Cao Cung Len -My Huyen .mp4 (Super HD)
httpv://www.youtube.com/watch?v=rp67E68-h_o&list=PL8071336FFEFFCDF6&index=16
HANG BE LEM -Hop Ca
httpv://www.youtube.com/watch?v=nrBEup4nRAA&list=PL8071336FFEFFCDF6&index=21
Xin cám ơn Anh Phung Tran gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=rp67E68-h_o&list=PL8071336FFEFFCDF6&index=16
httpv://www.youtube.com/watch?v=nrBEup4nRAA&list=PL8071336FFEFFCDF6&index=21
Xin cám ơn Anh Phung Tran gởi
Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)
Đăng bởi cheoreo lúc 1:24 Sáng 14/12/12

VRNs (14.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ 23/6/1990
Anh Lan mến,
Hôm qua, Công an Tp xuống “làm việc” sáng, chiều, và còn sáng nay. Tóm lại ba buổi
làm việc:
– Sự đóng góp của anh Lan vào ba bài giảng?
– Cho tin về Giáo Hoàng cuối bài 3?
– Soát tài liệu CT trong văn phòng, không có bài giảng, lại thấy trong nhật ký
anh Lan, như thế anh Lan đã góp ý và tài liệu cho bài giảng?
– Đôi khi có nhờ anh ấy tìm cho một tài liệu gì đó, tôi nhớ mà không tìm ra ở
đâu. Đó là bình thường.
– Có tham khảo anh Lan?
-Có đưa cho anh ấy xem. Anh không góp ý vì tôn trọng tôi. Có cho tin tức ngày
Giáo Hoàng ban phép lành cho Roma.
-Về vụ này, anh nói “tia hy vọng” đây là gì?
-Hy vọng giữa Giáo hội và VN có đối thoại trực tiếp không qua trung gian.
-Ai đánh mấy?
-Tôi nhờ cô Diệu, vì là nhân viên của tôi.
-Nhân viên từ hồi nào?
-Đầu tháng 5.
-Cô ấy bảo đã đánh cho anh đã lâu.
-Hồi đó tôi nhờ đôi khi, còn đầu tháng 5, tôi nhận làm nhân viên, nên cô ấy đánh
những gì tôi giao.
-Liên lạc của anh với cô Diệu.
-Câu hỏi kỳ cục. Tôi nhờ đánh máy và liên lạc nhân viên, chớ còn có liên lạc gì
nữa mà hỏi kỳ cục vậy.
–
Anh biết mẹ cô ta?
–
Có
–
Trước cô ta hay sau? Gặp ở đâu?
–
Sau. Gặp dịp liên hoan tết.
–
Đánh máy bao nhiêu bản?
–
Không nhớ.
–
Đánh để làm gì?
–
Cho người ta đọc chứ để làm gì?
–
Cho ai?
–
Ai cần biết nội dung đích xác.
–
Ai?
–
Không nhớ.
–
Có gửi cho anh Tri bên Pháp?
–
Không có gửi.
–
Sao lại có thư cho anh và khen anh? (thư nằm trong hộc).
–
Thì có ai đó gửi và anh ấy viết về.
–
Anh quen anh Tri hồi nào?
–
Năm ngoái.
–
Bạn của anh Lan?
–
Vâng.
–
Thư ấy gửi cho anh Lan hay cho anh?
–
Tôi không nhớ. Thường gửi cho anh Lan vì hai người ấy bạn thân từ bên Pháp.
–
Nội dung có hại cho đất nước.
–
Tôi làm theo lương tâm và vẫn xác tín là tôi làm cho nhân dân và Đất nước. Nếu
Nhà nước cho đó là xấu, thì Nhà nước cứ ra biện pháp, như biện pháp hiện tại.
Vì thế, tôi chấp nhận biện pháp đi đày và chỉ định cư trú. Nhưng không chấp
nhận lý do Nhà nước đưa ra.
–
Ba bài giảng đó, có ý đồ gì? Sao chỉ nói tiêu cực?
–
Tôi muốn giúp người dân ý thức tình trạng bi thảm của Đất nước hôm nay để người
dân cùng tôi góp phần vào việc thúc đẩy Nhà nước đổi mới.
–
Nếu có phần tích cực thêm thì được hoan nghênh.
–
Tôi không làm việc tổng kết để có cái hay cái dở. Tôi làm công việc bắt mạch
con bệnh để tìm cách chữa trị.
–
Anh có gửi đi ngoại quốc.
–
Tôi không gửi đi ngoại quốc.
–
Sao ông Dominic có thú nhận ở hải quan là anh đưa ba bài giảng khi anh và anh
Lan đến gặp ông ấy ở Phú Nhuận?
–
Tôi trao cho ông ấy xem ở đây chứ không gửi đi ngoại quốc. Đưa đi là việc của
ông ấy.
–
Đưa ông ấy để làm gì?
–
Ông xin tôi cho ông ấy để nghiên cứu.
–
Sao không nghiên cứu ở Tòa giám mục?
–
Chắc có. Nghiên cứu thì nghe nhiều tiếng chuông.
–
Anh biết ông ấy như thế nào?
–
Tôi biết ông ấy là linh mục dòng Tên đã từng dạy học ở Đà Lạt. Nhưng không quen
ông ấy.
–
Không quen sao gặp được ông ấy?
–
Sau mấy bài giảng của tôi, ông có viết vài chữ mời tôi đến.
–
Gặp mấy lần?
–
Một lần.
–
Có đưa cho người ngoại quốc nào nữa không?
–
Không.
–
Có gặp ai nữa không?
–
Có gặp một nhà báo Ý, tờ báo Il Regno.
–
Có đưa bài giảng?
–
Không.
–
Nói gì?
–
Ông ấy có đọc thư của tôi gửi Hồng y Etchegaray, nên ông muốn hỏi thêm cho rõ.
–
Tài liệu ngoại quốc do đâu?
–
Tôi đọc báo ngoại quốc, chỗ này chỗ nọ.
–
Ông Đỉnh và ông Tri có gửi báo?
–
Thỉnh thoảng có bài gì liên quan đến Giáo hội VN, các anh ấy có gửi photocopy.
–
Tri gửi cho anh hay anh Lan?
–
Nói chung là gửi cho anh Lan vì anh ấy là bạn của anh Lan.
–
Anh ấy có đưa cho anh xem?
–
Dĩ nhiên.
–
Còn anh Đỉnh gửi gì cho anh?
–
Có gửi thư anh ấy gửi cho CCFD (có trong văn phòng).
–
Liên hệ với anh Đỉnh như thế nào?
–
Đỉnh là học trò của tôi. Tôi thấy báo công an bảo Đỉnh là chủ nhiệm Nguyệt san
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở California là sai bét.
–
Ai gửi cho anh báo ĐMHCG mà người ta khám phá ra trong văn phòng anh?
–
Tôi không có liên lạc với báo đó. Nếu có một photocopy bài nào đó, thì do giáo
hữu nhận được từ bên kia rồi cho tôi một bản.
–
Ai cho?
–
Làm sao nhớ được. Vả lại nhiều lần họ gửi cho tôi trong lúc không có nhà.
–
Sau ba bài giảng, ông Trị có nhắn nhủ gì anh?
–
Ông cho biết Nhà nước không vui và yêu cầu tôi stop
–
Anh có làm theo?
–
Không, vì hôm Chúa nhật sau đó tôi còn nói một bài ở nhà thờ để giải đáp thắc
mắc: linh mục có được nói về chính trị không?
–
Nội dung?
–
Tôi nói: Giáo hội không làm chính trị, không nói chính trị vì chính trị, vì
đảng phái, nhưng có quyền và bổn phận phê phán chính trị khi chính trị không
phục vụ nhân dân.
–
Có gặp Dương Thu Hương?
–
Có.
–
Mấy lần?
–
Một lần.
–
Ở đâu?
–
Cô ấy đến thăm anh Lan và tôi được mời ăn cơm chung.
–
Có bàn gì?
–
Chắc cô nghe người ta bàn tán về bài giảng của tôi, nên có lẽ cô ta muốn biết
mặt tôi. Chứ chả bàn gì. Nói chuyện vui hoặc thời sự.
–
Có quen Lữ Phương?
–
Có.
–
Có gặp? Ở đâu? Quen như thế nào?
–
Có gặp ở văn phòng tôi. Trước kia anh đấu tranh ở Sài Gòn rồi vào bưng, nên
biết anh ấy hồi đó.
–
Có quen anh Đoàn Thanh Liêm? Có đến nhà? Có đi ăn đám cưới?
–
Có quen, vì làm việc với nhau trong công việc quận 3 nhờ làm kiều hối. Nhà,
chưa đến bao giờ. Có mời dự đám cưới, nhưng không đi vì bận.
–
Biết Cao Lập?
–
Cao Lập là sinh viên tranh đấu, ở tù, tôi đi nuôi với má anh. Nên anh biết ơn
tôi.
–
Có đến anh không? Gặp ở đâu?
–
Anh ấy không đến tôi. Tôi có đến nhà anh xem video.
–
Dịp phục sinh, anh, anh Lan và Cao Lập làm gì ở nhà anh Lan?
–
Gặp gỡ thường, ăn cơm chung.
–
Anh Lan có đọc cái gì về hiện tình đất nước?
–
Tôi không nhớ.
–
Anh làm gì trong câu lạc bộ kháng chiến cũ?
–
Tôi được mời đến tham dự.
–
Họ có giao công tác gì cho anh?
–
Anh Tạ Bá Tòng có nhờ tôi mời anh em Công giáo tranh đấu trước 75 gặp gỡ. Chỉ
có một lần rồi thôi, vì hình như Thành Ủy không tán thành.
–
Tài liệu kháng chiến cũ đâu mà anh có? Ai trao cho anh?
–
Tôi mua ở Câu lạc bộ.
–
Anh nghĩ thế nào?
–
Họ là những người 3, 4 chục tuổi đảng. Họ ao ước đất nước đổi mới.
–
Có gặp thường anh Tòng?
–
Không.
–
Anh tập họp cựu tu sĩ dịp Phục sinh?
–
Họ mỗi năm tổ chức tĩnh tâm và họ muốn ai thì mời giảng. Năm nay họ mời cha
Đào, nhưng ông ấy bận nên có nhờ tôi giảng.
–
Tĩnh tâm bao lâu, bao nhiêu người dự, anh giảng bao lâu?
–
Tĩnh tâm một ngày. Có khoảng 3, 4 chục người. Giảng nửa tiếng.
–
Nội dung?
–
Giảng về sám hối cá nhân.
–
Ai viết thư cho ông Bình và Hội đồng Giám mục?
–
Anh em bàn bạc trao đổi, rồi nhờ anh Hiên viết cho hàng giám mục, anh Thái viết
cho Đức cha Bình.
–
Anh có mặt.
–
Dĩ nhiên.
–
Các anh họp, anh Tri đến vì được mời?
–
Tình cờ anh đến từ giã đi Pháp.
–
Ai trao 2 lá thư cho anh Tri?
–
Anh em đang ký chưa xong, anh xin một bản. Chả ai trao.
–
Anh quen anh Điệp như thế nào?
–
Anh Điệp là học trò của tôi. Sau này, anh Điệp phụ trách dưới này, tôi cũng có
giúp vận động giáo dân đóng góp xây dựng hợp tác xã chế biến hải sản Cần Thạnh.
–
Anh có đầu tư?
–
Không. Do tiền mục sư Vinay, tôi có giúp gần một nửa số tiền 11 ngàn đô tôi
nhận được, phần khác giúp cho một trường học trên quận 3.
–
Anh có nhận viện trợ để giúp học trò nghèo.
–
Cho đến bây giờ, không. Tôi có nhờ giáo dân trong xóm tôi phụ trách làm một quỹ
nhỏ để giúp người nghèo.
–
Vụ cháy nhà anh xin viện trợ
-Tôi có gợi ý cho anh Trị và anh ấy đứng xin và họ đã cho như thấy đăng trên
báo.
-Anh quen anh Dong hồi nào?
-Không nhớ. Anh em linh mục quen nhau là sự thường.
-Anh Dong mời anh làm lễ?
-Không, tôi lên chơi thấy đôi khi ông bận hay đau như hồi bị tai nạn xe hơi, tôi
gợi ý giúp. Và anh ấy chấp thuận.
-Có gặp trước khi về Duyên Hải?
-Có, tối trước đó, có hai linh mục ở xa về lãnh tiền Thanh Hương tổ chức buổi
cơm thân mật tại nhà anh Dong.
-Còn mấy ông Ý, Diễm, Định?
-Cũng thỉnh thoảng gặp gỡ, bồi dưỡng, giải trí.
-Tại nhà anh Dong anh có trao đổi cho ông Diễm một tài liệu về sinh viên cựu
kháng chiến?
-Tôi không nhớ.
-Tôi đã theo dõi hoạt động của anh trước 75 và thán phục, nhưng tôi thắc mắc lý
do gì anh thay đổi như vậy?
-Tôi trước sau như một. Tôi không thay đổi. Trước cũng như bây giờ, tôi chỉ nghĩ
đến Đất nước, đến nhân dân. Luôn luôn vì nhân dân mà tôi phấn đấu, bất chấp
nguy hiểm. Nếu tôi muốn hưởng thụ thì quá dễ. Tôi và anh Lan là hai người đã
đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu như anh biết. Sau giải phóng tôi muốn hưởng chế
độ này thì có gì khó. Vì sao đến tuổi 70 này mà còn lên tiếng nói thẳng, nói
thật để phải gặp khó khăn? Vì dân, vì Đất nước.
-Những điều anh nói trong bài sám hối, có khi nào anh nói với cấp lãnh đạo?
-Có. 5 năm ở Mặt trận Trung ương, 4 năm ở Mặt trận Tp và trước Đại Hội Đảng 6,
tôi đã lên tiếng với cấp trên. Nhưng đâu còn đó. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Một mình tôi nói không đến đâu. Tôi phải giúp kẻ
khác ý thức để nhiều người nói để giúp Nhà nước đổi mới. Chính vì lý do đó mà
tôi đánh máy các lời phát biểu, những bài giảng để nhiều người ý thức.
-Khi nghe Trần Xuân Bách bị loại, nhà dòng anh có ý kiến gì không?
-Cũng như tất cả người dân khác, khi nghe tin đó, thì cũng bàn tán qua loa vậy
thôi.
– Anh có gửi ba bài giảng cho anh Phụng mang ra Bắc? bao nhiêu bản?
-Anh Phụng ra Bắc không mang theo. Nhưng vì giáo dân ngoài Bắc xôn xao về ba bài
giảng, anh Phụng xin một bản để cho người ta nắm vấn đề chính xác hơn. Anh
Phụng có gửi thư cho tôi (thư nằm trong ngăn kéo).
-Anh gửi ra, mang đi?
-Anh Phụng có giới thiệu 1, 2 người sắp ra Bắc. Tôi có nhờ người mang đến chứ
tôi không gặp họ, nên không biết ai.
-Các giám mục đọc bài của anh có ý kiến gì không?
-Tôi không rõ, vì không gặp ai.
-Ông Nhật có ý kiến gì?
-Tôi cũng không rõ.
-Anh quen với N.V.Ân như thế nào?
-Anh ấy trước có đấu tranh trong phong trào Thanh Lao Công. Nay là giáo dân họ
đạo chúng tôi.
-Anh có thắc mắc với UBĐK? Vấn đề cá nhân?
-UBĐK là một tổ chức của chính quyền. Tôi không có ý kiến. Nhưng khi Ủy Ban đó
can thiệp vào những vấn đề nội bộ Giáo hội, đứng trên cả giáo quyền để thao
túng và làm trung gian giữa Giáo hội và Nhà nước, một thứ trung gian nịnh thần,
tôi phản đối. Tôi muốn giữa Giáo hội và Nhà nước có một sự trao đổi trực tiếp
để xây dựng Đất nước và giải quyết những trục trặc, những khó khăn.
Làm việc trọn ngày 22 và thêm sáng ngày 23/6/1990. Sau đó, có anh Điệp, phó công an huyện, phó công an xã, đại úy Hoàng và ông Lê Minh Cảnh, trưởng phòng PA 16 của Sở Công an, mời tất cả đứng lên để nghe quyết định của UBND Tp ký ngày 6/7/1990 về việc “quản chế công dân Nguyễn Tín”.
1.Phạt quản chế tại Duyên Hải, xã Cần Thạnh, trong thời gian 3 năm, kể từ ngày
lấy quyết định (7/6/1990).
2.Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: tuân các quy định địa phương; chỉ đi lại
trong xã Cần Thạnh, muốn ra ngoài xã phải có phép Công an xã, trường hợp đặc
biệt phải có Công an huyện hoặc Công an thành phố; không được hành nghề tôn
giáo; trình diện Công an xã 15 ngày một lần.
3.Mất quyền công dân trong thời gian quản chế.
4.Chính quyền địa phương, đoàn thể tổ chức thi hành quyết định dưới sự điều hành
của Giám Đốc Công an Tp.
5.Những người trách nhiệm thi hành…
Trên đây là nội dung 3 buổi làm việc với trưởng phòng PA 16 của Sở Công an Tp và
quyết định mới của UBND Tp.
Tái bút: Ông Cảnh: Anh đã được ông Thứ trưởng Nội Vụ cảnh cáo, được anh Trị lưu ý, thế mà ngày chủ nhật sau, anh lại nói thêm một bài chính trị. Như vậy là liều thuốc
không còn hiệu nghiệm. Nhà nước đã cho một liều khác mạnh hơn: chỉ định cư trú
và quản chế tại Cần Thạnh.
Chân Tín: Bài sám hối của tôi cũng là liều lượng mạnh cho Nhà nước, khi mà những
điều tôi đã nói với cấp trên từ trước không còn hiệu nghiệm.
(Hai người cùng cười).
Lm. Chân Tín
(NKNNL 1990-1991, trang 32-38)
Hệ lụy gia đình – nhà trường
TRẦM THIÊN THU
Đăng bởi pleikly lúc 12:07 Sáng 14/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com
VRNs (14.12.2012)
– Sài Gòn – Quả là chí lý khi tục ngữ khuyên “dạy con từ thuở còn thơ”.  Trước khi viết, vẽ, các nhà văn, nhà thơ và họa sĩ phải “thai nghén”  ý tưởng đến chín muồi mới thể hiện ra trên giấy. Nếu sai, dù có tẩy xóa khéo  léo cũng không thể hết dấu vết. Nicolas Boileau nói: “Trước khi viết, hãy học  suy nghĩ” và chỉ có suy nghĩ người ta mới khả dĩ có được phương thức khả thi và  hiệu quả. Thật vậy, “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, mà có phương  pháp thì người thường cũng làm được điều phi thường”. Huống chi là giáo dục,  một công việc và một nghệ thuật, đào tạo một con người ắt là điều tối quan  trọng với trang giấy trẻ. Giáo dục không chỉ đơn thuần là nuôi con cái đầy đủ  về vật chất, mà giáo dục chủ yếu nhằm giúp con cái trở nên người hữu dụng, một  công dân tốt cho gia đình, cho xã hội, đất nước và cho giáo hội (với những
người có tín ngưỡng). Chúng sẽ là những người cha, người mẹ trong tương lai. Vậy
thì về tâm sinh lý, trưởng thành nghĩa là biết dẹp bỏ “cái tôi” để biết vì  người khác. Cái Tôi là đáng ghét.
Giáo dục nền tảng là giáo dục gia đình. Nhà giáo dục Mỹ – ông Ragan, đã nói: “Nhà trường đầu tiên là gia đình và người thầy đầu tiên là mẹ”. Như vậy, người mẹ rất quan trọng đối với trẻ, vì vốn dĩ nữ tính là hiền từ và dịu dàng. Phụ nữ nào hay nóng nảy, gắt gỏng, nhỏ mọn,… là thiếu tố chất cần thiết trong thiên chức làm mẹ và làm bà (nội,
ngoại). Giáo dục tốt, cha mẹ sẽ hãnh diện và hạnh phúc thấy con cái ích nước,  lới nhà, hiếu thảo. Vâng, giáo dục là một thiên chức, một trọng trách khó khăn  nhưng cao cả. Không ai lại không ảnh hưởng và thừa hưởng di sản văn hóa của  tiền nhân, dù chỉ là vô thức. Bên cạnh nền giáo dục đó, chúng ta cần cập nhật hóa  phương pháp giáo dục cho hợp với hoàn cảnh xã hội của thời đại mới, dù vẫn biết  phương pháp nào cũng có ưu và khuyết điểm. Thế nên, chúng ta phải chọn lựa kỹ  lưỡng và chính xác các điểm tối ưu khả thi.
Song song, sự ảnh hưởng quan trọng khác nữa là nền giáo dục của xã hội, của người thầy. Cùng lúc, trẻ nhận hai nền giáo dục của gia đình và nhà trường. Cả hai đều hỗ trợ toàn diện cho nhau. Nhờ đó, sau khi xa gia đình, xa trường lớp, con người đủ sức khả thi vai trò một con người bản lĩnh. Con người đó, sau bao năm dùi mài kinh sử, đủ kiến thức cơ bản và đủ tư cách làm người, sau những năm tháng học đạo làm người ở gia đình. Rồi con người đó lại tạo lập một gia đình mới – tế bảo cơ bản của xã hội và đất nước.
Ngày nay, nhiều khoa học mới lạ được mở ra về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, giáo dục học, phấn tâm học, xã hội học, là những khoa học có thành tựu nghiên cứu về giáo dục con người. Do đó, trẻ ngày nay tiếp nhận nền giáo dục theo phương pháp khoa học khác xưa rất nhiều, bớt phần nghiêm khắc. Kiểu “gọi dạ, bảo vâng” hoặc “đặt đâu ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Thế nhưng, ngày nay các phụ huynh lại quan
ngại về con cái nhiều hơn, nhất là đến tuổi trưởng thành. Đôi khi phụ huynh như
cảm thấy bất lực trong việc giáo dục con cái. Phải chăng gia đình và nhà trường
có lối giáo dục mâu thuẫn?
Vì “chạy đua” nhà trường đã “nhồi nhét” kiến thức để học sinh chán ngán và đuối sức (tinh thần và thể lý). Nhà trường quá chú trọng vào việc lấp đầy kiến thức mà quên dạy học sinh làm người hữu dụng, môn công dân giáo dục bị mờ nhạt trước các môn khoa học khác. Đồng thời, cha mẹ thiếu quan tâm đầy đủ vì công việc thường nhật, lo kiếm tiền nhiều đến nỗi đuối sức và không còn thời gian dành cho con cái. Rất nhiều học sinh đã than vì sự “khập khiễng” đó. Thật vậy, phương pháp sư phạm và sách giáo khoa cứ thay đổi liên tục, học sinh phải “xoay” theo, còn cha mẹ không có kiến thức phù hợp nữa: quan niệm, phương pháp học và làm bài đều lỗi thời. Hai luồng giáo dục bỗng bị “lệch pha”. Nhiều phụ huynh đã chê trách lối nhồi nhét của nhà trường. Gia đình và nhà trường cứ “khoán trắng” hoặc đổ lỗi cho nhau. Học sinh thì mỏi mệt vì 3 “món” tương tự nhau: học chính khóa, học phụ đạo và học thêm. Việc học kín hết thời gian, không còn giờ giải trí hoặc tự học để “tiêu hoá”. Ngay cả giờ ăn cũng vội vàng. Có học sinh phải “thổi kèn” (ăn bánh mì) cho… kịp giờ!
Việc học biến thành cuộc chạy đua, học sinh buộc phải là “những tay đua” nhưng có thể là “những tay đua… kiệt sức”. Vì thế, học cho qua giáo trình, điều đọng lại không bao nhiêu, tạo ra nhiều lỗ hổng kiến thức. Gia đình càng phải kiếm tiền bằng mọi cách để con cái khả dĩ đi học. Học sinh cứ loay hoay với mớ kiến thức từ chương, hối hả lo lắng học thi, chỉ làm giàu cho một sổ giáo viên cuối cấp và những lò luyện thi. Thật
tức cưới khi họ quảng cáo là “Bảo đảm thi đậu” hoặc “không đậu không nhận học  phí”. Chẳng qua là “lừa bịp” những người “nhẹ da cả tin”. Phương pháp học như  thế chỉ là vô bổ. Thậm chí, có khi sách giáo khoa còn sai “nghiêm trọng”. Dục Tử nói: “Biết là hay mà không tin, đó là Dại. Biết là dở mà không sửa đó là  Mê”. Giáo dục đã bị thương mại hóa!
Trước sức ép tiêu cực của xã hội bằng văn hóa đồi trụy: ma túy, và ma lực vật chất, con cái chúng ta khó đứng vững vì còn trẻ người non dạ, ăn chưa no lo chưa tới. Sự không đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường khiến trẻ mất niềm tin nơi cha mẹ, dễ sống buông thả, đua đòi. Và ngay cả lòng tôn sư trọng đạo đối với người thầy
cũng giảm sút nhiều. Thế nhưng, cha mẹ và người thầy cũng cần xem lại chính  mình. Vì người trên dễ dãi quá thì người dưới sẽ coi thường. Thân quá hóa nhờn!
TRẦM THIÊN THU






Hy vọng
Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp
Sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.
Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn Giải”
(Câu 978 trang 385)
Cố Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận

Một tân tòng giữ lời hứa với Đức Mẹ
Phan Văn Sỹ
12/11/2012 
nguồn: Vietcatholic.net
Rửa Tội Cho Một Tân Tòng Trong Cơn Nguy Kịch hay Người Thợ
cuối cùng Vườn Nho Nhà Chúa “

Vào lúc 4:00 PM. Ngày 6 Tháng 12 năm 2012, những ngày bước vào Mùa Vọng, cha Giám Đốc Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas Giuse Đồng Minh Quang cùng một số anh chị em thuộc hai Hội Đòan Các Bà Mẹ Công Giáo và Hội Hồn Nhỏ thuộc Cộng Đòan Đức Mẹ La Vang đã đến nhà anh Hồ Long tại số 5592 W. Twain Avenue
Las Vegas NV. 89103 để cùng tham dự buổi lễ Rửa Tội đặc biệt cho anh Long.
Anh Hồ Long bị bệnh ung thư phổi giai đọan ba, bác sĩ điều trị đã bó tay không
thể chữa trị vì ung thư lan rộng khắp nơi, lên cả não bộ. Anh gọi điện thọai
cho chúng tôi ngỏ ý muốn theo đạo. Anh kể lại khi còn ở Việt Nam, nhiều lần đến
nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng và khấn xin nhiều việc tại núi Lộ
Đức. Anh được Đức Mẹ nhận lời, anh hứa với Đức Mẹ nếu anh nhận được những ơn Mẹ chuyển cầu, anh sẽ theo đạo.
Cuộc đời dong duổi bôn ba nhiều nơi, nay qua đến nước Mỹ, đã nhiều lần anh đến
tham dự Thánh Lễ tại Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas. Lời hứa năm xưa vang vọng
trong tâm khảm anh, không ngờ anh lại gặp lại Mẹ năm xưa tại Đền Thánh. Anh ao
ước được rửa tội để theo đạo như lời anh đã hứa với Mẹ năm xưa, vì anh rất mến
yêu Mẹ và biết ơn Mẹ vì những ơn Mẹ chuyển cầu trao ban.
Cha Giám Đốc đã nhờ một số anh chị em trong Hội Hồn Nhỏ và Các Bà Mẹ Công Giáo
đến gặp gỡ anh và hướng dẫn anh về giáo lý cũng như phép đạo, biết là anh bệnh
nặng, khó qua và không thể kéo dài việc hướng dẫn. Ban Giáo Lý sau hai lần đến
thăm và hướng dẫn anh rồi về trình cha Giám Đốc xin quyết định, vì sức khỏe anh
càng ngày càng suy sụp, sợ anh ra đi sớm, không kịp cứu linh hồn anh. Cha Giám
Đốc đã quyết định hôm nay đi cùng một số giáo hữu đến để cử hành Bí Tích Rửa
Tội cho anh.

Điều cảm động nhất là sau khi Rửa Tội, cha Giám Đốc hỏi anh có gì muốn nói không ? Anh súc động kể hành trình gặp gỡ Mẹ khi ở Việt Nam đến Dòng Chúa Cứu Thế để khấn xin ơn và được Mẹ nhận lời. Anh nói nguyện sẽ theo và giữ đạo suốt đời, nguyện xin Vâng như Mẹ để theo Chúa, mặc dù cuộc sống rất vắn vỏi. Khi anh chị em ban Giáo Lý đến hướng dẫn anh, tặng anh bức tượng Đức Mẹ có giây đeo, anh vui mừng kính cẩn chòang đeo ngay vào cổ như nhận được một báu vật quí giá anh yêu mến.
Thấy đức tin của anh và lòng yêu mến Đức Mẹ của anh, hai Hội Hồn Nhỏ và Các Bà
Mẹ Công Giáo đã chung mua bức tượng Đức Mẹ La Vang đem đến nhà tặng anh. Cha
Giám Đốc sau khi rửa tội cho anh đã làm phép bức tượng và trao bức tượng cho
anh, anh kính cẩn, trân quí ôm trên lòng, mặc dù sức khỏe thật yếu, không nâng
nổi đầu lên để nhận phép rửa tội.
Sau nghi thức rửa tội, mọi người ra về và dâng lời nguyện xin cho anh: “ Xin cho anh được ơn chữa lành hoặc vâng theo thánh ý Chúa “. Trên đường về Đền Thánh Mẹ để cùng nhau tham dự giờ chầu Thánh Thể và hiệp dâng Thánh Lễ, chúng tôi vẫn tiếp tục dâng lời cầu nguyện cho anh và chia mừng với anh vì anh là người thợ vườn nho cuối cùng vẫn được nhận lãnh 1 đồng tiền công như người thợ làm vườn từ sáng sớm./.
Mùa Vọng năm 2012
Phan Văn Sỹ
Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói
Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979
đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ
cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm
trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám
ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao
lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một
phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không
có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta
biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng
càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.
Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.
Anh chị Thụ & Mai gởi
và Từ hnkimnga
Học cách quên
Đời người không phải lúc nào cũng được như ý, muốn bản thân vui vẻ, đôi khi việc giảm áp lực cho chính mình là điều cần thiết và cách để giảm áp lực tốt nhất chính là học cách quên, bởi trong cuộc sống này có những thứ cần nhặt lên và bỏ xuống đúng lúc.
Cuộc đời con người giống như một cuộc hành trình dài, không ngừng bước đi, ven đường nhìn thấy vô vàn phong cảnh, trải qua biết bao những gập ghềnh, nếu như đem tất cả những nơi đã đi qua đã nhìn thấy ghi nhớ hết trong lòng thì sẽ khiến cho bản thân mình chất chứa thêm rất nhiều gánh nặng không cần thiết.
Sự từng trải càng phong phú, áp lực càng lớn, chẳng bằng đi một chặng đường quên một chặng đường, mãi mãi mang một hành trang gọn nhẹ trên đường.
Quá khứ đã qua, thời gian cũng không thể quay ngược trở lại, ngoài việc ghi nhớ lấy những bài học kinh nghiệm, còn lại không cần thiết để cho lòng phải vướng bận
thêm. Sẵn sàng quên đi là một cách cân bằng tâm lý, cần phải chân thành và thản
nhiên đối mặt với cuộc sống. 
Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để
trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác. Rất nhiều người thích câu thơ : “Xuân có hoa bách hợp, thu có trăng. Hạ có gió mát, đông có tuyết”.  
Trong lòng không có việc phải phiền lo mới chính là mùa đẹp của nhân gian.
Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp.
ST
Anh chị Thụ & Mai gởi
Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)
Đăng bởi cheoreo lúc 1:46 Sáng 12/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (12.12.2012) – Sài Gòn – Cần Giờ 15/6/1990
Anh Lan, chị Vân và bé Chi Thương,
Ngày mai, 16/6/1990, chúng ta ăn  mừng “đầy tháng” đó. Phải, chúng ta mừng vì đã sống cho Giáo hội và cho dân tộc, mình được bằng khen do miệng Caipha như anh nói: ngày họ đọc lệnh quản chế và lục soát nhà anh, ngày họ trục xuất tôi ra khỏi “hội đường” Kỳ Đồng, ngày chị Vân được giấy cho nghỉ việc vì lý do những gì xảy ra ngày 16/5, mặc tổ Tin đã nói lên tình thương và cảm phục của tất cả các tổ viên đối với chị Vân. Như vậy, mình không vui sao được, không mừng sao được. ngày mai tôi sẽ đồng tế “chui” với anh Điệp (mình dự lễ như một giáo dân và dâng lễ) để tạ ơn Chúa cho
chúng ta. Và sau đó sẽ mở chai rượu cabernet anh gởi cho hôm nọ, để cụng ly
mừng ngày “đầy tháng”. À rượu cabernet của anh, như vậy chứng minh tôi điều độ
lắm đó: bữa ăn trưa có 3 người mà có 2 lon bia. Bữa ăn tối, một ly nhỏ rượu nếp
than của anh Điền TS Châu gửi biếu. Anh thấy tôi ngoan chưa? Thôi chúng ta trở
về với những chuyện nghiêm túc hơn. Hôm nay, đọc lại không biết lần thứ mấy lá
thư 31/5 và 4/6 anh gửi cho tôi, cũng như lá thư 3/6 anh gửi cho bé Lan Chi.
Trước hết, khi đọc những đoạn nói về những buổi “làm việc” kéo dài ngày này qua ngày khác của bạn hữu ta cũng như việc nhốt cachot “bé bự D.” Trong khi đó không hỏi “thủ phạm” chính một câu nào, thì rõ là giận cá chém thớt, hành hạ những người bạn của ta vô tội như ta. Có người bảo một nhân vật nào đó trong chính quyền nói rằng CT giăng bẫy để nhốt CT mà họ không mắc bẫy, họ chỉ cho về nhà Dòng Chúa Cứu Thế Duyên Hải. Tôi chắc tất cả các bạn đã chấp nhận chia sẻ với anh em ta.
Với ngày 16/5, vị trí của anh em ta trong lòng Giáo hội và dân tộc càng rõ nét đối với mọi người xa gần… Trong nước cũng như nước ngoài, ngoại cũng như đạo, đảng viên cũng như không đảng viên. Tôi tạm gọi anh X, Y, Z người có tên trong thư (cả 3 đảng viên): “Cha ơi biết nói gì đây, khi chúng con để cho cha, một người cha 70 tuổi, suốt đời chỉ vì tình thương đối với con người mà phải sống cảnh đày ải như hôm nay? Anh em luôn luôn nghĩ và hiểu về cha, xem cha là cha của mình. Cha can đảm vì bên cha
còn bao nhiêu tấm lòng, bao trái tim luôn luôn nhớ đến cha. Anh Z đã nói về cha
đã khóc với con, nước mắt của anh Z là nước mắt của chúng con. Không thể nói
nhiều nhưng cha hiểu chúng con luôn luôn nghĩ đến một xã hội có tự do, có hạnh
phúc và phải làm cho bằng được điều đó, nếu không thì có tội với bao thế hệ mai
sau. Cha an tâm và giữ gìn sức khỏe. Ba mẹ và X đòi đi thăm cha, nhưng anh em
không cho. Hôn cha ngàn cái hôn yêu thương và cảm phục.” Y.
Đọc thư trên, tôi không cầm nổi nước mắt. Khóc vì tình thương của con người ngoại đạo dành cho tôi và anh, cho tất cả những ai “thụ nạn” vì nhân dân. Khóc vì mừng có những người thiện tâm như X, Y, Z trong những đảng viên. Có khác với bà giám tỉnh nào đó anh nói trong thư.
Rất hiên ngang và rất thương “người cộng tác đắc lực” của anh và như thế cũng là của tôi. Xin dành sự cảm phục và tình thương có thể có được cho chị Vân. Nhất là dành cho chị nhiều kinh nghiệm để chị cứ công tác đắc lực cho anh và cho tôi. Ngoài kinh Phụng vụ, tôi suy gẫm Lời Chúa (từ ngày về suy niệm Thư Galát và Philip) liên qua đến thánh Phaolô bị đày và tù tội, tôi cầu nguyện cho anh, cho chị Vân, cho bé Chi cũng đang tù tại gia, cũng như cầu cho tôi, người tù tại gia với người “cai tù” nhân hậu là anh Điệp, tương tợ thánh Phaolô ở Rôma. Phaolô ở hai năm như vậy, trước khi bị chém đầu ở Trefontane. Tôi không biết tôi có vượt Phaolô về năm tháng hay không.
Nhưng, như tôi đã viết cho anh: lúc nào họ trả tự do cho người “cộng tác”, “thủ
phạm” chính mới có quyền ra khỏi chốn tù đày.
Thấy anh, “người cộng tác đắc lực” phải đi làm việc mỗi tuần với “bạn dân”, trong khi tôi không ai hỏi một câu, trừ vụ công an đến nhà thờ yêu cầu tôi không được làm lễ và giảng (tôi chủ tế và giảng ngay ngày 16/5, lúc mới xuống Duyên Hải và trong 4 ngày đầu), tôi rõ không muốn bịt miệng tôi và khủng bố bạn bè và “người cộng tác đắc lực”.
Hôm nọ, được thư anh VKP cho biết: “Ở Hà Nội, nói chung là dè dặt kể cả các vị có uy tín như cha Oánh… cho rằng không nên nói mạnh làm gì (điều này trước 16/5). Ở Bắc Ninh và Hải Phòng thì lại có vẻ rất nhiệt tình đối với tôi và anh. Đức cha Cương nhờ VKP chuyển lời với anh: “Tôi không được quen ông, nhưng rất hoan nghênh ông.” (Những vụ  tiếp xúc với BN và HP đều trước 16/5). Đó là phía giáo sĩ. Giáo dân Hà Nội rất nhiệt tình, chuyền tay nhau bản tin của báo nhân dân và xuýt xoa. Đến bây giờ thì có những người lúc thường không mấy để ý đến vấn đề này, nhưng từ nay “cầu nguyện cho cha Chân Tín” đều đều. Có người thuộc thành phần tích cực thì phát biểu:
“Lúc này mà các giám mục không lên tiếng thì chờ lúc nào?”
Nhân đám tang Hồng Y Căn. VKP có gặp Đức Tổng ở Hà Nội. Anh nói với ngài “Mấy hôm nay Đức Cha có điều gì buồn phiền không?”
– Tôi buồn phiền lắm chứ. Giáo dân nó viết thư đến TGM phê bình tôi không lên tiếng như Đức Cha Điền, Đức Cha Thuận, thật các cha Dòng Chúa Cứu Thế làm tôi tổn thọ quá.
– Đức Cha tính lên tiếng như thế nào?
– Tôi biết lên tiếng làm sao bây giờ? Thôi để tôi về Sài Gòn, rồi bàn với mấy cha xem sao.
Đức Cha im tiếng (chắc đã về Sài Gòn bàn với mấy ông Đoàn kết), UBĐKCGYN cũng im tiếng tuyệt đối. Tờ Công giáo và Dân tộc không những im tiếng mà còn đi dự cấm phòng các linh mục ngóng xem cụ Lịch sẽ thông tin như thế nào. Đủ loại tin tức bên Tây, bên Bỉ. Nhưng không có một tiếng về vụ Chân Tín. Cho tới bây giờ chưa có gì mới.
Hôm cha Điện đến cứu đói với quận 10 có ghé nghỉ mưa và có nói: trong buổi họp 50 linh mục, tu sĩ, giáo dân, cụ Lịch có hỏi hai câu: “Ông Lan cộng tác đắc lực có cái gì rõ ràng không? Ông CT thanh minh hôm Chúa nhật về việc ông giảng về sám hối có làm chính trị không?” Điều này không biết cụ Điện có nói đúng hay không? Nhưng thái độ im lặng mà anh P nói là cái im lặng đồng lõa với những ai bắt bớ anh em ta.
Hôm nọ anh Điệp lên Đức Tổng, để yêu cầu ngài can thiệp, lên tiếng. Nhưng tôi cản. Dù vậy, khi anh Điệp lên có việc, thì Đức Tổng hứa sẽ về Duyên Hải thăm tôi. Có đi thì hỏi Ban Tôn Giáo và mấy ông Đoàn kết? Mình cũng không mấy muốn ngài xuống thăm.
Chúc anh chị, cháu Chi bình an trong Chúa.
Lm. Chân Tín
(NKNNL 1990-1991, trang 22-24)
TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG
(Trích tập san GHXHCG số 4)
►Mẩu Bút Chì
nguồn: conggiaovietnam.net
Người ta thường bảo rằng những người tân tòng được Chúa đặc biệt yêu thương. Đó là một màu nhiệm, tôi không hiểu thấu. Nhưng tôi biết chắc một điều: tôi là một tân tòng và tôi được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi.
Tôi biết Chúa khi đã trưởng thành, đó là ơn Người ban cho tôi theo nghĩa Người cho tôi có cơ hội trải nghiệm hai trạng thái tâm linh: Sống chưa biết Chúa và sống có Chúa.
Khi chưa biết Chúa, tôi chưa biết khái niệm “dấn thân”, chỉ biết “ở hiền gặp lành”, “làm phước gặp may”, “bố thí’, “từ thiện”…, nghĩa là mở lòng THI ÂN với đời.
Khi đón nhận bí tích thanh tẩy, quả là tình thương và ân sủng Chúa đổ đầy hồn xác tôi. Chúa gần tôi như hơi thở. Người nghe lời thủ thỉ của tôi và tỏ hiện cho tôi biết lòng thương xót của Người. Đã có thời tôi khao khát: nếu chưa lập gia đình, tôi nguyện sẽ
đi tu. Tôi đắm chìm trong nguyện cầu, Thánh Lễ,  Lời Chúa và sự hướng tâm nên Thánh. Tâm hồn tôi tràn ngập bình an, thanh khiết.
Thời ấy, tôi dự lớp Kinh Thánh mấy khóa liền, nên cầu nguyện rất thạo và Lời Chúa gần như nằm lòng. Ưu tiên số một cho đời sống tâm linh, các thực thể trần gian, các mưu cầu vật chất đối với tôi dường như rất nhẹ. “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình” – tôi muốn từ bỏ tất cả để đi theo Ngài trọn vẹn. Với lòng sốt sắn ấy, Chúa đã dùng tôi để hoán cải nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh, và đưa nhiều người trở về nhận biết Chúa, trong đó có bà, cha mẹ và một số anh chị em ruột của tôi. Linh hồn tôi chứa chan vui sướng, và không ít lần nước mắt ràn rụa trong niềm cảm tạ.
Nhưng rồi tôi phải đối mặt  với nhiều sự xung đột trong cuộc sống: có người ngưỡng mộ, ước muốn được như tôi, nhưng gánh nặng cơm áo trĩu vai, đầu tắt mặt tối lo không trọn, thời gian đâu nghiền ngẫm Kinh Thánh, tham gia nhóm cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa hay làm công việc bác ái như tôi. Và họ buồn lòng lắm, cứ như là cánh cửa Nước Trời đã đóng lại trước mắt. Nhưng cũng có người diễu cợt rằng tôi sống như “người cõi trên”, xa rời thực tế… Những ý kiến ấy cũng không mấy quan trọng, mà quan trọng là chồng và con tôi dần dà thấy không vui, muộn phiền khi tôi thường
xuyên vắng nhà, đi cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa khi gần khi  xa, bỏ lỡ công ăn việc làm cũng như không thể chu toàn bổn phận gia đình cho tươm tất. Bởi lúc ấy trong nhận thức của tôi, ngoài việc đem lời Chúa đến với mọi người (theo nghĩa đen), tất cả là thứ yếu. Có lẽ tôi đã hiểu quá cạn nghĩa của hai tiếng “từ bỏ” và “nên Thánh” trong Lời Chúa.
Lương tâm tôi giằng xé dữ dội. Làm sao cho trọn vẹn? Lời Chúa mời gọi tôi dấn thân, loan báo Tin Mừng, nhưng tôi cũng được dạy rằng gia đình bé nhỏ yêu thương của tôi cũng là một ân huệ của Chúa. Nhưng quả thực tôi không tìm ra con đường để dung hòa giữa sự hướng thượng của tâm linh với những đòi hỏi của thực tại trần thế, giữa
những nhu cầu kinh tế, vật chất và những ước muốn dấn thân phục vụ con người,
phục vụ thiện ích chung. Có lúc tôi đã thật sự lâm vào khủng hoảng – cho đến
lúc tôi học biết GHXHCG.
GHXHCG dạy tôi biết rằng tôi không cần phải đi đâu xa để loan báo Tin Mừng hay dấn thân phục vụ, mà hãy loan báo và dấn thân ngay trong công việc, nghành nghề, gia đình của mình: “Nếu người ta xã thân làm việc với lòng tin, cậy, mến của các môn đệ Đức Kitô, thì ngay cả kinh tế và tiến bộ cũng có thể biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hóa” (x. số 326 sách Tóm lược HTXH). Giáo huấn cũng dạy tôi rằng lao động là một phương tiện để nâng cao phẩm giá con người, hãy sử dụng lao động như cách thế diễn tả tình yêu và cộng tác vào ơn cứu độ Thiên
Chúa (Chương VI sách tóm lược HTXH).
Tôi nghiệm ra một điều: chắc chắn Giáo hội và xã hội đang cần tôi chung sức, chung trí, nhưng cũng chắc chắn rằng tôi không thể hướng đến sự nên Thánh trước khi tôi làm một con người tử tế, sống tròn những bổn phận mà Chúa đã trao ban cho tôi. Và tôi không thể nên Thánh, nếu như tôi không tham gia xây dựng xã hội trần thế này cho được ổn định, an sinh hơn. Trước khi Chúa Giêsu đến phán xét lần thứ hai, thì người nghèo  vẫn được ký thác cho tôi. (“Nghèo” ở đây không đơn thuần là nghèo vật
chất mà còn là tình thương, tinh thần, tự do, văn hoá, tín ngưỡng… ) Ngài mời
gọi tôi dấn thân cho những thiện ích giúp người, giúp đời, mà Thiên Chúa là “sự
thiện tối thượng”.
Dấn thân cho công ích không còn đơn thuần là một “việc đạo đức” tuỳ hứng hay một “ước muốn hướng thượng”, mà là sự thúc giục của lương tri, của tình đồng loại trong tôi. Đó còn là một trách nhiệm ràng buộc tôi phải cam kết với Thiên Chúa. Và GHXH chính là phương thế giúp tôi diễn tả, cụ thể hóa Lời Chúa trong đời sống hôm nay, bằng những ngôn từ hiện đại của kinh tế, lao động, môi trường, nhân phẩm, quyền con người.v.v…
Con đường dấn thân của tôi như thế đó, nó gập ghềnh theo từng bước trưởng thành tâm linh và ý thức của tôi.
Xin Chúa nhân từ luôn ở cùng con, để dù con có xiêu vẹo nghiêng ngả, Ngài cũng sẽ đưa con đến cùng đích cuộc đời.
Tác giả: Mẩu Bút Chì