B

 Án tử hình dành cho một “con người mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa”  thật là khủng khiếp: vác thập giá, đội mão gai, đánh đập, đóng đinh treo trên thập giá, lưỡi đòng đâm vào tim cho chết… Từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có án nào khủng khiếp như thế. Khủng khiếp vì tính tàn nhẫn trong cách thi hành án vô nhân đạo của bạo quyền: “Họ đã nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua”. Khủng khiếp vì bạo quyền không màng đến tiếng nói hay nỗi lòng của bần dân, họ cốt sao đạt được mục đích là triệt tiêu cho được cái ảnh hưởng không nên có, cái uy tín không cần thiết, và sự  hiện diện của tên Giêsu nguy hiểm cho việc tồn tại quyền lực của họ…

Án tử hình khủng khiếp ấy gây nên bao hoảng sợ trong dân, và càng hoảng sợ hơn đối với các tông đồ, các môn đệ – những người có liên can với tên tử tội. Ấy vậy mới có chuyện “cửa nhà các tông đồ đóng kín”, mới có chuyện hai môn đệ kia – tạm gọi là hai giáo dân kia – không dám ở trong thành mà phải lên đường đi về phía Emmaus tạm lánh những làn tên, mũi đạn của đám bạo quyền lộng hành.

Trên đường đi tìm nơi tạm lánh, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với hai giáo dân này, và củng cố đức tin cho hai ông qua việc bẻ bánh và giải thích thánh kinh. Hai ông đã bỏ ý định chia tay các tông đồ, đã trở lại thành với các tông đồ và báo tin mình đã gặp được Đấng Phục Sinh.

Cùng lúc ấy, Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ. Tâm trạng của các ông theo Thánh Luca diễn tả là vẫn còn đang “kinh hồn bạt vía, hoảng hốt, ngờ vực, chưa tin, ngỡ ngàng”. Vì thế, Chúa Giêsu củng cố tinh thần và niềm tin của các ông: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. “Người đã cầm lấy cá nướng mà ăn trước mặt các ông”. Và Người giải thích cho các ông rõ về những lời kinh thánh đã tiên báo việc Người phải sống lại từ trong cõi chết.

 Tin mừng phục sinh của Chúa Giêsu là chính Ngài cho biết “Ngài đã chết thật và đã sống lại thật”, chứ không chỉ nói về việc sống lại mà quên đi việc đã chết. Việc ấy là hẳn nhiên, vì không thể có sự “sống lại” mà trước đó không có sự “chết đi”.

 Đó cũng là Tin Mừng muôn đời cho mỗi chúng ta, cho mỗi Kitô Hữu Công Giáo, cho mỗi người theo con đường, theo giáo lý Chúa Giêsu Kitô: Tin Mừng của sự “chết đi” và “sống lại”. Ai không bằng lòng chết đi  như Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, theo cách thức của Chúa Giêsu, thì không được sống lại như Ngài, với Ngài, và theo cách thức của Ngài. Thiết tưởng các tông đồ, các giáo dân thưở xưa khi được Chúa Giêsu hiện ra tỏ tường cái Thân Xác Phục Sinh của Ngài, hẳn không phải là để cho các ông được thoải mái dễ dàng cuộc sống ở đời này, mà ngược lại, là để cho các ông vững tin vào cuộc phục sinh mà chấp nhận đi giữa những làn tên mũi đạn oan nghiệt trong cuộc đời, vững tin và hiên ngang làm chứng cho cuộc sống lại cùng Đức Kitô, bất chấp cái chết.

Thảo nào, tuần qua, tư tưởng của Đức Cha Daniel R. Jenky, C.S.C., Giám Mục Peoria, Illinois, trong bài Giảng vào Thứ Bảy Tuần Bát Nhật Phục Sinh 2012 đã gây chấn động cả thế giới: “Làm một Kitô hữu không bao giờ dễ dàng và nó không giả thiết là dễ dàng! Thế gian, xác thịt và ma quỷ sẽ luôn luôn yêu những gì thuộc về chúng, và sẽ luôn luôn ghét chúng ta. Như Chúa Giêsu đã từng bảo trước, chúng đã ghét Thầy, thì chúng chắc chắn sẽ ghét các con. Nhưng đức tin của chúng ta, khi được sống cách trọn vẹn, là một đức tin chiến đấu và một đức tin không hề sợ hãi.”

Suy niệm của Đức Cha Daniel R. Jenky quả là chí lý. Đúng là Ngài đã thẩm thấu Tin Mừng Phục Sinh là tin mừng của việc “chết đi và sống lại” và suy niệm của Ngài như một thông điệp tái khẳng định lại con đường của các Kitô Hữu: con đường chiến đấu, con đường không sợ hãi, con đường bình an vì Đức Tin vào Chúa Kitô Phục sinh và vì niềm hy vọng phục sinh vĩnh cửu.

Không ở đâu xa, nhìn vào cuộc sống của các Kitô Hữu Việt Nam cũng đủ để chứng minh rằng cuộc sống Kitô hữu không hề dễ dàng và không giả thiết  dễ dàng. Vâng, các Kitô hữu Việt Nam luôn đi giữa những làn tên, mũi đạn đầy oan nghiệt – không chỉ những Kitô hữu sống trong cái túi của số phận lịch sử bức bách, mà cả những Kitô Hữu đang tưởng mình tự do trên đất khách quê người. Nếu trong cái túi đang có những làn tên bắn thẳng vào người công giáo gây kinh hồn bạt vía để họ khuất phục quyền bính của thế gian, cho dù là loại quyền bính kiểu bạo lực hay côn đồ, thì ngoài xa kia các Kitô hữu cũng đang phải đau cái đầu vị bị những mũi đạn nhắm thẳng vào giáo hội trước những vấn đề luân lý và đức tin truyền thống, vấn đề bảo vệ luật Chúa và Hội Thánh. Có nơi nào làm Kitô hữu dễ dàng đâu?

Cụ thể và gần nhất, ngay nơi bản thân, trong gia đình bạn, gia đình tôi cũng có biết bao sự khốn khó mà chúng ta phải bằng lòng chấp nhận cái chết để có sự sống lại: chấp nhận từ bỏ những ý riêng, từ bỏ những quyến rũ của thế gian xác thịt, chấp nhận chết đi tính ích kỷ, lòng tham, cơn kiêu căng tự phụ;  cha mẹ phải hao mòn, tàn tạ và chết đi cho con cái; mỗi người phải nhẫn nhịn cho dù nhục nhã để giữ mối tình thân trong làng xóm, trong họ đạo…Và xa hơn một chút, một số giáo dân, linh mục chịu bức bách, xử oan, đánh đập, tù tội vì nhân danh Chúa Kitô bênh vực cho công lý, trải tình thương cho kẻ cô nhi, đem tin mừng cho người nghèo khó, đem ân sủng của Thiên Chúa cho anh em thiểu số nơi cao nguyên đại ngàn, heo hút…

Hình ảnh của Giáo Hội sơ khai trong những ngày tang tóc sau cái chết của Chúa Giêsu vẫn luôn là hình ảnh của chúng ta hôm nay, cụ thể nhất là những người đang sống trong gọng kìm của bạo quyền không tin Thiên Chúa và luôn chống lại Thiên Chúa.

Nhưng tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta. Sự bình an mà Chúa Kitô ban cho mỗi chứng nhân tin mừng của Ngài là niềm bình an đích thực…Bình an trước bạo lực, lộng hành, trước làn tên, mũi đạn; bình an trong cuộc chiến đấu cam go để bảo vệ đức tin và chân lý. Đó là bình an của Đức Kitô Phục Sinh ban cho những người chấp nhận sống trước mầu nhiệm phục sinh của đời mình. Đúng như Đức Cha Daniel R. Jenky kết luận:

 “Đức Kitô Phục Sinh là Chúa Vĩnh Cửu của chúng ta; Đầu của Thân Thể Người, là Hội Thánh; vị Thượng Tế của chúng ta; Thầy của chúng ta; vị Chỉ Huy của chúng ta trong cuộc chiến đáng chiến đấu này.

Chúng ta không có gì để sợ hãi, nhưng chúng ta có một thế giới để chinh phục cho Người. Chúng ta không có gì để sợ hãi, vì chúng ta có một số phận vĩnh cửu trên thiên đàng. Chúng tôi không có gì để sợ hãi, dù đất có thể động, vương quốc có thể mọc lên và xụp xuống, ma quỷ có thể dữ tợn, nhưng Thánh Michael Tổng Lãnh Thiên Thần, và tất cả các đạo binh thiên quốc, chiến đấu thay cho chúng ta.

Bất kể điều gì xảy ra trong thời điểm chóng qua này, vào cuối thời gian và lịch sử, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa và Chúa Giêsu là Chúa, đến muôn thủa muôn đời.

Christus vincit! Christus regnat! Christus imperat!

Đức Kitô chiến thắng! Đức Kitô hiển trị! Đức Kitô truyền lệnh!

Lạy Chúa, xin cho chúng con xác tín rằng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh đang đồng hành với chúng con trong hành trình  dương thế, đồng hành với chúng con giữa những làn tên, mũi đạn, giữa những bức bách đau thương, đồng hành với chúng con trong cuộc chiến đấu với tử thần; và cùng Đức Kitô, chúng con sẽ chiến thắng. Amen.

 PM. Cao Huy Hoàng, 20-4-2012

Câu chuyện chưa được kể về một linh mục Công Giáo trên con tàu định mệnh Titanic.

Câu chuyện chưa được kể về một linh mục Công Giáo trên con tàu định mệnh Titanic

                                                                               Anthony Dũng

LTCG (21.04.2012) – Toronto, USA – Những ngày vừa qua đã có một loạt các hoạt động kỷ niệm 100 năm tàu Titanic gặp nạn diễn ra trên toàn thế giới, nhất là tại thành phố Belfast, nơi “khai sinh” ra con tàu.

Trong số những bí mật chưa được khám phá hết về vụ đắm tàu lịch sử này có câu chuyện về một linh mục Công Giáo, cha Thomas Byles, người đã sẵn sàng nhường phao cứu hộ cho người khác để ở lại trên con tàu Titanic và ban các bí tích sau cùng cho các nạn nhân.

Cha Byles khi ấy 42 tuổi, đang trên chuyến hải trình định mệnh đến New York để làm lễ cưới cho người em của mình là William.

Một số nạn nhân sống sót trong thảm kịch Titanic kể lại rằng khi con tàu đâm vào khối băng ngầm thì cha Byles đang đọc kinh thần vụ ở tầng trên của boong tàu. Khi đó là ngày Chúa Nhật 14 tháng 4 năm 1912.

Cũng theo các nhân chứng có mặt, khi con tàu sắp chìm, vị linh mục này đã mau chóng giúp đỡ các trẻ em và phụ nữ xuống các xuồng cứu hộ, đồng thời ngài cũng tranh thủ giải tội, ban ơn xá giải và sau đó thì lần chuỗi mân côi với các hành khách đang gặp nạn trên tàu.

Bà Agnes McCoy, một trong những nạn nhân sống sót trong thảm họa này, kể lại: “Khi con tàu sắp chìm, Cha Byles đứng dưới boong tàu cùng với các tín hữu Công Giáo; các tín hữu Tin lành và Do thái cũng quỳ cầu nguyện quanh ngài.”

Bà Agnes kể lại với tạp chí New York Telegram ra ngày 22 tháng 4 năm 1912 rằng “cha Byles âm thầm lần chuỗi cầu nguyện cho các linh hồn sắp phải lìa bỏ cõi đời.”

Bạn của cha Byles là cha Patrick McKenna cho biết: “cha Byles đã hai lần từ chối xuống xuồng cứu hộ và để dành chỗ đó cho người khác. Ngài sẵn sàng ở lại trên tàu để hoàn thành trọn vẹn vai trò của mình trong tư cách một linh mục khi mà người khác đang cần đến sứ vụ của ngài.”

Câu chuyện về cha Thomas Byles quả thật là một nét đẹp và đầy ý nghĩa giữa những tang thương và chết chóc trong thảm kịch Titanic.

Anthony Dũng

Dựa theo Patrick B. Craine

Nguồn: VRNs

9 điều cần nhớ.

9 điều cần nhớ:

 Cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta sẽ ý nghĩa biết bao với 9 điều đáng nhớ này. 

 1. Đừng xem trọng bề ngoài vì nó có thể đánh lừa bạn. Đừng xem trọng sự giàu sang vì nó có thể mất dần. Hãy đến với người biết làm bạn cười, vì chỉ có nụ cười mới biến ngày buồn thành vui. Chúc bạn tìm được người như thế.

2. Có những lúc trong cuộc đời, bạn nhớ một người đến nỗi chỉ muốn kéo người ấy ra khỏi giấc mơ để ôm chặt lấy. Chúc bạn có được người ấy.  

3. Hãy đến nơi bạn thích, hãy trở thành người mà bạn muốn. Bởi lẽ, bạn chỉ có một cuộc đời và một cơ hội để thực hiện tất cả những gì mong mỏi. Chúc bạn có lòng can đảm.

 4. Chúc bạn có đủ hạnh phúc để được dịu dàng, đủ từng trải để được mạnh mẽ, đủ nỗi buồn để biết cảm thông, đủ hy vọng để biết hạnh phúc.
  
5. Khi cánh cửa hạnh phúc đóng lại, một cánh cửa khác sẽ mở ra. Thường bạn sẽ ngắm mãi cánh cửa đóng lại để rồi không thấy cánh cửa đang mở ra. Chúc bạn nhận ra cánh cửa của mình.
 
 6. Người bạn tốt nhất là người có thể im lặng cùng bạn khi ngồi ngoài hiên, để rồi khi quay đi, bạn cảm thấy như vừa được trò chuyện thật thích thú. Chúc bạn có nhiều bạn bè.
 

 7. Bạn sẽ chẳng biết mình đang hưởng gì nếu không mất nó. Bạn sẽ chẳng mong mỏi gì nếu không mất nó. Chúc bạn không biết để không chịu đau khổ như thế.

 8. Luôn đặt mình vào vị trí của người khác. Nếu trong vị trí đó, bạn thấy đau, có lẽ người kia cũng sẽ cảm thấy như vậy.

 9. Một lời bất cẩn có thể gây bất hòa. Một lời độc ác có thể làm hỏng cả cuộc đời. Một lời đúng lúc có thể làm giảm căng thẳng. Một lời yêu thương có thể đem lại hạnh phúc. Chúc bạn biết cách điền vào chỗ trống của cuộc đời.

 nguồn: Maria Mai     

  
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

 

 

 

 

 

 
 
 
 

Niềm tin?

Niềm tin?

 Nếu bạn là một người theo Đạo Thiên Chúa Giáo, câu chuyện dưới đây rất đáng để bạn nên đọc, tin tôi đi 🙂

Giáo sư : Con trai là một người theo đạo Thiên Chúa Giáo đúng không?

Sinh viên : Dạ đúng thưa giáo sư

Giáo sư : Vậy con có tin vào Chúa không?

Sinh viên : Tất nhiên rồi thưa giáo sư

Giáo sư : Chúa tốt lành chứ?

Sinh viên : Chắc chắn là như vậy

Giáo sư : Chúa có tất cả quyền lực không?

Sinh viên : Dạ có

Giáo sư : Anh trai tôi chết vì ung thư mặc dù anh ấy đã cầu nguyện với Chúa chữa lành cho anh ấy rất nhiều. Hầu hết trong chúng ta ai cũng đã cố gắng giúp đỡ người khác khi họ đau ốm. Nhưng Chúa thì không. Vậy cậu nói xem Chúa tốt lành như thế nào?

(Sinh viên im lặng)

Giáo sư : Cậu không thể trả lời phải không? Vậy chúng ta lại bắt đầu lại với câu hỏi : Chúa tốt lành không?

Sinh viên : Dạ có

Giáo sư : Quỷ Satan có tốt lành không?

Sinh viên : Không.

Giáo sư : Vậy quỷ Satan là đến từ đâu?

Sinh viên : Dạ, từ …Chúa mà ra…

Giáo sư : Đúng rồi. Con trai hãy nói cho ta biết, tội ác có tồn tại trên thế giới này không?

Sinh viên : Dạ có

Giáo sư : Tội ác ở khắp mọi nơi phải không? Và Chúa tạo nên tất cả mọi thứ, đúng không?

Sinh viên : Đúng!

Giáo sư : Vậy ai tạo ra tội ác?

(Sinh viên không trả lời)

Giáo sư : Vậy còn bệnh tật? sự đồi bại? lòng thù hận ? sự xấu xa? Tất cả những thứ kinh khủng đó vẫn tồn tại trên thế giới chứ?

Sinh viên : Dạ đúng , thưa Giáo sư

Giáo sư : Vậy, ai tạo nên chúng?

(Sinh viên không trả lời)

Giáo sư : Khoa học nói rằng chúng ta có 5 Giác quan để nhận định và quan sát thế giới xung quanh ta. Hãy nói cho ta biết, con đã từng thấy Chúa chưa?

Sinh viên : Dạ chưa.

Giáo sư : Nói cho ta biết cậu đã từng nghe Chúa nói chưa?

Sinh viên : Chưa, thưa Giáo sư

Giáo sư : Cậu đã từng cảm nhận thấy CHÚA, nếm được mùi vị của CHÚA, ngửi được CHÚA chưa? Cậu đã từng bao giờ nhận thức được bằng bất cứ giác quan nào về Chúa chưa?

Sinh viên : Chưa thưa Giáo sư. Con e là chưa cảm nhận được giác quan nào cả

Giáo sư : Vậy cậu còn tin vào Chúa không?

Sinh viên : Dạ có

Giáo sư : Theo kinh nghiệm, những thử nghiệm, những phương pháp chứng minh khác, Khoa học nói rằng CHÚA không hề tồn tại. Con nói về điều này thế nào, con trai?

Sinh viên : Không là gì cả. Tôi chỉ có niềm tin.

Giáo sư : Đúng rồi, đức tin. Và đó là vấn đề mà Khoa học gặp phải

Sinh viên : Thưa Giáo sư, có tồn tại một thứ gọi là “nóng” không?

Giáo sư : Có!

Sinh viên : Và có tồn tại thứ gọi là “lạnh” không?

Giáo sư : Có!

Sinh viên : Không có, thưa Giáo sư. Nó không hề có.

(Giảng đường bỗng trở nên im lặng với câu trả lời bất ngờ của cậu sinh viên)

Sinh viên : Thưa Giáo sư, giáo sư có thể có rất nhiều thứ gọi là nóng, và còn có thể nóng hơn, siêu nóng, cực kì nóng, nhiệt độ nóng trắng. Nhưng chúng ta không có bất cứ gì gọi là lạnh. Chúng ta có thể đạt đến nhiệt độ dưới 0 đến – 458 độ, nhưng chúng ta không thể đạt đến mức thấp hơn con số đó. Không có bất cứ thứ gì gọi là lạnh. Lạnh là một từ ngữ chúng ta dùng để mô tả sự vắng mặt của nóng. Chúng ta không thể đo lường được lạnh. Nóng là một loại năng lượng. Lạnh không phải là mặt trái của nóng, thưa giáo sư, chỉ là sự vắng mặt của nóng mà thôi.

(Giảng đường thinh lặng với những giải thích của cậu sinh viên)
Sinh viên : Còn về bóng tối thì sao thưa Giáo sư ? Có thứ gì để gọi là “bóng tối” không?

Giáo sư : Có. Đêm tối là gì, nếu nó không phải là bóng tối ?

Sinh viên : Giáo sư lại sai nữa rồi. Bóng tối là sự thiếu vắng của một thứ khác. Giáo sư có thể có được ánh sáng yếu, ánh sáng trung bình, ánh sáng mạnh, ánh sáng chớp. Nhưng nếu không có ánh sáng một cách thường xuyên, Giáo sư sẽ chẳng có cái gì để gọi là “bóng tối” đúng không? Trong thực thế, không có bóng tối. Nếu có , Giáo sư có thể làm cho bóng tối trở nên tối hơn không thưa Giáo sư?

Giáo sư : Vậy vấn đề mà con đang muốn đề cập ở đây là gì , chàng thanh niên trẻ tuổi?

Sinh viên : Thưa giáo sư, điều mà tôi muốn nói ở đây là tiền đề triết học của Giáo sư có chỗ thiếu sót.

Giáo sư : Thiếu sót? Cậu có thể giải thích rõ hơn không?

Sinh viên : Thưa giáo sư, giáo sư đang giải thích trên tiền đề của sự đối ngẫu 2 mặt. Giáo sư chỉ rõ rằng có cuộc sống và có cái chết, có Chúa tốt và Chúa xấu. Giáo sư đang nhìn vào khái niệm về Chúa chỉ như một tập hữu hạn,chỉ bằng một cái gì đó có thể đo lường được. Thưa Giáo sư, Khoa học thậm chí không thể giải thích về một cách thức con người suy nghĩ như thế nào. Có thể là dùng những tín hiệu về xung điện và từ ngữ gì đó, nhưng chúng ta không bao giờ thấy được, nhưng bằng cách nào đấy chúng ta vẫn cũng có thể hiểu được người khác. Nếu chúng ta xem xét về cái chết là đối lập với sự sống, nghĩa là đang phớt lờ đi sự thật rằng cái chết không thể tồn tại như một thứ gì đó mà tồn tại hữu hình.
Sự chết không phải là đối lập với sự sống, chỉ là sự vắng mặt của sự sống. 
Điều này giải thích rằng : bệnh tật, tội ác, tất cả những thứ kinh khủng trên thế giới này đều không tồn tại, mà là vì chúng ta đang thiếu vắng đi 1 thứ, đó là tình yêu của 1 đấng tối cao nào đó.

Bây giờ Giáo sư hãy nói cho tôi biết, Giáo sư có dạy cho sinh viên của mình rằng họ tiến hóa như bây giờ từ loài khỉ không?

Giáo sư : Nếu như cậu đang đề cập về quá trình tiến hóa tự nhiên thì dĩ nhiên là có.

Sinh viên : Đã bao giờ giáo sư quan sát được quá trình tiến hóa bằng mắt thường chưa Giáo sư?

(Giáo sư lắc đầu và cười, bắt đầu nhận ra rằng vấn đề của cuộc tranh luận đang đi về đâu)

Sinh viên : Bởi vì không ai có thể quan sát được quá trình tiến hóa trong công việc và càng không thể chứng minh rằng quá trình này là một quá trình đang diễn ra. Vì thế thưa Giáo sư, có phải giáo sư không dạy bằng quan điểm cá nhân của giáo sư đúng không? Giáo sư là một nhà khoa học hay chỉ là một người thuyết giáo suông dạy đời?

(Lớp học bỗng trở nên ồn ào)

Sinh viên : Có ai trong lớp học này đã từng nhìn thấy được bộ não của Giáo sư chưa?

(Lớp học ồ lên những tiếng cười lớn)

Sinh viên : Có ai đó đã từng nghe về bộ não của Giáo sư, cảm nhận được bộ não đó, chạm được nó, hoặc ngửi được nó chưa? Không ai có mặt ở đây đã làm điều đó cả. Vì thế, theo như quy luật được thiết lập bởi kinh nghiệm, sự thử nghiệm, các phương pháp chứng minh, Khoa học nói rằng Giáo sư không có bộ não . Vậy chỉ bằng lòng kính trọng, thì làm sao chúng tôi có thể tin những gì Giáo sư dạy được, thưa Giáo sư?

(Căn phòng im lặng. Giáo sư nhìn chằm vào cậu sinh viên, không đoán được cậu ấy đang nghĩ gì )

Giáo sư : Tôi nghĩ là cậu hãy cứ để những thứ đó cho niềm tin, cậu con trai ạ.

Sinh viên : Đúng là thế đấy, thưa Giáo sư….Chính xác! Sự kết nối giữa con người và Chúa đó là NIỀM TIN. Tất cả những điều đó giữ cho mọi thứ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục còn đó và phát triển.

P/S:
Tôi tin là tất cả các bạn đã cảm nhận được cuộc đối thoại trên đây theo một cách thú vị. Và nếu đúng như vậy, chắc chắn bạn cũng muốn bạn bè và đồng nghiệp của mình sẽ đọc được mẩu chuyện này đúng không?

—Nhân tiện, cậu sinh viên trong câu chuyện trên đây chính là EINSTEIN – Nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại—

HS (Sưu tầm)

Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Vài suy nghĩ về ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

một chứng nhân cho đức tin tình yêu Thiên Chúa

và tinh thần khiêm tốn, phó thác

  by Msgr Peter Nguyen Van Tai

 Vài suy nghĩ về ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: một chứng nhân cho đức tin,  tình yêu Thiên Chúa và tinh thần khiêm tốn, phó thác.

(Radio Veritas Asia – 17/09/2002) – ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình qua đời lúc 18 giờ (giờ Roma) thứ hai  ngày 16/09/2002, tại “Bệnh Viện Pio XI” ở Roma, trên đường Aurelia, sau bốn tháng điều trị, trước hết tại  Bệnh viện Gemelli và sau đó Bệnh Viện Pio XI, nơi người qua đời.

Sau lễ Phục sinh năm 2001, ÐHY đã được giải phẫu tại Boston (Hoa kỳ). Cuộc giải phẫu lần thứ hai vào tháng 5 năm  2002, được làm tại Trung tâm ung thư quốc tế ở Milano, một trong bẩy trung tâm thời danh chuyên về ung thư trên thế giới: Milano, Lyon, Paris, London, Amsterdam, Washington và Tokyo. Sau hai cuộc giải phẫu, bệnh tình của ÐHY không khả quan hơn. Thực ra chứng ung thư của ngài có tính cách khác thường. Tại Ý cứ một triệu người mới có một người mắc chứng ung thư này. Tuy vậy, trên nguyên tắc, chứng ung thư nầy không phải là chứng bệnh không thể chữa được. Nhưng trong trường hợp của ÐHY, thì chứng bệnh ung thư,  đã đi vào giai đoạn  khó khăn. Vì thế, trong cuộc giải phẫu lần thứ hai tại Milano, nhóm bác sĩ không thể làm gì hơn. Trong  những tháng điều trị tại hai bệnh viện ở Roma. Không bao giờ nghe ÐHY than phiền. Trong những lúc đau đớn, bác sĩ muốn cho thuốc làm dịu cơn đau, ngài không muốn, hay chỉ dùng một chút, để làm vui lòng bác sĩ mà thôi. Dù trong tình trạng yếu mệt, ngài không bao giờ từ chối các người đến viếng thăm. Ngài nhớ từng người và có lúc còn khôi hài, để làm cho các người viếng thăm lên tinh thần. Chỉ trong ít ngày trước khi qua đời, vì quá yếu sức, ngài mở mắt như chào các người viếng thăm, nhưng không nói gì nữa.

Nói đến đây, chúng tôi nhớ lời ngài thuật lại trong thời gian ở tù, như sau: “Nếu tôi đợi đến lúc được trả tự do mới làm việc, thì không biết chờ đợi đến bao giờ. Chúa cho mình ở trong tình trạng này, mình làm việc theo hoàn cảnh này”. Có thể trong những tháng trên giường bệnh, ÐHY cũng theo nguyên tắc như lúc ở trong tù: làm việc trong cơn bệnh và làm tông đồ, truyền giáo bằng đau khổ lại có giá trị và công hiệu lớn lao hơn nữa, vì được cộng tác với công việc cứu chuộc của Chúa Kitô trên Thánh giá. Những ai đọc các sách ngài viết, có thể hiểu ngài đã sống những điều ngài viết ra như thế nào. Ngài đã sống những điều ngài đã viết ra.  Những người đã đọc sách của ngài và nghe ngài giảng đều công nhận ngài là chứng nhân của đức tin, của tình yêu và của tinh thần khiêm tốn, phú thác.

Chứng nhân của Ðức tin – ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận không phải đổ máu như nhiều vị tử đạo trong các thời kỳ bách hại, nhưng trong hơn 13 năm tù, ngài đã sống  “Via Crucis” (chặng đường Thánh giá) của Chúa Giêsu. “Per Crucem ad Lucem”: qua đau khổ mới tới vinh quang.

ÐHY Phanxicô là chứng nhân của tình yêu. Trong những năm sống trong tù, ngài chỉ dùng tình yêu thương để chinh phục các người gây đau khổ cho ngài hoặc anh em công an canh giữ ngài. Trong những năm làm việc tại Roma, chúng tôi thường đến viếng thăm ngài, nhưng không bao giờ nghe ngài nói xấu ai, cả những người đã gây đau khổ, tù đầy cho ngài. Ngài không hở miệng chỉ trích Nhà Cầm quyền đã giam tù ngài. Ngài chỉ lấy đức ái đáp lại những lời chỉ trích, vu khống,  theo gương Chúa Giêsu trên Thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là gương mẫu đức khiêm tốn, phú thác. Trong những năm ngài sống tại Roma, mọi người đều thấy rõ sự khiêm tốn của ngài, cách riêng các vị cộng tác của ngài tại Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Một vị cấp cao của cơ quan làm chứng rằng: “Ngài thật  là người cha của riêng tôi và của tất cả chúng tôi”. Luôn luôn hiền từ, dịu dàng, nhã nhặn, khiêm tốn với người trên cũng như người dưới. Ân cần hỏi thăm, và hiểu biết từng nhân viên làm việc với mình.

Vì là chứng nhân của đức tin, của tình yêu thương, và khiêm tốn – phú thác, ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được mọi người mến phục, không phải chỉ các người thường dân, nhưng cả các vị cấp cao trong Giáo hội hoặc thuộc giới chính trị, trí thức, ngoại giao. Ngài đã được mời diễn thuyết tại Ðại học Nhà nước ở Roma hai lần. Vào các ngày Chúa nhật, ngài thường được mời  đi giảng hay diễn thuyết nơi này, nơi kia, không những trong nước Ý, nhưng còn tại Pháp, Ðức, Thụy sĩ, Hoa kỳ. Ngài không đi nghỉ hè. Ngài dùng các ngày nghỉ để đi giảng hoặc diễn thuyết các nơi. Vì chứng tá đời sống của ngài, nhiều giám  mục Ý và nước ngoài thường mời ngài giảng tuần tĩnh tâm cho các linh mục hoặc thanh niên. Trước khi đi Milano giải phẫu, theo lời thỉnh cầu của ÐHY Giovanni Battista Re, Tổng trưởng Bộ Giám mục, bạn thân của ngài, đã mời ngài đến Brescia giảng. ÐHY Camillo Ruini, Tổng đại diện Roma, thường mời ngài giảng tại Ðền thờ Thánh Gioan in Laterano cho nhóm nay, nhóm khác… Với sự khiêm tốn ngài trả lời: “Chúng con ở trong giáo phận Roma, con cái ÐHY. ÐHY dạy bảo  gì con xin vâng như vậy”. Vì là một chứng tá sống động, ÐTC chỉ định ngài giảng Tuần tĩnh tâm của Giáo Triều, với sự hiện diện của ÐTC. ÐHY  nhận với nhiều lo sợ. Trở lại nhà,  ngài chạy vào nhà nguyện quì gối cầu nguyện: “Lạy Chúa xin dạy con phải nói gì”. Ðơn sơ, khiêm tốn, phú thác: đây là tinh thần của ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài qua đi, nhưng sách vở và nhất là chứng tá đời sống của ngài sẽ không qua đi.

Vài nét chấm phá về Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận:   xem thêm

Bài vở liên quan đến Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận    xem thêm

NẾU MỘT NGÀY…

NẾU MỘT NGÀY…

–         Nếu một ngày, bạn cảm thấy sầu khổ và muốn khóc.  Hãy gọi cho tôi … Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười. Nhưng tôi có thể cùng khóc với bạn.

–         Nếu một ngày bạn đứng trước thất bại và muốn bỏ chạy. Đừng ngại gọi cho tôi…Tôi không hứa sẽ giúp bạn hết thất bại,  hết chạy trốn… Nhưng tôi có thể cùng chạy với bạn.

–         Nếu một ngày, bạn cảm thấy mệt mỏi, đuối sức, không đủ năng lực để làm việc. Hãy gọi cho tôi bạn nhé… Tôi không chắc sẽ giúp bạn hết mệt mỏi, hết đuối sức … Nhưng tôi sẽ cùng nghỉ ngơi với bạn… Những giây phút nghỉ ngơi bên nhau sẽ giúp bạn có thêm sức mạnh, thêm năng lực để làm việc và để tiếp tục bước đi trên đường đời .

Hãy gọi cho tôi…Hãy gọi cho tôi bạn nhé…Số phone của tôi là: 1-800-CẦU-NGUYỆN

Nhưng nếu một ngày nào đó bạn gọi mà không thấy tôi trả lời. Hãy mau mau đến thăm tôi bạn nhé … Vì tôi cũng đang cần đến bạn, cần tiếng nói của bạn, cần những lời nói chuyện tâm tình của bạn. Tôi ở trong khu phố NHÀ THỜ, đường NHÀ TẠM, căn nhà có ghi hai chữ THÁNH THỂ.

Thân mến,

Giêsu.

                         ***

“Tất cả những ai đang vất vả, mang gánh nặng nề … hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng..”(Mt.11:28)

Lạy Chúa Giêsu! Xin cho con biết chạy đến với Chúa, biết qúy trọng những giây phút thinh lặng bên Chúa …. Vì Chúa là Đấng ban ơn trợ giúp và là nguồn ơn sức mạnh của đời con. Amen

Sưu tầm

Thánh Anxenmô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh

Ngày 21/4: Thánh Anxenmô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.

Thánh Anxenmô là một người Châu Âu. Ngài sinh năm 1033 tại Aốtta. Sau đó ngài trở thành Đan sĩ và Viện phụ tại Đan Viện Béc miền Notmandi (nước Pháp). Cuối cùng ngài trở thành Tổng Giám mục thành Cantorbơri và Thượng Phụ cả nước Anh từ năm 1093 đến 1109.

Với chức vụ như thế, ngài là người tiên phong đấu tranh cho sự tự do của Hội Thánh thoát khỏi áp chế của thế quyền mà sau này Đức Thánh cha Grêgôriô VII sẽ tiếp nối. Hai lần ngài phải bị lưu đày.

Ngài là một nhà suy tư triết học lẫn thần học theo cách riêng của mình và được xem như là tổ phụ của Thần Học Kinh Viện. Ngài tìm cách đặt thần học bị trói buộc vào thời đại ngài trên một nền tảng mới: thay vì đặt thần học trên nền tảng của các người xưa có uy tín hay dựa theo Thánh Kinh. Ngài muốn thần học phải có lôgic của lý trí. Đức tin sẽ soi sáng lý trí. Như thế, Anxenmô đứng giữa thánh Augustino và thánh Tôma Aquinô. Ngài qua đời ngày 21.4.1109 tại Cantorbơri.

Chúa đã ban cho thánh Giám mục Anxenmô được ơn tìm hiểu và giảng dạy lẽ khôn ngoan siêu việt của Chúa. Xin ban ơn đức tin để soi sáng trí lòng chúng con và cho tâm hồn chúng con biết say mê những điều Chúa mạc khải.

KHÔNG TRÁCH MẮNG

KHÔNG TRÁCH MẮNG

Tôi quen gia đình nhà White khi mới vào đại học. Họ hoàn toàn khác gia đình tôi, mặc dù vậy ở bên họ, lúc nào tôi cũng cảm thấy hết sức thoải mái. Jane White với tôi thoạt tiên là bạn trong trường, rồi kế tới cả gia đình đón tiếp tôi- một người ngoài- như thể đón một
người em họ mới tìm ra.

Ở nhà tôi, mỗi khi có chuyện gì không hay xảy ra, luôn luôn nhất thiết là phải tìm cho ra thủ phạm để trách mắng.

“Cái này là ai làm đây?”. Mẹ tôi sẽ hét lên như thế trong nhà bếp hỗn độn như bãi chiến trường.

“Đó là tại con đó, Katharine!”. Cha tôi sẽ đay nghiến mỗi khi con mèo biến mất hoặc cái máy giặt không làm việc.

Ngay từ khi còn nhỏ, anh chị em chúng tôi vẫn hay nói với nhau là trong nhà mình còn một người nữa là ông Trách Mắng. Mỗi tối ngồi vào bàn nhớ dọn cả cho ông ấy một phần ăn!

Nhưng gia đình nhà White lại không bao giờ quan tâm đến ai vừa gây ra việc gì, họ chỉ thu dọn những mảnh vỡ và tiếp tục sống vui vẻ. Tôi chỉ thực sự hiểu hết nét đẹp của nếp sống này vào mùa hè mà Jane qua đời.

Ông bà White có sáu người con, ba trai, ba gái. Vào tháng bảy, ba người con gái nhà White và tôi quyết định làm một chuyến đi từ Florida đến New York. Hai cô lớn nhất, Sarah và Jane đều là sinh viên. Người nhỏ nhất, Amy, thì vừa mới có được bằng lái xe. Tự hào vì điều
đó, cô rất mong đến chuyến đi để được thực tập.

Hai cô chị chia nhau lái suốt chặng đầu của chuyến đi, đến một khu thưa dân cư họ mới cho Amy lái. Thế rồi cô bé đột nhiên đi lạc vào đường ngược chiều, đã vậy mà Amy vẫn tiếp tục cho xe chạy băng băng không dừng lại. Một chiếc xe tải đã không kịp dừng lại nên lao thẳng
vào xe chúng tôi.

Jane chết ngay tại chỗ.

Khi ông bà White đến bệnh viện, họ thấy hai cô con gái còn sống sót của mình nằm chung một phòng. Đầu Sarah thì quấn băng còn chân Amy thì bó nạng. Hai ông bà ôm lấy chúng tôi khóc buồn vui  lẫn lộn khi gặp lại các con. Họ lau nước mắt cho các con và thậm chí còn trêu Amy khi thấy cô bé học sử dụng nạng.

Với cả hai cô con gái, đặc biệt là với Amy, họ nói đi nói lại:” Bố mẹ mừng biết bao khi thấy con còn sống.”

Tôi vô cùng kinh ngạc, không có kết tội, không có trách mắng ở đây.

Về sau, tôi hỏi ông bà sao lại không có một lời kết tội nào đối với việc Amy đã đi vào đường cấm.

Bà White bảo:”Jane đã mất rồi và chúng tôi thương nhớ nó kinh khủng, nhưng nói hay làm gì thì có mang Jane về được đâu. Trong khi đó Amy còn cả một cuộc đời trước mặt. Làm sao nó có thể sống một cuộc đời hạnh phúc nếu cứ cảm thấy rằng chúng tôi oán trách nó vì nó
đã gây ra cái chết của chị gái?”

Họ nói đúng, Amy tốt nghiệp đại học và lấy chồng vài năm sau đó. Cô trở thành mẹ của hai bé gái, và bé lớn nhất tên là Jane.

Tôi đã học được từ gia đình White một điều thực sự quan trọng trong cuộc sống: Trách mắng quả thật không cần thiết, đôi khi đó còn là một việc hoàn toàn vô ích.

(Không rõ tác giả)

Chân Phước Pedro de San José Betancur

Chân Phước Pedro de San José Betancur

(1626 – 1667)

Pedro sinh trong một gia đình nghèo ở Tenerife thuộc quần đảo Canary. Ngay từ nhỏ, cậu rất muốn trở thành một linh mục, nhưng Thiên Chúa đã có hoạch định khác cho cậu.

Pedro làm nghề chăn cừu cho đến khi 24 tuổi, anh thực hiện cuộc du hành sang Guatemala, hy vọng sẽ tìm được một người bà con đang làm việc cho chính phủ ở đây. Nhưng mới đến Havana, anh đã cạn hết tiền. Sau khi phải  làm việc để kiếm thêm tài chánh, mãi một năm sau anh mới đến thủ đô Guatemala. Ðến nơi, anh quá túng thiếu đến độ phải sống nhờ vào nhà phát chẩn của dòng Phanxicô.

Sau đó không lâu, Pedro ghi tên theo học trường Dòng Tên với hy vọng sẽ trở thành một linh mục. Nhưng dù cố gắng đến đâu đi nữa, anh vẫn không thể tinh thông các môn học; do đó anh phải bỏ dở. Năm 1655 anh gia nhập Dòng Phanxicô Thế Tục. Ba năm sau thầy Pedro mở một chẩn y viện cho người nghèo; một trung tâm cho người vô gia cư và sau đó ít lâu, thầy mở một trường học cho các trẻ em nghèo. Cũng không quên đến người giầu có ở thủ đô Guatemala, thầy đi vào khu phố của họ, vừa rung chuông vừa kêu gọi họ ăn năn sám hối.

Dần dà nhiều người khác đến chia sẻ công việc của Pedro. Không bao lâu, họ thành lập Tu Hội Bêlem mà tu hội này đã được Tòa Thánh chính thức công nhận sau khi Thầy Pedro từ trần.

Thầy thường được coi là người khởi xướng hoạt cảnh Ðêm Giáng Sinh, trong đó Ðức Maria và Thánh Giuse đi từng nhà để tìm chỗ trọ. Truyền thống này lan ra tới Mễ Tây Cơ và các quốc gia Trung Mỹ cho đến ngày nay.

Thầy được phong chân phước năm 1980.

Lời Trích

Ðề cập đến Thầy Pedro và bốn vị khác cùng được phong chân phước với thầy, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Thiên Chúa rộng rãi ban phát cho họ sự nhân hậu và lòng thương xót của Ngài cũng như ban cho họ tràn đầy ơn sủng; Thiên Chúa yêu thương họ với tình yêu của một người cha, nhưng rất đòi hỏi, mà sự hứa hẹn chỉ là những khổ nhọc và đau thương. Thiên Chúa mời gọi họ sống cuộc đời thánh thiện cách anh hùng; Ngài lôi họ ra khỏi quê hương và gửi họ đến các phần đất xa lạ để loan truyền phúc âm, giữa những
khó khăn và cực nhọc không thể diễn tả được” (L’Observatore Romano).

nguồn : Maria Thanh Mai gởi

Ai là bổn mạng các game thủ ?

Ai là bổn mạng các game thủ ?

 Tác giả Thomas L. McDonald

 Trầm Thiên Thu chuyển ngữ

Xin trả lời ngay và ngắn gọn: “Chẳng có ai cả”. Tuy nhiên, khi tìm những câu hỏi khác nhau đã đưa nhiều người đến với blog trò chơi của tôi, có thể vì thanh bên cạnh (sidebar) có hình Thánh Balthasar, bổn mạng những nhà sản xuất các lá bài. Từ khi đọc lịch sử Giáo hội và có bộ sưu tập tiểu sử các thánh, tôi nghĩ tôi phân loại như thế để người ta không lang thang trên internet tìm những thông tin không chính xác về các thánh, về bổn mạng, về trò chơi, và về các vấn đề có liên quan.

 Hóa ra đó là bài phổ biến quan trọng, thế nên tôi đọc lại và cập nhật hóa điều đó vì Thiên Chúa. Đây là một số đề nghị của các độc giả:

Thánh Balthasar

Thánh Balthasar thường được coi là “bổn mạng của những nhà sản xuất các lá bài”. Tôi đã dạy các học sinh nhiều năm, tôi phải nói với bạn rằng đó là một trong những điều kỳ diệu nhất mà tôi đã phát hiện. Tôi đã tìm hiểu sâu xa để nghĩ ra cách thức và lý do mà Thánh Balthasar “gắn liền” với những lá bài hoặc việc chơi bài, nhưng lại gắn liền với những nhà sản xuất các lá bài.

 Thánh Balthasar, cùng với Thánh Melchior và Thánh Caspar, là một trong các đạo sĩ đã dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Kinh thánh không nói tên các đạo sĩ này, không nói có mấy người (thường nói có 3 người vì chỉ có 3 lễ vật, nhưngmột số nguồn cổ nói có 12 người), và cũng không nói họ là ai (chiêm tinh gia, thuật sĩ, vua, hoặc đơn giản là “những người khôn ngoan”. Mãi tới thế kỷ V, tên của 3 vị này mới được biết đến.

 Chúng ta không biết gì khác về Thánh Balthasar. Có vài ngôi mộ được coi là của ba đạo sĩ này, nhưng không ai dám chắc chắn. Nếu có nguồn hoặc tài liệu nào đó giải thích lý do Thánh Balthasar được coi là người “quan tâm” những người đánh bài, thì điều này vượt ngoài tầm hiểu biết của tôi. Những lá bài đầu tiên chỉ được in hoặc các nghệ sĩ làm ra.

 Thiếu chứng cớ giải thích việc đánh bài có liên quan Thánh Balthasar, lý do rõ ràng nhất có thể là câu trả lời thực tế. Thánh Balthasar là một “ông vua” (king), vì bộ bài có những “quân già” (kings). Như vậy, tự nhiên chọn một trong 3 quân già, thế là Thánh Balthasar “bị chết tên”.

Thánh Cajetan

 Thánh Cajetan (tiếng Tây Ban Nha là Cayetano) là bổn mạng dân đánh bạc. Thánh Cajetan sinh năm 1480 trong một gia đình giàu có, ngài là luật sư. Ước muốn cải cách Giáo hội, ngài đi Rôma, rồi làm linh mục, và lập dòng. Ngài dùng tài sản của gia đình để mở các bệnh viện phục vụ nhu cầu tâm linh và thể lý của người nghèo. Ngài cũng mở các tiệm cầm đồ và thẻ tín dụng để người nghèo vay vốn.

 Thánh Cajetan có liên quan việc đánh bài rất mơ hồ. Truyền thuyết cho rằng người ta xin ngài ủng hộ, và “đặt cược” với ngài một xâu chuỗi mà ngài không thể hiểu. Từ khi ngài hiểu ra, ngài có thể làm người ta cầu nguyện nhiều hơn. Dựa vào những gì chúng ta biết về các thánh, điều này có vẻ như việc trang bị thêm về lòng đạo đức của lý do nói ngài là bổn mạng người đánh bài, và nghe chừng không ổn chút nào. 

Rất có thể là số tiền vay đã giúp người ta khỏi bị ăn lời cắt cổ (predatory interest rates), và nhiều món tiền này là hậu quả của nợ đánh bài. Lúc đó, cũng như ngày nay, một tay có máu chơi bài có thể làm tan nát gia đình, cho nên có vẻ như Thánh Cajetan có thể “gỡ gạc” cho mấy tay chơi bài trở về đường ngay nẻo chính cả về tài chính lẫn luân lý.

 Thánh Aloysiô Gonzaga

 Một độc giả khác là Mark Franceschini nói thế này: “Tôi luôn đề xuất Thánh Aloysius Gonzaga (1568–1591), dựa vào truyện mà tôi đã đọc. Ngài chơi cờ với một số chủng sinh, và có người hỏi: “Ngài sẽ làm gì nếu biết chỉ còn sống một giờ nữa?”. Có người nói sẽ đi xưng tội, người khác nói sẽ cầu nguyện trước Thánh Thể, nhưng Thánh Aloysiô Gonzaga thì không. Ngài lý luận rằng vì các Bề trên cho phép chơi nên ngài không có trách nhiệm nào khác, rõ ràng đây là điều Thiên Chúa muốn ngài làm. Như vậy, trong giờ sau hết, ngài sẽ chơi cho xong ván cờ! Vậy với tôi, Thánh Aloysiô Gonzaga là bổn mạng các game thủ là hợp lý!”.

Thánh Matthia Tông đồ

 Một độc giả khác nói rằng Thánh Matthia nên đưa vào danh sách vì ngài được chọn để thay thế Giuđa bằng cách rút thăm, như trong Cv 1:23-26: “Họ đề cử hai người: ông Giôxếp, biệt danh là Basaba, cũng gọi là Giúttô, và ông Matthia. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Giuđa đã bỏ để đi về nơi dành cho ông”. Họ rút thăm trúng ông Matthia: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ”.

Vâng, họ chọn người thay người phản bội Chúa Giêsu bằng cách tung hột xúc xắc.

 Mà cũng có thể không là hột xúc xắc, dù họ có thể có hột xúc xắc, vì hột xúc xắc đã có ít nhất từ 5.000 năm trước, và hột xúc xắc đã được dùng ở Hy Lạp cổ đại và Rôma. Rút thăm là cách phổ biến tìm Ý Chúa trong Do Thái giáo (Judaism), với một trưởng tư tế rút ra một trong hai hòn đá thánh từ chiếc giáp che ngực (breastplate) để trả lời cho câu hỏi đôi (binary question). Đây là Urim  Thummim. Người ta có thể tìm thấy một số ví dụ của việc rút thăm trong sách Sử biên niên, chương 24 và 26, dĩ nhiên có cả trong sách Giôna và sách Ét-te. “Purim” là tiếng Do Thái cổ nghĩa là “rút thăm”, cũng như tên của “ngày thánh” (thánh nhật) của người Do Thái để tưởng nhớ các sự kiện của Ét-te.

 Vấn đề là Thánh Matthia không còn dấu vết sau đó. Có thể do vị trí tông đồ thứ 12 bị nguyền rủa. Có thể ngài bị đóng đinh ở Ethiopia, bị ném đá ở Giêrusalem, hoặc qua đời vì cao niên. Không thể chết vì lớn tuổi: Ít các vị lãnh đạo Kitô giáo thời sơ khai đều chết an bình trên giường. Trong số 12 Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan qua đời theo cách tự nhiên.

 Thánh Matthia là bổn mạng những người uống rượu, thợ mộc, thợ may và… thành phố Gary của Ấn Độ.

 Vĩ ngôn

Cuối cùng, chúng ta vẫn còn vài sự kiện và không có thánh bổn mạng của các game thủ. Tuy nhiên, tôi nghĩ Thánh Cajetan “đủ tiêu chuẩn” nhất. Ngài có mối liên quan nào đó với việc chơi trò chơi, điều này có thể là yếu tố của việc chơi trò chơi. Nhưng ngài cũng có những mối liên quan với ngân hàng, điều này được tái tạo trong nhiều trò chơi. Ngài đã dùng tài sản của mình để giúp đỡ người khác, và có ý nghĩa sâu xa của lòng trắc ẩn. Ngài đã chống lại sự đồi trụy của các giáo sĩ thời của ngài bằng cách sống gương mẫu về đức ái Kitô giáo và quan tâm người nghèo, đồng thời là người tốt.

Vì thiếu một “ứng viên” hợp lý, tôi muốn chọn Thánh Cajetan là bổn mạng các game thủ.

 TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Patheos.com)

Thánh Y Nha-xiô ở Loyola (Y-Nhã)

     

 Thánh Y Nha-xiô ở Loyola (Y-Nhã)            

                                                 sưu tầm

 Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha thì một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô.

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Balê.

Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Ðất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, Thánh Y Nhã hợp thức hoá tổ chức của ngài. Tu Hội của Ðức Giêsu (Dòng Tên) được Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.

Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Thánh Y Nhã vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.

Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo — Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam — “để Thiên Chúa được vinh danh hơn.” Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Lời Bàn 

Vào năm 1517, Luther đã niêm yết các đề án của ông lên cửa nhà thờ ở Wittenberg. Mười bảy năm sau, Thánh Y Nhã sáng lập một tu hội góp phần quan trọng trong việc chống lại sự cải cách Tin Lành. Ngài là một kẻ thù bất khả tiêu diệt của Tin Lành. Tuy nhiên, trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn sự đại kết: “Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ sẽ cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hoà Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khinh miệt những sai lầm của họ.” Một trong những khuôn mặt vĩ đại của phong trào đại kết hiện nay là Ðức Hồng Y Bea, một linh mục dòng Tên.

Lời Trích 

Thánh Y Nhã đề nghị lời nguyện sau đây cho các hối nhân: “Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa.”     nguồn:http://tinmung.net/CACTHANH/_CacThanh/_Thang07/Inhaxio_Loyola/_List.htm

Sự hòa hợp giữa tư tưởng nhân bản trong Khổng giáo và trong Nguyên lý và nền tảng theo I-nhã Loyola .

Sự hòa hợp giữa tư tưởng nhân bản trong Khổng giáo và trong Nguyên lý và nền tảng theo I-nhã Loyola .

                                                                 tác giả Nguyễn Huy Hoàng SJ


Dẫn nhập

Người ta vẫn thường nói giữa triết học phương Đông và phương Tây có một khoảng cách nhất định, nhiều khi khó dung hợp. Chính vì thế, quan niệm về con người hai bên cũng có nhiều điểm khác biệt. Đơn cử,  trong khi triết học nhân bản phương Tây nhấn mạnh đến “con người lý trí” (mind, rationality) thì phương Đông lại nhấn mạnh đến “con người tình cảm” (con tim – heart). Tuy nhiên, có thật thực là người phương Tây duy lý còn người phương Đông là duy cảm đến độ cả hai không thể hòa hợp được với nhau? Một linh mục từng nói: “làm người, đó làm mẫu số chung, những hình dung từ theo sau chỉ là phụ thuộc”. Có lẽ có nhiều điểm khác nhau trong cách nhìn, nhưng thiết nghĩ đã là người thì thiết yếu có những điểm tương đồng xét về mặt bản chất, cho dẫu đó là những con người sống từ phương Tây hay tận đàng Đông. Trong bài viết này, tôi muốn trưng ra những nét tương đồng trong tư tưởng nhân bản giữa Khổng Giáo (vốn đại diện cho phương Đông) và Nguyên Lý Nền Tảng trong Linh Thao của Thánh I-nhã (phương Tây) như một chia sẻ về tính tương đồng và khả năng hội nhất trong cái nhìn nhân văn về con người.

Theo đó, bài viết này sẽ đề cập đến quan điểm con người tự bản chất là thiện như là một khuôn mẫu chung trong cả hai nền văn hóa. Sau đó, bài viết lần lượt đề cập đến quan niệm về nhân bản trong Khổng Giáo (tập trung vào mẫu người quân tử với các đức tính nhân,nghĩa, lễ, trí, tín) và trong Nguyên Lý nền tảng (con người bình tâm) trên cơ sở đối chiếu so sánh, để sau cùng đặt vấn đề về sự hòa hợp, coi đó như cái nhìn của người viết về nhân bản của một người sống và tiếp biến hai nền văn hóa: nền văn hóa phương Đông vốn được ảnh hưởng khá mạnh của tư tưởng Khổng Giáo và nền văn hóa Giêsu hữu vốn khởi đi từ linh đạo thánh I-nhã Loyola.

Con người vốn thiện và không ngừng quy hướng về sự thiện

Quan điểm Khổng Giáo cho rằng “nhân chi sơ tính bản thiện”, con người sinh ra vốn đã có sự thiện làm gốc. Tuy nhiên, thiết  nghĩ cần phân biệt rằng Khổng Tử không là người chủ trương như thế, trong sách Luận Ngữ, ông viết rằng: “bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau”[1]. Từ câu này, ta thấy ông không kết luận gì về bản chất con người mà muốn nhấn mạnh nó như là sản phẩm do sự tác động từ những điều kiện bên ngoài. Mạnh Tử đi xa hơn thầy mình và khẳng định tính thiện của con người là bẩm sinh. “Nhân chi sơ tính bản thiện” là phát biểu của Mạnh Tử chứ không phải của Khổng Tử. Theo đó, con người được sinh ra trong sự thánh thiện và “quy hướng về sự thiện”[2] (tending toward goodness), nói cách khác, “Mạnh tử nghĩ rằng mọi người đều có tiềm năng để trở nên thánh thiện”[3]. Để minh chứng điều này, ông trưng ra ví dụ về nước. Để bác bỏ quan niệm của Cáo Tử cho tính người không phân biệt được thiện với bất thiện vì giống như nước: nếu ta khơi nó sang đàng đông thì nó sang đàng đông, nếu khơi đàng tây thì nó sang đàng tây, Mạnh tử chất vấn rằng: “Nước không phân biệt được đông tây thật, nhưng không phân biệt cao thấp ư? Tính con người vốn thiện cũng như tính của nước là chảy xuống chỗ thấp”.[4] Mạnh Tử cho rằng đặc điểm này là một khuynh hướng trong con người mình. Có lẽ ta sẽ hiểu rõ hơn ý nghĩa của thuật từ “nhân bản” khi chiết tự nó. “Nhân” có nghĩa là người, cũng có nghĩa là lõi. “Bản” là gốc, cho nên có thể hiểu nôm na “nhân bản” là những điều cốt lõi nơi con người. Tuy nhiên, điều đặc biệt cần biết: “bản” ngoài ý nghĩa là gốc, nó còn thuộc “bộ mộc”[5] (cây), chính điều này tạo nên yếu tố động trong nhân bản: nhân bản không là một mớ quy chuẩn cho hành vi con người được định hình ngay từ đầu, trái  lại nó không ngừng lớn lên (như một cây xanh) theo thời gian.

Bên cạnh đó, hai điểm đặc biệt khác về chữ “nhân” trong nhân bản theo Khổng Giáo cần được lưu ý thêm. Thứ nhất, nhân không đơn thuần hai nét nhưng còn có hai nét liền kề sau, điều này chứng tỏ con người luôn vươn lên trong mối tương quan với tha nhân chứ không đơn độc. Ta có thể hiểu đặc điểm này qua hệ thống từ nhân xưng mà con người dùng. Mỗi cá nhân chỉ là một mắt xích nhỏ trong chuỗi tương quan ông bà, cha mẹ, cô cậu dì dượng chú bác, anh em (ruột thịt và anh em chú bác), cháu chắt… Đó là chưa kể đến những mối tương quan xã hội. Và chính từ những tương quan đó mà các quy tắc xã hội được thiết định, rõ nhất  là luật hôn nhân gia đình. Thành ra, mỗi cá nhân đều có một vị trí nhất định trong gia đình và xã hội, sự thành toàn hay đổ vỡ của một cá nhân đều tác động đến cả một đại gia đình. Chính vì thế mà Đông phương có câu: “một người làm quan cả họ được nhờ” hay ngược lại “con dại cái mang”. Và một khía cạnh khác, sự thành toàn hay đổ vỡ của cá nhân đều có liên quan đến người khác trong tập thể ấy: “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” hay “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”[6]. Vượt ra khỏi tương quan gia đình, con người vẫn gắn bó mật thiết với xã hội. Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.[7]

Thứ đến, trong văn tự Trung Hoa, chữ “nhân” (người) là một bộ phận của “thiên” (chữ thiên gồm chữ nhân thêm hai gạch ngang ở trên đầu). Điều này muốn diễn tả con người vốn thộc về thiên (ta sẽ thấy đây là một trùng hợp khá lý thú giữa Khổng giáo và Công Giáo (I-nhã thuộc về) trong quan niệm về con người khi Công Giáo cho rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa). Chính trời cao ban cho con người “yếu tố nhân” như được hiểu trong nhân bản[8], trong đó tính thiện được hiểu là một thuộc tính căn bản của nhân. Hành trình kiếp nhân sinh cũng là để hiện thực hóa (actualization) tính thiện vốn là một tiềm thể (potentiality) trong con người thành hiện thể (actuality). Như thế, con người theo quan niệm Khổng giáo tự bản chất hướng thiện, và còn cả “hướng thiên” mặc dù Khổng Tử có cái nhìn rất mơ hồ về đời sau.

Đâu là điều cốt lõi của học thuyết nhân bản theo Khổng giáo? Hay nói cách khác, một người trưởng thành về nhân bản theo Khổng giáo là thế nào? Khổng giáo đề cao tu thân trước khi có thể làm được gì cho đời (tu thân rồi mới tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Và để tu thân, Khổng tử đặt ra một loạt các quy tắc: “tam cương ( đạo vua-tôi, phụ-tử, phu-phụ), ngũ thường: nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), tứ đức (công dung ngôn hạnh)”.[9] Đích đến của việc tu thân là trở thành một người đạt đạo và đạt đức, trong đó ngũ thường là yếu tố hàng đầu giúp con người biết cư xử đúng mực với chính mình và với người xung quanh.

Quan điểm này thật gần gũi với cái nhìn của I-nhã về bản chất và đích nhắm của con người. Kitô giáo quan niệm con người được sinh ra theo hình ảnh của Thiên Chúa – Đấng trọn tốt trọn lành. Điều này có ý nghĩa gì? Ta có thể hình dung con người là sản phẩm của một sự trừu xuất, là một “sự thiện nho nhỏ” khởi phát từ một Sự Thiện tròn đầy. Thật vậy, con người đã tồn tại từ trong ý định của Thiên Chúa, và con người đi vào cuộc hiện hữu bằng “lao nhọc” của Thiên Chúa qua một quá trình tạo dựng sáu ngày mà con người là đỉnh cao (được làm bá chủ cá biển chim trời). Hơn thế nữa, con người lại được vinh hạnh mang lấy hình ảnh Thiên Chúa, thay Ngài để làm chủ thế giới. Vì lẽ đó, ta có thể thấy con người tự mình là một sự phản chiếu của chính hình dạng và một phần đặc tính của Thiên Chúa (tính thiện). Nhờ chia sẻ sự thiện của Đấng dựng nên mình nên con người ngay từ khi vào đời đã có sẵn tính thiện. Đây cũng chính là cái nhìn của I-nhã về khởi phát của con người. Không những thế, ngài còn đưa ra cái nhìn cá nhân về mục đích cuộc sống của con người ở đời này và cùng đích mà con người nhắm đến khi viết trong Linh Thao số 23: “Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự ‘Thượng Đế’[10] (…) và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình, ước muốn và lựa chọn điều gì dẫn đưa chúng ta hơn tới cứu cánh vì đó chúng ta được dựng nên”. Con người trong Nguyên Lý và Nền Tảng của I-nhã luôn có khát vọng thẳm sâu trong hồn là vươn về với Đấng Tạo Hóa. Điều này cho thấy trong con người luôn có một lỗ hổng, một “sự thiếu thốn” nào đó cần được lấp đầy. Ta hiểu đấy chính là sự thiện chưa trọn vẹn, một thứ “sự thiện” ở dạng phôi thai, đang muốn phá tung những lớp đất bên trên để bung mình trong ánh sáng chân lý, trong sự thánh thiện trọn hảo vốn tìm thấy trong Đấng Tạo Thành. Con người trong I-nhã do thế là một con người đang trên đường vươn tới sự thiện trọn hảo với xuất phát điểm là một “sự thiện ban đầu”. Hẳn điều này không xa với quan niệm về sự thiện của Khổng Giáo khi cho rằng sự thiện là một thứ “mầm” (sprout), một khuynh hướng cần được nuôi dưỡng để trở thành cây  trưởng thành qua quá trình giáo dục.

Ắt hẳn I-nhã chẳng hề biết đến Khổng Giáo là gì, và những người viết Kinh Thánh cũng chẳng hề biết đến Khổng Giáo để “tham khảo” một quan niệm như thế, nhưng cái nhìn về con người lại khá tương đồng. Ta có thể lý giải như thế nào? Hẳn là chẳng có câu trả lời nào khả dĩ ngoại trừ một điều: con người là như vậy, cho nên đứng ở góc nhìn của nền văn hóa nào rồi cũng nhận ra đặc điểm căn bản  nhất trong ơn gọi làm người: vì được sinh ra trong sự thiện, con người suốt đời không ngừng hướng về sự thiện.

Tuy đều đồng thuận rằng con người vốn thiện, quy hướng về sự thiện, nhưng cả Khổng Giáo lẫn I-nhã không xem đấy là một con đường tất định. Chính Mạnh Tử đã khẳng định: “hoàn cảnh ảnh hưởng rất lớn đến sự tu dưỡng của con người”[11], ông viết:

Những năm được mùa, phong túc, hạng con em nhờ được no đủ mà nhiều người trở nên tử tế; trái lại những năm đói kém, con em nhiều đứa sinh ra hung bạo. Chẳng phải tại trời phó cho họ tư chất khác nhau đâu, chỉ vì hoàn cảnh xấu đã nhận chìm lương tâm họ đấy thôi (…) cùng một giống lúa đem gieo một lượt với nhau mà tới mùa gặt thì chỗ được nhiều lúa, chỗ ít, chính là do những nguyên nhân ở ngoài; đất chỗ này tốt, đất chỗ kia xấu, mưa và sương chỗ này đủ, chỗ kia không đủ, công săn sóc không đồng đều.[12]

I-nhã cũng đề cập đến sự “chông chênh” của con người trên hành trình vươn đến sự thiện. Một khi không còn “để mắt” đến cứu cánh, một khi để cho tình yêu đối với tạo vật lớn hơn tình yêu đối với Đấng Tạo Hóa, hay nói cách khác, một khi rơi vào những “quyến luyến lệch lạc”[13], con người đã đánh mất sự thiện, sự tốt lành, và đấy chính là tội. Chẳng thế mà chính những người Giêsu hữu đã đưa ra một định nghĩa thời danh về bản thân họ: “ Giêsu hữu cần ý thức mình là những tội nhân được Chúa yêu, và được mời gọi làm bạn đường của Ngài…”[14]. Định nghĩa này không nhằm chối bỏ căn tính thiện của con người cho bằng khẳng định tính bấp bênh trong ơn gọi làm người, trong cuộc hành trình tìm về sự thiện tột bậc của con người.

Vươn đến sự thiện trong hai chiều kích hướng thân và hướng tha

Về căn bản, cả I-nhã lẫn Khổng-Mạnh trước tiên đều nhấn mạnh đến tính cá nhân trong hành trình hướng về sự thiện. Khổng giáo đề cập đến tu thân trong hành trình làm người (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) trong đó chuỗi nhân đức “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” được xem là những công cụ chính giúp thành toàn cuộc sống. Nhờ gắn bó với những nhân đức này, con người theo Khổng Giáo sẽ đạt đến cái gọi là “quân tử”, “chính nhân” – một khuôn mẫu điển hình cho sự thành toàn của con người. Và một khi đạt đến sự chín muồi trong chiều kích hướng thân, người quân tử cũng tự khắc hướng tha trọn vẹn. Thật đặc sắc khi cách đó nửa vòng trái đất, mặc dù chưa có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa nhưng I-nhã Loyola cũng đưa ra một nhân sinh quan thú vị trong chiều kích hướng thân và hướng tha như sẽ được trình bày ngay sau trong khuôn mẫu “con người bình tâm”.

Người quân tử và người bình tâm – con người hướng thân

Trong Khổng Giáo, lễ được đặt giữa nhân, nghĩa và trí, tín giúp định hình nên một người quân tử có khả năng tu thân, tề gia, trị quốc, để rồi có thể bình thiên hạ. Hướng thân được hiểu như việc xây dựng “nguồn nội lực”, căn tính của chính mình để xứng hợp với nhân phẩm. Khổng Tử đề cao nhất chữ nhân, chính vì thế, quân tử được đồng hóa với con người thể hiện, sống cái “nhân” chân thật của mình. Xây dựng căn tính ấy đi đôi với việc bảo vệ nó, và Khổng Tử cho rằng bằng mọi giá phải bảo vệ cho được: “người sĩ có chí và người có đức nhân không cầu sống mà làm hại điều nhân, mà có khi hi sinh tính mạng để làm thành điều nhân.”[15] Có thể thấy rằng, trong chiều kích hướng thân, người quân tử ôm ấp mộng thành toàn, vượt trên những khen chê, tính toan của nhân thế để tìm đến cái “nhân” đích thực. Chính vì thế, người quân tử “luôn nghiêm khắc với chính mình, luôn truy tìm nguyên nhân ở chính mình”[16]. Dường như “họ sống giữa thế gian nhưng không thộc về thế gian”.

Mẫu người quân tử ấy có thể coi như “người bình tâm” trong Nguyên Lý Nền Tảng theo thánh I-nhã. Bình tâm chính là chiều kích hướng thân để giữ mình được tự do đối với mọi tạo vật, tuy sống giữa nhưng không thuộc về tạo vật. Hẳn ai cũng thừa nhận rằng trong con người luôn có những tình cảm quyến luyến; thánh nhân cũng “yêu người này nhiều hơn người kia”, ngay cả Chúa Giêsu khi sống trên trần gian cũng như thế. Tuy nhiên, vấn đề là, tình yêu “ưu tiên” ấy không mang đến sự loại trừ, tình yêu ấy không làm con người bị lệ thuộc vào đối tượng. Trong con người bình tâm, vẫn còn đó những khao khát, nghiêng chiều, vấn đề là con người ấy ý thức những nghiêng chiều đó, đón nhận chúng như một phần tất yếu của kiếp nhân sinh. Một khi đã đón nhận chính giới hạn của mình, con người ấy mới có thể vượt lên chính mình để “không ước muốn giàu sang hơn nghèo khổ, sức khỏe hơn bệnh tật, danh vọng hơn nhục nhã…” Con người ấy chỉ ước ao đảm nhận kiếp nhân sinh của mình cách triển nở nhất cho dẫu điều kiện bên ngoài là gì. Sự hợp nhất của hai mẫu người trong chiều kích hướng thân là đều thiết lập một thứ “thành trì” để bảo vệ sự tự do nội tâm trước bao tác động của ngoại cảnh. Ta lại bỗng thấy thấp thoáng trong con người bình tâm hình ảnh của người quân tử “đầu đội trời chân đạp đất”, không vì lợi danh, khen chê để rồi chà đạp nhân phẩm chính mình hay tha nhân. Chính cái “ngạo nghễ”, “dửng dưng” giúp người quân tử (cũng là con người bình tâm) không trở nên lệ thuộc vào thị phi, nhưng luôn “ngạo nghễ” tìm về Chân Lý, mưu ích cho đời.

Người quân tử và người bình tâm – con người hướng tha

Các nhân đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín một đàng giúp con người xây đạt đến sự trưởng thành nội tại, đàng khác giúp con người hướng tha. Trong cư xử với tha nhân, nhân nghĩa là yếu tố đầu tiên cần lưu ý đến để có thể mưu ích cho tha nhân, đặt tha nhân vào đúng vị trí mà nhân phẩm của họ đòi hỏi. Như thế, con người phải là một con người xã hội mới có thể có nhân nghĩa (và hẳn nhiên ba nhân đức còn lại cũng hòa hợp với hai nhân đức này trong cùng một chức năng).

Chiều kích hướng tha nơi người quân tử trước tiên được thể hiện qua chính hành động của họ, điều này quá hiển nhiên đến nỗi không cần đề cập ở đây, chỉ xin đưa ra ví dụ về “Kinh Kha và Nhan Hồi”[17] như hai kiểu (trong nhiều kiểu) bộc lộ về người quân tử. Mặt khác, không chỉ hệ ở hành động, tính hướng tha nơi người quân tử còn là một “sức mạnh lặng thầm” hoạt động theo cơ chế “hữu xạ tự nhiên hương”[18]. Sức mạnh ấy chính là lòng đạo đức. Một khi “người quân tử làm trong sạch chính mình từ bên trong, người quân tử đồng thời làm trong sạch cái không gian quanh mình…”[19], và Khổng Tử khẳng định điều này khi nói: “đức của người quân tử như gió, đức của người tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp xuống”[20]  Chính lối sống nhân nghĩa của người quân tử tự nó hướng tha, trở thành một động lực, một lời mời gọi cho hết thảy những ai tiếp xúc. Khổng Tử đã làm một phép so sánh về lẽ trị dân: “dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính.”[21] Theo lẽ này, cai trị bằng mệnh lệnh, uy quyền chỉ tạo nên sự bình an bên ngoài, nhiều khi mang tính giả tạo. Chỉ có cai trị bằng con tim, nhân nghĩa mới đem lại bình an đích thực. Khổng Tử trưng dẫn hình ảnh vua Nghiêu, Thuấn[22] như những điển hình trong lẽ trị dân bằng nhân nghĩa. Rõ ràng, người quân tử tìm thấy căn tính của mình trong chính mối tương quan với tha nhân, và quân tử chỉ có ý nghĩa trong mối tương quan ấy.

Tương tự, I-nhã không xem con người là một ốc đảo trong hành trình đi tìm về tuyệt đối, nhưng là một sinh vật có xã hội tính, đi về nguồn cội trong một cuộc đồng hành cùng tha nhân và muôn tạo vật khác. Con người trong Nguyên Lý Nền Tảng, trong hành trình ấy, luôn biết “chân nhận”[23] phẩm giá của tha nhân, của mọi tạo vật. Điều này thể hiện trong thuật ngữ “bình tâm”. Trong quan niệm của I-nhã, mọi vật đều có giá trị riêng của nó trước Đấng Tạo Hóa; do thế, mặc nhiên I-nhã thừa nhận sự bình đẳng trong tương quan người với người. Nhiều người tìm thấy trong câu: “Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật trong mức độ chúng giúp đạt tới ‘cứu cánh’[24], và phải loại bỏ khi chúng làm cản trở mình đến cứu cánh đó” một tinh thần vụ lợi, xem mọi thứ là phương tiện để giúp mình đạt được mục đích. Tuy nhiên thực tế không phải vậy. Chính yếu I –nhã muốn nhấn mạnh ở đây giới hạn mà mỗi người phải ý thức trong tương quan với tha nhân: biết dừng lại trước khi ta xâm phạm đến phẩm giá của tha nhân vốn đồng nghĩa với việc biến tha nhân thành công cụ của mình. Điểm này thể hiện trọn vẹn chiều kích hướng tha, vì một khi giữ được sự bình tâm cho bản thân, con người ấy sẽ giúp cho tha nhân quanh mình ý thức và đạt đến sự bình tâm về phần họ.

Mệnh đề cuối cùng trong câu đầu của Nguyên Lý và Nền Tảng đã chân nhận mọi vật đều có một cùng đích của chúng, và mọi tha nhân đều có một cùng đích của riêng mình, hẳn nhiên cùng đích ấy là sự thiện.  Mỗi người có thể “tận dụng” tương quan với tha nhân để đạt tới cùng đích của mình, vì vậy, tự khắc có một mối liên kết giữa mọi người trong hành trình hướng thiện. Chính ở điểm này ta có thể bàn rộng hơn: không có một vị thánh đơn độc trong Giáo Hội Công Giáo, không thể “làm thánh một mình” mà không giúp người khác cùng nên thánh (tất nhiên người khác có nên thánh hay không là điều ta không phải muốn là được) Ngay cả đối với trường hợp cá biệt của các thánh ẩn tu trong Giáo Hội Công Giáo (thánh Anthony tu cột) chẳng hạn. Các ngài có vẻ như chẳng làm gì cho người khác, nhưng con đường, linh đạo của các ngài đã trở thành nguồn hứng cho bao người trên hành trình nên thánh của riêng họ. Đây chính là đặc điểm của lối sống người quân tử “hữu xạ tự nhiên hương” như đã đề cập.

Quan niệm nhân bản của một người sống linh đạo I-nhã trong lòng xã hội Đông Phương – thay lời kết

Một tương đồng khá thú vị giữa Khổng Giáo và I-nhã thiết nghĩ nên trưng dẫn ở đây là vị thế của con người quân tử và người bình tâm trong hành trình nên thành toàn. Khổng Tử nhấn mạnh mẫu người quân tử là đích nhắm của việc tu thân, và đó chỉ là bước đầu trong cuộc hiện sinh của con người, bởi sau tu thân, người quân tử đi vào hành trình tề gia, trị quốc và bình thiên hạ (tất nhiên không luôn hẳn theo trật tự này nhưng có sự đan quyện). I-nhã cũng không xem “bình tâm” là đích đến của con người nhưng chỉ xem nó là điều kiện thiết yếu để con người vươn đến cùng đích mà mình được dựng nên. Có lẽ một người sống linh đạo I-nhã trong lòng xã hội phương Đông tìm được ở đây chìa khóa cho cuộc hội nhập. Tất nhiên ta không thể chối bỏ sự khác biệt giữa hai bên như đã đề cập ngay từ đầu: phương Tây nhấn mạnh đến lý trí (mind) trong khi phương Đông nhấn mạnh “con tim” (“heart”), mà rõ nhất có thể thấy: ngày nay phương Tây nhấn mạnh đến nhân quyền trong khi phương Đông vẫn nhấn mạnh đến nhân nghĩa, cách giải quyết vấn đề của phương Tây vẫn thiên về luật trong khi phương Đông vẫn nghiêng chiều về sự thỏa thuận trên tương quan tình cảm. Bên cạnh đó, trong tương quan giữa Khổng giáo và I-nhã, ta thấy Khổng giáo dường như chưa đề cao đủ vai trò của người phụ nữ khi quá nhấn mạnh hình mẫu người quân tử (trong khi đó I-nhã đề cập đến con người cách chung). Đặc biệt, cái nhìn của Khổng giáo chỉ giới hạn trong cuộc sống này (thiếu siêu việt tính) trong khi cái nhìn của I-nhã hướng về Thượng Đế.

Vậy có thể hội nhập như thế nào?

Trước tiên là chân nhận sự hòa hợp có thể có được như đã trình bày về bản chất con người, về tính hướng thân và hướng tha. Thật vậy, một lần nữa, ta khẳng định cho dù là ở tận đàng Đông hay xa mãi về phía Tây, con người luôn có những phẩm chất căn bản như nhau, có khác nhau chỉ là hiện tượng, và trong cách dùng câu từ để diễn đạt. Bởi thế, tất yếu có sự hài hòa nội tại khi ta bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài của hiện tượng và câu từ. Tư tưởng nhân bản trong Khổng Giáo hay trong linh đạo I-nhã (cụ thể trong Nguyên Lý và Nền Tảng) theo đó đều cùng chân nhận khởi phát của con người là lành thiện, và con người luôn khao khát vươn lên để thành toàn trong nhân cách, thành toàn nơi Đấng Tạo Hóa đã sinh ra mình. Trong hành trình ấy, con người phấn đấu để trở nên một “quân tử”, hay một “con người bình tâm” và điều này đặc biệt được nhấn mạnh trong chiều kích hướng tha.

Thứ đến, là một Giêsu hữu, ý thức cùng đích của mình là hướng về Thiên Chúa và đồng thời quy hướng mọi sự, giúp mọi thụ tạo cùng quy hướng về Ngài, thay vì xây dựng mình trở nên một con người bình tâm, tại sao không nghĩ về hình mẫu một người quân tử? Sống trong nền văn hóa Á Đông, thuật ngữ “sự bình tâm” theo I-nhã dễ làm cho người khác lầm tưởng là “dửng dưng với đời” trong khi tự bản chất nó gồm chứa những đặc tính nhân bản (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) trong Khổng giáo. Sá gì một tên gọi, ta đâu nhất thiết trung thành trên từng con chữ đối với linh đạo, điều cốt yếu là tinh thần, nội dung của linh đạo ấy vẫn giữ được trong một mô hình mới – mô hình người quân tử trong truyền thống Á Đông. Trong hoàn cảnh người ta nói nhiều đến hội nhập, đối thoại văn hóa để đưa con người ở những vùng miền khác nhau xích lại gần nhau, thiết nghĩ cách thích ứng nội dung nhân bản của Đông Phương trong một khuôn mẫu linh đạo được diễn tả qua Nguyên Lý Nền Tảng là điều khả thi và đáng khuyến khích. Điều này trong thực tế đã được chứng minh với nỗ lực của những Giêsu hữu Việt Nam với những “thánh lễ nhập thể”[25]. Thực tế, nỗ lực ấy chưa được đón nhận cách rộng rãi, nhưng thiết nghĩ có thể nó là một hướng hội nhập thiết thực chăng? Lời Chúa vẫn có thể được tìm thấy trong tư tưởng của các “thánh nhân” bên ngoài Kitô giáo, đó là điều mà hiện nay Giáo Hội đã đón nhận.

“Làm người, đó là mẫu số chung, những hình dung từ theo sau chỉ là phụ thuộc”. Một lần nữa, người viết xin được nhắc lại câu này để tóm kết một cái nhìn nhân bản cả Đông lẫn Tây, từ cổ chí kim, khi bàn đến con người với những khác biệt tùy nơi và tùy thời. Đông, Tây có khác nhau trong cách diễn đạt, cách nghĩ, từ đó định hình nên những cung cách hành xử khác nhau là điều đương nhiên vì mỗi nơi có một lịch sử rất riêng. Khác biệt là cần thiết để có cái nhìn mang tính chất bổ sung, để hiểu con người toàn diện hơn từ những góc nhìn khác nhau. Vấn đề là trong tất cả những nét riêng có thể thấy được mỗi người cần tìm đến để hội nhập thành một cái nhìn. Đây cũng là cách thức để hội nhất con người mình trong bối cảnh đa văn hóa, trong bối cảnh việc giao lưu và tiếp biến văn hóa diễn ra ngày càng sâu rộng (không chỉ giới hạn đơn thuần trong sự tiêp biến của một Giêsu hữu sống linh đạo I-nhã với Khổng Giáo Đông Phương).

Nguyễn Huy Hoàng S.J.


[1] Khổng Tử, Luận ngữ (Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu), Tp. HCM., Cty. Văn Hóa quận 11, 1995, trang 284.

[2] Human nature and human education on human nature as tending toward goodness in classical Confucianism, tài liệu học tập tại lớp.

[3] Kwong-loi Shun and David B. Wong, Confucian Ethics: A Comparative Study of Self, Autonomy, and Community, New York, Cambridge Unversity Press, 2004.

[4] Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử, Tp. HCM., NXB. Văn Hóa, 1996, trang 159.

[5] Bửu Kế, Từ điển Hán Việt từ nguyên, Tp. HCM., NXB Thuận Hóa, 1999, trang 81.

[6] Like father like son.

[7] Mỗi người dù tài giỏi hay không đều phải có trách nhiệm đối với sự  tồn vong của đất nước.

[8] Sở dĩ nói như vậy vì chữ nhân trong tiếng Trung Quốc có rất nhiều nghĩa.

[9] vi.wikipedia.org/wiki/Nho_giao

[10] Nguyên văn là Thiên Chúa

[11] Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử, trang 176.

[12] Như trên.

[13] Từ của I-nhã, nguyên ngữ tiếng Anh là “disordered attachment”

[14] Tổng Hội Dòng Tên thứ 32, nghị quyết 2, số 1.

[15] Như trên, trang 257.

[16] Như trên, trang 261.

[17] Kinh Kha là một anh hùng vì muốn giúp người dân thoát những chính sách hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên đã lên đường hành thích Tần Thủy Hoàng, việc bất thành nên vong mạng ở cung Tần Vương (Hàm Dương). Nhan Hồi là một học trò “cưng” của Khổng Tử, ông đã ăn phần cơm bẩn trong nồi để nhường phần cưm sạch cho thầy và các anh em khác, nhưng vô tình hành động đó bị thầy hiểu nhầm, tuy nhiên ông đã chấp nhận sự hiểu nhầm ấy.