Mưa

Mưa

TRẦM THIÊN THU

Cuối năm mà nói chuyện Mưa thì thật là quá lỗi thời. Nhưng có thể chính cái “lỗi thời” đó lại có thể khiến chúng ta biết ơn Mưa, vì hết Mưa nên trời oi ả và nóng bức quá!

Thật vậy, nếu không có Mưa thì chúng ta chết hết. Tại sao? Vì Mưa đổ xuống cho chúng ta, dù  mưa nhỏ hay Mưa to, thậm chí chỉ là Mưa bụi hoặc Mưa phùn. Chính Mưa tăng làm độ ẩm cho đất, và thời tiết cũng khả dĩ trở nên mát mẻ hơn. Nói chung, Mưa rất cần cho mọi sinh vật, cần cho đất đai, cần cho môi trường. Nhưng có khi Mưa… phát ghét. Mưa cũng khổ, cũng có kẻ ghét và người thương!

MƯA là một trong những ca khúc nổi tiếng của Ns Văn Phụng  (*). Với âm thể Dm (Rê thứ), giai điệu giản dị nhưng mượt mà, đều đặn như những giọt mưa rơi và nhẹ nhàng như tiếng Mưa thánh thót, chuyển âm cũng rất đơn giản mà vẫn hay, được lồng trong nhịp Valse (3/4) uyển chuyển, ca từ mộc mạc mà thâm thúy, lại được gieo vần như một bài thơ năm chữ, đã lôi cuốn người nghe như “trôi” theo Mưa và khiến người nghe cảm nhận sự mát mẻ của Mưa, đồng thời đưa người nghe vào “khung trời yêu tuyệt vời”. Yêu ở đây không là chuyện yêu đương đôi lứa mà là tình yêu đồng loại. Tuyệt vời quá!

Ns Văn Phụng nhận xét tinh tế qua những gì rất đời thường: “Mưa rơi rơi trên đường, Mưa rơi suốt canh trường, Mưa rơi ướt phố phường, Mưa trôi lá trong vườn, Mưa đang tí tách reo ven tường”.

Mưa không rơi trên đường thì rơi đi đâu, không ướt đường thì ướt gì? Chuyện quá dĩ nhiên. Ấy thế mà cái “dĩ nhiên” ấy có mấy ai để ý được như Ns Văn Phụng? Thế mới “độc” – “độc chiêu” hoặc “độc đáo” chứ không “độc hại”. Nghệ sĩ là thế, thấy cái mà người ta không thấy, nhưng có thể lại không thấy cái mà người ta thấy. Ngược nhau là thế. Tia nắng chiếu vào một chiếc lá thì tia nào cũng giống nhau, nhìn lắm lúc thấy bực mình, thế mà người có máu nghệ sĩ lại thấy ánh nắng “không bình thường”, nghĩa là có chút “điên” (chứ không “khùng”), điên-ở-mức-cho-phép. Thế mới “khác người”, vậy mới “lạ đời”!

Có lẽ vì không đủ hiểu giới văn nghệ sĩ mà ông bà xưa nói: “Xướng ca vô loài”. Khổ thật! Nhục thật! Người ta có “loài”, thú vật cũng có loài, sinh vật cũng có loài, nhưng ai “dính líu” vào “bảy nốt nhạc” thì đều “vô loài” (ý chê bai theo nghĩa xấu). Quá nhục!

Kệ. Cái gì “trời cho” đều là “trò chơi”. Cứ chơi cho hết mình. Ns Văn Phụng tiếp tục tả Mưa: “Mưa rơi trên sông dài, Mưa qua khắp non đoài, Mưa cho thắm hoa đời, Mưa cho hết u hoài, Mưa cho đám lúa non mỉm cười”. Mưa làm trôi u buồn nhưng lại tưới gội phù sa làm cho lúa cũng biết cười. Nhân cách hóa hay quá!

Ông nhìn thấy Mưa trải dọc suốt dải đất hình chữ S của Việt Nam: “Mưa đem tươi vui về cho thắm áo nâu, Mưa cho nương dâu và khoai sắn lên mau, Mưa như trút sầu, Mưa tươi lúa đầu, Mưa rơi qua Bến Hải, Cà Mau”.

Mưa không chỉ thấm sâu vào đất mà còn thấm cả vào từng người: “Mưa rơi trên vai chàng, Mưa rơi ướt vai nàng, Mưa rơi khắp thôn làng, Mưa reo những cung đàn, Mưa như tiếng ru con dịu dàng”. Cách ví von của ông rất tự nhiên và chân chất.

Mưa cũng biết yêu chân thành và yêu mọi người: “Mưa yêu bông hoa đời, Mưa yêu biết bao người, Mưa không biết hững hờ, Mưa thương lúa bơ phờ, Mưa yêu lúa mong mưa từng giờ”.

Lạ thật! Mưa mà vẫn biết quan tâm từng chi tiết và chú trọng cuộc sống gia đình: “Mưa yêu thương ai nghèo, Mưa cho lúa ngô nhiều, Mưa cho hết tiêu điều, Mưa cho những ai nghèo, Mưa cho thắm bữa cơm ban chiều”.

Mưa không hề ích kỷ. Mưa luôn đại lượng. Mưa cho mọi người, dù người đó tốt hay xấu: “Mưa rơi phương Đông rồi Mưa rơi tới phương Tây, Mưa gieo hương xuân về trên những luống cày, Mưa rơi chốn này, Mưa cho lúa đầy, Mưa cho duyên ta càng nồng say”.

Không chỉ như thế, Mưa còn rất nghiêm túc và đầy tính nhân bản: “Mưa không yêu ngang đường, Mưa không muốn ai buồn, Mưa yêu nước non này, Mưa yêu mến dân cày, Mưa cho lúa ngô hơn gạo đầy”. Mưa là thế, và mỗi chúng ta phải nhận thức được bài học của Mưa để cuộc đời này giảm bớt đau khổ.

Câu kết (coda) của ca khúc MƯA ngắn gọn và cô đọng: “Mưa còn gieo xuống đời, Mưa về cho lúa thêm tươi”.

Ai cũng mong chờ Mưa, ai cũng khao khát Mưa, vì ai cũng cần nước. Sau một trận mưa, trời sáng hơn, đất hiền hơn, và mọi vật đều đổi mới. Mưa thật kỳ diệu!

Về tinh thần, lòng người như mảnh đất khô cằn, xã hội cũng như bị hạn hán tình người, thế nên luôn cần những Cơn Mưa Yêu Thương với những Giọt Mưa Tình Cảm. Chỉ có loại Mưa đó mới khả dĩ làm tươi mát con người.

Muốn vậy thì chính mỗi người phải là Giọt Mưa Yêu Thương. Mưa cho mình, mưa cho gia đình, mưa cho xã hội, mưa cho đất nước, mưa cho thế giới, mưa cho nhau, hôm nay và mãi mãi…

Mùa Vọng. Mùa khát khao và mong chờ một loại Mưa Đặc Biệt là Mưa Giêsu, Mưa Thánh Ân, Mưa Cứu Độ. Chỉ có Mưa Giêsu mới thực sự giải khát chúng ta, và nhờ đó mà Đất-Khô-Cằn-Chúng-Ta mới hết “hạn bà chằn”.

Nhưng muốn được “đã” cơn khát, chúng ta phải nghe lời người-mở-đường là Thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3:4-5).

Đồng thời chúng ta còn phải hứng Mưa bằng những gì mình đang có, càng lớn càng tốt: Ly, chậu, xô, thùng, bồn,… Lòng càng bớt “quanh co” thì “dụng cụ chứa” của chúng ta càng rộng lớn.

Trời cao hỡi, hãy gieo xuống sương mai

Ngàn mây ơi, hãy mưa đức công chính

Đất nẩy mầm cứu độ linh thánh

Và chính trực sẽ vươn mạnh cao lên

(Is 45:8)

Lạy Chúa, kiếp chúng con khốn khổ quá, xin thương mau ban Đấng Thiên Sai để chúng con được Ngài giải thoát. Chúng con cầu xin nhân Danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

*) Ns Văn Phụng tên thật là Nguyễn Văn Phụng, sinh năm 1930 tại Hà Nội, là con thứ hai trong một gia đình bốn anh em. Ông học dương cầm từ nhỏ, qua sự chỉ dạy của hai giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng. Năm 1945, Văn Phụng
đã đoạt giải nhất độc tấu dương cầm trong một cuộc tuyển lựa tại Nhà Hát Lớn Hà
Nội với nhạc phẩm “La Prière d’Une Vierge”.

Thời đi học, Văn Phụng là một học sinh xuất sắc. Ông học tiểu học tại trường Louis Pasteur, học trung học tại trường Albert Sarraut. Năm 16 tuổi, sau khi đậu tú tài, Văn Phụng theo học ngành y theo ý muốn của người cha, nhưng chỉ được một năm, ông bỏ học y để theo âm nhạc. Năm 1946, Văn Phụng chạy loạn về Nam Định và trú tại nhà thờ Tứ Trùng ở Chợ Cồn, rồi ông gặp Lm Mai Xuân Đình và linh mục này đã chỉ dạy cho ông về âm nhạc và giáo lý. Năm 1948, ông quay về Hà Nội. Theo lệnh tổng động viên, ông gia nhập Ban Quân nhạc đệ tam Tiểu đoàn Danh dự. Tại đây, ông đã quen với những người mà về sau cũng trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như Nhật Bằng, Đan Thọ, Nguyễn Hiền, Văn Khôi, Vũ Thành,… Thời gian đó, ông được nhạc trưởng Schmetzer (người Pháp, gốc Đức) chỉ dẫn về hòa âm.

Ông là nhạc sĩ nổi tiếng của dòng nhạc tình miền Nam trước 1975. Một số nhạc phẩm của ông được xếp vào thể loại tiền chiến. Ông còn được xem là một trong những nhạc sĩ hòa âm hay nhất của Saigon trước 1975. Một số ca khúc nổi tiếng của ông: Mưa, Mưa Rơi Trên Phím Đàn, Mưa Rơi Thánh Thót, Mộng Hải Hồ, Bức Họa Đồng Quê, Ghé Bến Saigon, Giấc Mộng Viễn Du, Ô Mê Ly, Trăng Sáng Vườn Chè, Trăng Sơn Cước, Vó Câu Muôn Dặm, Xuân Họp Mặt, Suối Tóc, Yêu,…

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

DÂN TRÍ

DÂN TRÍ

Trước khi gặp lại một người bạn người nước ngoài mới trở về từ Việt Nam, nó háo hức ơi là háo hức. Anh bạn này là con trai một người lính Mĩ đã từng sang tham chiến ở quê hương trong những năm 60. Anh lớn lên và được kể cho nghe về những đau khổ do chiến tranh gây ra cho người dân quê hương mình. Sau khi tốt nghiệp đại học, vì muốn bù đắp lại chút nào đó cho con người Việt Nam, anh quyết định gác lại sự nghiệp riêng để sang Việt Nam.

Nhưng sau khi gặp anh bạn nước ngoài này, sự háo hức của nó bỗng trở thành nỗi buồn vời vợi. Buồn lắm vì nó là một nhà giáo trẻ đầy nhiệt huyết. Làm sao không buồn được khi anh bạn nước ngoài, sau một thời gian cống hiến ở Việt Nam, nói rằng anh không tính sẽ quay lại sống ở Việt Nam nữa, lý do chính nằm gọn trong câu nói của anh: “Dân trí ở đây thấp quá. Rất khó sống.”

Mới đầu nó tự ái lắm khi nghe câu nói ấy. Nó phản ứng ngay: “Việt Nam là một nước có nhiều người đi học, nhiều sinh viên đại học, nhiều người có bằng cấp. Làm sao bạn lại có thể kết luận cẩu thả như thế?”

Nhưng người phương tây thường nói có sách mách có chứng đàng hoàng. Bởi thế, nó chỉ còn biết im lặng mà nghe. Ngậm ngùi. Đau.

Anh bạn nước ngoài kể dài lắm nhưng một cách vắn tắt thì như thế này:

“Tôi yêu quý dân tộc của bạn. Tôi cảm thấy khổ tâm khi thấy những hậu quả của chiến tranh để lại. Mới đầu tôi dự tính sẽ sống ở đất nước bạn lâu dài, mong có thể làm được điều gì đó bù đắp lại những đau khổ do cha ông chúng tôi đã gây ra. Tôi thấy quê
hương các bạn đang từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế nên tôi hy vọng
giúp các bạn chút vốn liếng Tiếng Anh để các bạn dễ hoà nhập hơn. Tôi không hối
hận đã được cống hiến thời gian và sức lực cho các bạn sinh viên Việt Nam vì
tôi thích làm điều có ý nghĩa. Nhưng thật là khó sống ở đây khi dân trí khá thấp.”

Anh bạn này nói tiếp: “Một lần kia tôi đang đi bộ trong một con hẻm, chợt nghe có tiếng vật gì đang rơi từ trên cao xuống. Theo phản xạ tự nhiên, tôi ngẩng đầu lên xem thì thấy một bịch rác ai đó vứt qua cửa sổ đang rơi xuống. May qía tôi nhảy qua một bên né kịp chứ không thì….Rồi lần khác, đang chạy xe trên đường, tôi giật mình khi
thấy có người ném một con chuột từ trong nhà ra ngoài đường. Tôi hốt hoảng
tránh nó xuýt nữa bị tai nạn. Vứt rác ra nơi công cộng đã là một điều kinh
khủng rồi, bây giờ lại ném cả chuột ra ngoài đường. Chiều hôm đó tôi có việc
phải đi lại trên cùng một con đường, con chuột đã bị xe khác cáng nát be bét.
Nhìn rợn cả gai ốc! À, có chuyện này tôi hỏi bạn. Bạn đã sống ở một số nước
ngoài, bạn có thấy người đi xe hay bấm còi không?”

“Rất ít khi, chỉ khi nào khẩn cấp thôi.” Nó trả lời.

“Đúng vậy. Còn nhiều người ở quê hương bạn bấm còi rất ồn ào bất cứ lúc nào, ngay cả những nơi cần tôn trọng sự yên tĩnh như bệnh viện, trường học. Rồi trong phòng chiếu phim, có không ít người vẫn bật điện thoại lên nói chuyện tỉnh bơ như chỗ không người. Có lẽ họ không thấy chung quanh họ là người bởi vì người thì cần được tôn trọng. Bạn thấy sao?”

“À, thì chuyện đó, tôi cũng không rành lắm vì tôi ít đi coi phim.” Nó miễn cưỡng đáp.

“Tôi quen một cô bạn Việt Nam. Có lần tôi theo cô ấy vào bệnh viện để thăm người nhà đang nằm điều trị tại một bệnh viện công. Thân nhân của người bệnh người thì ngồi người thì nằm nghỉ la liệt dưới nền lối đi. Trong các phòng dành cho bệnh nhân, tôi cũng thấy thân nhân họ nằm dưới đất, thậm chí dưới gầm giường. Chữa trị trong môi trường ồn ào, xô bồ như thế này, làm sao mau khỏi bệnh được! Không chừng tạo ra thêm nhiều bệnh nhân mới nữa ấy chứ. Cô bạn tôi còn kể rằng nếu không có tiền
mà vào bệnh viện thì dù có gặp nguy hiểm cũng vẫn phải nằm đó chờ. Tôi hỏi lỡ
bệnh nhân tử vong thì sao, cô ấy đáp: “Thì chết chứ sao nữa.” Vào phòng thăm
người nhà cô ấy, tôi thấy mỗi lần cô ấy muốn nhờ bác sĩ hay y tá điều gì, để
cho nhanh chóng và vui vẻ thì cô ấy phải bỏ tiền vào phong bì đưa cho họ, gọi
là tiền trà nước. Chẳng lẽ bác sĩ, y tá ở nước bạn cần uống nhiều trà nước vậy
sao?!”

“À, thì chắc là khí hậu ở đấy nóng nên hay khát nước…” Nó đùa cho bớt đau.

“Bạn biết không, lúc tôi đến nước bạn lần đầu tiên, tôi đi chung với một Việt kiều. Lúc vào cửa khẩu kiểm tra hộ chiếu và thị thực, không hiểu sao anh cảnh sát cứ để bạn tôi đứng đó chờ. Cuối cùng thì bạn tôi bỏ vào hộ chiếu một tờ giấy nhỏ màu xanh xanh,
“nhỏ nhưng có võ”, thế là anh cảnh sát vui vẻ cho qua liền và chúc bạn tôi kì nghỉ thoải mái. Tôi là người gốc nước ngoài, hình dáng khác, tiếng nói cũng khác nên không thấy anh cảnh sát nói gì. Chắc cùng là người Việt nên dễ “nói chuyện” hơn! Nhưng tôi chưa bao giờ thấy điều ấy xảy ra ở nước tôi. Đó sẽ bị coi là một hành vi hối lộ. Ở nước bạn, việc này xảy ra lộ liễu giữa ban ngày như vậy mà không sao nhỉ?”

“Tôi nhớ trước đây báo chí cũng có nói đến việc này, nhưng một thời gian sau thì lại tái diễn và chẳng thấy ai nói gì nữa.” Nó đáp.

“Bạn biết không, tôi sẽ không bao giờ quên mùa Giáng Sinh năm vừa rồi của tôi. Chị tôi gửi cho tôi một bánh trái cây (fruitcake) cho chính tay chị ấy làm. Chúng tôi có truyền thống ăn bánh với rượu sữa Bailey vào đêm Giáng Sinh, ngon lắm. Nhận được tin chị báo qua email, tôi mừng quá vì thèm. Nhưng đến khi tôi ra bưu điện lấy quà,
người ta đòi tôi hơn 2 triệu đồng, tức là hơn 1 trăm đô-la Mĩ. Ôi trời ơi, chị tôi mất công làm bánh, tốn kém hết cỡ thì cũng chỉ hai ba chục đô-la. Cuối cùng, tuy tiếc hùi hụi nhưng tôi quyết định không nhận món quà ấy nữa vì tôi thấy quá vô lý và bị xúc phạm. Luật pháp Mĩ rất chặt chẽ về việc gửi hàng, nhất là thực phẩm, nên họ đã kiểm tra hàng gửi kĩ lưỡng. Vậy mà bưu điện bên đất nước bạn lại tự ý mở bánh của tôi ra xem. Ai mà dám ăn bánh đó nữa. Lúc mở ra, biết đâu người ta bỏ cái gì khác vào đó thì sao. Thêm nữa, ở phiếu dán liệt kê các mặt hàng gửi đã ghi rõ nội dung hàng gửi rồi, tại sao bưu điện nước bạn không biết tôn trọng quyền riêng tư, uy tín của người gửi và người nhận. Nếu họ thắc mắc muốn biết chắc chắn hàng gửi có hợp pháp và an toàn hay không, họ cần phải làm việc với bưu điện bên Mĩ chứ không thể tuỳ tiện mở ra được. Vả lại, một cái bánh nhỏ không thể tốn nhiều tiền như vậy. Lúc ấy, tôi rất thất vọng về sự việc này. Sau đó ít ngày, tôi còn thất vọng hơn khi biết rằng một sinh viên trong lớp tôi dạy cũng rơi vào trường hợp tương tự. Có người chị từ California gửi
cho cậu ta một hộp sô-cô-la và một lọ thuốc vitamin C sản xuất tại Mĩ để chúc mừng sinh nhật. Người ta khui cả bưu phẩm ra rồi yêu cầu cậu ta đóng phí 1 triệu 6 trăm ngàn. Cậu ta hỏi tại sao lại phải đóng tiền trong khi chị cậu đã đóng tiền rồi. Nhân viên bưu điện bảo thuốc này cần phải đi kiểm tra lại xem có an toàn không. Cậu ta hỏi ngược lại: “Mĩ là nước có kĩ thuật tiên tiến bậc nhất thế giới. Các anh có trình độ kiểm tra người ta sao? Mà chỉ là một lọ vitamin C thông thường, chẳng lẽ các anh thật sự quan tâm đến sức khỏe của tôi đến nỗi đi kiểm tra độ an toàn của nó giùm tôi?” Các nhân viên phải xuống nước và giảm phí xuống còn 5 trăm ngàn, nói rằng coi như là xin tiền cà phê sáng. Cậu sinh viên nói với tôi rằng mấy người nhân viên quèn trong đó thôi cũng đã đeo đầy vòng vàng, nhẫn vàng, họ không thiếu tiền uống cà phê sáng đâu.“Bạn có vẻ bức xúc quá. Tôi xin lỗi!” Nó trấn an.

“Đúng, tôi bức xúc. À, còn chuyện này nữa. Hôm nọ tôi đi ăn nhà hàng với mấy thầy cô đồng nghiệp bản xứ của bạn. Lúc ăn, tôi thấy họ xả rác bừa bãi xuống sàn nhà. Sao không để gọn trên bàn hoặc cho vào thùng rác gần đó nhỉ ? Bạn thấy không, có bằng cấp cao  đâu hẳn là có dân trí cao.”

Nó giật mình vì câu nói này. Hoá ra dân trí là một cái gì khác hơn là bằng cấp.

“Bạn biết không,”  người bạn nước ngoài kể tiếp, “mới hôm qua thôi, tôi đang đi ngoài đường thì chứng kiến một vụ va quẹt xe máy. Rõ ràng là người A chạy ẩu quẹt vào người B. Vậy mà người A vừa la hét vừa đánh người B, đổ lỗi hết cho người B. Sao người A lại có thể lỗ mãng, vô liêm sỉ như thế? Có lỗi thì phải can đảm nhận lỗi chứ.
Sao lại muốn đổi trắng ra đen, lật lọng như thế? À, tôi nhớ đến một vụ tai nạn
giao thông khác cách đây không lâu. Người bị nạn nằm trên vũng máu trong khi cả
một đám đông bu quanh để xem mà không ai động đậy một ngón tay để giúp đỡ.
Trước khi đến nước bạn, tôi nghe rằng người dân ở đây có tinh thần cộng đồng
cao lắm. Nhưng tôi thật sự chưa cảm nhận được.”

“Ui, nãy giờ say sưa nói chuyện để thức ăn nguội rồi. Nào ta ăn thôi.” Nó mời bạn.

“Đúng rồi. Mình ăn đi.  Thú thật với bạn, từ ngày tôi trở về Mĩ lại, tôi mới thấy an tâm khi ăn uống. Bên quê hương bạn, quả là có nhiều món ăn rất ngon, tôi rất thích. Nhưng đáng tiếc và đáng sợ vì thức ăn của các bạn không bảo đảm an toàn thực phẩm. Chính tai tôi nghe một số sinh viên trong lớp nói rằng bây giờ ăn uống là “hên xui”.
Ai “hên” thì ăn trúng thức ăn nhiều hoá chất và chết sớm trước khi có con cái. Ai “xui” thì ăn trúng thức ăn có hoá chất bộc phát chậm và để lại bệnh tật di truyền cho con cháu. Tôi nghe mà lạnh hết cả người.”

“Đúng là có chuyện thực phẩm của chúng tôi có nhiều hóa chất độc hại do một số người hám lợi mà thiếu lương tâm.” Nó đồng ý.

“À, có một điều làm  tôi rất ngạc nhiên khi nghe các sinh viên nói với tôi rằng học sinh bây giờ quay cóp trong thi cử nhiều lắm. Hơn nữa, một số người trong vị trí lãnh đạo
còn mua bằng cấp chứ không phải tự trau dồi kiến thức mà có. Các sinh viên còn kể cho tôi nghe rằng nếu một sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm muốn cống hiến tri thức của mình cho các thế hệ tương lai trong một ngôi trường, họ phải đóng tiền gì đó đến cả trăm triệu khi nộp đơn xin việc. Việc họ được nhận vào giảng dạy phụ thuộc vào số tiền kia chứ không dựa trên tài năng của họ. Có thật như thế không bạn?”

“Ừm, tôi cũng có nghe nói đến tình trạng ấy.” Nó miễn cưỡng trả lời.

“Wow, nếu mà như vậy thì làm sao có dân trí được nhỉ?” Người bạn nước ngoài chặc lưỡi, lắc đầu.

Bây giờ thì nó hiểu ra ý nghĩa của dân trí. Dân trí là một điều gì căn bản và cần
thiết cho con người hơn là việc có một tấm bằng lủng lẳng trong nhà. Dân trí không chỉ là đầu đầy chữ nghĩa nhưng là tim đầy vị tha. Dân trí gồm có sự hiểu biết những giá trị tốt đẹp và khả năng chia sẻ chúng. Dân trí đúng nghĩa phải là sự quan tâm đến ích lợi của những người xung quanh. Mình làm gì thì cũng nghĩ đến hạnh phúc của người khác. Dân trí là biết tôn trọng và tự trọng. Dân trí là sống cao đẹp. Dùng bằng cấp, địa vị xã hội chỉ cho việc tìm kiếm tư lợi thì là phản dân trí. Có dân trí là phải biết liên đới với tha nhân bằng tình yêu thương bác ái. Một xã hội dân trí là xã hội gồm có những người biết yêu thương chân thành như vậy.

“À này bạn, tôi cảm  thấy thú vị về đất nước Mỹ của bạn, một đất nước đa văn hóa, đa sắc tộc, đa lý tưởng, đa đảng phái. Thực tế phức tạp vậy mà các bạn vẫn cùng nhau tiến lên đạt được phát triển trên nhiều lãnh vực như kĩ thuật, nghệ thuật, nhân văn, y học,
tâm lý, kinh tế, xã hội, chính trị, từ thiện vào bậc nhất thế giới. Theo bạn thì yếu tố nào đã giúp ổn định và phát triển đất nước bạn như thế?” Nó hỏi.

“Theo tôi, một trong những yếu tố giúp ổn định xã hội phức tạp của chúng tôi chính là yếu tố niềm tin. Nếu thiếu khía cạnh nền tảng này, ắt hẳn xã hội của chúng tôi đã loạn từ lâu. Đánh giá thấp vấn đề niềm tin khờ dại vất bỏ yếu tố giúp ổn định, hài
hòa. Niềm tin chân chính vào một Thượng Đế Tình Yêu giữ cho chúng tôi biết sống có ý nghĩa, trung thực, tôn trọng, vị tha, cầu tiến bằng năng lực của chính mình, bác ái. Khi chúng tôi biết sống những giá trị tích cực ấy một cách tự hào, nhờ có niềm tin, một xã hội phức tạp như của chúng tôi không những giữ được thăng bằng mà còn thăng tiến nữa. Văn minh của chúng tôi là văn minh có lòng nhân ái vị tha làm nền, gọi là dân trí.”

Là người có niềm tin, nó hiểu rõ điều anh bạn nước ngoài vừa nói nên gật đầu: “Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn!”

+++

Lúc chia tay, người  bạn nước ngoài vừa ôm chào nó vừa nói: “Tôi xin cầu nguyện cho dân trí của quê hương bạn. Chúc các bạn bình an!”

Tác giả: O.Carm

 

Nói cho con người – Lm Chân Tín (2)

Nói cho con người – Lm Chân Tín (2)

Đăng bởi cheoreo lúc 9:40 Sáng 4/12/12

VRNs (04.12.2012) – Sài Gòn – Kính thưa quý vị, DCCT VN vừa hoàn tất việc tiễn đưa cha Stêphanô đến nơi an nghĩ cuối cùng. Trong thánh lễ an táng vừa qua, cha giám tỉnh DCCT có nhắc đến biến cố phong thánh cho 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam. Để giúp quý độc giả biết rõ hơn quan điểm của cha Chân Tín về biến cố này, VRNs xin
đăng lại ý kiến phát biểu của cha Chân Tín tại trụ sở Mặt trận tổ quốc VN, quận
3, Sài Gòn về vấn đề phong thánh.

Góp ý vào việc Phong thánh Tử đạo Việt Nam

(18.01.1988)

Nhân cuộc họp của giới Công giáo quận 3 vào chiều ngày 18/1/1988 tại trụ sở Mặt trận tôi xin góp một vài ý kiến.

I. Sự việc đã rồi:

1. Các thỉnh nguyện thư xin phong thánh của

– Hội đồng Giám mục Việt Nam (16/11/1985)

– Dòng Đa Minh (28/12/1985)

– Hội thừa sai Paris (2/2/1986)

– Hội đồng Giám Mục Phi (13/5/1986)

– Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha (19/6/1986)

2. Với văn kiện số 1516-1986 (18/4/1986) của Thánh bộ Phong thánh của Giáo hội Công giáo Rôma chấp nhận thỉnh nguyện thư

3. Ngày 22/5/1987 Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã chủ tọa Cơ mật viện để hỏi ý kiến các thành viên bỏ phiếu chấp thuận việc phong thánh cho 117 Tử đạo Việt Nam ngày 29 tháng 5 /1987 Tòa Thánh quyết định phong thánh vào ngày 26/6/1988.

4. Ngày 18/9/1987 Ban công giáo Chính phủ triệu tập ban thường vụ Hội đồng Giám mục để phê phán vụ phong thánh và bàn biện pháp xử lý tình hình phức tạp có lý có tình.

5. Hội đồng Giám mục qua ban thường vụ gửi thư và điện văn yêu cầu duy trì việc kính các chân phúc tử đạo Việt Nam như cũ không làm gì mới khác “có hại đến đoàn kết dân tộc” (thư và điện của Đức cha Nguyễn văn Sang 19/9/1987)

6. Ban Tôn giáo của Chính phủ gửi văn thư số 01-TGCP ngày 12/10/1987 cho UBND. Ban tôn giáo tỉnh, thành phố, đặc khu yêu cầu theo dõi việc thi hành quyết định của Hội đồng Giám mục.

II. Góp ý và đề nghị:

1. Rất tiếc về sự thiếu trao đổi bàn bạc để làm sáng tỏ vấn đề các tử đạo Việt Nam vì hoàn cảnh phức tạp thời đó.

2. Trong các thỉnh nguyện thư có một vài câu quá đáng, cường điệu dùng chữ chưa đúng, khả dĩ gây bất bình, hiểu lầm trong hoàn cảnh phức tạp.

3. Dù vậy các thỉnh nguyện thư đều nói lên lòng khao khát phong thánh cho các tử đạo Việt Nam, đề cao đức tin anh hùng của một số người chết cho một lý tưởng, cho tôn giáo một cách bất bạo động.

4. Thánh Bộ Phong thánh chấp nhận các thỉnh nguyện thư đó cũng như Giáo chủ Gioan Phaolô II quyết định phong thánh vào ngày 26/6/1988 là để đáp ứng sự mong muốn của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Phi, Tây Ban Nha, Hội Thừa sai Paris và Dòng Đa Minh cũng như của người Công giáo Việt Nam sẵn có từ mấy thế hệ rồi, chứ đây không phải là sáng kiến của Tòa thánh Vatican có dụng ý chính trị xấu, xuyên tạc lịch sử cách mạng của Nhân dân Việt Nam, kích động tâm lý cuồng tín tử vì đạo theo như văn thư của ông Nguyễn Quang Huy trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ.

Tòa thánh thể theo thỉnh nguyện thư của các Hội đồng Giám mục chỉ muốn đề cao hơn một mức nữa các vị tử đạo Việt Nam đã từng được phong chân phúc từ bao nhiêu năm rồi (hằng năm vẫn có lễ mừng các Chân phúc Tử đạo Việt Nam đầu tháng 9).

Xung quanh các thỉnh nguyện thư và quyết định phong thánh, có người nào, nhóm nào đã mon men có ý đồ chính trị chăng? Điều đó có thể có, nhưng chắc các Giám mục và đức Giáo chủ không thể có ý đồ đó. Các ngài chỉ thấy có trách nhiệm đối với các giáo hữu Việt nam cũng như đối với các giáo hữu Nhật Bản mấy năm trước đây.

5. Trong cái nhìn chính trị của Nhà nước cũng như trong cái nhìn lịch sử chưa được sáng tỏ của một số đồng bào, thì Nhà nước không thấy bằng lòng với việc phong thánh này.

Dù vậy, trước những việc đã rồi Nhà nước chỉ yêu cầu “tìm biện pháp xử lý tình hình phức tạp có lý có tình” như văn thư của Ban Tôn giáo đề nghị. Đây là một thái độ thực tế mà Nhà nước đã có cho đến hôm nay để đối phó với việc đã rồi.

Sau đó, Ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã có văn thư yêu cầu kính các Chân phúc Tử đạo Việt Nam như cũ không làm gì mới khác ‘có hại cho đoàn kết dân tộc’.

Riêng tôi, tôi nghĩ rằng trong tình hình hiện tại, Việt Nam đang bị cô lập hóa trên mọi địa hạt sẽ bị cô lập hóa thêm, nếu ta xử lý việc phong thánh thiếu tình thiếu lý. Nếu Nhà nước chống việc phong thánh tại Việt Nam đa số dân chúng công giáo sẽ không tài nào hiểu nổi điều đó rồi ấm ức, sẽ bớt hăng say trong việc xây dựng Đất nước. Còn ở hải ngoại tay làm chính trị sẽ hô hoán chế độ Cộng sản Việt Nam gây nhiều khó khăn cho công giáo, nếu không nói là bắt đạo và như thế Việt Nam càng bị cô lập hóa
trên chính trường quốc tế.

Vì thế riêng tôi, tôi ước mong Nhà nước ta đi thêm một bước, tức là ủng hộ việc phong thánh, vì việc này đề cao người Việt Nam anh hùng sẵn sàng hy sinh cho một lý tưởng. Đồng thời, nếu cần Nhà nước ta cũng cứ nói lên tình hình phức tạp của thời đó, và sự dè dặt của mình về một một số vị tử đạo và tiếc không có sự thay đổi để việc phong thánh tốt đẹp hơn.

Thái độ mới này sẽ đáp ứng tâm tư đại đa số người công giáo Việt Nam. Không phải vì họ muốn chống những đồng bào ngoài công giáo hay có ý gì đối với chính phủ hiện nay mà từ nhiều thế hệ rồi, họ mong thấy các Chân phúc tử đạo còn được phong thánh nữa. Nếu giới công giáo bỏ phiếu kín, thì ít nhất là 90% sẽ ủng hộ việc phong thánh. Việc Nhà nước ủng hộ sẽ khuyến khích người công giáo hăng say góp phần xây dựng đất nước hơn. Và thái độ này cũng bịt miệng những tay hoạt động chính trị chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sau cùng tôi cũng xin góp ý vào cái gọi là “thỉnh nguyện thư Việt Nam” in bằng roneo, không biết ai đã thảo ra, không đề ngày tháng, để xin chữ ký. Một nhóm người nào đó lại mệnh danh là Việt nam, Việt Nam tức là cả giáo, cả lương, cả Nhân dân, cả Chính quyền. Thế mà họ lại chỉ trích Đức Hồng y Căn vì đã viết “cả dân tộc Việt Nam nhất trí với con”. Phải chăng họ nghĩ rằng họ mới là “cả nước Việt Nam?”

Thỉnh nguyện thư đề nghị hai điều, đề nghị hoãn việc phong thánh để làm sáng tỏ vấn đề lịch sử và đề nghị tách các vị thừa sai ra.

Đề nghị thứ nhất là hoãn việc phong thánh. Với những điều tôi nói trên, chúng ta đã thấy việc không tham dự vào việc phong thánh đã gây bất mãn có hại đến người công giáo Việt Nam tham gia xây dựng đất nước và cô lập hóa thêm Việt Nam trên chính trường quốc tế, thì đề nghị các giám mục xin hoãn việc phong thánh còn tệ hại hơn. Tệ hại như trên. Tệ hại thêm nữa  là người ta nghĩ rằng Nhà nước làm áp lực bắt các giám mục Việt Nam xin hoãn, vì trước kia các giám mục đã phấn khởi xin phong thánh. Có đưa ra ‘thỉnh nguyện thư Việt nam’, thì người ta cũng nghĩ là nhóm ‘yêu nước’ nào đó chỉ theo mệnh lệnh Nhà nước để tạo ra thư đó, hầu có một màu sắc nhân
dân – và có thu được hàng triệu chữ ký thì cũng thế thôi. Thỉnh nguyện thư chỉ
đổ dầu thêm vào lửa. Vô tình họ hại Nhà nước, hại Đất nước. Cái trò thỉnh nguyện thư xin chữ ký là cái trò cũ kỹ quá rồi. Chủ nghĩa hình thức ấy chẳng ai tin, cần phải đổi mới tư duy, đổi mới phong cách.

Đề nghị thứ hai là tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc. Là một đề nghị của ‘những người công giáo’ thì sẽ được người công giáo gọi là ‘ăn cháo đá bát’. Người cộng sản sẽ tôn kính người cộng sản ngoại quốc thâm nhập bất hợp pháp với bao nhiêu nguy hiểm để tuyên truyền lý tưởng cộng sản và đã bị bắn chết. Các vị thừa sai ngoại quốc, vì đức tin đã bỏ một đời sống thoải mái của quê nhà để đi vào một nước lạc hậu để rao giảng
Tin Mừng cứu độ của Chúa. Họ đã bị bắt, bị tra tấn, bị xử tử do các vua chúa thời phong kiến. Họ đã hy sinh mạng sống cho việc rao giảng là họ tử đạo. Nếu sau này, có vị này vị nọ dính líu vào việc người Pháp xâm chiếm Việt Nam thì phải nói rằng trong lương tâm của họ hồi bấy giờ, họ thấy việc nhờ người Pháp đến để chấm dứt việc bắt đạo là tốt, và ngay việc người Pháp cai trị Việt Nam họ cũng nghĩ là tốt khi họ lầm tưởng rằng người Pháp sẽ đem nề văn minh Kitô giáo cho một nước lạc hậu. Với khái niệm ngày nay về nhân dân tự quyết, độc lập tự do, ta cho là họ sai lầm. Nhưng cách đây vài ba trăm năm, khái niệm đó không rõ ràng lắm. Và ngày nay, tuy khái niệm rõ ràng, cũng còn tình trạng người ta nhờ nước ngoài làm nhiệm vụ quốc tế để chống lại một chính quyền hợp pháp mà tàn bạo. Vậy thì tình hình phức tạp hồi đó có các vị tử đạo không dễ gì mà tránh sự chủ quan. Vấn đề còn được tranh cãi dài dài.

Vì thế người công giáo Việt Nam mà đòi tách riêng người có công đem đức tin Kitô giáo đến cho cha ông họ là ăn cháo đá bát, là vô ơn, tạo chia rẽ trong giới công giáo.

Để kết thúc, tôi có hai kiến nghị, một với Nhà nước, một với Giáo hội:

a. Với nhà nước

tôi ước mong Nhà nước để cho Giáo hội Việt Nam dự vào cuộc phong thánh, vì làm như vậy ích lợi cho đất nước hơn là tẩy chay. Thái độ này sẽ vận động người công giáo Việt nam hăng say xây dựng Đất nước và cũng thuận lợi để vận động thế giới không cộng sản tham gia vào việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam đang cần đầu tư ngoại quốc, đang cần giải tỏa tình trạng bị cô lập và chứng minh sự cởi mở từ Đại hội Đảng 6 và từ ngày Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lãnh đạo Đảng.

b. Với Giáo hội

Tôi mong Hội đồng Giám mục Việt Nam đừng làm trò cười cho giáo dân cũng như cho thế bên ngoài theo kiểu ‘thỉnh nguyện thư Việt Nam’ mà xin Tòa thánh hoãn việc phong thánh và xin tách các tử đạo thừa sai ngoại quốc. Thật là một trò trẻ con không thể chấp nhận được đối với dư luận quốc nội cũng như quốc tế khi Hội đồng Giám mục Việt Nam đã từng phấn khởi xin phong thánh rồi lại xin hoãn, xin tách. Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ mất hết uy tín đối với giáo dân Việt Nam cũng như đối với Giáo hội toàn cầu. Trong tình trạng đó, các giám sẽ không còn mấy ảnh hưởng để thúc đẩy giáo dân Việt nam vừa hăng say xây dựng đất nước vừa trung thanh giữ vững đức tin.

Đàng khác, dù Nhà nước cho tham dự Phong thánh hay không, tổ chức mừng hay không, Giáo hội vẫn phải làm việc đào sâu đức tin để người công giáo Việt Nam sống đạo giữa lòng dân tộc và tiến hành việc nghiên cứu lịch sử về giai đoạn phức tạp của các vị tử đạo. Đó là cách mừng tốt đẹp nhất nhưng là chuyện lâu đài trong tương lai.

Chân Tín

(Tp HCM, 18/01/1988)

ĐÊM BUỒN,

ĐÊM BUỒN,

Tím lạnh đêm buồn lấp lánh sương,
Những giọt trinh nguyên rụng xuống đường,
Hồn hoang chất ngất niềm xa xứ,
Trường cũ đong đầy nhớ với thương…

Nhẩm đếm tàn phai mấy mới đầy,
Héo hắt trăng sầu cách biệt đây,
Bao mùa thấm đượm chia tan hợp,
Chẳng biết vì sao kiếp đọa đày…

Chiều sương tím quá hồn tơ tưởng,
Kẻ ở người đi nỗi vấn vương,
Thu về mấy độ hoa tầm gởi,
Phủ kín đường quê mộng dị thường…

Liverpool.29/11/2012.
Song Như.

Thân tặng Thầy Cô và các bạn LƯƠNG VĂN CAN.

GIẬN DỮ

GIẬN DỮ

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

Trong một dịp hàn huyên, Mục sư Phan Thanh Bình bên San Diego có chia xẻ như sau về sự Giận Dữ.

“Giận dữ là bản tính tự nhiên của con người. Giận là một trong những thất tình: Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn

Giận thì buồn phiền, hờn dỗi cho những người yếu thế. Giận thì quát tháo, chửi rủa, đập phá, đánh nhau đôi khi giết nhau cho những người ở thế mạnh.

Người xưa đã chia giận làm hai loại: Giận huyết khí và giận nghĩa lý. “Huyết khí chi nộ bất năng hữu. Nghĩa lý chi nộ, bất năng vô”. Cái giận nóng tính không nên có. Cái giận nghĩa lý, chẳng nên không.

Người huyết khí chi nộ” hầu hết là người yếu về trí xét đoán: giận đã, xét sau; yếu về tinh thần, không kiềm chế nổi sự giận dữ nơi mình; yếu về lòng thương sót, thông cảm.

Người biết giận “nghĩa lý chi nộ” là người rất mạnh. Mạnh về trí xét đoán, mạnh về tinh thần dù thể xác có yếu và đầy lòng thương xót.

Với tinh thần “cầu an” chúng ta thường bò “ Nghĩa lý chi nộ”. Nhưng chúng ta thường tỏ ra “anh hùng” với “huyết khí chi nộ”.

Người xưa đã phân định: “Người không biết giận là người dại, người không muốn giận là người khôn”. Người kiềm chế được cơn giận phải là người giàu nghị lực.

Kinh Thánh dạy: “Người nào cũng phải mau nghe, chậm nói, chậm giận” (Gia-cơ 1:19).

Biết bao lần chúng ta hối tiếc đã để cơn giận bùng lên chỉ vì nghe chưa thấu, xét chưa tường, mà đã hàm hồ phán đoán.

Nếu phải nổi giận vì cái “nghĩa lý chi nộ”, cũng phải cẩn thận : “Ví bằng anh em đương cơn giận thì chớ phạm tội, chớ giận cho tới khi mặt trời lặn, và đừng tạo cơ hội cho ma quỷ” (Ê-phê-sô 4:26-27).

Ôn lại quá khứ, bởi giận mà chúng ta làm cho “cái sảy nảy cái ung”, “giận chuột ném vỡ bình quý, “giận con rận, đốt cái áo”. Tất cả đều là giận dại. Là không còn sáng
suốt hiểu biết chân lý để nói.

“Giận lên là nổi cơn điên

Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu”

Cảm ơn Mục sư Phan Thanh Bình, người đã viết tới 99 cuốn sách về Chúa Jêsus, Kinh Thánh, Chứng đạo, Gia đình…

Thưa Mục sư,

Nhà Phật cũng dạy: “Ôm lấy sự giận dữ chẳng khác chi nắm cục than hồng định liệng vào người khác, nhưng trước khi ném thì tay đã phỏng cháy”.

Hoặc theo lời khuyên của Thomas Jefferson: “Khi giận hãy đếm tới 10 trước khi nói. Nếu giận tràn hông thì đếm tới 100”.

Mới đếm tới bảy tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.

Sao mà khéo khuyên!!! Nhẹ nhàng nhưng công hiệu.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

Nguồn: Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam số 185 ngày 01-12-2012

Thư Mùa Vọng.

Thư  Mùa Vọng.

Chúa Giêsu kính yêu của con,

Sáng nay, ngày đầu của tháng 12, quán Cà phê đầu ngõ nhà con đã vang lời ca của một ca khúc quen thuộc “ Dương trần đã vang lên BÀI THÁNH CA, Mùa Đông năm ấy Chúa sinh vì ta . . .”, mở đầu cho một CD hát về Noel. Tác giả không biết có phải là người Công Giáo? Nhưng ít ra là ông biết được “ Mùa đông năm ấy Chúa sinh vì ta “.
Đó chính là ý nghĩa của hai từ GIÁNG SINH .

Những bài hát về một thời gian đẹp nhất trong năm đang vang lên trong từng gia
đình, quán xá. Đông về, một chút lạnh lẽo hiếm hoi chen vào vùng đất Saigon
nhiệt đới, khiến lòng người cũng mềm đi theo tiếng nhạc . Chính tiết đông về
lại báo hiệu cho một năm Phụng vụ mới, một Mùa Vọng mới lại đến.

Mùa Vọng- Mùa trông đợi. Mùa Vọng , mùa của niềm hy vọng, mùa của
những tiếng vọng lên trời :”Trời cao hãy đổ sương xuống, Và ngàn mây hãy mưas đấng chuộc tội “.

Từ hàng ngàn năm trước, trong dân ISRAEL đã vang lên tiếng khẩn cầu mong chờ một vị Thiên sai đến giải thóat họ khỏi kiếp sống nô lệ, bị bách hại, lầm than. Đức Giêsu Kitô đã đến. Người đến không như một vị minh chủ, một lãnh tụ trần gian. Người đến không quan quân hộ tống,không kèn trống oai phong như một dũng tướng chiến thắng trở về. Người đến trong bần hàn, nghèo khó trong thân phận một  hài nhi bé bỏng, trong một túp lều hoang vắng ngòai đồng giữa một đêm đông giá lạnh mà xúm quanh là những mục đồng nghèo hèn, cùng với đàn chiên bò của họ. Người là sứ giả của Thiên Chúa tình yêu, đem đến cho con người sứ điệp YÊU THƯƠNG. Và chính người đã sống sứ điệp ấy suốt cuộc đời mình trên trần thế. Người đến xóa mọi bất công, chỉ đường ngay nẻo chính, chính Người tự nhận là Đường, là Sự thật và là Sự Sống. Người đến cứu kẻ cơ hàn, cho họ được hưởng hạnh phúc bất diệt. Tiếc thay, Người đến trong nhà của dân Người nhưng họ không nhận biết Người .

Hơn 2000 năm đã qua đi, bản di chúc Tình yêu Người để lại vẫn mãi mang tính
hiện thực. Tình yêu ấy vẫn được triển nở để chuẩn bị cho đến khi Người trở lại.
Khi ấy mọi người, mọi dân, mọi nước sẽ qui tụ về làm một. Khi ấy con người trần
gian sẽ được giải thóat khỏi mọi xiềng xích tội lỗi, khỏi mọi hiềm khích, bất hòa, tranh chấp. Con người sẽ sống hạnh phúc bên nhau, một cuộc sống chan hòa yêu thương trong một trời mới, đất mới.  Để đón chờ ngày Chúa đến, Chúa nhắc nhở mỗi người chúng con luôn sẵn sàng, tỉnh thức, “ chớ để lòng mình sinh ra nặng nề vì chè chén say sưa,mà lo lắng sự đời. . . hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn “.

Xin cho mổi người chúng con luôn sống niềm hy vọng của những ngày chờ mong Chúa đến và luôn biết thưa lên rằng :”  Giêsu ơi ! Xin Người ngự đến “. AMEN.

Fx ĐỖ CÔNG MINH

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Nói Cho Con Người – Lm Chân Tín (01)

Nói Cho Con Người – Lm Chân Tín (01)
Đăng bởi cheoreo lúc 3:00 Chiều 3/12/12


VRNs (03.12.2012) – Cha Stêphanô Nguyễn Tín, còn gọi là Chân Tín, tiến sĩ thần học tín lý, nguyên giáo sư thần học, giám đốc học viện DCCT Đà Lạt, chủ nhiệm báo Đức Mẹ, sáng lập tạp chí và tủ sách Tuổi Hoa, sáng lập và chủ nhiệm tạp chí Đối Diện, Đồng Dao, Đứng Dậy cho đến năm 1978.
Sau khi bị nhà nước cấm làm báo, cha Chân Tín đã tự cho phép mình làm báo theo luật lương tâm và luật quốc tế. Ngài tiếp tục làm chủ  nhiệm của các tạp chí Thư Nhà (ghi xuất bản tại Pháp), rồi sau là Tin Nhà (ghi xuất bản tại Úc). Khi hai ấn bản này hoàn thành sứ mạng, cha Chân Tín lại làm chủ nhiệm của bán nguyệt san Tự do ngôn luận, tiếng nói của phong trào 8406 cho đến lúc qua đời, ngày 01.12.2012, tại Sài Gòn, Việt Nam, thọ 92 tuổi.
Nhân dịp cha Chân Tín được Chúa gọi về, VRNs xin tuần tự giới thiệu đến quý vị những trang viết của cha Chân Tín, để hầu những ai chưa kịp biết ngài là ai, có thể qua các tác phẩm biết thêm về một nhân chứng của lịch sử. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ tác phẩm NÓI VỚI CON NGƯỜI của cha Chân Tín, với lời nói đầu của cố và cựu linh mục Phaolô Nguyễn Ngọc Lan, một người đồng hành với cha Chân Tín trong sứ vụ truyền thông.
———-
Lời nói đầu
“Cảm ơn các anh chị đã muốn cho ra tập hồ sơ Chân Tín. Những gì tôi viết là “primier jet” trong cuộc đấu tức khắc, kể cả bốn bải giảng. Vì thế khá luộm thuộm. Các anh chị có thể bỏ bớt hay sửa chữa qua loa lời văn. Có cái gì hay là tiếng của đức tin chứ không bao giờ nghĩ là sẽ cho in. Nhưng nếu anh chị thấy có ích cho kẻ khác thì xin tùy nghi sử dụng”.
Mấy dòng trên của linh mục Chân Tín gửi cho chúng tôi (ngày 8.12.1992) tưởng cũng đủ để giới thiệu tập sách nhỏ này. Những bài tham luận, phát biểu, thư, bốn bài gảng in trong tập này, đã được phổ biến hầu hết, một cách tản mạn. Nhiều bài được đăng tải rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng. Nội dung các bài này tiếp nối và đào sâu thái độ của Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan và nhóm bạn từ sau năm 1975. Ai cũng biết, tờ Đứng Dậy mà Chân Tín làm chủ nhiệm và Nguyễn Ngọc Lan làm tổng biên tập đã được mời tục bản sau biến cố 30/4/1975. Đối Diện, Đồng Dao, Đứng Dậy. Ba tên của một nguyệt san đeo đẳng với vận mệnh đất nước từ năm 1969 đến 1978. Những năm sôi bỏng. Muốn giữ đứng phải né tránh và “tự ý đục bỏ”. Mặt khác để bảo vệ tiếng nói tự do lại cần có nội dung chặt chẽ. Thật không dễ. Vì thế mà trước năm 1975, báo bị tịch thu dài dài và chủ nhiệm Chân Tín, đứng mũi chịu sào. Lai rai vác chiếu ra tòa. Cuối cùng bị cấm. Và thành ‘báo lậu”. Cuối năm 1978 không ai đòi ra tòa, không có kiện tụng nhưng vẫn có đóng cửa. Và sau khi đóng cửa cũng không có “báo chui”. Sự kiện nhỏ này là một hội chứng lớn về sự khác biệt giữa hai chế độ.
Chính quyền cộng sản đã lầm khi họ tưởng rằng bắt Đứng Dậy ngồi xuống là khai trừ được một tiếng nói chân chính. Trước sự đàn áp và bất công, người dân vẫn còn cả một rừng cười. Nếu tiếng hát át được tiếng bom thì tiếng “hót” của mọi hội nhà văn, nhà báo, của mọi thứ công giáo, phật giáo quốc doanh lại càng vang thêm tiếng cười. Nhưng cười để khóc chưa đủ. Tiếu lâm dân gian là một cách đối phó “chui”. Chưa phải đối diện. Trước một thể chế nhân danh nhân dân để “bốc hơi” bộ mặt thực của người dân, cần có những người can đảm lộ diện để đối diện với độc tài, nói lên sự thật và những đòi hỏi chính đáng của lương tâm. Nói bóng gió xa xôi, nói chung, nói riêng, dù bất mãn đi nữa vẫn là phục tùng. Vì sợ! “Mọi sự xuất phát từ cái sợ, sợ, sợ”. Chân Tín là một trong những người dám đập tan cái sợ, dụng cụ thiết yếu của chế độ. Không có quyền ra báo, Chân Tín vẫn cứ nói khi cần lên tiếng. Mà vì không còn phải trách nhiệm về sự sống còn của một tờ báo và sự yên ổn tương đối của những người cộng tác, ông cũng hết phải cần né tránh. Tờ Đứng Dậy bị đóng cửa cũng là cơ hội cho phép Chân Tín và các bạn ông tự do sống tự do của con người. Độc tài càng khe khắt, tự do càng có dịp khẳng định thực chất và vị trí của mình. Vì thế những bài Chân Tín viết ra hay nói ra không phải là những tiểu luận về chính trị, cũng không phải là những tham luận mang tính cách tôn giáo hay đạo đức. Trước hết đó là tiếng nói can đảm, độ lượng và chân thành của một con người tự do, từ nhiều năm qua nhập cuộc với tư cách công dân, tín hữu và linh mục.
Mục đích của tiếng nói ấy là bộc lộ ‘trạng thái sơ khởi’ (primier jet) của niềm tin và hy vọng. Không tìm lời hay ý đẹp. Không chải chuốt văn vẻ. Không đắn đo, không lèo lái. ‘Sic sic, non non’. Có nói có, không nói không. Tất nhiên không phải nói huỵch toẹt để bài kích hay khiêu khích tha nhân nhưng thẳng thắn và trung thực, cho dù có vì thế mà mất lòng người khác. Vì đặc vụ của linh mục là làm sáng tỏ đức tin bằng việc làm và lời nói. Và có gì đáng giá là tiếng của đức tin. Còn lại là nhược điểm tất yếu của con người. Mở đầu bài giảng sám hối Chân Tín đã khẳng định: “Nói đến sám hối là tôi nghĩ đến tôi trước hết.” Xin đừng tưởng ông nói suông cho đẹp lời để rồi sau đó đi đấm ngực kẻ khác. Vì, “hơn ai hết, linh mục là người phải sám hối nhiều nhất…, càng nhiều chức phận, càng nhiều trách nhiệm và đồng thời cũng nhiều sai phạm”. Linh mục cũng là người thôi, “cũng bị tham sân si chi phối”.
Nhưng tham sân si chưa đáng e ngại bằng sự thiếu trung thành và chính xác với chính đức tin mình sống và có trách nhiệm rao giảng. Trong một thế giới mất hướng, giữa một xã hội lũng đoạn như xã hội Việt Nam, tin là đòi hỏi cấp bách mà vì thế, xét về mặt nào đó, cũng là một món hàng ăn khách.
Giữa tin và mê tín, biên giới mập mờ. Từ tin đến cuồng tín, con đường khá quen thuộc. Những giá trị cao đẹp, chính vì cao đẹp, dễ biến thành vũ khí hãm hại con người. Các nhà tôn giáo chân chính luôn luôn đề phòng để đức tin không hóa ra bùa chú mê hoặc lòng người và tôn giáo không biến thành thuốc phiện ru ngủ chúng sinh trong cõi trầm luân. Khi con người ham ngủ, thiếu gì thuốc phiện. Khi muốn quay lưng với thực tế và chính mình, thì cái gì cũng thành ma túy cả. Chẳng hạn: chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh (!), kinh tế thị trường, truyền thống dân tộc, khoa học kĩ thuật…
Chân – Tín thuộc loại người đánh thức. Và đó là lý do cơ bản gây nhiều ngộ nhận, nó cắt nghĩa tại sao trước 1975 ông bị mang tiếng là “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” để rồi sau 1975 người ta lại than phiền rằng trước kia ông thiên tả mà sao bây giờ ông thiên hữu vậy, trước kia “yêu nước” thế mà bây giờ vv…
Ngày 6.11.1989 bị gọi ra Sở Công an làm việc với ông Võ Viết Thanh, thứ trưởng bộ Nội vụ, Chân Tín nói: “Hồi chế độ cũ, tôi cũng đến Sở Công an này, trước kia gọi là Nha cảnh sát Đô Thành, để bị thẩm vấn về các hoạt động của tôi qua báo Đối Diện, qua những cuộc xuống đường chống Mỹ -Thiệu, qua ủy ban tranh đấu cho tù chính trị. Trả lời: “Vâng nhưng thời cuộc đã đổi thay”.
Đúng thế. Thời cuộc đã đổi thay. Nhưng lòng người vẫn chưa thay đổi. Ai cũng sẵn sàng vỗ tay người đánh thức, miễn là đánh thức trên mây gió. Phê bình rất quý, miễn là phê bình bên cạnh người bên cạnh, đừng làm mất giấc ngủ “chủ nhà”. Công giáo phê bình người công giáo là thiếu bác ái, chia rẽ giáo hội, vạch áo cho người xem lưng. Sống dưới thể chế cộng hòa mà tố cáo những vi phạm nhân quyền, đòi cải thiện chế độ lao tù là làm tay sai cho cộng sản. Sống dưới thể chế cộng sản mà đòi tự do, đòi tôn trọng nhân quyền và dân quyền là vi phạm an ninh quốc gia, làm tay sai cho địch.
Đứng về phía kẻ thắng rất dễ. Nhiều người không nhìn thấy phía nào khác. Đứng về phía kẻ bại cũng không quá khó. Đây thường là lựa chọn của những tâm hồn cao thượng. Khó là đứng về phía con người trong mọi hoàn cảnh, thuận cũng như nghịch. Chân – Tín đã làm thế.
Ai có dịp đọc thư Chân Tín, thấy ông viết những bài phát biểu và tham luận giống như ông viết thư. Chân tình và nhạy cảm, luôn luôn tìm gặp và tìm nghe người khác. Viết như dốc cả tâm hồn vào điều mình muốn nói. Giọng điệu dễ dãi, đơn giản, Chân Tín gọi là “luộm thuộm”. Còn những người viết cho ông, ngoài bạn bè thân hữu, có một số do trước kia được ông nâng đỡ và thăm nom trong nhà tù của chế độ Cộng Hòa miền nam, một số khác vì nhờ sự giúp đỡ của ông mà thoát ách chính quyền cộng sản. Cũng có người liên lạc với ông từ thời làm chủ tịch Ủy ban cải thiện chế độ lao tù, nay tiếp tục ủng hộ tiếng nói của ông và tranh đấu cho ông. Có những thành viên của Ân xá quốc tế đều đặn viết thư cho ông từ khi ông bị tước đoạt tự do. Vào dịp lễ Giáng Sinh vừa qua, riêng từ nước Anh mấy trăm lá thư của những người bạn chưa quen biết gửi tới ông chứng tỏ rằng cuộc tranh đấu cho con người, cho tự do và công lý tự nó sẽ làm nảy sinh những tiềm lực cần thiết để tiếp tục đấu tranh.
Ông già Chân Tín năm nay 72 tuổi vẫn sống thanh thản tại một xứ đạo nhỏ bé và hẻo lánh miền Duyên Hải. Không được quyền làm công việc của một linh mục, không được phép giảng, cũng không được phép nói  trong nhà thờ như một giáo dân. Nhưng sự có mặt, và nhất là sự vắng mặt của Chân Tín lại là một tiếng nói, đúng hơn, một tiếng kêu của người dân Việt-Nam!
Ông già Chân Tín mất quyền công dân! Ông già Chân Tín bị đày, bị quản thúc chỉ vì nói lên lòng người, nói cho con người! Tiếc thay! Tiếc cho cả dân tộc Việt Nam. Tiếc nhất cho những kẻ đã làm nên nông nỗi này!
Ước gì bạn đọc không chỉ coi tập hồ sơ này như một tài liệu tham khảo. Đàng sau những dòng chữ có một bộ mặt, một niềm tin của một công dân, một linh mục Việt Nam thiết tha làm chứng cho khổ đau và hy vọng của con người Việt-Nam. Chân Tín không có chỗ đứng trên mảnh đất Việt Nam là dấu chỉ người dân Việt Nam đã mất quyền làm chủ trên quê hương mình. Gần 70 triệu người Việt hiện đang vất vưởng và tạm bợ cắm trại trên chính mảnh đất cha ông đã để lại. Mà cái tập đoàn đã và đương đẩy họ vào thảm trạng đó gồm toàn người đồng bào của họ.
Thực tại ngược đời ấy đòi hỏi mỗi người phải tiếp tục tranh đấu. Gương của Chân Tín cũng như gương của bao nhiêu người khác, thúc đẩy mỗi người trong chúng ta phải tự đại diện cho chính mình, đứng dậy, nói lên tiếng nói của người dân. Đó là nguồn gốc của dân chủ.
Khi quyền lực độc tài đã tước đoạt hết, con người chỉ còn có lương tâm của mình. Tiếng nói của lương tâm là ánh sáng không một quyền lực nào dập tắt được. Nếu chúng ta muốn, tiếng nói ấy sẽ thành Lời.
Thư Chân-Tín: “Tôi đứng để nói, công an cấm. Tôi sẽ ngồi mà nói. Nếu người ta cấm nữa tôi sẽ nằm mà nói.”
Nguyễn Ngọc Lan
Tham luận tại Hội Nghị Ủy ban Trung ương MTTQVN (23.2.1978) về vụ các tu viện Thủ-Đức
Ngày 4.2.1978 tại hội trường chính quyền, ông Mai-Chí-Thọ nói chuyện trước cử tọa gồm đại diện Mặt trận tổ quốc thành, quận, phường và giới công giáo (giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân) về vụ linh mục
Nguyễn Văn Vàng và về vụ năm tu viện Thủ Đức, từ 8 giờ đến 12 giờ. Ông Mai Chí Thọ ngỏ ý muốn có trao đổi giữa đồng bào và chính quyền. Nhân dịp Hội nghị Mặt Trận, chúng tôi chân thành bày tỏ cùng chính quyền một số cảm nghĩ sau đây:
1. Một vài ưu tư về chuyện chung đất nước và lợi ích của Giáo hội Công giáo Chính vì sự đoàn kết dân tộc mà chúng tôi có ưu tư: cố gắng của chúng tôi là giúp cho chính mình cũng như anh em đồng đạo hòa
mình với toàn thể đồng bào, chung sức góp phần để quê hương được bình an, ấm no, hạnh phúc. Những cố gắng đó – tuy chưa thấm vào đâu, như Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nói – song cũng tỏ một ý chí, một chiều hướng mà các giám mục phía nam đã bày tỏ trong Thư chung tháng 7/1976 gửi đồng bào công giáo.
Có thể nói chính vì chuyện chung đất nước và cũng vì giáo hội công giáo mà chúng tôi ưu tư. Trong sự nghiệp chung của dân tộc, chúng tôi muốn có một đóng góp tích cực của giới công giáo phía Nam –
không ở trong thái độ tiêu cực của một ‘Giáo hội thầm lặng’ – nhưng càng tin tưởng hơn vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng tại buổi họp 4.2.1978, ông Mai Chí Thọ đã nhận thấy đồng bào công giáo ‘nghi ngờ’ vụ các tu viện Thủ Đức. Mối ưu tư chúng tôi là ở điểm đó: Quả có sự nghi ngờ của đồng bào về vụ tu viện. Xin giải bày ở đây cái tâm tư của người công giáo, không ngoài ước muốn chính quyền
hiểu thêm chúng tôi.
Sự nghi ngờ này dễ có do những thành kiến chưa xóa sạch được giữa công giáo và cộng sản. Nhưng riêng trong vụ tu viện nó lại còn dựa trên một quá trình lịch sử: Cách mạng 1789 tại Pháp, luật tách rời Nhà thờ và Nhà nước năm 1905 taị Pháp. Cách mạng 1917 tại Nga, kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu đều có chuyện đuổi các tu sĩ khỏi tu viện, đóng cửa các dòng… Nay thấy Cách Mạng Việt Nam chiếu cố đến một loạt dòng tu, người công giáo khó tránh khỏi bi quan và nghĩ rằng lịch sử chỉ lặp lại, chưa có gì mới.
Tại nước ta, Đảng chủ trương vận dụng óc sáng tạo, tìm một đường lối độc đáo, căn cứ trên thực tế và trên các tác động qua lại. Phương hướng này giúp cho thành phần cởi mở của giới công giáo khuyến
khích anh em đồng đạo tích cực đóng góp vào công trình xây dựng quê hương. Hội đồng Giám mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn năm 1976 với Thư chung định hướng; tham luận của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tại Đại hội Giám mục thế giới lần thứ 5 ở Roma năm 1977 là những đóng góp quan trọng trong bước tiến này. Riêng tại Việt Nam, có thể nói nhiều năm trước giải phóng, các dòng tu tương đối tiến bộ hơn cả – trong nội bộ giáo hội cũng như trong tương quan với Cách mạng.
Vụ các tu viện Thủ – Đức gây trong giới đồng bào công giáo một mối lo sợ: lo sợ rằng có lẽ lịch sử lại tái diễn. Chúng tôi quả cũng không mong thấy lịch sử tái diễn, vì chúng tôi muốn đẩy lịch sử tiến tới
bằng đóng góp tích cực của mình.
Nhân tiện đây, chúng tôi cũng mong chính quyền cảm thông với đời tu sĩ của chúng tôi. Có người hỏi sao trước Cách mạng thì nhiều dòng chủ trương phân tán, tu sĩ không ở các tu viện lớn, chia thành nhóm nhỏ, sống giữa lòng dân? Người khác thắc mắc tại sao nói nhiều về việc đi kinh tế mới mà vẫn ở tu viện thành phố. Thật ra thể hiện đời tu là thế này: chúng tôi đang ở thời kỳ quá độ, đang trong giai đoạn chuyển tiếp. Chúng tôi sẵn sàng chia cộng đoàn lớn thành nhiều cộng đoàn nhỏ, đi lao động tay chân và trí óc.
Nhưng hiện nay thay hộ khẩu rất khó, tu sĩ xin di chuyển chưa phải là việc dễ, muốn lên vùng kinh tế mới, nhưng còn gặp dè dặt phía Nhà nước… Tại buổi họp 4/2/1978, ông Mai Chí Thọ có nói các tu viện dễ bị liệt vào trường hợp phạm pháp, nhà chức trách chỉ xét thư viện của các dòng, hẳn thế nào cũng phát hiện các sách ‘chống cộng’. Quả là có nơi soạn lại sách chưa hết, có thể còn sót sách báo loại này, hay có một vài cá nhân giữ lại với tinh thần không tốt. Nhưng chúng tôi biết rằng chủ nghĩa Cộng
sản nói là ‘tin vào con người’ điều mà chúng tôi rất đồng ý. Đã tin vào con người thì cũng tin vào khả năng nhận định chân lý của con người. Loại sách ‘chống cộng’ trước khi Cách mạng thành công có thể có một ý nghĩa: nhưng sau khi sống trong xã hội chủ nghĩa một thời gian, những sách đó có thể lại mặc một nghĩa khác: hoặc để làm chứng cho những sai lầm mà những sách đó đã vu vơ khẳng định; hoặc để giúp người đọc đo được con đường mình đã đi; những sách đó khi ấy còn giá trị: giá trị tài liệu của một thời đại đã qua. Mà hầu hết các tu viện liên hệ ở Thủ Đức lại là những học viện, có nhu cầu nghiên cứu, học hỏi rộng rãi: chắc hẳn sách báo vô thần, duy vật biện chứng họ còn cất giữ nhiều hơn
nữa.
Lại có người bảo chúng tôi đi tu, phải chăng là để bám vào cơ sở lớn? Thật ra đi tu không có nghĩa đó. Bản chất đời tu của công giáo là đời sống cộng đoàn, mà sống như vậy để sống đức tin của mình, nhưng
cũng vì đó từ bỏ quyền tư hữu. Vấn đề làm công tác như giảng đạo, dạy học vv… chỉ là những hình thức cụ thể để người tu sĩ phục vụ đồng bào. Có thể nói đời tu trì khá gần với đời sống xã hội chủ nghĩa, ít ra trong thái độ đối với của cải và đối với lối sống tập thể.
Một điểm nhỏ cũng xin lưu ý là các nhà thần học có ảnh hưởng trong Công đồng vatican II – một công đồng đã vạch phương hướng đối thoại cởi mở cho Giáo hội những năm gần đây – phần lớn là những tu sĩ. Cảm thông với đời tư của chúng tôi, chính quyền sẽ hiểu là chúng tôi hoàn toàn đồng ý rằng trong tu viện, ai có tội, Nhà nước cứ trừng trị khi có bằng cớ rõ ràng và tương xứng. Bản chất đời tu trì công
giáo là đời sống tập thể, mọi người nhất trí trên mục tiêu do Hiến pháp dòng đề nghị – là mục tiêu tôn giáo. Đời sống tập thể đó, sự nhất trí đó không có nghĩa là một con người phạm tội, thì tất cả các tu sĩ đều nhất trí về việc xấu đó, đều tán thành việc xấu đó, trái lại, nếu có liên đới là theo nghĩa ‘con sâu làm
rầu nồi canh’. Bởi vì trong thực tế, chúng tôi dám nghĩ không một ai có trách nhiệm một cộng đoàn tu sĩ lại muốn có chuyện xấu xảy ra trong nhà. Đàng khác, tu viện sống tập thể, nhưng lại là tập thể những người có tuổi trưởng thành, mỗi người lại có công việc của mình, có trách nhiệm của mình và đủ tư cách để chịu trách nhiệm về chính mình trước mặt Nhà nước. Kinh nghiệm một số tu sĩ chúng tôi trong đời sống Mỹ-Thiệu, giấu một vài anh em cách mạng trong tu viện, làm chứng điều đó. Nhưng thời đó, dòng tu có thể làm việc này được là vì dòng tu được chế độ cũ o bế: và chúng tôi làm là vì việc đó có nhiều hướng tiến bộ.
Còn như ngày nay, thì không ai dại gì mà chui vào dòng tu tìm sự an toàn khi làm việc phản động. Ngay linh mục Nguyễn Văn Vàng cũng thấy phải trốn khỏi tu viện mới tính chuyện âm mưu chống đối Nhà nước.
2. Nội vụ các tu viện Thủ Đức như chúng tôi hiểu được qua buổi họp ngày 4/2/1978 Đến đây xin đi vào nội vụ các tu viện Thủ Đức theo như chúng tôi hiểu được qua buổi họp mặt tại trường Chính quyền ngày
4/2/1978. Xin thành thật nói cảm nghĩ của chúng tôi trong tinh thần tìm hiểu nhau.
Cách trình bày của Nhà nước hôm đó xem như chưa thuyết phục đồng bào công giáo:
a) Linh mục Nguyễn Văn Vàng bị bắt vì âm mưu chống Cách mạng; Lê Văn Đào, Phạm Quang Hồng và các sư huynh khác trường Mossard Thủ Đức bị bắt vì, theo như ông Mai Chí Thọ nói, giấu súng (30
khẩu) và in truyền đơn của Lm Vàng chống Cách mạng.
Linh mục Bùi Thanh Long bị bắt tại tu viện Don Bosco Thủ Đức vì chống chế độ. Tang vật được đưa ra và các tội phạm đều nhận.
b) Còn 4 tu viện khác (Phước Sơn, dòng Don Bosco, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Đa Minh) thì ông Mai Chí Thọ cho biết còn trong vòng kiểm tra.
Nhưng các bảng treo trên tường, ngoài hành lang của hội trường, thì lại làm bằng những lời buộc tội khẳng định. Những buộc tội cá nhân, chúng tôi chắc Nhà nước sẽ công bố đầy đủ khi hoàn thành điều tra. Còn những buộc tội tập thể thì đã gợi cho chúng tôi một vài nhận xét sau đây qua một hai trường hợp:
a) Trường hợp dòng Đa Minh Thủ Đức về tội cá nhân thì bảng ghi: “Linh mục Bùi Đức Sinh chuẩn bị kế hoạch phá rối trị an và bố trí người đưa ra ngoại quốc.”
Tu sĩ Trần Thế Khoái khai man lý lịch, cấu kết với bọn cướp máy bay trốn ra nước ngoài; cũng có ghim một tài liệu với chú thích là tài liệu chống cách mạng của tu sĩ Phạm Mạnh Cường. Những tội cá nhân,
chúng tôi không bàn tới như đã nói trên. Nhưng về tập thể, thì bảng ghi: Tu viện giấu cất sách báo và nhiều tài liệu chống Cách mạng. Vi phạm này, như ông Mai Chí Thọ nói, chúng tôi đều có thể rơi vào, nên chúng tôi chưa thấy ý nghĩa gì đặc biệt.
b) Trường hợp Dòng CCT Thủ Đức Bảng treo tường mang nhan đề: “Vụ linh mục Nguyễn Văn Lộc và một số phần tử phản động Dòng Chúa Cứu Thế cấu kết với Mặt trận Quốc gia Giải phóng”, tức là nhan đề có chủ ý phân định cá nhân và tập thể. Nhưng liền sau đó lại thấy kê: “Các hoạt động phạm pháp của tu viện”, tức là không còn sự phân định kia. Tội ghi về tu viện gồm bốn mục, thì chỉ mục thứ
4 là qui riêng cho cá nhân Nguyễn Văn Lộc, còn 3 mục đầu là qui cho tập thể:
1- Mở chủng viện trái phép: Về điểm này anh Nguyễn Ngọc Lan hôm đó tại trường Chính quyền đã góp ý kiến: Học viện có từ trước cách mạng; khi chính quyền bảo đăng ký thì đã làm sớm; khi chính quyền
yêu cầu tạm ngưng cho đến khi Nhà nước cho phép thì cũng ngưng ngay.
2- Tàng trữ vũ khí nhằm mục đích phản cách mạng: thật sự chỉ có một khẩu súng lục đã rỉ học sinh nhặt ở ngoài vườn.
3- Chứa người trái phép: Nếu có, thì đó chỉ là một vi phạm thông thường của bất cứ hộ nào sơ suất (bà con tới thăm mà không kịp trình tổ trưởng). Riêng trong trường hợp dòng Chúa Cứu Thế Thủ Đức
chúng tôi được biết hoàn cảnh ông già Quý, không bà con thân thuộc, suốt đời ở với tu viện, có hộ khẩu tại tu viện, nay bị nhà chức trách đuổi khỏi hộ tu viện và đang sống trôi dạt… với giấy buộc tội cư ngụ bất hợp pháp. Còn anh Nguyễn Văn Đức bị bắt giữ, là người có hộ khẩu ở nhà bà mẹ anh, cạnh học viện DCCT, anh thường đến làm việc tại tu viện. Ngoài ra, chúng tôi xin phản ánh chung quanh học viện: Sau khi Công an chiếm đóng tu viện, đồng bào lương cũng như công giáo nói rằng có sự tẩu tán của cải từ tu viện ra ngoài. Riêng nhà thờ An Phong nằm trong khuôn viên học viện, thì giáo dân cho hay là đã bị dẹp, bàn thờ cũng bị phá, nơi này không còn là nơi trang nghiêm tế tự, được biến thành chỗ ăn ở
và liên hoan của cán bộ. Về mấy dư luận này đã gây thêm hoang mang giữa đồng bào, nếu có thật, thì càng rất đáng tiếc.
Để nói thêm cảm nghĩ: chúng tôi được biết là Nhà nước vẫn muốn cán bộ học tập để phân định đâu thù, đâu bạn, đâu tập thể, đâu cá nhân. Nhưng chúng tôi không khỏi lo ngại rằng cách trình bày của những tấm bảng treo tại hành lang hội trường Chính quyền ngày 4/2/1978 không có lợi cho nhận
thức đúng đắn của anh em cán bộ, mà còn có thể gây thêm lầm lẫn và ngộ nhận.
3. Bày tỏ cùng chính quyền nguyện vọng của tu sĩ trong tinh thần xây dựng đoàn kết
Trình bày mấy điều trên cùng chính quyền, chúng tôi đã suy nghĩ, đắn đo, và chính vì chính quyền muốn có sự sòng phẳng, thành thật trao đổi để hiểu nhau hơn – mà chúng tôi tỏ bày cảm nghĩ của chúng tôi. Và có hai nguyện vọng:
Một là mong cơ quan an ninh của Nhà nước điều tra nhanh chóng.
Hai là khi điều tra xong, chính quyền sớm cho các tu viện trở lại sinh hoạt bình thường, để tránh những hậu quả tâm lý tai hại cho tình đoàn kết dân tộc, để chặn bè phản động thừa dịp lợi dụng tuyên truyền gây chia rẽ, hoang mang. Dĩ nhiên, sự hoang mang của một giới đồng bào hay của một thiểu số phản động chẳng đi tới đâu hết. Nhưng điều khiến chúng tôi rất lo nghĩ – và hẳn chính quyền cũng chia sẻ sự lo nghĩ này với chúng tôi – không phải là ở bình diện an ninh nữa.
Chúng tôi muốn nói đến nỗ lực chung là đẩy lịch sử đi tới, không đành tâm nhìn lịch sử chỉ là lập lại hay đi lùi. Đã có những nổ lực có thể còn giới hạn, nhưng không ngừng để đồng bào công giáo phía Nam từ
1975 đi vào chế độ XHCN không như ở phía Bắc sau 1954 và không như người công giáo ở nhiều nước Đông Âu. Nhưng những biến cố gần đây có thể đặt chúng ta trước một chỗ quặt đáng tiếc: đồng bào công giáo có thể sẽ khựng lại – không phải nghĩ đến chuyện làm nên trò trống gì đâu – nhưng chỉ để rút vào một thế đứng ‘an phận’ bi quan và tiêu cực.
Trình bày với chính quyền như thế là vì chúng tôi ý thức được phần nào trách nhiệm làm chủ tập thể trước những biến cố xảy ra mà quần chúng không hiểu rõ sẽ có thể có những bàn tán bất lợi cho tinh thần đoàn kết dân tộc mà ai cũng cảm thấy rất cần thiết trong giai đoạn này.
Mặt khác, chúng tôi cũng không ngại nói hơi nhiều về tu sĩ cùng chính quyền, vì cuộc sống tu sĩ xét kỹ cũng thuộc về đời sống nhân dân: tu sĩ cũng là dân cả. Nếu chúng tôi được Nhà nước nâng đỡ, thì
không những giáo dân, mà ngay cả quần chúng nhân dân sẽ đặt thêm tin tưởng vào chính quyền cách mạng là thành quả chính quyền của dân, vì dân và do dân.
Chân Tín
(Tp. HCM, 23.02.1978)

Tay Trái của Chúa(La Main Gauche de Dieu)

Tay Trái ca Chúa (La Main Gauche de Dieu)

Vũ Huy Thiện

11/30/2012

nguồn: Vietcatholic.net

Nhân đọc bài “La Main Gauche De Dieu” của bạn Huyền trong Đặc San Hè ATN 2011, bất giác bao nhiêu kỷ niệm đều thức dậy trong tâm tư, mà bấy lâu vẫn ấp ủ trong lòng:

Buổi trưa hôm ấy, một ngày trời âm u ảm đạm, đứng trước cảnh núi rừng trùng
trùng điệp điệp của vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, và sau khi hoàn thành xong
chỉ tiêu ấn định của cán bộ cai tù, tôi ngồi xuống nghỉ chân vài phút. Vừa ngồi
xuống, thì kìa, phía dưới trước mặt, một cái nón lá cũ tả tơi, cùng với mấy
miếng quần áo cũ rách mà ai đó đã để lại, Bất thần trong tôi, bùng lên cái ký
ức về anh chàng phi công Mỹ trong phim nói tiếng Pháp với tựa đề: “La Main
Gauche de Dieu”, được trình chiếu tại rạp Rex Sài gòn khoảng năm 1969 hay 1970
(không nhớ rõ lắm): trong mơ tưởng, tôi như thấy rõ anh ta đang lượm lên cái áo
chùng thâm của vị linh mục xấu số, anh mặc vào người để giả làm một Linh Mục,
rồi ung dung tới một giáo xứ nhỏ bé nơi vùng rừng núi này. Tôi mỉm cười thấy
anh đã hoàn thành tốt tác vụ của một linh mục chủ chăn, đã biến giáo xứ này
thành một nơi sầm uất thờ phượng Chúa.

Tự so sánh anh chàng Phi công với chính mình: anh chàng phi công này giống tôi
ở chỗ, là người công giáo, là một quân nhân, đã từng là chú bé giúp lễ, còn
tôi, tôi cũng là người công giáo, cũng là một quân nhân, đã từng là chú bé giúp
lễ; nhưng tôi hơn anh ta nhiều vì tôi đã từng được Giáo Hội Công giáo nuôi
dưỡng và dậy dỗ để trở thành linh mục, và nếu không tura (danh từ để chỉ những
người tu xuất), thì chắc chắn giờ này đây tôi đã là linh mục thứ thiệt rồi. Anh
trong hoàn cảnh giáo xứ không có linh mục, tức là không có cánh tay Mặt của
Thiên Chúa, vì thế, bất đắc dĩ anh trở thành cánh tay trái của Thiên Chúa, anh
đã thành công. Bây giờ đến lượt tôi, cũng trong hoàn cảnh không có linh mục,
không có cánh tay phải của Chúa nơi trại giam này. Phải làm gì bây giờ? Tôi có
thể thành công như anh ta không?

Tôi thầm thĩ cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa, biết mình phải làm
gì?” tôi liền thề hứa với Chúa: “Lạy Chúa, con xin hứa cố gắng hết sức sống đẹp
lòng Chúa và làm những gì Chúa muốn”. từ trong tận đáy lòng tôi có tiếng:
“ngươi có còn “chối” Ta nữa không? Ngươi có “hứa Lèo” không đây?”

Chả là vì vào năm 1948, khi quân Pháp tấn công miền Bắc, mọi người phải tản cư,
nhà xứ Yên Mỹ trong đó có tôi cũng tản cư. Trên đường khi đang cùng đi với một
nữ tu để tới “lán” (danh từ chỉ những căn lều nơi tản cư), tôi bị một tên công
an bắt giữ, họ dẫn đi suốt buổi chiều và đêm hôm đó tới một nhà tù có lẽ từ
thời Pháp để lại, nó kín cổng cao tường và xây kiên cố.

Vừa bước vào cánh cửa nhỏ bên hông, tên công an đứng sẵn, nắm ngực tôi, ấn vào
cánh cổng lớn bằng gỗ, tôi vội vàng kêu lên: “Giêsu…Ma…”

“Mày kêu Giêsu hả?” tên công an nạt to.

Tôi vội chối ngay: “thưa không ạ.” Đấy là lần chối Chúa mà suốt đời không bao
giờ tôi có thể quên được. Và đấy cũng là kinh nghiệm đau thương của cả cuộc đời
tôi.

Được dẫn vào một căn phòng nhỏ tường cao, không có cửa sổ, không có gì khác
trong phòng ngoài tấm phên đan bằng nứa vuông vít chứng 2 mét mỗi bề, được nằm
chung với một thanh niên, mà mãi tới sáng tôi mới biết anh ta là một thanh niên
công giáo thuộc giáo xứ Nội Bài.

Đêm ấy tôi không thể chợp mắt vì sợ hãi, lo âu… Ngồi dậy đọc kinh, sau khi đọc
hết năm chục kinh mùa thương, tôi cầu khấn Mẹ Hằng Cứu Giúp và hứa với Mẹ khi
được tha về,hằng ngày sẽ đọc ít là năm chục kinh…

Hai ngày sau được tha về, giữ lời hứa được ít ngày, rồi ba bảy hai mốt ngày,
lời hứa ấy đã thành lời “Hứa Lèo”. Đó là lý do mà tiếng lương tâm vừa cảnh giác
tôi.

Giật mình trở lại với thực tại, tôi đứng dậy đi về trại giam với quyết tâm lần
này không hứa lèo nữa.

Thế rồi từ hôm ấy, cùng với một nhóm anh em công giáo trong trại tù Hà Tây,
chúng tôi thường chia sẽ với nhau câu chuyện người phi công Mỹ này và về vai
trò của mình, bàn tay trái của Chúa. Còn phần mình, ước ao được trở thành ngón
tay út của “La Main Gauche De Dieu”. Nhờ đó, chúng tôi gặt hái được những thành
quả đáng mừng, nhiều người chưa biét Chúa bây giờ họ đã học đạo và đã chịu Phép
Rửa để trở thành Kitô hữu, nhất là trường hợp đặc biệt sau đây:

LỄ ÐỒNG TẾ RỬA TỘI TRONG TRẠI TÙ CỘNG SẢN Hà Tây.

Câu Chuyện khó tin, nhưng có thật. Chắc ai cũng biết rằng trong chế độ vô thần
cộng sản, họ không công khai tuyên bố cấm đạo, nhưng trên thực tế, họ làm đủ
mọi cách, và dùng đủ mọi phương tiện có thể, để hủy diệt hay cấm cản các hoạt
động của đạo Công giáo. Đấy là nói về xã hội bên ngoài. Vâng, còn trong các
trại tù thì hoàn toàn không thể có các hoạt động tôn giáo với họ được. Thế
nhưng, nó đã xẩy ra ngay trong trại tù Hà Tây gần Hà Nội. Rất nhiều lần và
nhiều anh em Tân tòng đã được rửa tội. Thường là kín đáo và bởi những giáo dân
chúng tôi thực hiện.

Hôm ấy đúng ngày lễ nghỉ, tất cả các tù nhân được nghỉ lao động. Trong không
khí vui vẻ, mọi người đang tu tập từng nhóm nhỏ để chuyện trò, uống nước trà,
hút thuốc “lào” thứ thuốc thông dụng nhất trong tù. Thì trong góc của căn buồng
phụ, một nghi lễ Rửa Tội đã diễn ra. Ðây là một nghi thức Rửa Tội đặc biệt
trong trại tù Hà Tây, một buổi lễ vô tiền khoáng hậu. Vâng , nó quá đặc biệt vì
:

– Tôi chưa hề nghe ai nói đến một thánh lễ đồng tế trong nhà tù cộng sản,

– hơn nữa đây lại là một thánh lễ đồng tế do 3 linh mục và có kèm theo nghi lễ
rửa tội.

Nhóm tổ chức chúng tôi đã liên lạc được với 3 Linh mục tuyên úy mới được đưa về
đây, xin các ngài tới cử hành các nghi thức Thánh lễ và ban Bí tích rửa tội cho
một tù nhân.

– Chủ Tế: Cha Nguyễn Văn Bỉnh (gốc Giáo phận Bắc Ninh),

– Ðồng tế: Cha Phan Quốc Túy (gốc điạ phận Phát Diệm, đội trưởng đội Tuyên Úy)
và Cha Hưởng

-Tín hữu tham dự khoảng mươi người gồm các bạn bè của anh Lý, trong đó có Anh
Nguyễn Hữu Thế (hiện ở Atlanta), Anh Hà Lý Luận hiện đang ở Kansas và tôi…,
người được Anh Lý chọn làm Bõ Đỡ Đầu…

Sau khi nguyện kinh, nghi lễ rửa tội cho anh Võ Minh Lý bắt đầu.

Cha Bỉnh chủ tế đã đổ nước trên đầu anh Vicentê đệ Phao Lô Võ Minh Lý với nghi
thức thật đơn giản, vì sợ công an họ biết, sẽ gặp rắc rối, tuy nhiên, chúng tôi
ai nấy đều cảm thấy rất sốt sắng, và cảm động.

Tiếp theo sau Bí Tích Rửa tội là Thánh lễ đồng tế.

Thánh lễ đã cử hành khá trang nghiêm và đơn giản.

Thánh lễ vừa chấm dứt, nước trà, bánh keo được dọn ra để mừng cho Anh Lý, anh
nguyên là Giám Ðốc phòng tình báo đường dây Bắc Việt thuộc Phủ Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hoà, hiện nay anh và vợ con đang ở Sarcramento California.

Kể từ hôm ấy, anh đã là một Kitô hữu, một chứng nhân nhiệt thành của Chúa Giêsu
Kitô.

Cảm ơn Chúa, thánh lễ chấm dứt một cách suông sẻ, không một rắc rối nào xẩy ra.
Nhưng trong khi chúng tôi đang vui vẻ uống trà và thưởng thức bánh kẹo thì được
tin báo cho biết, một viên công an trực trại đang đi vào, (trước thánh lễ chúng
tôi bố trí 2 trạm gác: 1 tại cổng khu vực, và một tại ngay trước cửa sổ của căn
phòng này), y đi từ cổng khu vực, rảo bước nhanh qua một sân rộng, không nói năng
hay hỏi han ai điều gì mà vào thẳng cửa buồng lớn bên ngoài rồi vào tới chỗ
chúng tôi đang ngồi. Mọi người đều im lặng khi viên công an xuất hiện.

Y hỏi: “Các anh lày đang nàm gì ở đây”.

Anh Hà Lý Luận (có biệt danh là Nhái) đáp: “Hôm nay ngày nghỉ chúng tôi gặp
nhau uống nước trà, hút thuốc!”

Viên công an ra lệnh: “giải tán ngay, còn Anh Túy , Anh Hưởng và anh Bỉnh (ba
cha tuyên úy) về ngay buồng của các anh…cứ ninh tinh…nàm thì nười… ninh tinh
thì giỏi”.

Cha Túy đáp: “Chúng tôi uống nước xong về ngay”

Viên công an: “Không được, phải về ngay nập tức.”

Thế là mọi người giải tán trong niềm tri ân Thiên Chúa vì – công an đã được tin
trễ, nên khi mọi nghi lễ chấm dứt và đã sang tới phần mừng vui, tiệc trà thì họ
mới tới .

Cảm tạ Chúa nhiều hơn nữa vì khi được tha về, anh Lý đã kiên trì giữ vững đức
tin và anh còn đưa cả vợ anh và hai con cùng chịu phép rửa tội tại một xứ đạo
tại California. Mùa hè năm 2007 có dịp sang California , tôi đã ghé thăm Anh
tại Sacramento, ở chơi với Anh hai ngày. Những ngày này, tôi thật vui mừng vì
thấy hạt giống đức tin của Anh đã truyền đạt cho các con Anh, vì cứ mỗi tối
trước khi đi ngủ, tôi thấy các con Anh đều chạy đến trước bàn thờ đọc vài ba
kinh gì đó rồi mới đi ngủ. Thấy thế lòng tôi hân hoan một nỗi vui mừng không thể
tả nổi… Nỗi vui mừng càng tăng khi tôi cũng được gặp lại Anh Triệu Huỳnh Võ
cũng ở gần đó, Anh nguyên là Thứ Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi của Chế độ Việt Nam
Cộng Hoà, và Anh Võ cũng đã là một người theo Chúa trong tù, Anh và vợ con cũng
Anh theo Chúa. Cảm tạ ơn Chúa muôn ngàn lần…..

Bây giờ đây chúng tôi Nhóm bạn hữu luôn cầu nguyện cho Anh Lý và thành thật
chúc mừng anh. Ðặc biệt nguyện xin Thiên Chúa đổ tràn muôn ơn lành hồn xác
xuống cho anh và gia đình để luôn xứng đáng là Con Dân Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống.

(Hồi ký của người tù cải tạo Vũ Huy Thiện)