“Một lần nào, cho tôi gặp lại em,”

“Một lần nào, cho tôi gặp lại em,”

“Đôi môi đó đến nay còn nồng!

“Một lần nào cho tôi lại gặp em,

“rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ.”

(Vũ Thành An – Một Ngày Nào Cho Tôi Lại Gặp Em)

(2Ph 1: 5-8)

thanhlinh.net

“Cho tôi lại gặp Em” , phải chăng đó là mộng ước có nhung có nhớ? Nhung nhớ ấy, không chỉ là nỗi nhớ về đấng bậc có cuộc sống rất đáng ghi tạc, ở trong lòng. Nhưng còn là nhớ về cung cách và mẫu gương sống Đạo, vẫn rất nhiều.

Bần đạo đây, thuộc loại bầy tôi tớ rất hèn mọn, chỉ dám mạn bàn chuyện bên lề, dù phải trái, về sự việc xảy ra đã lâu ngày. Nay, ngồi nhớ chuyện vừa đến rồi đi như một số nhà báo từng viết về các người “em” gặp ở đâu đó, xó chợ hay lề đường, trông cũng tội. Nhưng trước khi trích dẫn, đề cập đến các bài viết về “người em” trên phố nhỏ cũng rất buồn, tưởng cũng nên nghe thêm lời thơ/ý nhạc của nghệ sĩ nay trở thành “thày sáu vĩnh viễn” họ Vũ tên gọi rất Thành và rất An như sau:

“Giòng đời nào đưa Em đi về đâu
Sao không thấy qua đây một lần
Giòng đời nào đưa Em đi về đâu
Những bến bờ xưa cũ đã mờ.”

(Vũ Thành An – bđd)

“Những bến bờ xưa cũ, đã mờ” sao vẫn thấy người em tôi “đi về đâu”, “không thấy qua đây một lần”, “giòng đời nào” từng đẩy đưa em ra như thế? Phải chăng là chốn bụi bờ lẩn quẩn, hay khung trời u uẩn những tù nhân, tựa như nhận định của đấng bậc chuyên phụ trách chăm lo cho các em rất bụi đời, từng ngỏ lời như sau:

“Vừa qua, báo cáo của Uỷ Ban Toàn Quốc về Rượu và Ma Tuý đã tập trung nhấn mạnh đến các dịch vụ đem lại lợi ích cho mọi người ở Úc. Theo báo cáo này, vấn đề: “Nhà Tù và việc Giải quyết nơi ăn chốn ở có phân tách về kinh tế cho tội phạm Thổ dân và người Đảo Torres Strait”, tiết kiệm được cho ngân sách Úc lên đến $110,000 bằng việc chuyển các em nào không có hạnh kiểm xấu hay bạo loạn về nơi định cư an hoà hơn là nhốt các em vào tù.

Thêm nữa, báo cáo trên còn cho biết việc định cư điều trị tội phạm trẻ tuổi để các em được trở về sống chung với cộng đồng dân chúng hơn là nhốt tù các em, sẽ đem lại kết quả tốt cho các em, kể cả chuyện giảm bớt tình trạng tái phạm thói tật cũ; kết quả tốt cho sức khoẻ, giảm thiểu tử suất, và tạo chất lượng sống cho cuộc đời của các em, sau này.

Việc này đặc biệt có lợi cho con em của chúng ta là những người trẻ, ở giai đoạn nào đó trong đời khi khối óc của các em vẫn đang phát triển và như thế cũng dễ cho dịch vụ chu cấp điều trị nữa. Trong hệ thống pháp lý về thiếu nhi phạm pháp, giới trẻ người Thổ dân đang đạt số lượng khá cao, nhất là với tuổi từ 10 đến 16 tăng gấp 15 lần so với các em không phải Thổ dân. Đó là số liệu do Ủy ban Phụ Trách Sự vụ Thổ dân và Người Đảo Torres Strait ở Hạ viện từng cung cấp. Xem như thế, vấn đề nhốt tù các em này xem ra không hữu lý.

Trong khi đó, nhu liệu của toà án cho biết: số lượng thiếu nhi phạm pháp nói chung bị nhốt tù liến quan đến tội vi phạm luật về Rượu và Ma Túy. Theo tài liệu của Ủy Ban Toàn Quốc về Tệ nạn về Ruợu và Ma Tuý nơi giới trẻ người Thổ dân, thì số lượng giới trẻ Thổ dân có tuổi từ 18 đến 24, 76% đang bị nhốt tù vì tội sử dụng Ma Túy.

Năm 2011, có đến 1607 tù nhân người Thổ dân bị nhốt vào tù chỉ vì đã dính dấp vào các tội không mang tính bạo-loạn. Với giới trẻ bụi đời, kinh nghiệm dạy chúng tôi biết rằng: tội lạm dụng rượu và Ma Túy là dấu hiệu của các vấn đề còn nghiêm trọng hơn với giới trẻ, trong đó phải kể đến chuyện sống ngoài đường, gia đình đổ vỡ, lạm dụng nhiều thứ. Nếu cứ nhốt tù những người trẻ như thế, vô hình chung ta đặt các em vào tình trạng “xa mặt thì cách lòng”, chứ cũng chẳng giải quyết các vấn đề khiến cho các em sống trong tù ngay từ đầu. Nhốt tù các em như thế, là ta gia tăng tình trạng tái phạm tội trong tương lai càng dễ dàng trở thành nghiêm trọng hơn. Chúng tôi nghĩ rằng: đối với người trẻ, giải pháp đưa họ vào tù chỉ nên dùng như chọn lựa cuối, khi không có biện pháp nào khác tốt hơn, thôi…” (xem Lm Chris Riley, Jail Isn’t the Answer for Young Offenders, The Catholic Weekly 17/2/2013, tr. 24)

Với con em người Việt từng quên lãng hoặc không biết lối sống văn hoá của người mình, cũng nên đọc lại lời thư trăn trối của cố giáo sư Nguyễn Văn Phú, cựu Hiệu trưởng trường Hưng Đạo Sàigòn, gửi con cháu của ông để nói đôi trước ngày ông qui tiên, như:

“Các con thân yêu,

Nay, bố mẹ tuổi đã 80, thế cũng là khá thọ so với các thế hệ trước bố mẹ. Bố mẹ đã  nhiều lần nói chuyện với các con về một số vấn đề, nhưng không phải lúc nào cũng có đủ các con cùng nghe. Hơn nữa, không chắc các con đã nhớ hết những lời nói của bố mẹ. Vì thế mới có lá thư này để tóm tắt những ý kiến chính mà bố mẹ muốn gửi đến các con. Còn các cháu thì chỉ nói mà ít đọc được tiếng Việt, nên các con hãy liệu cách truyền đạt lại ý của bố mẹ và giảng giải cho các cháu biết, chẳng những biết mà phải hiểu kỹ những điều bố mẹ viết ra đây ngày hôm nay…

Suy Xét Thông Tin và Sử Liệu. Thời buổi này, thông tin rất nhiều, quá nhiều. Người ta viết về Việt Nam, về chiến tranh Việt Nam nhiều lắm, có cả phim ảnh nữa, nhưng trung thực thì chẳng được bao nhiêu. Có người viết trung thực nhưng chỉ nhìn được một khía cạnh của vấn đề, hệt như “những anh mù sờ voi”. Có người cố ý bẻ cong sự thật, nhằm đạt mục đích riêng của mình. Có người – kể cả nhà tu – còn bịa đặt thêm chuyện để vu khống người khác! Tệ nhất là khi kẻ cầm quyền hay tay sai của họ viết sử. Nhà văn Alex Haley đã viết ở giòng cuối tác phẩm “Roots” (Nguồn cội): “Rốt cuộc, chính kẻ chiến thắng là kẻ viết sử.” Cho nên, bố mẹ ân cần dặn các con và nhất là các cháu rằng khi đọc tài liệu, sách vở và coi phim về Việt Nam thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, dù là của tác giả nào, kể cả Âu-Mỹ, cũng phải hết sức thận trọng và suy xét thông minh.

Chuyện Trong Gia Ðình.  Bây giờ, nói chuyện trong nhà. Bố mẹ thuộc thế hệ trước, nuôi nấng các con theo quan niệm thời bố mẹ, cũng như ông bà nuôi nấng bố mẹ thời ông bà. Một vài lúc nào đó, có thể các con nghĩ rằng bố mẹ đã quá khắt khe với các con. Thời buổi ấy là như vậy. Mong các con quên đi những gì mà bố mẹ đã vô tình làm các con buồn lòng. Hãy nhớ rằng bố mẹ không đua đòi ăn chơi, không chi tiêu hoang phí, lúc nào cũng giữ một đời sống mực thước, và bố mẹ đã cố gắng làm việc và dành dụm để các con được sống đầy đủ, được học hành cẩn thận, dưới mái ấm của gia đình.

Vì tài sản của bố mẹ đã bị cs cướp hết rồi nên khi sang tới đất mới này, đời sống của chúng ta khá khó khăn. Bố mẹ đã nhận làm những công việc thật mệt nhọc. Các con đã chịu khó đi làm vất vả trong các dịp hè, và đã cố gắng học hành chăm chỉ, đến nay thì “đâu vào đấy”cả. Các con không bao giờ được tự mãn, nghĩ rằng mình tài, mình giỏi. Hãy nhớ: “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình”. Cái tài, cái giỏi nếu có thì chỉ là một phần thôi, còn các phần khác là nhờ các thuận duyên, nhờ âm đức của tổ tiên và của chính mình, từ các kiếp trước và kiếp này. Các con phải luôn luôn sống đạo đức để bồi đắp cho cái nghiệp lành của mình, hệt như người dùng xe hơi phải lo “xạc điện” cho cái bình ắc-quy vậy. Gieo nhân lành thì sẽ hái quả lành. Luật nhân quả là một luật của trời đất, không sai được!.

Trong gia đình riêng của các con, bố mẹ khuyên: vợ chồng phải cư xử với nhau trong sự tương kính, phải nhường nhịn lẫn nhau. Không thể tránh được vài đụng chạm đâu, hãy khéo léo và bình tĩnh mà giải quyết mọi việc. Nóng giận là hỏng.

Còn đối với con cái, hãy thương yêu nhưng không được nuông chiều. Cần phải kiểm soát bạn bè của các cháu và phải liên lạc với cha mẹ của bạn bè các cháu để tìm hiểu cho chắc chắn; hư hỏng vì bè bạn trong xã hội này là một sự kiện rất phổ biến! Tivi, “games”, “chat”, phải hạn chế, còn thể dục thể thao thì nên khuyến khích. Bản thân các con phải lo xếp thì giờ tập thể dục, sống một cuộc sống thăng bằng. Hãy rút kinh nghiệm của bố: lúc trẻ, bố miệt mài làm việc nhiều quá cho nên nay về già, bị cơ thể “hỏi tội”, đau lên đau xuống hoài!

Trong đời sống hàng ngày, phải luôn luôn tiết kiệm và bảo vệ môi trường sinh hoạt vì tài nguyên thế giới chỉ có hạn, chúng ta cần nghĩ đến các thế hệ mai sau. Dùng thứ gì cũng không được phí phạm, kể từ tờ giấy lau tay! Thỉnh thoảng, hãy cho các cháu coi hình chụp hay phim ảnh những trẻ em đói rét và cho các cháu biết rằng trên trái đất này còn rất nhiều người khổ cực.

Khi anh chị em cư xử với nhau, phải nhớ kỹ mấy câu “anh em như thể tay chân”, “chị ngã em nâng”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Bí quyết là áp dụng chữ sau. Hãy bỏ qua hết mọi khuyết điểm của anh chị em mình. Các con mà chia rẽ thì bố mẹ sẽ đau khổ vô cùng.

Trong xã hội này, vì bận rộn quá, người ta chỉ đủ thì giờ lo cho gia đình riêng nên có khi lơ là với đại gia đình, dù thâm tâm không muốn như vậy. Các con hãy đề cao tình đoàn kết trong đại gia đình. Với các con gái và con dâu, bố mẹ nhắc: các con hãy giúp chồng giữ liên lạc tốt đẹp với anh chị em và họ hàng nội ngoại.

Xã Hội Âu-Mỹ. Xã hội này là một xã hội tiêu thụ quá mức. Các con không nên để mình bị lôi cuốn dễ dàng vào các trò tiếp thị khéo léo nhằm xúi giục chúng ta mua hàng thả dàn. Chúng ta dễ bị ảnh hưởng của quảng cáo, ngay cả trong khi chúng ta đang bị các nhà băng và các hãng bảo hiểm bao vây, chi phối. Các con cần “thiểu dục, tri túc” tức là “ít ham, biết đủ”, chỉ mua thứ cần thiết, không có không được mà thôi! Nhà, xe cũng vậy; an toàn và đủ dùng cho sinh hoạt hàng ngày là được rồi. Tránh nợ nhiều. Thảnh thơi thì hơn! Bố mẹ không nói lý thuyết xuông đâu, xã hội bây giờ xuống dốc về đạo đức, về tâm linh, chỉ vì hướng ngoại nhiều quá, lo về vật chất nhiều quá, ích kỷ quá, chẳng tìm thấy hạnh phúc ở đâu cả! Bớt ích kỷ, hãy nghĩ đến đồng loại, phải biết chia sẻ với đồng loại.

Riêng Phần Bố Mẹ. Già thì sẽ bệnh, bệnh rồi sẽ … ra đi! Quy luật tự nhiên là vậy. Ðến ngày ấy, các con hãy lo thu xếp tổ chức tang lễ cho bố mẹ được trang nghiêm nhưng đơn giản. Nếu chôn cất bố mẹ ở một nghĩa trang thì, sau này, khi phải đi làm ăn nơi khác, các con sẽ thắc mắc vì ở xa không trông nom được phần mộ! Bố mẹ chọn cách hỏa táng, thuận tiện hơn; mà khỏi phải chiếm đất, vì đất rất cần thiết cho các thế hệ sau. Có thể đem trải tro của bố mẹ lên núi hay xuống sông, xuống biển. Cát bụi trở về cát bụi, có gì đâu! Thay vì đãi đằng ăn uống, các con nên dành tiền bạc góp vào các việc có ích lợi chung. Ðừng e thiên hạ chê cười, mọi người sẽ hiểu và sẽ tán thành.

Có một chi tiết như thế này: nếu chẳng may, bố hay mẹ ngã bệnh mà phải chịu một “đời sống thực vật”, các con hãy can đảm chọn giải pháp rút các ống trợ sinh; kéo dài làm chi, chỉ gây khổ cho mọi người!

Bàn Thờ Gia Ðình. Trong hoàn cảnh ngày nay, khó lập bàn thờ ngay trong nhà. Nhớ đến tổ tiên, ông bà nội ngoại, cha mẹ, các con có thể bày ảnh nơi trang trọng nhất ở trong nhà để tỏ lòng tôn kính và để tự hứa không bao giờ làm tổn hại gia phong. Ðến ngày giỗ, xếp một bàn nhỏ, bày một chén nước trong, vài bông hoa thơm, mấy trái cây tươi và một nén nhang (nhang điện cũng được) là đủ, vì lòng thành của các con và các cháu mới là quý. Bố mẹ nói “các cháu” là có ý nhắc các con cần cho các cháu biết ý nghĩa ngày giỗ của dân tộc Việt Nam. Vào những ngày giỗ, các con hãy nghĩ thiện, làm lành nhiều hơn các ngày khác, hãy chia sẻ chút đỉnh cho người nghèo, hãy gom quần áo dư để dành cho các hội từ thiện. Nếu anh chị em nhân ngày giỗ mà về họp mặt ở một nơi thì thật là tốt vì tình thân gia đình sẽ nhờ đó mà tăng lên.

Mong các con đọc kỹ thư này, suy nghĩ đến nơi và cố gắng thực hành những lời dặn của bố mẹ. Bố mẹ cám ơn tất cả các con đã luôn luôn tận tâm săn sóc bố mẹ từ bao nhiêu năm nay và đã lo toan đầy đủ để cho bố mẹ được thoải mái, vui hưởng tuổi già.

Hôn các con thật lâu!

Bố Mẹ” (trích điện thư trên mạng gửi khắp nơi, năm 2012)

Đọc thư rồi, bạn và tôi, ta sẽ cùng nghệ sĩ Lê Hựu Hà, cất tiếng ca vui, mà hát rằng:

“Hãy vui lên bạn ơi!

Thời gian chẳng cho ta một giờ để cười

Yêu đương chẳng dư được một giây phút vui

Dù sao hãy cười bạn ơi! Hãy vui lên bạn ơi!

Ngày mai lắm khi không còn gì để cười

Tương lai biết đâu chỉ là thương nhớ thôi

Dù sao hãy cười bạn ơi!”

(Lê Hựu Hà – Hãy Vui Lên Bạn Ơi)

Hát thế rồi, ta về với Lời vàng của Đấng thánh hiền, để niệm suy những điều cần nhớ:

“Anh em hãy đem tất cả nhiệt tình,

làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ,

có đức độ lại thêm hiểu biết,

có hiểu biết lại thêm tiết độ,

có tiết độ lại thêm kiên nhẫn,

có kiên nhẫn lại thêm đạo đức,

có đạo đức lại thêm tình huynh đệ,

có tình huynh đệ lại thêm bác ái.

Thật vậy, nếu anh em có những đức tính ấy

và có dồi dào,

thì anh em sẽ không trở nên những người chẳng làm gì

và chẳng làm gì được để biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”

(2Ph 1: 5-8)

Niệm suy xong, hãy cùng tôi và cùng bạn, ta đọc tiếp câu truyện kể cũng khá vui ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Tại quầy khách ở phòng mạch bác sĩ tâm thần nọ, vẫn nghe rất rõ lời đối đáp, như sau:

-Thưa bác sĩ, ngoài này có ông đứng ở đây muốn gặp bác sĩ ngay tức thì vì ông bảo: ông là người vô hình, muốn gặp bác sĩ trong chốc lát rồi sẽ biết mất, nhưng bác sĩ gặp ông càng sớm sẽ thấy vui và nhớ lời ông nói rằng: mọi người cũng sẽ hết bệnh và cũng sẽ vui như ông vì có thể trở thành người vô hình rồi sẽ vui suốt đời như ông thôi…

-Cô nói với ông ta là tôi đang bận chữa cho bệnh nhân cũng vô hình như ông. Cố chờ một chút, đừng biến mất!”

Vâng đúng thế. Dù ông, bà có vấn đề về vô hình và hữu hình hoặc gì đi nữa, hãy cứ vui mà hát lên lời vui của nghệ sĩ khi xưa vẫn rất vui và vẫn hát:

“Cuộc đời chẳng có bao lâu

Sao ta cứ mãi u sầu?

Hãy mỉm cười với tất cả mọi người

Tự nhiên ta sẽ thấy đời thêm tươi.

Hãy vui lên bạn ơi!

Đời tuy đắng cay như cuộc tình nửa vời.

Tim tuy chán chê lòng người nhưng cố vui,

Dù sao hãy cười bạn ơi!”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Chỉ muốn nhắn với tôi và với bạn

rằng: đời người vẫn có những chuyện như thế,

cũng rất vui.

“Em là người của ngày xa lắm,”

“Em là người của ngày xa lắm,”

“Lòng cũ hai ta cũng chẳng gần.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 13: 31-35

thanhlinh.net

Người của ngày xa lắm, nay đâu phải thế! Lòng ước hai ta cũng chẳng gần, có là ước mơ của nhà Đạo, lâu rày vẫn vậy? Điều này còn có nghĩa: phép lạ và sự quan phòng của Chúa mới đáng để ta quan tâm. Bởi nếu không, sự quan phòng của Chúa có nghĩa gì? Trả lời vấn nạn này, thánh Gioan nhấn mạnh đến điều mà ta hiểu về việc Chúa bày tỏ: “Như Ta đã yêu mến các ngươi.” (Ga 13: 34)

Quan phòng, tuyệt nhiên không là sự việc Chúa can thiệp vào công cuộc tạo dựng vẫn đang diễn tiến, như chuyện lạ. Quan phòng, cũng không là động thái tạo tương quan tức thời trong cuộc sống, của chúng dân. Chúa quan phòng, Ngài luôn tích cực thực hiện cả vào lúc ta có vấn đề lớn/nhỏ, cả những việc ta che giấu hoặc huỷ xoá. Chúa có mặt trong mọi sự việc, nên không có Ngài, sự việc ấy chẳng có nghĩa và cũng không thành toàn. Việc ta làm, không thể đạt thành quả mà lại không có Chúa dính dự, giúp đỡ. Nói cách khác, ta làm gì thì Chúa vẫn ở trong ta và ta trong Chúa, thật rất rõ.

Trình thuật nay diễn tả, là: Chúa tuy đã chấm dứt cuộc sống dưới thế trần khi Ngài về với Cha. Và lúc đó, ta sẽ một mình hành xử, tự mình sống cho mình và vì mình. Còn người khác, kẻ khác có được ta quan tâm chú ý nữa không? Dù sao, thì Chúa vẫn ở với ta, khi ta làm bất cứ chuyện gì. Đó là ý nghĩa của tương quan mật thiết ta có với Chúa, tức sự quan phòng Chúa tỏ bày cho ta.

Trình thuật nay dọi lại lời Chúa trăn trối ở buổi Tạ Từ, vào phút cuối lúc Ngài thực sự nguyện cầu cho mọi người. Lời Chúa xác chứng Ngài không còn “ở” với thế trần, bao lâu nữa. Và cũng thế, đời của ta cũng sẽ không còn ý nghĩa, từ ngày ấy. Bởi lẽ, ta cũng sẽ không còn “ở” với thế gian này, kể từ nay. Thay vào đó, ta được tháp đặt về với Cha và Cha sẽ giữ gìn và thánh hoá ta suốt một đời.

Trình thuật, nay nói đến sự quan phòng của Chúa, tức diễn tả về tương quan tức thời ta vẫn có với Cha. Ngài là “điềm tới” và là món quà gửi đến cho ta vào phút chót. Đó là lý do khiến Ngài đi vào cõi chết, để rồi sống lại và về với Cha. Từ nơi Cha, Ngài trao ban quà tặng quý giá là tương quan tức thời với Cha như ân lộc Thần Khí Hiện Đến với mọi người, nhân ngày Ngũ Tuần. Từ đó kết hợp ta vào với Cha để nên một, có Cha làm một với ta.

Chúa là Đấng trung gian hài hoà giữa ta và Cha Ngài, như thế có nghĩa: Ngài từ Cha đến với ta và Ngài trở về với Cha ngày Thăng thiên để nguyện cầu cho ta, vào mọi lúc. Những lời như thế, không nên thể hiểu theo nghĩa từ vựng, từng chữ. Bởi, Đức Chúa là LỜI của Cha, Ngài tặng ban cho ta. Vai trò “trung gian hài hoà” của Ngài là LỜI đem ta vào với “tương quan tức thời” với Cha. Dân con Chúa đều hiểu rõ điều này, cách nằm lòng. Và con dân Ngài vẫn đáp lại nhờ vào Ngài, bằng LỜI Ngài, để rồi tất cả sẽ đi vào Tiệc Thánh, tức: đi vào “quan hệ tức thời” về với Cha.

Nói ra điều này thật không dễ để nói cho đúng cách. Điều cần, là ta nên tránh đường xưa lối tắt dẫn đưa con người mãi đi xa, lạc đường không đến được. Và, cung cách dẫn đi xa, thường khiến ta chối bỏ tương quan tức thời, Chúa đợi chờ. Thế nên, ở trên và ở ngoài ngôn từ ta vẫn có, Lời Ngài đến với ta để kể cho ta nghe sự thật, rất thực. Và, ta được “thánh hoá” bằng sự thật, vượt ngôn ngữ.

Chuyển giao sự thật cho mọi người, ta sẽ trở thành đấng hiền từ như Kitô-khác. Và nếu ta cùng mọi người làm được điều đó, thì tất cả sẽ là ngôn sứ của Chúa và dân con hiền hoà thực hiện Lời Ngài như điều Chúa hứa vào lễ Ngũ Tuần. Và, Ngài vẫn muốn sự việc xảy ra như thế. Đó là sự thật tràn đầy từng khiến con dân Chúa ngạc nhiên. Thần Khí Chúa thổi đến nơi nào Ngài muốn thổi và ta có âm thanh điệu thổi của Ngài nhưng lại không biết âm thanh ấy từ đâu đến rồi sẽ đi về đâu. Ta chẳng thể nào đòi Ngài hoạt động theo cách thế của thông tin thời đại hoặc toán pháp, hình học rất chính xác được.

Hoạt động của Thần Khí Ngài, thánh Phaolô cũng từng kể: cách thế Chúa làm, nhiều lúc rất bộc phát, dị kỳ và khinh xuất. Cả Con Chúa cũng từng làm nhiều điều khiến ta khó đoán. Sách Công Vụ, có kể về sự kiện thánh Phêrô gặp công dân La Mã ngoài Đạo, ở Rôma ông tên là Cornêlius là người cũng từng cảm nhận được Thần Khí Chúa sống động ở bên trong. Điều này có nghĩa: ông cũng có tương quan tức thời với Chúa, với Cha. Và, cả thánh Phêrô nữa đã chấp nhận thanh tẩy rửa ông để ông có tương quan tức thời với Hội thánh nữa. Và, ông là người đầu tiên trong lịch sử tuy không phải là Do thái, nhưng lại gia nhập hàng ngũ các kẻ tin có tương quan với Chúa, rất tức thời.

Sau ngày Thày trỗi dậy, các tông đồ đã tụ tập tại Giêrusalem để chọn người thay cho Giuđa Iscariốt. Người đó chính là Mathias. Nhưng trước đó, nào đã ai hay biết quá trình lý lịch của ông này chút nào. Cũng hệt thế, thánh Phaolô cũng có kinh nghiệm để đời về tương quan tức thời, khi thánh-nhân gặp gỡ Chúa trên đường Đamát. Vậy nên, những việc tương tự làm sao ta đoán được.

Về tương quan tức thời, trong đó có năng lực đặc biệt khiến đầu óc con người bối rối, khó lường. Muốn tránh khỏi cảnh này, ta chỉ cần nhận biết sự thật cách khiêm tốn và đón nhận thật tình và định ra được tính chất thực/hư của sự việc bằng phương cách mở lòng mình để sự việc tốt lành được diễn tiến theo cung cách thường tình.

Cũng nên biết rằng: dù có tương quan tức thời với Chúa và với Cha, ta vẫn là người có đặc trưng khác biệt. Khác mọi người, trong mọi lúc. Và, để ý một chút, hẳn là ta sẽ nhận ra rằng con dân Chúa luôn có tư cách và phương án xử sự khác người thường. Và, có khi còn khác cả Chúa nữa. Điều này thật rất đúng, nếu ta nhìn vào mỗi cá nhân hoặc nhóm hội/đoàn thể và cả giáo hội địa phương nữa.

Cũng thế, ngay những người cùng nhóm hội/đoàn thể vẫn xảy ra hiện tượng ghen tương, ghét bỏ, đố kỵ. Sở dĩ có chuyện đó, là vì ai cũng nghĩ mình là nhân vật quan trọng, khác thường. Lại có người nghĩ mình là trung tâm địa cầu hoặc “rốn vũ trụ”, mọi người khác chỉ là số không rất lớn. Không cần có trên thế gian này, và không xứng đáng để mình bận tâm.

Có vị còn nghĩ: mình mới là người có khả năng thực thi ý định của Chúa. Bởi thế nên, họ vẫn nhìn người khác bằng con mắt kỳ thị, thấp hèn, thua kém mình. Thật khó có thể nói rằng: đôi lúc, trong chúng ta cũng có người hành xử giống hệt như thế. Tức, vẫn coi mình là người của công chúng, hoặc của cộng đoàn rất thánh là Hội thánh, chẳng bao giờ có khó khăn hoặc vấn đề gì. Chúng ta, tuy là một nhưng không phải ai cũng thế. Đó chính là vấn đề.

Lời Chúa ở Tin Mừng thánh Gioan chương 17 cho thấy: Ngài khẩn cầu lên Cha để tất cả chúng trở nên một như Ngài với Cha là Một. Ngài và Cha tuy không giống hệt nhau, vì Ngài là Con. Còn, Chúa Cha là Cha Ngài, mỗi Vị chứng tỏ Ngài là ai? Là Đấng nào? Để rồi, ta cũng làm như thế.

Giáo hội địa phương ở các nơi được mời gọi sống tích cực về lịch sử, văn hoá và truyền thống, rất đa dạng. Đây không là vấn đề xã hội riêng rẽ, nhưng là đòi hỏi của niềm tin vào Chúa. Tính đa dạng/độc đáo của truyền thống đã khiến Hội thánh trở nên phong phú hơn qua lối sống có niềm tin đích thực. Sống cách đó, ta không chỉ khác nhau theo cách giản đơn, nhưng còn trở nên khác biệt, cách độc đáo nữa.

Công đồng Vatican 2 lại đã công nhận rằng: đại kết là hiệp nhất để tín hữu Đức Kitô trở nên một, nhưng điều đó không cò nghĩa xoá bỏ mọi khác biệt giữa các giáo hội địa phương. Sống niềm tin đích thực không phe phái, cũng chẳng độc tài toàn trị nhưng ta vẫn có cơ hội để hiểu rằng tất cả chúng ta đều ở trong tương quan tức thời với Chúa với Cha theo cung cách riêng của mỗi người.

Như thế là ta đã xây dựng một lễ Ngũ Tuần ngay trong Hội thánh. Và Hội thánh, vẫn bao gồm thời khắc đặc biệt để ta có thể nguyện cầu cho sự hiệp nhất, rất đại kết. Tức: kết hợp mọi kẻ tin vào với hiệp thông, quan phòng và tương quan tức thời với Cha và với Chúa.

Trong tâm tình cảm nghiệm được như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ còn dang dở, rằng:

“Em trở về đây với bướm xuân,

Cho tôi mơ ước một đôi lần.

Em là người của ngày xa lắm,

Lòng cũ hai ta cũng chẳng gần.”

(Đinh Hùng – Bướm Xuân)

Có bướm, có xuân, nhưng “lòng cũ cũng chẳng gần”, bởi anh và em đâu muốn tạo tương quan thật gần gũi. Lòng cũ với bướm xuân chỉ có được, khi em và tôi cùng mọi người tạo tương quan tức thời với Chúa, với Cha, với cả mọi người, để rồi ta cứ thế gìn giữ tình thân thương rất gần gũi.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

THAM LAM

THAM LAM

(St-Jean Marie Vianney)

Tham lam là sự yêu thích quá mức những của cải vật chất thế gian.

Tham lam là sự say mê sai quấy và tai hại khiến chúng ta quên mất Thiên Chúa, quên các Bí tích, quên cầu nguyện, mà chỉ nghĩ đến những thứ như vàng bạc, nhà cửa, đất đai…

Người tham lam giống như con heo đi tìm đi tìm thức ăn trong đống bùn lầy dơ dáy mà không biết chúng từ đâu ra. Nghiêng chiều về thế gian, người tham lam không còn mơ ước những của cải thiêng liêng. Hạnh phúc của họ không còn là Thiên Đàng nữa. Người tham lam không làm điều gì tốt lành cho đến lúc chết. Họ say sưa tích góp của cải, lúc nào cũng lo lắng về nó, nếu bị mất mát một chút xíu, họ tiếc rẻ ngày đêm. Sống trong giàu sang họ vẫn không có lòng tận hưởng, giống như một người ở giữa sông nhưng bị chết khát; nằm trong đóng gạo nhưng bị chết đói. Người tham lam có mọi sự nhưng không dám tiêu xài; vàng là vật thánh của họ, họ sùng bái nó như là chúa của mình.

Ngày nay có nhiều người thờ ngẫu tượng, có nhiều người lo nghĩ về của cải hơn là lo tôn thờ và phụng sự Thiên Chúa.

Họ ăn cắp, lừa đảo, kiện tụng lẫn nhau, thậm chí coi thường thánh luật của Chúa. Người tham lam làm việc cả ngày Chúa Nhật và những ngày lễ trọng , không có gì có thể làm thỏa mãn được đôi tay tham lam của họ.

Người tín hữu tốt lành không nghĩ đến thân xác nay còn mai mất, nhưng chỉ quan tâm đến linh hồn bất tử của mình. Đang khi còn sống trên thế gian, họ luôn gắn bó với linh hồn của mình. Họ siêng năng trong những công việc tông đồ của Giáo Hội, tha thiết cầu nguyện, thánh hóa ngày Chúa Nhật, tham dự Thánh Lễ sốt sắng. Cuộc đời họ thật hạnh phúc biết bao!

Thời gian: ngày, tháng, năm dài cũng không bao giờ ảnh hưởng đến họ; vì họ luôn sống trong tình yêu Chúa, đôi mắt họ luôn hướng về nơi vĩnh cửu.

Chúng ta thờ ơ với phần rỗi và bo bo giữ lấy của cải chóng qua biết bao! Có ai nói rằng mình sẽ sống mãi không? Chúng ta giống như những người lo thu góp dự trữ lương thực cho cả mùa đông; sau đó cái gì sẽ còn lại? Chẳng còn gì cả! Cũng vậy, cái gì còn lại cho người tham lam có nhiều của cải khi cái chết đến bất thình lình? Nếu không phải là vài tấm ván hòm che phủ, và sự thất vọng vì không thể mang theo mình tất cả vàng bạc châu báu.

Người tham lam thường chết trong thất vọng, và phải tính sổ với ma quỷ về sự tham lam vô độ của mình. Những người tham lam keo kiệt thường bị phạt ngay ở đời này. Dưới đây là một câu chuyện minh chứng.

Thánh Hilarion một hôm cùng đi với các môn đệ đến thăm các cộng đoàn. Ngài đi ngang qua một vườn nho, ở đó có một tu sĩ keo kiệt, ra lệnh cho những người giữ vườn ném đá và đất vào những ai đi ngang qua đó, để không có ai đụng đến những chùm nho của ông.

Lòng keo kiệt này đã bị trừng phạt đích đáng. Năm đó vị tu sĩ keo kiệt này thu hoạch ít hơn thường lệ, và khi ép nho ra rượu, lại trở thành dấm chua. Ngược lại có một vị tu sĩ khác tên là Sabbas đến năn nỉ thánh nhân và các môn đệ ghé vào vườn nho của mình để nghỉ ngơi và giải khát. Thánh Hilarion đã chúc lành cho vườn nho của vị tu sĩ tốt lành này và cho các tu sĩ của ngài đến đó, tất cả đều được nghĩ ngơi và ăn uống no nê.

Hai mươi ngày sau, người ta thu được ba trăm thùng rượu thay vì bình thường như mọi năm chỉ có mười thùng.

Chúng ta hãy noi gương vị tu sĩ Sabbas này sống vô vị lợi để được Thiên Chúa chúc lành cả đời này lẫn đời sau.

Nguyễn v Thập gởi

Nghị viện châu Âu ra nghị quyết khẩn về nhân quyền tại Việt Nam

Nghị viện châu Âu ra nghị quyết khẩn về nhân quyền tại Việt Nam

Nghị viện châu Âu tại Straspourg.

Nghị viện châu Âu tại Straspourg.

REUTERS/Jean-Marc Loos

Anh Vũ

RFI

Theo trang thông tin của nghị viên châu Âu www.europarl.europa.eu, hôm qua 18/4/2013, tại Strasbourg, các nghị sĩ của Liên hiệp châu Âu đã nhất trí hoàn toàn về nghị quyết khẩn cấp kêu gọi Hà Nội trả tự do cho các nhà báo, blogger và các nhà ly khai bị cầm tù vì bất đồng chính kiến với chính quyền. Đồng thời nghị quyết kêu gọi Việt Nam tôn trọng các cam kết quốc tế, đặc biệt trên lĩnh vực tự do ngôn luận, tự do tôn giáo.

Bản nghị quyết được thông qua khẩn cấp nói trên đã được sự ủng hộ của đa số các đảng phái chính trị tại nghị viện. Nghị quyết của Nghị viện châu Âu bày tỏ mối quan ngại sâu sắc trước các bản án nặng nề của chính quyền đối với các nhà báo và blogger Việt Nam, kêu gọi chính quyền Hà Nội sửa đổi hoặc hủy bỏ các điều luật bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí. Văn kiện thông qua gấp này cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam chấm dứt các vụ cưỡng chế đất đai và sách nhiễu các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam.

Hôm 27/6/2012, Liên hiệp châu Âu và Việt Nam đã ký Thỏa thuận đối tác và hợp tác, trong đó bao gồm điều khoản cam kết về nhân quyền. Điều này có nghĩa là các bên ký thỏa thuận có thể « thảo luận » về những vấn đề nội bộ của nhau, nếu như một bên vi phạm các nguyên tắc căn bản về nhân quyền và dân chủ. Các nghị sĩ châu Âu đã đề nghị Liên hiệp phải nhất trí và sử dụng các cơ chế quy định trong thỏa thuận trên để bảo vệ đúng đắn nhân quyền và quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

Theo giới quan sát tại châu Âu, nghị quyết vừa được thông qua tại Strasbourg là một thông điệp mạnh mẽ đối với chính quyền Hà Nội và sẽ có ảnh hưởng đến cuộc đàm phán sắp tới về tự do mậu dịch giữa Liên hiệp châu Âu và Hà Nội. Văn kiện này cũng sẽ được tại Hội đồng nhân quyền của Liên Hiệp Quốc tại Genève lưu tâm.

Việt Nam đang có tham vọng trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp Quốc vào năm 2014. Lập trường của các nghị sĩ châu Âu về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam sẽ có một trọng lượng đáng kể trong các cuộc vận động quốc tế của Hà Nội.

Từ năm 2009, Việt Nam đã có cam kết với Hội đồng nhân quyền về việc cải thiện các quyền tự do báo chí nhưng từ đó đến nay các cam kết đó không hề được tôn trọng. Theo báo cáo của các tổ chức bảo vệ nhân quyền, cũng như theo nhà báo của quốc tế, thì từ một năm trở lại đây, chiến dịch trấn áp các tiếng nói đối lập có chiều hướng gia tăng. Hàng chục nhà động tôn giáo, blogger, nhà báo bất đồng chính kiến đã bị kết án bằng những bản án tù nặng nề.

SỐNG HY VỌNG TRONG ĐỨC KITÔ

SỐNG HY VỌNG TRONG ĐỨC KITÔ

“Hãy đừng để điều gì làm [tâm hồn] bạn phiền muộn,
hãy đừng để điều gì làm [con tim] bạn sợ hãi,
vì tất cả sẽ trôi qua: chỉ trừ một mình Chúa.
Hãy kiên nhẫn trong mọi sự.

Những ai có Chúa sẽ không thấy thiếu một điều gì,
vì một mình Chúa là đủ.” –
Thánh Têrêsa Thành Avila

Hy vọng là một trong ba món quà cao quý mà Thiên Chúa ban tặng cho con người (tin, cậy, mến), và Giáo Hội gọi ba món quà thiêng liêng này là những nhân đức đối thần (theological virtues).  Những món quà thiêng liêng này được gieo vào tâm hồn của mỗi người từ khi linh hồn và thân xác chúng ta được thành hình vì không có hy vọng chúng ta sẽ chẳng bao giờ trở thành “nhân”, và ngược lại chúng ta sẽ trở thành những con người tuyệt vọng hướng vễ cõi âm ty.  Chúng ta đang bước vào tuần thứ tư của mùa Hy Vọng (hy vọng ở đây khác với mùa Vọng của sự mong chờ) – mùa mà mọi tạo vật hoan hỉ vì một biến cố lạ lùng mà Thiên Chúa Cha đã làm cho Con Một của Ngài cách đây hơn hai ngàn năm. Đó là sự Phục Sinh khải hoàn của Đức Giêsu Kitô, và trong sự Phục Sinh ấy ba món quà thiêng liêng tin, cậy, mến của chúng ta được nuôi dưỡng trong lòng Giáo Hội.

Có lẽ ai trong chúng ta đều biết đến biến cố đau thương vừa mới xảy đến trên đất nước yêu thương của chúng ta, nơi mà đã và đang cưu mang chúng ta trong những ngày tháng qua và những tháng ngày còn lại, nơi mà chúng ta chọn làm quê hương thứ hai của mình.  Chúng ta đã nghĩ gì khi đọc báo chí hay nghe tin tức về biến cố này?  Hãy lắng đọng trong giây lát để nghe những biến chuyển trong con tim khi mà chúng ta nghe những đau thương, nhìn những vũng máu, chứng kiến cảnh hủy hoại, và những tiếng rên xiết đau lòng của những người bị tàn phế.  Chúng ta đang cảm nhận được những gì? Sợ hãi hay mất niềm tin?  Giận dữ hay oán ghét?  Đen tối hay tuyệt vọng?  Vô cảm và không muốn biết đến? Hay là bạn thắc mắc không biết Thiên Chúa đang ở đâu khi những điều này xảy đến?  Hay là bạn suy tư không biết sự Phục Sinh khải hoàn của Đức Giêsu Kitô có thay đổi được gì bộ mặt thế giới ngày hôm nay không?  Làm sao mà mình có thể sống niềm hy vọng khi những biến cố đau thương đang đầy dẫy xung quanh ta?

Đây chính là lúc chúng ta cần sống niềm hy vọng giữa những đen tối và đau thương, sống niềm hy vọng mà các tông đồ, các thánh, và bao nhiêu người đã và đang sống.  Các ngài đã không tách rời thế giới loài người và thế giới của Thiên Chúa nhưng đã sống giữa thế giới này trong niềm hy vọng.  Các tâm hồn ấy đã chọn lối sống bình an trong hy vọng nhưng đó không phải là lối sống vô cảm vì nếu đó là lối sống vô cảm thì các ngài và bao nhiêu người đã chẳng dấn thân và chịu mất mạng sống mình.  Họ đã sống bình an giữa biển đời và mang lại an bình cho những ai đang cần đến vì họ đã để niềm vui Phục Sinh làm chủ tâm hồn họ.  Không một đen tối nào có thể làm cho con mắt họ mù quáng vì họ luôn hướng về ánh sáng của Thiên Chúa.  Không một sự giận dữ bạo tàn nào có thể làm cho tâm hồn họ giao động vì tâm hồn họ luôn bám chặt vào Đấng mà họ đã chọn làm Thành Trì.  Không có một sự ác nào có thể đánh bại họ vì họ đã vững tin vào Đấng đã chiến thắng sự dữ và đã chỗi dậy từ cõi chết.  Các thánh và bao nhiêu người đã sống được như vậy vì họ đã chọn để Thần Khí Chúa nung đúc và duy trì hạt giống hy vọng trong con tim họ, và qua đó họ là những nhân chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới này.

Chúng ta là những Kitô hữu và chúng ta được mời gọi làm chứng nhân để mang niềm hy vọng và sự hiện diện của Thiên Chúa đến ngay trong thế giới hôm nay.  Chúng ta cũng được mời gọi để Thần Khí Chúa nuôi dưỡng hạt giống hy vọng trong ta.  Nếu Chúa Giêsu là ánh sáng mặt trời, thì mỗi chúng ta hãy xin ơn để làm một tia nắng; như vậy thì thế giới mới nhận ra hơi ấm, sức mạnh và sự phong phú vô tận của Đấng Phục Sinh.  Làm sao chúng ta biết làm cách nào để sống chứng nhân cho Thiên Chúa và tia nắng mặt trời nào Ngài muốn chúng ta trở thành?  Nếu chúng ta sống cuộc sống cầu nguyện, tập tĩnh lặng và biết lắng nghe, Thần Khí Thiên Chúa sẽ hướng dẫn và dạy dỗ cho chúng ta phải sống cách nào để có tương quan mật thiết với Chúa Giêsu.  Vậy trước hết, chúng ta hãy xin ơn để cảm nghiệm được Chúa Giêsu là ai với mỗi người chúng ta, và khi gặp được Ngài rồi, chính Ngài sẽ dạy cho chúng ta công việc sứ giả nào Ngài đã chọn cho ta đồng hành với Ngài.  Muốn được như vậy thì mỗi một ngày hãy dành riêng cho ta và Ngài nửa tiếng trong thinh lặng, và trong thời gian thánh thiêng ấy hãy để Thần Khí dẫn ta đi gặp Đấng mà chúng ta tôn thờ là Thầy và là Chúa, không chỉ bằng môi miệng nhưng bằng tất cả tâm trí của chúng ta.  Là nhân chứng và sống với Thần Khí Chúa trong niềm hy vọng, chúng ta hãy tuyên xưng niềm hy vọng ấy trong cuộc sống hằng ngày như lời dạy của Thánh Phêrô:
Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em.  Hãy luôn luôn sẵng sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.  Nhưng phải trả lời cách hiền hoà với sự kính trọng.

Ước gì mỗi người chúng ta biết dành thời gian mỗi ngày để đến với Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, qua hình bánh rượu hoặc rước Ngài cách thiêng liêng, hầu chúng ta lãnh nhận sức sống của Đấng đã phó mình để nuôi sống chúng ta.  Vì nếu chúng ta không biết đến với Ngài và để Ngài duy trì chúng ta qua cầu nguyện và thánh lễ, chúng ta sẽ là những nhân chứng thiếu dinh dưỡng và chúng ta sẽ ngã quỵ khi gặp những điều ngoài ước muốn.  Hãy luôn để bình an của Chúa làm chủ tâm hồn hầu chúng ta luôn thấy những tia nắng ấm áp của Ngài đang bao trùm chính ta và thế giới, khi mọi sự như đảo chao và bóng đêm che phủ, khi sự dữ đang muốn nuốt sống chửng mọi sự xung quanh, khi sự bạo tàn đang hành hung như muốn cuốn chúng ta vào cõi hư không của chúng.

*********************************************

Niềm tin trong Đức Kitô khơi dậy trong ta niềm hy vọng,
Niềm hy vọng trong Đức Kitô mang lại cho ta ánh sáng,
Ánh sáng trong Đức Kitô đưa ta đến sự sống.
Hãy sống với Ngài trong niềm Tin, Cậy, Mến
Hãy yêu mến vì Ngài là Thầy và là Chúa
Hãy yêu mến vì Ngài là Đấng chúng ta tôn thờ.  Amen!

Củ Khoai,

4/2013

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ Mai gởi

TRONG THÁNH Ý NGÀI

TRONG THÁNH Ý NGÀI

Đa số chúng ta đều mất thời gian dài lâu để tìm hiểu xem Thánh Ý Thiên Chúa muốn gì cho đời mình. Hay ít nhất ta cũng đồng ý rằng cần phải khám phá ra điều đó.

Thế nhưng, một khi đã cảm nhận được Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta thường không có đủ can đảm để sống theo Thánh Ý Ngài. Thế đấy, không biết thì hăm hở kiếm tìm, tìm thấy rồi thì… để đó!

Trong Sách Nguyện Tổng Quát, có một lời nguyện dễ thương ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc về “Thánh Ý Thiên Chúa”. Lời nguyện ấy bắt đầu như sau:

“Lạy Cha Chí Ái, Cha muốn chúng con biết cảm tạ tri ân về tất cả mọi sự, Cha muốn chúng con không sợ hãi gì ngoại trừ sợ lạc mất Cha, và Cha muốn chúng con dành cho Cha trọn thao thức của mình – như Cha vẫn hằng trọn tình với chúng con…”

Bạn thấy rồi đấy, Thiên Chúa khao khát chúng ta bầu bạn với Ngài. Thánh Ý Ngài là vậy đấy. Bạn hãy bầu bạn với Thiên Chúa – và cả hai bên sẽ cùng vui vẻ!

“Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà ở cổng đền Thiên Chúa – vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân! (Tv 84,10)

***

Lạy Chúa là vẻ đẹp vĩnh cửu của con, con tìm kiếm Chúa. Xin cho con cảm nhận được niềm an bình thanh thản trong tìm kiếm Người.

– Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế Người là tất cả của tôi.

– Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,

đến với Người trong mọi sự,

và dâng Người tình yêu trong mọi lúc

– Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

– Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,

nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người

và thực hiện ý Người trong suốt đi tôi.

(R. Tagore)

Ngọc Nga sưu tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nguy cơ nô dịch văn hóa từ Trung Quốc

Nguy cơ nô dịch văn hóa từ Trung Quốc

Trái cây bày bán ở Việt Nam có dán cờ Trung Quốc (DR)

Trái cây bày bán ở Việt Nam có dán cờ Trung Quốc (DR)

Thụy My

Trong thời gian gần đây liên tiếp xảy ra các hiện tượng từ sách cho trẻ em có in cờ và nhiều hình ảnh của Trung Quốc, cho đến vụ một siêu thị liên tục dán cờ Trung Quốc lên trái cây bày bán. Dư luận trong nước rất bất bình và nhiều người đã đặt câu hỏi, liệu đây là những trùng hợp tình cờ, hay là có một bàn tay nào đó ở phía sau.

Trao đổi với RFI Việt ngữ, ông Nguyễn Văn Mỹ, giám đốc công ty dã ngoại Lửa Việt tại Thành phố Hồ Chí Minh đã bày tỏ sự quan ngại về nguy cơ nô dịch văn hóa Trung Quốc.

Ông Nguyễn Văn Mỹ – TP Hồ Chí Minh

13/04/2013
by Thụy My

Nghe (09:56)

RFI : Xin chào ông Nguyễn Văn Mỹ. Thưa ông, vừa qua liên tiếp có những vụ sách dành cho trẻ em Việt Nam lại in cờ Trung Quốc, hàng bán trong siêu thị dán cờ Trung Quốc, ông nghĩ thế nào về hiện tượng này ?

Ông Nguyễn Văn Mỹ : Dư luận trong nước hết sức bức xúc và bất bình trước những hiện tượng đặt ra rất nhiều vấn đề mà người dân có thể suy diễn. Liên tiếp những cuốn sách của nhiều nhà xuất bản bị phát hiện – còn những cuốn chưa bị phát hiện thì mình chưa biết được, bởi vì tôi thấy cứ vài ngày lại có thêm những thông tin mới – lãnh vực đó lâu nay chúng ta chưa quan tâm. Ở đây vai trò quản lý nhà nước cực kỳ kém, chủ yếu là nhờ người dân và báo chí phát hiện.

Việc cờ Trung Quốc xuất hiện trên sách, từ sách tham khảo, sách tập đọc và gần đây gần như là sách giáo khoa – sách đọc tiếng Việt của Nhà xuất bản Giáo dục, lại quên Hoàng Sa, Trường Sa. Hàng loạt sai sót liên tiếp diễn ra, người dân có thể đặt câu hỏi, đây không phải là ngẫu nhiên. Bởi vì thứ nhất là nếu nhầm lẫn thì tại sao lại không nhầm lẫn với nước khác trên thế giới ? Liên Hiệp Quốc có 193 nước, tại sao mình cứ toàn nhầm lẫn với Trung Quốc không là sao ?

Cái bất bình, thậm chí là phẫn nộ thứ hai, là sự giải thích vòng vo, loanh quanh, đổ lỗi, không nhận trách nhiệm của những người có trách nhiệm. Ví dụ như là sách Phát triển trí thông minh cho trẻ của Nhà xuất bản Dân Trí, đây là sách tham khảo. Hoặc là sách Bé làm quen với chữ cái của Nhà xuất bản Sư Phạm, ở mục đánh vần chữ C và cổng trường em, thì đều có cờ Trung Quốc. Người ta giải thích rằng cái này là vì mua bản quyền của Trung Quốc. Dư luận người ta đặt vấn đề là chả lẽ một cuốn sách tham khảo cho trẻ con chưa vô lớp 1 mà 10.000 giáo sư tiến sĩ Việt Nam không viết được, lại phải mua hàng Trung Quốc, mà hàng này là « hàng dạt ». Giáo dục Trung Quốc chưa bao giờ được xem là nền giáo dục tiên tiến cả.

Sách tham khảo đơn giản như vậy mà lại không thể biên soạn được, phải nhập. Và cách giải thích hết sức vô trách nhiệm của những người lãnh đạo, ví dụ như bà Bùi Thị Hương, giám đốc Nhà xuất bản Dân Trí cho rằng sách này mua bản quyền của nước ngoài, theo chương trình Trung Quốc nên sách vẽ trường Trung Quốc thì phải để cờ Trung Quốc. Nhưng khi báo chí chất vấn, như vậy tại sao giới thiệu đây là sách biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục Đào tạo, thì bà Hương im lặng không trả lời. Bà ấy còn biện minh rằng việc treo cờ Trung Quốc chẳng có gì quan trọng, bình thường thôi, nếu thay cờ Việt Nam là vi phạm hợp đồng.

Tôi cho rằng thái độ như vậy là hết sức thiếu trách nhiệm. Nếu còn những con người, còn kiểu suy nghĩ của những người lãnh đạo như bà Hương, thì những chuyện như cờ Trung Quốc còn xuất hiện dài dài. Cái nữa là trách nhiệm giải quyết của những người cấp trên bà Hương. Họ cũng trả lời rất là loanh quanh. Thậm chí sách in sai thì Phó giáo sư tiến sĩ Đinh Ngọc Bảo cho rằng sách lỗi là chuyện bình thường, và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm cho phép 100 trang thì được sai dưới 5 lỗi.

Có cái nước nào mà cho phép như vậy không ? Có nhà xuất bản nào mà kỳ quái như vậy không ? Đã xuất bản, mà lại sư phạm thì không được phép lỗi. Lỗi là chuyện bất khả kháng thôi. Ông Bảo, Tổng biên tập Nhà xuất bản Sư Phạm còn phân trần rằng cô Thu Hà là giáo viên lâu năm, có kinh nghiệm viết sách, cô chỉ viết phần nội dung thôi còn minh họa thì nhờ bạn lấy từ trên mạng. Lòi ra một cái việc bậy bạ nữa, tức là nội dung thì viết tào lao, minh họa thì ăn cắp hình từ trên mạng. Viết sách sư phạm mà như đi mua rau ! Nhờ cái chuyện lộn xộn đó mình mới biết được cái quy trình làm sách của Nhà xuất bản Sư Phạm và của ngành giáo dục hiện nay quá sức là tệ hại.

Ngoài ra gần đây lại có thêm một số cuốn sách khác, đặc biệt là sách của Nhà xuất bản Mỹ Thuật về Trắc nghiệm trí tuệ toàn diện cho trẻ, và Mười phút cho bé trước khi đi ngủ, lại có cờ Trung Quốc tiếp. Và cách đây mấy bữa, có sách dạy Tiếng Hoa cho thiếu nhi (Việt Nam), không chỉ có cờ Trung Quốc mà còn có thủ đô Bắc Kinh và đường lưỡi bò 9 đoạn bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Biển Đông, cùng toàn bộ thông tin về Trung Quốc.

Còn sách của Nhà xuất bản Giáo Dục, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 thì gần như không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Ngô Trần Ái là giám đốc nhà xuất bản thanh minh là bản đồ quá nhỏ nên không thể hiện, hơn nữa đây là sách học tiếng Việt chứ không phải là sách Địa lý. Chả lẽ là sách Địa lý mới chính xác, còn các sách học khác thì cứ thoải mái, tha hồ ?

RFI : Theo ông thì liệu đây có phải là một sự tình cờ hay không ?

Tôi cho rằng có thể những người làm sách, từ biên tập cho tới tổng biên tập họ ấu trĩ, họ đơn giản, nhưng mà dứt khoát người Trung Quốc thì họ không có đơn giản đâu. Người Trung Quốc có ý đồ rất rõ, họ tính toán cả một kế hoạch chi li, dài hơi và từng bước đi cụ thể. Không chỉ xâm lược về hàng hóa, mà họ sẽ xâm lược về văn hóa. Tại vì văn hóa mới là gốc, còn hàng hóa có thể tẩy chay được, và từ những việc rất nhỏ.

Dư luận có quyền đặt vấn đề, tại sao những người mang trách nhiệm đầy mình, cũng toàn là giáo sư tiến sĩ, học hàm học vị như thế, lại trả lời hết sức là vô trách nhiệm, lại để những chuyện hết sức tế nhị len vào trong giáo dục. Đặc biệt là người ta rất quan tâm tới giáo dục cho trẻ con, bởi vì trẻ con như tờ giấy trắng, mình viết chữ gì lên là nó in chữ đó.

Cho nên là cái nguy hiểm chúng ta chưa lường hết được, và thật ra theo ý kiến riêng của cá nhân tôi thì có khi cũng cần một cuộc hội thảo để mổ xẻ, tìm cho ra biện pháp mà sửa sai. Chứ nếu chúng ta cứ chấp nhận cái này thì chỉ là dung dưỡng cái xấu, bao che cho cái sai, dẫn đến hậu quả khôn lường là từ việc lệ thuộc về văn hóa thì chúng ta sẽ lệ thuộc về nhiều thứ khác.

Dư luận xã hội và người dân có quyền đặt nghi vấn, đằng sau những sai sót này là gì ? Giống như tại sao hầu hết những công trình xây dựng, đấu thầu hiện nay trong rất nhiều lãnh vực, người Trung Quốc đều giành được. Phải chăng là vì Trung Quốc bán giá rẻ hơn, và họ lót tay rất lớn, cho nên họ mua chuộc được cán bộ của mình ? Một, hai việc thì còn nói là sơ suất, nhưng mà nó liên tiếp xảy ra cả một hệ thống như thế, nếu không có những biện pháp quyết liệt và xử lý nghiêm minh, thì tôi nghĩ rằng cái xấu sẽ lan tràn như là sinh sản vô tính, và nó cực kỳ nguy hiểm.

Hàng loạt chuyện, kể cả việc trước đó VTV1 đưa hình cờ Trung Quốc có thêm một ngôi sao – nhầm lẫn đó ít nhất cần một lời xin lỗi, thì VTV1 chỉ gỡ cái cờ đó xuống và không thèm nói năng gì. Hoặc là chuyện dán cờ Trung Quốc ở trong siêu thị, tôi nghĩ rằng dư luận có quyền đặt câu hỏi là những sự nhầm lẫn vô tình này đều được chuẩn bị trước bởi một thế lực ngấm ngầm không biết ở đâu. Còn sự cố treo backdrop có tượng Phật ở Tứ Xuyên – Đại Phật Lạc Sơn – đi hội chợ mà không quảng cáo cho mình, lại quảng cáo cho nước khác là sao ? Mà thiếu gì nước, lại quảng cáo cho nước Trung Quốc ?

Tôi rất bức xúc và cho rằng những người chịu trách nhiệm, họ có vấn đề về cả khả năng và phẩm chất. Sai sót về giao thông có thể gây ra tai nạn, bị thương nhưng mà có thể lành. Còn văn hóa mà sai sót thì không chỉ ảnh hưởng tới một người, mà cả một đất nước sẽ bị ảnh hưởng. Cả một nền văn hóa sẽ bị tổn thương, và cái đó rất khó chữa trị, nó còn nguy hiểm hơn cả ung thư.

RFI : Ông có nói đến một cuốn sách dạy tiếng Hoa cho thiếu nhi nhưng lại có đường lưỡi bò, và Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Cuốn sách này đã được xử lý như thế nào ?

Cuốn sách đó là sách Tiếng Hoa dành cho thiếu nhi – thiếu nhi đây là thiếu nhi Việt Nam gốc Hoa, như vậy thì tổ quốc của họ là Việt Nam mặc dù gốc của họ từ Trung Quốc. Đặc biệt nguy hiểm là trong cuốn sách đó có đường lưỡi bò 9 đoạn bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam và phần lớn Biển Đông. Sách của công ty cổ phần văn hóa Nhân Văn, Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh tái bản.

Sách này in từ năm 2008 nhưng mà không ai biết cả, tới lúc cả thế giới người ta lên án đường lưỡi bò, báo chí đăng lên, phụ huynh đọc mới té ngửa ra, mà trả lời thì loanh quanh lít quít. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm trước hết thuộc về những người quản lý. Nếu họ có một chút lòng tự trọng thì nên từ chức.

Tôi cũng không hiểu được tại sao chúng ta xử lý rất là đơn giản, không thể hiểu được : thu hồi sách rồi sửa lại. Những cuốn sách này chỉ có tịch thu, xử lý biên tập, xử lý nhà xuất bản một cách đích đáng thì may ra mới răn đe, may ra mới chặn đứng được cái xấu lâu nay đang núp bóng dưới nhiều hình thức văn hóa để xâm lấn Việt Nam, để làm hại cả một thế hệ trẻ như vậy. Những chuyện tày trời như thế mà chưa thấy một đơn vị nào chịu trách nhiệm, chưa thấy một cán bộ nào bị liên đới kỷ luật về chuyện này.

RFI : Tình trạng hàng Trung Quốc tràn ngập Việt Nam mà hầu hết là hàng giả, hàng kém chất lượng thì nhiều người cũng nhìn thấy rồi. Nhưng những nguy cơ khác như sách học, sách tham khảo, phim ảnh, sách dịch Trung Quốc rất nhiều mà không chọn lọc…thì liệu dần dần sẽ có tình trạng nô dịch văn hóa không ?

Cái nguy cơ đó là có thật, và nó đã biểu hiện ở một số phát ngôn của các nhà quản lý rồi. Thí dụ những nhà quản lý có trách nhiệm, có bằng cấp đàng hoàng mà cho rằng chuyện đó là bình thường, chẳng có gì quan trọng cả, trong khi dư luận người ta cho rằng sự việc đối với trẻ con là sự việc lớn, chuyện tày đình. Thì ít nhất là từ vô thức những người này đã tiêm nhiễm nô dịch văn hóa của nước ngoài, mà trước hết là của người Trung Quốc.

Từ chuyện nho nhỏ như lá cờ, bức tranh hay cái bản đồ, không khéo rồi mấy chục năm nữa trên đất nước Việt Nam sẽ toàn « người lạ ». Tức là xác Việt Nam nhưng mà hồn Trung Quốc, bởi vì xem phim Tàu, đọc sách Tàu, xài hàng Tàu.

Cho nên nguy cơ nô dịch về văn hóa là có thật, và nó đã diễn ra từ lâu rồi. Bây giờ từng bước nó đang bộc lộ với nhiều góc độ khác nhau. Ban đầu là lá cờ thôi, rồi từ từ lá cờ nhỏ bên trong cuốn sách nó sẽ ra ngoài bìa, lấn ra ngoài cuộc sống…

Cái nguy hiểm là ở chỗ, nếu đây là sự xâm lược về quân sự, thì chúng ta sẽ đáp trả ngay, phản ứng ngay. Nhưng sự xâm lược về văn hóa dưới nhiều hình thức tinh vi, bằng nhiều biện pháp tổng hợp như vậy, thì rất là khó chống đỡ. Thậm chí người bị xâm lược không biết là mình đang bị nô dịch, thì cực kỳ nguy hiểm !

RFI : Xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Văn Mỹ, giám đốc công ty dã ngoại Lửa Việt tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.

Đừng phiền muộn vì những chuyện vặt vãnh

Đừng phiền muộn vì những chuyện vặt vãnh

Không phải ngày nào chúng ta cũng gặp phải những chuyện không vui, chúng ta lại phải thưởng xuyên bị ảnh hưởng bởi những sự việc nhỏ nhặt.

Đừng phiền muộn vì những chuyện vặt vãnh

Có một người đang chuẩn bị uống cà phê, trên bàn có đầy đủ ấm pha cà phê, cốc và đường. Đột nhiên có một con ruồi bay vào phòng định đậu trên đường. Lúc đó người này vô cùng bực tức, anh ta đừng dậy dùng tất cả mọi vật để đập con ruồi. Vì thế sau một hồi căn phòng đã trở nên lộn xộn, bàn bị đổ, ấm cũng đổ, cốc cà phê bị rơi vỡ, cà phê chảy đầy ra mặt đất, mà con ruồi thì từ từ bay qua cửa sổ.

Trong cuộc sống chúng ta, mỗi ngày đều gặp rất nhiều người vì một điều nhỏ nhặt mà làm ảnh hưởng đến những thời khắc đẹp đẽ. Tuy nhiên cuộc đời là vô cùng ngắn ngủi vì thế chúng ta không nên lãng phí thời gian buồn bực vì những chuyện lặt vặt.


Cuộc sống khá phức tạp nên những chuyện không may xảy ra là điều khó tránh. Dù bạn là người vĩ đại hay người bình thường đều có lúc gặp phải điều không tốt. Công việc không như ý, bị đồng nghiệp hiểu nhầm, tiền không đủ tiêu v.v… có lẽ tất cả những điều đó đều làm bạn lo lắng.

Tháng 3 năm 1945 một thanh niên Mỹ phục vụ trong chiếc tàu ngầm ở độ sâu 48m gần bán đảo Trung Nam đã học được một bài học quan trọng. Khi phục vụ trên chiếc tàu ngầm này, thông qua ra-đa anh đã phát hiện ra một chiếc tàu Nhật đi hướng về phía tàu ngầm. Tàu ngầm đã phát đi vài quả ngư lôi, nhưng không trúng một con tàu nào cả. Khi đó, quân Nhật đã phát hiện ra tàu ngầm và một chiếc tàu Nhật đang hướng tới họ. 3 tiếng sau, trời đất rung chuyển, 6 quả bom đã nổ làm cho chiếc tàu ngầm bị ép xuống đáy sâu nhất. Những quả bom không ngừng được thả xuống trong vòng 15 tiếng. Trong đó có mười mấy trái bom rơi cách tàu ngầm chỉ khoảng 15m rồi phát nổ. Nếu như gần thêm chút nữa tàu ngầm có thể đã bị thủng.

Lúc đó anh và các bạn nằm nín thở, không động đậy trên giường. Trong lòng tự nhủ: “Chuyến này chết chắc rồi”. Nhiệt độ trong tàu ngầm lên tới 400 mà anh thấy toàn thân mình lạnh toát, giống như cảm lạnh vậy. Sau 15 tiếng cuộc tấn công chấm dứt, rõ ràng chiếc tàu Nhật đó đã dùng hết số bom rồi bỏ đi.

Anh cảm thấy 15 tiếng mà giống như 15 năm vậy. Cuộc sống của anh hiện ra trước mắt. Những chuyện làm cho anh lo lắng phiền não thì mỗi lúc làm cho anh nhớ rõ hơn: Không có tiền để mua nhà, không có tiền để mua xe, không có tiền mua áo mới cho vợ, cả những chuyện nhỏ nhặt như cải nhau với vợ hay bực tức vì vết sẹo trên trán.

Lúc bị ném bom, những chuyện làm cho anh bực tức này dường như nhỏ bé. Anh tự thề với bản thân nếu như anh thoát chết sẽ không bao giờ bực tức vì những chuyện nhỏ nhặt này nữa.


Một nhà văn nổi tiếng của Anh đã từng chỉ ra rằng: “Người nào tức giận bởi chuyện nhỏ thì cuộc sống sẽ ngắn ngủi”. Thật vậy, nếu để những chuyện nhỏ nhặt giày vò tâm hồn chúng ta, cảm giác không vui này sẽ làm cho con người sống một cách đáng thương.

Một vị nữ tổng giám đốc của một công ty có khuôn mặt trắng mịn, mềm mại, ăn mặt thì giản dị, nụ cười tươi và giọng nói dịu dàng. Nếu không nói chuyện về công việc thì cô như là một người mới bước vào xã hội. Cô luôn vui vẻ, mọi người không những muốn trò chuyện với cô mà hợp tác với cô cũng cảm thấy rất vui vẻ. Do vậy nên việc làm ăn của cô ngày càng phát triển . Có người hỏi cô: “Làm thế nào để trẻ mãi?” Người hỏi cô mới chỉ có 20 tuổi, nhưng suy nghĩ của người đó thì 35 tuổi đã là rất già rồi.


Vị giám đốc đó trả lời: “Tôi cũng không biết được. Có thể là do tôi không phiền não gì. Ngày trước, khi còn trẻ tôi cũng thường hay buồn bực vì những chuyện nhỏ. Bạn trai tôi lại bảo tại sao lại như thế, anh ta không thể ngủ được vì tôi. Lúc đó tôi nghĩ hay là anh không còn yêu tôi nữa. Cho đến khi anh trai tôi mất”.


Anh trai tôi từ nhỏ đã rất nghịch. Hơn 20 tuổi, anh bắt đầu sự nghiệp. Trước khi mất vài ngày anh trai tôi mất đi một khoản tiền. Anh tôi thường không thích xem sổ sách, nhưng tháng đó anh tôi đã lấy quyển sổ kế toán để xem xét. Người quản lý sổ là bạn của anh tôi. Nhưng lần này do khoản tiền thiếu lớn mà không rõ nguyên nhân, cho nên anh nghi ngờ trong quá trình hợp tác với bạn mình đã xảy ra vấn đề gian lận. Chị dâu tôi nói, anh tôi từ đó bắt đầu ngủ không yên, không ngủ được thì uống rượu, uống xong trở nên buồn bực. Càng buồn bực thì lại càng uống nhiều rượu. Một hôm trên đường lái xe về nhà đã xảy ra tai nạn. Sau khi anh tôi mất, chị tôi lo hậu sự cho anh ấy xong thì phát hiện ra rằng bạn anh tôi chỉ mượn tạm khoản tiền đó rồi trả lại ngay. Vậy mà anh tôi vì nó mà buồn bã biết bao lâu”.


Tôi đã học được bài học từ anh trai tôi: không nên buồn phiền, không nên tự giày vò, nên nhìn nhận sự việc một cách đơn giản nhất. Đây có lẽ là lý do mà tôi không già đi.


Từ câu chuyện của nữ giám đốc này chúng ta thấy được xung quanh chúng ta có người như là chiếc máy tự tạo ra những buồn bực. Họ luôn luôn phiền não bởi những chuyện không thể xảy ra, chuyện nhỏ nhặt và những chuyện không liên quan đến bản thân mình. Dần dần theo năm tháng, họ mắc bệnh hoang tưởng đối với những câu nói, những cái nhìn không chứa đựng ác ý gì. Họ dường như nỗ lực chống lại sự xâm nhập của bệnh tật, cũng chính là ngăn lại những cảm xúc vui vẻ.

Trên một ngọn núi tại bang Cô-lô-ra-đô ở Mỹ có một cái cây to. Năm tháng không làm cho nó khô héo, sấm sét không đánh ngã được nó, gió to bão lớn cũng không làm cho nó lay chuyển, nhưng cuối cùng nó bị một loại côn trùng cánh cứng phá huỷ. Trong cuộc sống chúng ta không bị những hòn đá to chặn đường, nhưng lại bị những hòn đá nhỏ đánh ngã. Mặc dù những chuyện nhỏ những chuyện nhỏ không đáng kể gì nhưng nó sẽ làm cho bạn hao tổn tinh thần. Thực tế cứ từng giây từng phút trôi qua, buồn bã cũng là một ngày, vui mừng cũng là một ngày. Ngày hôm nay bạn nên sống như thế nào thì hãy sống như thế. Vì thế trong cuộc sống nên nghĩ tới sự vui vẻ, nên học được cách đánh bạt đi “những hòn đá nhỏ” làm con người phiền não.


Gạt bỏ trạng thái tiêu cực


Vận xui luôn là nhân tố kích thích mạnh mẽ đối với con người, nó để lại những ấn tượng sâu sắc đối với tâm sinh lý của mỗi con người. Nó mang lại cho con người những cảm giác u ám và luôn làm cho con người thấy phiền muộn. Tuy nhiên nếu sự việc đã xảy ra thì nên đối mặt với nó, tìm ra phương pháp giải quyết. Nhưng nếu là việc đã qua thì hãy để nó qua đi, không nên nghĩ ngợi nhiều. Cảm giác đau khổ cũng giống như đầm lầy vậy. Bạn càng muốn thoát khỏi nó nhanh chóng thì nó càng làm cho bạn lún sâu hơn cho đến khi tự mình không thể thoát khỏi được.

Lỗ Tấn đã từng miêu tả một con người như chị Tường Lâm. Con trai chị bị chó sói tha đi mất, lòng đau như cắt, chị gặp ai cũng than thở về bất hạnh của con trai mình. Ban đầu mọi người rất thương chị, nhưng sau nhiều lần chị kể đi kể lại, mọi người bắt đầu thấy khó chịu, còn chị thì lại càng đau khổ hơn. Nếu bạn cứ suốt ngày kể nỗi đau khổ của mình cho người khác thì bạn lại chỉ càng đau khổ mà thôi.


Đương nhiên chúng ta cũng không nên né tránh chúng. Đừng để sự buồn bã cố hữu quá lâu trong lòng. Hãy tìm cho mình một lối thoát, hãy tìm lại cho mình một niềm vui của cuộc sống. Chỉ có niềm vui mới mang lại cho ta tinh thần, còn sự buồn bã, lo lắng thì không bao giờ làm được điều đó cả.


Ví dụ bạn làm một công việc rất khó và bạn thất bại. Bạn suốt ngày khóc lóc thì như vậy thật không ổn. Nhưng nếu như bạn coi đó là một chuyện bình thường không là gì cả, một chút áp lực trong bạn cũng không có, thì đó cũng không phải là thái độ tốt. Những đau khổ khi thất bại chúng ta nên quên đi, nhưng không nên quên những sự việc thất bại. Bạn cần thông qua sự việc đó để chuẩn bị tốt hơn, cần phải tiếp tục nỗ lực và bắt đầu lại từ đầu.


Trong khó khăn, đau khổ, hiểu được quy luật thay thế của cuộc sống là rất quan trọng. Một người đau răng, anh ta không quyết định nổi có nên đi đến bác sĩ hay không? Anh ta quyết định cắn vào chỗ con ong vàng đang đậu trên miếng bánh mứt hoa quả. Và anh đã bị nó đốt cho một nhát. Một thời gian sau, khi vết đốt của con ong vàng đã xẹp xuống thì anh ta thấy răng đau đã không còn nữa.


Một nhà diễn thuyết nổi tiếng đã từng dùng “luật thay đổi” để làm đề tài diễn thuyết. Cuộc đời cũng có quy luật thay đổi, chúng ta có thể dùng những sự việc vui vẻ để thay thế cho những việc không vui. Vì thế, khi tâm trạng chúng ta không tốt, chúng ta nên mở rộng lòng mình, làm những công việc làm cho chúng ta thấy vui vẻ, Khi đó những tổn thương của chúng ta sẽ được giải phóng ra ngoài.


Bà Su-san Mi-lô được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư. Ngay lập tức bà đã viết một cuốn sách để đấu tranh cùng căn bệnh. Bà là người yêu động vật nên bà đã chọn động vật làm đề tài. Bà thông qua rất nhiều phương pháp để thu thập những câu chuyện liên quan đến động vật. Trước khi những câu chuyện này được biên tập lại thành sách nó trở thành động lực thúc đẩy, cổ vũ bà đấu tranh với bệnh tật. Cuối cùng cuốn sách về thế giới động vật của bà cũng được xuất bản và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Còn bà sau khi bị chẩn đoán ung thư 10 năm vẫn khoẻ mạnh và hạnh phúc, thậm chí bà còn khoẻ hơn lúc bắt đầu điều trị.

Trích trong cuốn sách: Làm thế nào khi lựa chọn sai.

http://business.vnmic.com/news/Y-tuong/Dung-phien-muon-vi-nhung-chuyen-vat-vanh-3189/

Ấn tượng về Đức Giáo hoàng Phanxicô

Ấn tượng về Đức Giáo hoàng Phanxicô

demo image

 

Những suy nghĩ của một chủng sinh của Tổng Giám mục Bergoglio

Đây là bản dịch “suy tư” của Luis Montesano, một chủng sinh năm thứ tư ở Buenos Aires.

Khi thánh Ignatio thành Loyola khám phá ra Đức Giêsu Kitô và để cho Người chiếm đoạt, ngài ước ao từ bỏ mọi sự, đi đến Đất Thánh và sống ở đó như Đức Giêsu đã sống, nghĩa là đi đến những nơi Người đã đi, và tìm kiếm những con người mà Ngài đã gặp. Vì thế, ngài đã từ bỏ cuộc sống của người quí tộc và sự nghiệp quân sự đầy hứa hẹn, và đi học thần học tại Paris, để cuối cùng thực hiện cuộc hành trình tới những Nơi Thánh đó.

Tuy nhiên, thánh Ignatio đã không bao giờ có thể thực hiện được ước nguyện của mình vì Chúa đã chuẩn bị cho ngài những con đường khác. Thực vậy, Chúa muốn ngài thành lập dòng Tên gồm những người bạn học mà ngài đã gặp trong thời gian theo học ở Paris. Công trình này của Thiên Chúa, được những con người thực hiện, sẽ là một trong những dụng cụ mà Chúa Quan phòng dùng để đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Vì thế, với sự trợ giúp của biết bao nhà truyền giáo đã trao phó cuộc đời cho Đức Giêsu Kitô, Giáo hội lan rộng một cách đáng kể từ Châu Âu sang Châu Á, và từ Châu Âu tới Châu Mỹ.

Ở vùng cực Nam Châu Mỹ, cụ thể là tại những vùng ranh giới xa xôi nhất của công cuộc phúc âm hóa khởi sự từ năm 1492, đức tin đã lớn mạnh, được khuôn đúc và trưởng thành, với sự giúp đỡ của các tu sĩ dòng Tên, trong số họ có một vị kế nhiệm thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Ngài được thụ phong linh mục lúc 33 tuổi, và là giám mục phụ tá giáo phận Buenos Aires lúc 56 tuổi. Năm 1998, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục giáo phận Buenos Aires và năm 2001 được phong làm hồng y bởi Đức Gioan Phaolô II.

Tôi có may mắn được gặp ngài nhiều lần khi ngài còn là Tổng Giám mục Buenos Aires. Năm 2000, tôi tham dự cuộc họp của các giáo lý viên tại Buenos Aires, dưới sự chủ toạ của Đức Jorge Bergoglio. Sau các buổi thảo luận, cầu nguyện và thánh lễ, ngài đến gần mỗi một giáo lý viên, chào hỏi họ và trò chuyện vui đùa với họ. Ấn tượng ngài để lại là một con người đơn sơ, bộc trực, dễ trao đổi.

Sau đó, tôi đã gặp ngài ở đại học Công Giáo Argentina, nơi tôi đang học luật. Đức Bergoglio là chưởng ấn của đại học này, và ngài đến tham dự một vài nghi lễ của nhà trường. Sau khi tốt nghiệp cử nhân, chúng tôi có cơ hội nói chuyện với ngài và ngài nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi có bổn phận trở nên những người phục vụ, đem tất cả những gì chúng tôi đã lãnh nhận được vào việc phục vụ xã hội. Tôi nghĩ rằng đây cũng là tính cách của Đức Giáo hoàng Phanxicô: ngài không giữ lại điều gì cho bản thân, ngài không lo nghĩ khi người ta nghĩ tốt hay xấu về ngài, bao lâu ngài có thể đem hết tài năng của mình vào việc phục vụ những người thiếu thốn nhất.

Tôi cũng muốn chia sẻ một giai thoại nói lên một trong những tính cách của ngài khi còn là một linh mục: lấy Đức Kitô làm trung tâm. Một dịp kia, tôi làm việc với nhóm “Đêm Từ Thiện” thuộc một giáo xứ Đức Mẹ Guadalupe ở Buenos Aires. “Đêm Từ Thiện” là một hoạt động được tổ chức ở Buenos Aires: mỗi giáo xứ, mỗi tuần một lần, ra đi phân phát thực phẩm cho những người sống trên đường phố và nhất là đem Đức Kitô đến cho họ. Đức Bergoglio luôn luôn rõ ràng về thứ tự hoạt động: đầu tiên là chầu Thánh Thể, sau đó ra đi để gặp gỡ Đức Kitô nơi những người nghèo sống trên các đường phố, để phân phát chút gì cho họ ăn, để nói chuyện với họ, cuộc nói chuyện cho phép chúng tôi mang Đức Kitô đến cho những con người đó. Một dịp kia, chúng tôi muốn mở rộng thêm bán kính hoạt động “Đêm Từ Thiện” của giáo xứ, để đến với nhiều người hơn. Qua cha xứ, Hồng y Bergoglio đã nói với chúng tôi rằng: “Chớ vội vàng. Đây không phải là thức ăn nhanh, nhưng trình tự là trước tiên Đức Kitô, sau đó Đức Kitô và cuối cùng Đức Kitô”. (Điều này có nghĩa là Đức Kitô trong khi chầu Thánh Thể, Đức Ki-tô nơi người nghèo và mang Đức Ki-tô đến cho người nghèo). Tôi nghĩ rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ quan tâm đặc biệt tới những người nghèo khổ nhất, để mang Đức Kitô đến cho họ. Một cách nào đó, đối với Hồng Y Bergoglio, vùng ngoại biên của tổng giáo phận Buenos Aires chính là trung tâm. Bây giờ tôi nghĩ rằng, đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô, trung tâm của Giáo Hội sẽ là vùng ngoại biên, những cảnh túng quẫn cùng cực ít người quan tâm đến.

Cuối cùng, tôi muốn chia sẻ với quí vị một vài ấn tượng tôi có được khi tôi có thể nói chuyện riêng tư với Hồng Y Bergoglio khi vào chủng viện. Thư ký của ngài là người lên lịch hẹn. Trước tiên, cuộc gặp gỡ được thư kí của ngài lên lịch, vị này bảo tôi: “Cho tôi số điện thoại di động để sắp xếp ngày giờ, nhưng rất có thể đức hồng y gọi trực tiếp cho thầy mà không cho tôi biết”. Quả vậy, ngày hôm sau điện thoại tôi reo lên và chính là hồng y Bergoglio. Hình như thư kí của ngài có biết sau khi ngài nói chuyện với tôi. Đây là một đặc điểm thuộc về nhân cách của ngài: ngài điều hành nhiều việc cách trực tiếp, không qua những người trung gian, và điều này chắc chắn mang lại cho ngài nhiều tự do hành động. Trong nhiều trường hợp, điều này cũng tạo nên nơi ngài là một con người không thể đoán trước được.

Tôi rất bồn chồn khi đi gặp vì đây là lần đầu tiên tôi nói chuyện với một vị hồng y. Khi đến nơi, tôi gặp một linh mục, bận áo sơ mi cổ côn màu đen, quần đen, và mang một đôi giày mòn đế. Ngài mang thánh giá trước ngực, chắc chắn đó là thánh giá mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đang mang bây giờ. Sau khi nói chuyện đùa với tôi, cuộc đối thoại trở nên thoải mái, ân cần như thể một người cha nói chuyện với đứa con trai của mình. Ngài lắng nghe tôi một cách chăm chú và cho rồi thỉnh thoảng góp lời nhận xét. Tôi có ấn tượng đặc biệt về lòng sùng kính Đức Maria, thánh Giuse và Bí tích Thánh Thể của ngài. Tôi cũng có ấn tượng về sự ưa thích toà giải tội của ngài. Ngài nói với tôi rằng một linh mục không thể quên toà giải tội, không có điều gì khẩn cấp và quan trọng hơn việc ngồi toà giải tội trong chương trình của một linh mục, vì đây chính là nơi Thiên Chúa sẵn lòng ban phát sự thương xót của Ngài. Ngài nói rằng ngài sẽ phó thác ơn gọi của tôi cho Đức Trinh Nữ Cực Thánh và cho tôi một tấm hình thánh Giuse mà kể từ ngày đó, tôi đã cầu nguyện mỗi ngày. Ngài xin tôi phó dâng ơn gọi của tôi và thừa tác vụ của ngài cho thánh cả Giuse. Ngày hôm nay, tôi cầu nguyện cùng thánh Giuse cho Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Ngày 13 tháng 3 vừa qua, ngày Đức Bergoglio được bầu làm Giáo hoàng, bởi Chúa quan phòng, tôi đang ở Buenos Aires (chủng viện nơi tôi học cách Buenos Aires 50 km), đi dạo quanh các nhà sách để mua cho thư viện đại chủng viện, nơi đây, nếu Chúa muốn, tôi sẽ làm việc trong năm nay. Khi nghe tin có khói trắng, chúng tôi đi đến đại học Công Giáo Argentina nơi chúng tôi có thể xem hồng y Tauran loan báo. Không thể tin vào những gì mắt thấy tai nghe, lập tức chúng tôi ôm chặt nhau và lắng nghe chăm chú những lời của đức tân Giáo Hoàng. Chúng tôi biết rằng có sẽ có một thánh lễ ở vương cung thánh đường Buenos Aires lúc 7 giờ tối, thế là chúng tôi tới đó. Nhà thờ đầy ắp và dân chúng (người trẻ, gia đình và các trẻ em, người lớn tuổi) tràn ngập hơn nủa công trường Plaza de Mayo. Thánh lễ tạ ơn đầu tiên đầy cảm xúc. Tại đó chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng việc chọn đức Bergoglio làm Giáo hoàng là một lý do của niềm vui đối với Giáo hội hoàn vũ, nhưng nó là một sự chúc lành đặc biệt cho giáo hội Argentina. Kể từ ngày 13 tháng 3, nhiều người đã trở lại tham dự Thánh Lễ (sau nhiều năm không tham dự), các toà giải tội đầy người và các hoạt động của Giáo hội trở thành những tin tức trên các phương tiện truyền thông ở Argentina. Tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội cho cho nhiều người trở về với Giáo hội và được giao hòa với Thiên Chúa. Việc bầu chọn Đức Bergoglio cũng tạo nên niềm vui lớn lao trong chủng viện. Niềm vui phải được hướng dẫn bởi một trách nhiệm nặng nề, như một vị giám mục đã nói với anh em chủng sinh chúng tôi.

Việc bầu chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô đặt chúng tôi dưới “kính lúp” của nhiều phong trào và các Giáo hội địa phương khắp trên thế giới. Ngày nay Giáo hội dõi nhìn về Rô-ma như thường lệ, nhưng cũng quan sát Argentina nữa. Tôi thiết nghĩ đó là điều khiến chúng tôi làm việc nhiều hơn và tốt hơn, cầu nguyện nhiều hơn và đặt bản thân chúng tôi là một Giáo hội dưới sự bao bọc của Mẹ Maria, Đấng từ Lujan đang dõi nhìn và chúc phúc cho Giáo Hội Argentina. —

Luis Montesano sinh ra ở Buenos Aires vào năm 1983. Anh là một luật sư và có bằng tiến sĩ Luật. Năm 2011, anh vào đại chủng viện thánh Giuse ở La Plata (Buenos Aires) và hiện đang học năm thứ tư ở chủng viện này. Trước đây, anh là một giáo lý viên, là thành viên của nhóm thừa tác vụ mục vụ Đại Học, thành viên của các nhóm trẻ khác, và dạy các môn luật và đạo đức tại đại học Công Giáo Argentina và đại học Austral ở Buenos Aires.

Nguyễn Quốc Huy, Ofm. chuyển dịch

Hàng trăm nghìn người biểu tình ủng hộ ứng viên tổng thống đối lập

Hàng trăm nghìn người biểu tình ủng hộ ứng viên tổng thống đối lập

nguồn: RFI

Ứng cử viên tổng thống của phe đối lập Venezuela, ông Henrique Capriles (giữa) trong chiến dịch tranh cử tại Caracas ngày 07/04/2013.

Ứng cử viên tổng thống của phe đối lập Venezuela, ông Henrique Capriles (giữa) trong chiến dịch tranh cử tại Caracas ngày 07/04/2013.

©Reuters.

Anh Vũ

Còn một tuần trước ngày bầu cử tổng thống Venezuela, phe của ứng cử viên đối lập Henrique Capriles hôm qua 07/04/2013, đã huy động một lực lượng quần lớn hàng trăm nghìn người đổ về thủ đô Caracas biểu thị sự ủng hộ với ứng cử viên của họ. Ông Henrique Capriles, ứng cử viên từng bị cố Tổng thống Hugo Chavez đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 10 năm ngoái, lần này sẽ phải đối mặt với ứng cử viên Nicolas Maduro, đang nắm quyền Tổng thống Venezuela từ sau khi Hugo Chavez qua đời.

Chiến dịch tranh cử của hai ứng cử viên chỉ kéo dài trong 10 ngày trước khi bước vào cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 14/4 tới. Những người ủng hộ ông Henrique Capriles rất lạc quan tin vào chiến thắng.

Từ Caracas thông tín viên Pierre Philippe Person tường trình :

“Các khẩu hiệu vẫn như hồi tháng 10 năm ngoái và tinh thần lạc quan cũng vậy. Hàng trăm nghìn người đã đổ về trung tâm thủ đô Caracas hô vang cái tên Henrique Capriles, ứng cử viên của phe trung hữu.

Iolenda Lopez, một nhà sản xuất truyền hình trẻ cùng với các bạn của cô có mặt trong đoàn người biểu tình. Giữa Nicolas Maduro, ứng cử viên của phe ủng hộ Chavez, từng là tài xế taxi và Henrique Capriles, một luật sư trẻ 40 tuổi, cô đã có sự lựa chọn từ trước và cô tin tưởng vào chiến thắng của ứng cử viên của mình.

Cô nói : « Chavez đã chết, không còn nữa vì thế chúng tôi đang đứng trước một cơ hội chiến thắng. Không có ông ta thì sẽ dễ dàng hơn. Tôi có những người bạn ủng hộ Chavez nhưng không bỏ phiếu cho Maduro. Họ thích Capriles hơn vì cảm thấy ứng cử viên này thuyết phục hơn, ông ta có học vấn cao và hấp dẫn “.

Để giành thắng lợi, nhiều người ủng hộ Capriles như ông Ricardo, một người đã có gia đình, thì đặt hy vọng vào sự chia rẽ trong phe Chavez và sự vắng mặt của cử tri ủng hộ Chavez. Ông cho biết : « Tôi nghĩ là ngay cả những người thuộc phe Chavez cũng ý thức được rằng ứng cử viên của họ không có được sức lôi cuốn dân chúng hay tài năng như Hugo Chavez. Rất nhiều người trong số họ sẽ không đi bỏ phiếu hoặc có đi thì lại bầu cho Capriles ».

Mặc dù những người ủng hộ đông đảo và lạc quan nhưng Henrique Capriles vẫn bị đối thủ vượt lên trên trong một cuộc thăm dò gần đây nhất.

KHI MỘT LUẬT SƯ NGOÀI XÃ HỘI THAM GIA BẢO VỆ SỰ SỐNG

KHI MỘT LUẬT SƯ NGOÀI XÃ HỘI THAM GIA BẢO VỆ SỰ SỐNG

Trích: Ephata 556

Mỗi khi nói tới BVSS thì người ta nghĩ ngay đến một bộ phận của giới Công Giáo mà nổi bật nhất có lẽ là một số Linh Mục và Tu Sĩ DCCT. Tôi cũng thường cho là như thế. Do đó, tôi rất bất ngờ khi đọc bài dưới đây của luật sư Robert Mullin. Có lẽ ông khá xa lạ với đa số người Việt Nam không có nhu cầu xuất cảnh du học hay định cư. Công ty  Robert Mullins International thành lập từ năm 1987, được rất nhiều người tin cậy về các dịch vụ bảo lãnh đoàn tụ và du học. Ông đưa ra ý kiến kèm theo luận cứ rất thuyết phục về đại họa sắp tới mà nhân loại sẽ gặp phải nếu quý bà không chịu khó sinh nhiều con thêm nữa.

XIN VUI LÒNG ÐẺ THÊM CON ! ( 2/12/2013 – người xem: 6672 )

http://rmiodp.com/D_1-2_2-61_4-658_15-2_5-10_6-1_17-373_14-2/xin-vui-long-de-them-con-lich-cap-chieu-khan-di-dan-thang-3-2013.html

Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng Tham Vấn Di Trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Ðề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối  thứ tư, từ 7:00 – 8:00 giờ.

Theo một bài viết mới đây trên trang điện tử Immigration Daily ( Nhật Báo Di Trú ), tình trạng dân số thấp dần đang xảy ra ở những quốc gia phát triển và đang lan rộng trên toàn cầu. Dân số thế giới kỳ vọng lên đến khoảng từ 9 đến 10 tỷ nhưng đã bắt đầu tụt xuống dần dần. Ðiều này sẽ phương hại đến vấn đề xã hội và di trú toàn cầu.

Nếu mỗi phụ nữ giữ tỷ lệ sinh con 2.1 sẽ có thể duy trì sự cân bằng dân số trên thế giới. Việc sinh sản ở Âu Châu đã xuống thấp hơn tỷ lệ sinh con 2.1. Ở Ðức là 1.36. Với chỉ số xuống thấp như vậy, dân số Tây Âu sẽ giảm từ 460 triệu xuống 350 triệu người vào cuối thế kỷ này. Nga và Trung cộng sẽ tệ hơn và sẽ giảm một nửa dân số. Những quốc gia có truyền thông sinh sản cao cũng đang tụt dần mức sinh sản nhanh chóng: Từ năm 1960 đến năm 2009, mức sinh sản của Mexico giảm tỷ lệ 7.3 xuống còn 2.4 và Ấn Ðộ giảm tỷ lệ từ 6.0 xuống còn 2.5. Cả hai nước này có thể rớt tỷ lệ xuống còn 2.1.

Lịch sử cho thấy, khi mức sinh sản của một nước tụt xuống dưới mức bình thường thì vấn đề di dân ra khỏi nước này giảm xuống rất nhiều. Tại Việt Nam, tỷ lệ sinh sản đã giảm xuống dưới tỷ lệ 2.1. Hiện nay, tỷ lệ sinh sản ở mỗi phụ nữ Việt Nam chỉ còn là 1.89.

Người ta tiên đoán rằng việc giảm tổng dân số toàn cầu sẽ đi kèm với sự thay đổi mạnh mẽ về thành phần dân số. Việc gia tăng thành phần dân số lớn tuổi sẽ lên cao, và thành phần dân số ở tuổi lao động sẽ giảm mạnh mẽ. Chỉ trong một thập niên, việc tìm kiếm người ở tuổi lao động khắp thế giới sẽ tăng nhanh chóng. Các nước sẽ cạnh tranh nhau để thu hút người di dân từ những nước vẫn còn tỷ lệ sinh sản nhiều.

Một số người tiên đoán rằng một ngày nào đó trong tương lai, một số nước giàu có ở Âu Châu, Bắc Mỹ và ngay cả Úc Châu ( hiện Úc có dân số dưới 25 triệu người ) có thể chọn cách khích lệ tài chánh cho những người trẻ nào đồng ý trở thành công dân của những nước này.

Danh sách tỷ lệ sinh sản của 223 quốc gia đã được công bố. Ðứng đầu danh sách này là nước Niger ở Tây Phi, với tỷ lệ sinh san của mỗi phụ nữ là 7.52. Dĩ nhiên, tỷ lệ sinh sản cao này đã bù đắp số trẻ em tử vong cao và tuổi thọ người dân xuống thấp. Những nước có tỷ lệ sinh sản cao hầu hết ở phía Tây và Nam Phi Châu, cũng như ở Trung Ðông.

Tỷ lệ sinh sản ở mỗi phụ nữ Việt Nam là 1.89 và Việt Nam đứng hạng 140 trong số 223 quốc gia. Lào đứng hạng 57 trong số 223 quốc gia với tỷ lệ sinh sản 3.06 ở mỗi phụ nữ. Cam Bốt đứng hạng 71 với tỷ lệ sinh sản là 2.78. Tỷ lệ sinh sản thấp nhất thế giới thuộc về nước Singapore, với tỷ lệ sinh sản 0.78 ở mỗi phụ nữ. Hoa Kỳ có tỷ lệ sinh sản là 2.06, đứng hạng 183 trong số 223 quốc gia.

Dân số Việt Nam nay đã trên 90 triệu người, cao hơn những nước ở Ðông Nam Á, ngoại trừ Indonesia. Nhưng, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai nếu mức sinh sản ở Việt Nam tiếp tục ở mức 1.89 hoặc ít hơn, và mức cần thiết tối thiểu để duy trì cân bằng dân số là 2.1 ? Hiện nay, 25% dân số Việt Nam dưới 15 tuổi và 69% dân số ở khoảng tuổi 15 đến 64. Nhu cầu cần người lao động sẽ gia tăng khi dân số trẻ lớn tuổi dần, và dân số người cao niên cũng sẽ tăng cao, sẽ đòi hỏi vấn đề chăm sóc y tế và những nguồn cung cấp khác. Tuổi trung bình ở Việt Nam là 28 tuổi và tuổi thọ là 70 tuổi ở đàn ông và 75 tuổi ở đàn bà.

Theo thống kê của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam, tình trạng biết đọc biết viết ở Việt Nam là 94%. Một số thống kê khác năm 2000 nói rằng số người quá cân lượng ở Việt Nam ít hơn hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, tỷ lệ người béo phì là 0.5%, ít hơn 1% dân số so với Hoa Kỳ, nơi có tỷ lệ 34% dân số được xem là là béo phì.

– Hỏi: Nếu những tiên đoán trên mạng điện tử internet đúng, khi nào tình trạng thiếu người làm việc trên toàn cầu sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng ?

– Ðáp: Giả thử rằng những tiên đoán này là đúng, cũng phải qua ít nhất một hay hai thế hệ nữa trước khi tình trạng thiếu hụt nhân công bắt đầu ảnh hưởng đến nền kinh tế của thế giới.

– Hỏi: Nếu các nước khác cố gắng thu nhận nhân công ở ngoại quốc, liệu điều này có mang lại cơ hội cho người Việt Nam có việc làm ở nước ngoài không ?

– Ðáp: Một trong những lý do có quá nhiều người Philippines đang làm việc ở nhiều quốc gia là hầu hết những người này có thể nói tiếng Mỹ. Khả năng Anh ngữ sẽ là yếu tố quan trọng trong việc thu nhận nhân công ở Việt Nam. Hiện nay, hầu hết nhân công người Việt Nam không thể làm việc tốt trong những môi trường đòi hỏi biết Anh ngữ.

NGUYỄN TRUNG dịch và tổng hợp

“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa,”

“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa,”

“Tự an ủi mình, khi cắn nỗi sầu đau.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Ga 21: 1-19

Đợi như tôi, đâu cần “cắn nỗi sầu đau” bao giờ! Đợi như người, có vị lại hành xử giống như thơ. Đợi Thơ ở nhà Đạo, là đợi chờ một hành xử giống hệt như thánh cả, rất Phêrô.

Trình thuật thánh Gioan, nay mô tả thánh Phêrô bằng vào hành xử tựa như thế. Nhưng trước hết, hãy xem thánh Mát-thêu diễn giải thế nào về Phêrô thánh cả của Hội thánh. Với thánh Mát-thêu, cuối bài giảng trên núi có nói “người khôn xây nhà trên đá”. Và, thánh Mát-thêu lại cũng diễn tả Phêrô thánh cả như đá tảng trên đó Chúa xây dựng Hội thánh. Xem thế thì, người khôn đây là Đức Chúa, còn đá tảng đó là Phêrô cũng từng chảy nước trước biến cố khó xử.

Thánh Mát-thêu viết trình thuật, lại nối kết Đức Giêsu với Môsê trong đó có đá tảng chảy những nước là nước cho dân uống. Và, thánh-sử cũng nói về thánh Phêrô nghi ngờ/kháng cự ý nghĩ về đá tảng giống như thế. Sự thật thì, thánh Phêrô cũng đã đem nước của “sự sống” đến với thánh Hội, nhưng làm thế chỉ biểu trưng cho tình thương/tương quan với mọi người, chứ không chỉ kể về nền tảng của Hội thánh, thôi.

Là đá tảng vẫn chảy nước, thánh Phêrô đôi lúc cũng âm thầm hoặc công khai đối kháng ý định của Thày mình. Thánh Mát-thêu lại cũng viết về thánh Phêrô những là: đắng cay, chảy nước mắt lúc Thày chấp nhận Thương khó trước cả lúc thánh Phêrô thực hiện công cuộc thừa tác, cho Chúa. Bởi nếu không, thánh-nhân cũng chỉ là “đá sỏi ở bên đường” nơi đó không hạt giống nào nhú mọc được, cách tốt tươi. Xem thế thì, đá tảng khóc đầy nước chẳng là “đá góc tường” hoặc “đá nền” bền bỉ để Chúa xây dựng cộng đoàn Hội thánh của Ngài.

Đá tảng chảy nước ròng, hoặc “đá nền” bền bỉ chỉ biểu trưng về cách gìn giữ những gì được trân quý, đệ đạt. Đặc trưng ổn định cuộc sống sau thời lưu lạc tựa hồ Môsê đập gậy vào đá, thấy đá chảy nước khóc ròng. Nói thế, có nghĩa: giai đoạn chuyển tiếp đã bắt đầu và diễn tiến đến giai đoạn không còn xảy ra như thế nữa. Thêm vào đó, chẳng đá nào dát vàng ròng trong cùng chỗ như thế.

Người đập gậy vào đá những hai lần, là muốn có nước để uống múc ngay tức thì, hoặc vẫn không tin vào khả năng chảy nước ròng từ đá tảng khô cứng, tức: vị ấy những muốn gỡ bỏ tiến trình chờ đợi để sự việc chóng đến với mình, mà thôi. Thiên Chúa không muốn những chuyện như thế xảy đến với con người. Xảy ra như thế, tức: con dân Ngài nay chẳng tin tưởng điều gì hết. Trên thực tế, đã có lệnh cấm thờ bò vàng làm từ đá quý hay lệnh cản ngăn tạo nước uống rất mau chóng; hoặc, có thể cũng khước từ lệnh truyền phải tiến thẳng đạt tới đích điểm. Làm thế, sẽ chẳng đạt Đất Lành Chúa hứa, dù tổ phụ Môsê hay những ai thuộc thế hệ kế tiếp, tiến hành vào Đất Lành, Ngài hứa hẹn.

Cũng nên nhớ: thánh Phêrô khi trước, không là đấng bậc có văn hoá/văn minh La-Hy, thị thành. Thánh Luca khi kể về thánh Phêrô, lại đã mô tả thánh cả là người “không biết gì về ngữ pháp” tức chẳng biết đọc/biết viết, rất sai sót rồi bị sửa sai, nên không thích. Thánh Mác-cô lại đã viết: Chúa quở trách thánh Phêrô khi thánh cả cứ nghĩ Thày mình là Đức Mêsia cao cả như vua cha ngoài đời. Riêng thánh Gioan lại kể về thánh Phêrô là đấng bậc tuy cao cả nhưng vẫn chối Chúa, chối Thày, khi bị người tớ gái hỏi han về tiểu sử, đến ba lần. Tiếp đó, thánh Phêrô lại ra ngoài khóc sướt mướt hơn cả đá tảng chảy nước ròng, nhiều lúc. Nói thế có nghĩa: thánh Phêrô đã biết khóc ròng khi phạm lỗi.

Trình thuật, nay kể về Đức Chúa tỏ hiện với các thánh, trong đó có Phêrô thánh cả và khi Chúa hỏi thánh cả có thương Thày hơn mọi người không, thánh Phêrô thấy đau lòng tự hỏi: sao Thày mình lại hỏi thế. Bởi, dù sao, ai cũng biết thánh Phêrô thương Thày biết chừng nào.

Đọc trình thuật, người người mường tượng cảnh huống thánh Phêrô đã khóc hết nước mắt, như đá tảng chảy nước ròng, hệt như thế. Như thế là: ở đây, ta có đá tảng chảy nước ròng; và trên đá ấy, Đức Chúa Phục sinh đã tin tưởng vẫn trao ban vai trò cai quản, dựng xây chiên đàn của Chúa, là Hội thánh.

Có thể nói, không ai làm được việc ấy, mà lại không trải qua kinh nghiệm từng mất tinh thần đến tột cùng tột độ, bật thành nước. Và có thể nói: cung cách thánh Phêrô biết rõ và cảm kích Thày mình đã Phục Sinh trỗi dậy qua việc nhận ra Thày là Đấng thông hiểu lòng mình, khiến mình khóc hết nước mắt.

So sánh hai trình thuật thánh Mátthêu và Gioan kể về thánh cả Phêrô, ta thấy các vị nối nghiệp thánh cả cũng đã sẻ san công việc của đấng lãnh đạo Hội thánh, khá thích thú. Sự thật thì: lần đầu tiến đến Rôma, thánh Phêrô đã không xử sự theo cung cách của đấng bậc làm đầu như ta vẫn nhìn và trông đợi nơi vai trò của các Giáo hoàng, mọi thời đại.

Thật sự thì, từ ban đầu, Hội thánh chẳng có ý định dựng xây dinh thự gì cao cả, vững chắc. Dân con Chúa lúc ấy chỉ tụ tập quanh các “nhà-dùng làm nguyện đường”, có thế thôi. Có thể, thánh Phêrô lúc ấy cũng có giáo xứ/giáo đoàn phụ đỡ trong việc dẫn dắt nhóm hội/đoàn thể, khá bề thế. Có thể, thánh cả Phêrô cũng lập được dăm ba thày sáu giúp quản trị từ thiện hoặc huấn luyện tân tòng bằng giảng dạy. Cũng có thể, thánh Phêrô lại đã nhờ vả một hai vị để quan hệ với xã hội bên ngoài, mỗi khi cần.

Mãi đến thế kỷ thứ tư, các Giám mục kế tục ngôi giáo hoàng, mới có các “công chứng viên” chuyên trách giấy tờ và thừa-tác-vụ để liên hệ với các giáo hội địa phương. Đó là thời điểm giáo hội mình xây đền thánh Latêranô và các nguyện đường khác ở Rôma. Lúc ấy, cũng có các “Vương Cung Thánh Đường” rộn rã, nhưng độc nhất vẫn chỉ có một “Nhà Thờ Chánh Toà, mà thôi. Nhà thờ ấy, là nơi Giám mục chủ quản giáo phận sở tại; và, Vương Cung Thánh Đường khi ấy cũng tựa hồ như dinh thự của vua quan/lãnh chúa bề thế ở đời thường.

Kịp đến thế kỷ thứ 13, Giáo triều La Mã mới có vị “Chưởng Ấn” giúp quản cai Hội thánh cách hữu hiệu hơn nhiều. Vào thế kỷ thứ 14, thì vị “Chưởng Ấn” của Giáo hội đã làm việc với các nhóm/hội mang tên gọi khác nhau. Nhưng, tính từ thời gian đầu thành lập, mọi người trong đó có thể gọi thánh bộ ngoại giao như hiện nay. Các thế kỷ sau đó, lại cũng có các hồng y, tương tợ nghị viện La Mã thời cổ xưa vẫn nhóm họp một tuần những ba lần để nghị-sự và/hoặc bầu chọn các giáo hoàng mới.

Lịch sử chứng minh: nhiều vị giáo hoàng đã không ngừng giảm bớt quyền thế của các hồng y. Và, một số giáo hoàng thời đó đã rút lại cho mình quyền hành pháp, lập pháp lẫn tư pháp và ít cho phép thuộc viên/cấp dưới được kiểm soát hoặc cân bằng quyền thế với các ngài. Các vị giáo hoàng khi ấy, lại đã phấn đấu chống trả các vua quan/lãnh chúa ở đời suốt nhiều thế kỷ khi các vị này tìm cách gây ảnh hưởng lên giáo quyền.

Đến thế kỷ thứ 18 và 19, vua quan/lãnh chúa ở đời mới bị cất bỏ quyền hành hoặc uy tín giảm sút đến độ chỉ tượng trưng sau nhiều biến chuyển ở Châu Âu. Hậu quả thấy rõ nhất, là: mọi quyền bính khi ấy đều tập trung vào Hội thánh Công giáo La Mã, ở Vatican. Và Đức Giáo Hoàng cùng các thánh bộ của ngài đã tạo nên thể chế gọi là Giáo triều La Mã. Và, các triều đại Giáo hoàng quyền uy cứ thế gia tăng, bền bỉ. Nhiều bằng chứng cho thấy: tâm não người đi Đạo vẫn coi sự việc này như chuyện thực thi ý định của Chúa quyết kế nghiệp ngai vàng từ thánh Phêrô, không thể bỏ.

Ngày hôm nay, điều hay nhất cho vị thế Giáo hoàng, Giám mục và các linh mục, là: cũng nên đứng cùng hàng với đấng thánh cả chuyên khóc ròng nhưng đã biết thiết lập thánh hội của ngài thành chốn miền cảm thông thương mến, như Thày Chí Ái từng mong chuyện ấy sẽ xảy ra, ở mọi thời.

Cảm nghiệm tinh thần Chúa trao ban quyền uy cho thánh cả, ta ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Tôi vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa

Tự an ủi mình, khi cắn nổi sầu đau.

Tình một hai năm…chưa bạc mái đầu

Chưa tuyệt vọng (bởi vì chưa hy vọng)

Và hôm nay, mưa nhiều trên tóc nhuộm

Xơ xác người, tôi thấy buồn chưa tôi?

(Nguyễn Tất Nhiên – Tình Một Hai Năm)

Xơ xác người, nhưng đâu là tâm trạng của thánh cả. Thánh rất cả, dù khóc ròng/chảy nước cũng nhiều khi. Những khi và những lúc Chúa quyết định để Hội thánh nhớ mãi: đá tảng mà còn chảy nước, rất sướt mướt. Vẫn khóc ròng, nhưng không tuyệt vọng như nhà thơ đời, rất ở đời.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ Tư Phục Sinh Năm C 21-4-2013

Trời còn làm mưa vùi trên nỗi đau,”
“Lời ru ấy mãi cho u sầu.
“Bàn chân nuối tiếc thương lạc loài,
“Trời còn làm mây buồn qua mắt ai.”

(Ngô Thụy Miên – Mắt Thu)

(Rm 14: 16-17)

Vâng. “Mắt Thu”, mà bần đạo mạn bàn ở đây, hôm nay, không là “mắt ướt mùa thu: của tiên giáng trần nào đó, mà chỉ muốn nói đến tâm tình, cùng trạng huống của các cụ đang đi vào tuổi “Mắt Thu”, tức vào lúc tuổi đời có nước mắt chảy xuống nhiều như mùa Thu, thôi!

Bàn về tuổi đời đầy “Mắt Thu” này, không gì bằng ta cứ bàn và cứ luận về lời thơ/câu ca lã chã, đầy tình tiết như sau:

“Giận hờn ngày xưa còn vương mắt em,
Làn môi thắm hết ru bao chiều,
Vùng ân ái chết trong mây hồng.
Một lần vào thu mình đang có nhau,
Hàng cây lá rớt trên mi thường,
Và tay trắng đan tình với tay.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nếu bạn và tôi, ta chỉ mỗi trích dẫn lời ca/ý nhạc thôi, thì chắc hẳn lời lẽ thơ văn ta mạn bàn sẽ đẹp như tiên giáng trần, chẳng cần gì thêm. Đằng này, bàn về tuổi tác lác đác những “Mùa Thu” với “Mắt Thu”, là bàn về những chuyện sầu buồn đang xảy đến với giới chức/đấng bậc không còn trẻ nữa, và khi đó tôi và bạn, ta lại sẽ thấy vấn đề, ở ngay trước.

Vấn đề ở trước mắt, là vấn đề bắt gặp được vào những ngày kịp nghe tin Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ 16 thông báo ngài sẽ từ chức vì lý do sức khoẻ, thì sau đó, lại có bài báo trên mạng, viết về lập trường của vị Bộ trưởng Tài Chánh người Nhật là ông Taro Aso có nói với Hội đồng Cải cách An sinh Xã hội đôi lời mạnh bạo như sau:

“Thiên đàng sẽ cấm cửa không cho quý ngài vào, nếu quý ngài buộc phải sống thêm nhiều tháng ngày hơn nữa, khi mình chưa muốn chết. Buổi sáng thức dậy, tôi thấy mọi sự vẫn cứ tệ hại hơn, khi biết rằng việc chữa chạy cho cơ-thể-nay-đã-già của tôi, lại do chính phủ đài thọ hết mọi thứ. Thành thử, khó khăn tài chánh sẽ không giải quyết cho thoả đáng trừ phi quý ngài hối thúc các vị cao niên/tật bệnh hãy nhanh chân đi vào cõi chết, cho đỡ phiền.” (xem Marcus Roberts, Hey! Old People! Stop Being a Burden on The Rest of Us, MecatorNet 19/2/2013)

Tệ hại hơn, khi lời bàn của vị đại diện chính phủ Nhật Bản ở trên không muốn trả tiền cho người già/yếu sẽ không giải quyết ổn thoả, nếu “Các vị ấy không nhanh chân lên mà chết tốt”.

Nhật báo The Guardian ở Anh, lại bàn tiếp: lời của vị bộ trưởng ở trên, lại đã mang tính “xỉ vả” người già làm cho vấn đề tài chánh/an sinh của chính phủ càng thêm rối rắm; chí ít là khi con số người có tuổi trên 60 đang sống ở các nước có khó khăn về kinh tế, vẫn sợ rằng khó khăn ấy sẽ gia tăng đến 40% tính bình quân trong vòng 50 năm nữa.

Nhưng, vấn đề không phải như thế. Vấn đề là ở chỗ: sự thật ở trên lại do ông bộ trưởng người Nhật vừa mới nhậm chức nhưng nay cận kề cập tuổi 72, thế mới chết. Còn vấn đề khác nữa, là: có sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết an sinh cho người già, không phát xuất từ người nói mà lại do người nghe cứ hiểu khác đi. Trong số những người hiểu cách khác, nổi bật nhất, có ý kiến sau đây:

“Điều trớ trêu mà tôi nhận ra được từ phát biểu của ngài bộ trưởng, là ông đã thốt ra lời vào thời khắc không thích hợp với vua quan, lãnh chúa, hết mọi người. Tôi thông cảm là ông chỉ phát biểu ý kiến của riêng mình về một chọn lựa chính trị hơi khe khắt, chỉ thế thôi”;

Và ông bộ trưởng rất tài và cũng rất chánh, lại đã sửa sai lời mình nói, như sau:

“Điều tôi nói, là nói những gì tôi suy nghĩ theo ý riêng chứ không cố ý bảo rằng hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho người đang đi vào đoạn cuối cuộc đời, phải ra như thế đâu. Điều quan trọng, là quý ngài có khả năng sống những tháng ngày cuối đời mình một cách an bình hài hoà hay không, mới là vấn đề.” (x. Marcus Roberts, bđd)

Ít ra thì, cuối cùng “ông bộ trưởng” người Nhật nói như thế còn nghe được, chứ cứ thẳng ruột ngựa như lời bàn của báo chí, làm sao nuốt?

Có những tình huống trong đời, thật khó sống và có những lời bàn cũng chẳng dễ nuốt chút nào, nhưng ý/lờitựa hồ ca từ của nghệ sĩ đã diễn tả ở trên và ta nghe cũng nhiều lần, như:

“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay
Là lần em đến thăm tôi…
Em có nhớ không, một lần khi gió heo may
Mình ngồi đan giấc mơ say, giận hờn sao vẫn chưa phai.”

(Ngô Hụy Miên – bđd)

Nói rộng hơn, thì: đời người xưa nay, đâu cần dựa vào lời của ai đó, mà chỉ cần đặt căn bản vào tình người đối với nhau và với các vị cao niên đang sống với mình hoặc ở gần mình, dù các đấng ấy có quan hệ giòng họ với mình hay không, thôi.

Nói rộng hơn đôi chút, còn là nói thêm và hát thêm lời ca của nghệ sĩ ở trên để thêm ý tưởng mà bàn nhiều hơn nữa. Nói và hát, là hát và nói những lời sầu đau nhè nhẹ đến rất mau, như sau:

“Và rồi mùa thu về trong mắt em
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều
Vòng tay khép kín đôi mi nồng
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên
Cuộc tình đã chết theo thu tàn
Người về đấy xin chọn giấc mơ.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nói và hát rồi, giờ đây ta đi sâu vào phần lạm bàn có ý kiến/ý cò của nhiều vị tai to mặt lớn “trong làng” từng bày tỏ, như:

“Nam Hàn, lâu nay nổi tiếng là con rồng xanh đỏ về kinh tế, hoặc từng có nữ vận-động-viên chơi golf, ai cũng biết. Nhưng có điều ít người biết tới, là: đất nước này đang làm một điều chưa hay/chưa đẹp cho lắm, đó là: việc chăm sóc các vị cao niên của mình. Giá trị gia đình theo nho học ở Châu Á đang trên đà phá sản khi xã hội ở các nước có truyền thống này đang thi nhau tập trung vào các thành-tựu kinh-tế và cá thể, nhiều hơn trước.

Theo bài báo xuất hiện trên tờ New York Times mới đây, thì “hợp đồng xã hội” theo kiểu Khổng Phu Tử xưa nay xây dựng trên mặt bằng thật vững chắc, cho rằng: bậc cha mẹ quyết làm bất cứ thứ gì để lo cho con cái mình có được nhiều thứ  –lâu nay đã và đang tự băng hoại cuộc sống và lỡ tiết kiệm chuyện ăn mặc của riêng mình, hầu giúp con cái được học hành tử tế– nhưng cuối cùng, các vị lại đã kết thúc cuộc đời chỉ mỗi vào việc chăm sóc con cháu mình, mà thôi. Họ chẳng cần gì hệ thống an sinh xã hội; và, viện dưỡng lão ở đây cũng đã thưa thớt dần…

Hiện tượng giới trẻ Nam Hàn từ thôn làng xa xôi nhỏ bé kéo nhau về thị thành ùn ùn như nước chảy trong mấy thập niên vừa qua, khiến họ phải quần quật làm việc nhiều hơn nữa trong môi trường cạnh tranh thi đua, cốt tạo nên phép lạ cực kỳ đẹp đẽ cho hệ thống kinh tế của quốc gia họ. Cũng từ đó, bậc cha mẹ có tuổi đã bị bỏ lại đằng sau, không ai chăm sóc. Chính vì thế mà, nay đang có hiện tượng các vị cao niên xứ này đang sống trong tình trạng cực kỳ đói khổ tại các vùng sâu/vùng xa, buồn bã như thành phố ma, đầy chết chóc.

Mới đây, một cụ bà 78 tuổi đã đến trước trụ sở quốc hội Nam Hàn mở chai thuốc độc ra uống ừng ực vào bụng, để phản đối chuyện tiền an sinh/cấp dưỡng của cụ bị cắt bỏ. Giới cầm quyền lại đáp trả rằng: họ không thấy có bổn phận phải hỗ trợ cho cuộc sống của cụ, vì con rể cụ đã tìm được việc làm. Xem ra, hiện trong số các cụ có tuổi đời trên 65 đang tìm cách tự kết thúc sự sống nay gia tăng gấp bốn lần kể từ năm 2000 đến 2010, tức đang từ con số 1,161 cụ lên đến 4,378 cụ. Kể từ những ngày buồn thảm ấy, cộng thêm vào tình hình đó, lại xuất hiện cuốn tiểu thuyết mang tựa đề “Hãy trông nom Mẹ Già của tôi đi!” đang trở thành một trong các tiểu thuyết bán chạy nhất nước Đại Hàn, trong nhiều năm.” (x. Carolyn Moynihan, Korea’s Elderly Turn to Suicide as Family Bonds Fray, MercatorNet 21/02/2013)

Càng kể thêm nhiều trường hợp của các cụ già khó sống ở các nơi, càng làm cho các đấng cao niên, thích đọc sách/xem phim để giết thì giờ còn lại, càng thấy ngán ngẫm thêm. Ngán và ngẫm, vì con cái các cụ phải lo cho đàn con nheo nhóc đã thấy mệt, còn đâu hơi sức để nhớ đến bố mẹ già, nữa chứ?

Về lại tình trạng “già nua” của Hội thánh, nhân có sự kiện từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16, người đọc ở khắp nơi nay cũng thấy: Hội thánh mình đã có vấn đề về chuyện sống sao cho sinh động/hấp dẫn do số tuổi của các vị cầm đầu Giáo triều nay lên cao. Nói khác đi, thì: nhu cầu trẻ trung hoá  -ít là về lập trường tư tưởng- trong giáo triều đã được nêu lên, rất nhiều lần. Qua nhiều thời đại, chứ không chỉ từ ngày có Công Đồng Vatican II, mà thôi.

Từ thời tiên khởi, thánh Phaolô cũng từng nhắn nhủ người của Hội thánh, như sau:

“Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai

điều mà anh em cho là tốt.

Vì Nước Thiên Chúa

không phải là chuyện ăn chuyện uống,

nhưng là sự công chính,

bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.”

(Rm 14: 16-17)

Bỏ qua một bên phần bình luận về lời nhắn nhủ của đấng thánh hiền nhà Đạo, để bạn và tôi, ta có thì giờ mà tìm đến với nhận định của các đấng bậc vị vọng trong thánh hội, hôm nay.

Một trong các đấng bậc vị vọng ấy, từng viết những giòng suy niệm rất chí lý sau đây:

“Những năm về sau này, thánh Phaolô từng cảnh báo dân con nhà Đạo về cung cách nệ cổ, xưa cũ của lề luật. Như: lề thói cắt bì, và những tập tục thông thường khác của người Do thái. Trong thư gửi giáo đoàn Galát, thánh-nhân còn nói rõ: Anh em đã được giải phóng thật sự rồi, sao vẫn còn muốn trở về với lề thói xưa cũa ấy?

Khuynh hướng như thế, hiện đang xuất hiện khá nhiều trong hội thánh hôm nay. Nhiều vị trong thánh Hội vẫn muốn vặn ngược kim đồng hồ, để trở về với quá khứ. Các vị cứ muốn làm sống lại các thói tục cổ xưa. Và, còn ép buộc người khác áp dụng nó nữa. Những người như thế, có khuynh hướng dẫn đưa Hội thánh đi vào đoạn kết, một cuộc đời. Hội thánh trước nhất là cỗ xe. Là, phương tiện chuyển tải kinh nghiệm yêu thương của Đức Chúa trải dàn đến với mọi người. Và, Hội thánh muốn sống trung thực có Thần Khí Chúa ở cùng, cũng nên mở lòng mình ra với thế giới. Bởi, như thần-học-gia nọ có lần viết: “Thế giới nay đang viết lịch trình để Hội thánh mình ngang qua.”

Chính vì Hội thánh biết nghe và biết nhìn vào tình cảnh của những người không phải là Do thái đã hồi hướng trở về, nên Hội thánh biết rằng mình đang được Thần Khí Chúa dẫn dắt. Một khi Hội thánh tự đóng kín lại thành nhóm người được tuyển chọn rồi cứ ngồi ở trên mà phán xuống cho thế giới thi hành, thì khi ấy Hội thánh không còn là thánh hội, do Chúa thiết lập nữa.” (x. Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài)

Ngoài ra, có vị lại vin vào các hành xử sai trái của một số giáo sĩ ở vài nơi để gán cho Hội thánh cái tội lòng vòng, không dứt khoát, rồi đặt vấn đề:

“Kể từ ngày có sự việc Giuđa Iscariốt bán Chúa, phản Thầy, các hành xử đầy sai phạm của một số giáo sĩ trên thế-giới đã làm phiền lòng Hội thánh. Thế nhưng, thẩm quyền đạo đức của Hội thánh không dựa trên hành xử của cá nhân nào trong hàng ngũ giáo sĩ và/hoặc giáo phẩm, nhưng dựa trên sứ điệp của Đạo. Sứ điệp ấy, là Lời dạy của Đức Kitô nếu được tuân giữ, cuối cùng rồi cũng giúp đỡ con người vượt qua mọi sơ xuất của chính mình để đạt tình trạng lành thánh. Cho đi là con người luôn yếu đuối thấy rõ, điều làm mọi người ngạc nhiên không phải là hỏi rằng có bao nhiêu vị giáo sĩ từng sa ngã mà là con số ấy ít như thế nào. Từ góc cạnh thần học nào đó, cả trăm cả ngàn người phạm lỗi đã chứng minh rằng Hội thánh vẫn là con người bằng xương bằng thịt như bất cứ thể chế nào khác, trên thế giới. Và, có vị thánh hiền nhà Đạo từng chứng minh rằng điều đó chứng tỏ Thần Khí Chúa đã và đang hiện diện với Hội thánh, trong Hội thánh….

Tác giả Ruth Grant thuộc Đại Học Duke có lần tuyên bố trong cuốn sách do bà viết về đề tài “Giả Hình và Chính Trực”, rằng: “Làm điều phải lẽ, đôi khi cũng đòi nhiều nhượng bộ. Một số nhượng bộ có thể thực hiện được mà chẳng cần nhượng bộ các chính trị gia nào hết. “Làm điều phải lẽ” cũng có thể đòi mình phải dối trá hoặc có tư thế nào đó về đạo đức, hoặc cả hai. Lại cũng có loại giả hình được chấp nhận hoặc khen thưởng cách tuyệt vời nữa là khác.(xem Michael Cook, Scotland’s Spiritual Scandal, MercatorNet 9/3/2013)

Nói về Hội thánh trong lúc này, mà lại đề cập chuyện “Chính trực và Giả hình” theo kiểu nhà mô phạm, có lẽ cũng phải mất khá nhiều trang giấy. Thôi thì, đề nghị bạn đề nghị tôi, ta về lại với thi ca/âm nhạc để có thêm nhiều giây phút tưởng nghĩ về giòng chảy tâm tình, nhiều người hát:

“Làm tan biến giấc mơ hoang đường

Rồi buồn trôi theo giòng mưa xuống.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nghĩ lại rồi sẽ thấy, giấc mơ về Hội thánh không phải là “giấc mơ hoang đường” bị tan biến, thế cho nên, ta cũng chẳng sợ sự việc “trôi theo giòng mưa xuống”, cũng rất buồn. Thật ra thì, có buồn hay sợ tan biến cho lắm, thì Hội thánh vẫn là thế. Vẫn là hội của các vị tuy là thánh những vẫn còn là người, với niềm vui, nỗi buồn.

Nghĩ đến đây, bất chợt bần đạo nhận được một truyện kể, do bạn bè/người thân đề nghị sử dụng là câu truyện để mình hoạ cho tình thế của Hội thánh, thời bây giờ. Truyện để kể, như sau:

“Có thanh niên nọ lên núi tìm kiếm sĩ lừng danh để học về kiếm thuật. Anh hỏi vị sư phụ đang dạy mình, rằng:

-Thưa thày, nếu con luyện tập chuyên cần thì phải bao lâu mới thành kiếm sư?

-Có lẽ đến 10 năm!

-Cha của con nay đã già và con phải chăm sóc ông. Nếu con luyện tập chuyên cần hơn nữa, thì mất bao lâu?

Sự phụ của thanh niên ấy suy nghĩ một lúc, rồi nói:

-Trường hợp này, có lẽ phải mất 30 năm.

Anh thanh niên không giấu được vẻ nôn nóng, bèn nói tiếp:

-Trước, thì thầy bảo phải 10 năm, bây giờ lại 30 năm. Con sẽ vượt qua mọi trở lực để nắm vững kiếm thuật với thời gian ngắn ngủi nhất.

-Thế thì anh cần phải ở lại đây 70 năm nữa…

Vị sư phụ cứ thế mỉm cười nhìn đệ tử nôn nóng ra đi.”

Kể xong câu truyện về tính nôn nóng của người đệ tử muốn thành đạt rất mau chóng, người kể bèn có lời bàn thêm rằng: Học kiếm thuật mà người thầy còn đòi đệ tử mình phải có sự kiên nhẫn đến như thế, huống hồ chuyện Hội thánh cần nhiều thời gian và huệ lộc để tu luyện con dân mình, còn gay go đến thế nào. Thế nhưng, vẫn còn đó, con đường dài để mọi người mở rộng lòng mình ra mà đón Thần Khí Chúa đến với mình mà tu luyện. Rất nhiều năm.

Nghĩ thế rồi, tưởng cũng nên mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp đôi câu trong bài hát vừa trích dẫn để lại suy thêm về tình người, tình mình, rất như sau:

“Em có nhớ không, một lần khi lá thu bay
Là lần em đến thăm tôi…
Em có nhớ không, một lần khi gió heo may
Mình ngồi đan giấc mơ say, giận hờn sao vẫn chưa phai.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Nghe và hát thế rồi, bần đạo lại sẽ tiếp tục nhìn về phía trước, sẽ thấy đời mình và đời của thánh hội còn trải dài trước mắt, nhiều nhắn nhủ. Rất như thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Đôi lúc thấy mình cũng nên

tự nhắn nhủ mình

bằng giòng chảy tư tưởng ra như thế.