Phước và Họa

Phước và Họa
***********************

Photo

Quan niệm, nhận thức của con người về phước (phúc) và họa hay may và rủi, được và mất, lợi và hại rất chủ quan. Bản chất của phước, họa cũng như mọi điều khác trong thế giới sự vật, hiện tượng từ vật chất cho đến tinh thần đều là duyên sinh, không có thực thể, thực tướng.
Một người đi trễ chuyến xe, tự cho là mình rủi. Nhưng ngày hôm sau đọc báo, thấy chuyến xe mà mình đi hụt bị rơi xuống vực sâu. Bấy giờ người ấy không còn thấy sự trễ xe hôm trước là rủi nữa, trái lại còn cho đó là may, vì nhờ đi hụt mà còn sống sót.
Thấy một người đàn ông cưới được cô vợ vừa đẹp lại vừa giàu sang, ai cũng trầm trồ khen ngợi, ước ao, cho rằng anh ta có phước. Nhưng chẳng bao lâu người đàn ông nọ và vợ dắt nhau ra tòa ly dị vì cô vợ sinh lòng lang chạ và sa đọa trong ăn chơi trụy lạc. Khi ấy người ta lại tặc lưỡi bảo nhau: Anh này thật vô phước!
Có người trúng vé số độc đắc được mấy tỷ đồng, ai cũng nghĩ rằng phước phần của anh ta đã đến. Không ngờ chính vì có số tiền quá to ấy mà anh ta sinh tật: đua đòi, hưởng thụ, đam mê cờ bạc rượu chè, đi sớm về khuya, vợ bé vợ mọn; vợ chồng anh ta vì tranh chấp tiền bạc mà bất hòa, vì chuyện anh lăng nhăng bên ngoài mà kéo nhau ra tòa ly dị; con cái ỷcó tiền của mà bỏ bê học hành, chỉ lo ăn chơi phóng túng. Còn nhiều trường hợp khác vì trúng số mà anh em, bạn bè trở mặt nhau; vì trúng số
mà bị giết hại do cướp vào nhà, do người tình phản bội…
Vậy người đi hụt chuyến xe kia là rủi hay may? Có được người vợ đẹp và giàu như anh chồng kia là họa hay phước? Và trúng số như những người nói trên là nỗi lo hay điều đáng mừng?
Tùy theo cái thấy, sự nhìn nhận, tùy theo duyên mà người ta cho đó là phước hay họa, nó luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, phước chuyển thành họa, họa chuyển thành phước, vừa là phước lại vừa là họa. Người xưa thường bảo: “Trong họa có phước, trong phước có họa”, nhưng kỳ thực họa phước do duyên, có nghĩa là do điều kiện, do hoàn cảnh, do sựnhìn nhận nó như thế nào, tùy theo duyên mà nó được xem là phước hay họa. Các bậc cha mẹ có con mắt tinh đời khi thấy con mình ra đời lập nghiệp, tuổi còn trẻ mà thành công quá sớm thì vừa mừng vừa lo. Mừng vì con
thành công trong cuộc sống, lo vì con thành công sớm quá sẽ sinh tâm tự phụ,
kiêu căng. Tuổi còn trẻ chưa từng trải, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, chưa hiểu đời nhiều, vì thế nếu thành công quá dễ dàng sẽ sinh tâm chủ
quan khinh suất, như thế sẽ dễ mắc phải sai lầm đưa đến sớm thất bại, dù buổi
đầu có thành công nhưng không thể thành công lâu dài, sự nghiệp khó bền vững.
Hơn nữa vì sớm thành công nên tâm cao khí ngạo, tự phụ kiêu căng, từ đó có thái
độ, hành vi coi thường người khác, dễ va chạm và làm mất lòng mọi người, từ đó
sẽ có nhiều người bất mãn, chống đối, đó cũng là nguyên nhân thất bại.
Có nhiều phụ nữ lấy được chồng đẹp trai lại giàu có, về nhà chồng chỉ việc làm vợ làm mẹ, mọi thứ khỏi cần bận tâm. Bạn bè đồng trang lứa thấy thế cho rằng họ có phước quá, ai cũng ước ao mình được như thế. Nhưng cha mẹ của những cô gái được xem là diễm phúc kia thì có người băn khoăn: “Chồng hào hoa, đẹp trai thì có nhiều người mến mộ. Nếu nó có thêm tánh phong lưu bay bướm, không chung thuỷ thì con gái mình sẽ khổ”, “Ăn ở không, được chồng nuôi chưa hẳn là có phước. Sống lệ thuộc
không làm chủ được bản thân chắc chắn sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Thà ra ngoài
làm việc để có cơ hội khẳng định mình, có khả năng tự lập, có điều kiện rèn luyện, trau giồi bản thân, có thêm kiến thức, kinh nghiệm, có thêm niềm vui trong cuộc sống”. Cách nhìn về phước, họa của mỗi người mỗi khác, tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh, tùy thuộc quan niệm, lối sống, kinh nghiệm, hiểu biết v.v…
Một nghệ sĩ nổi tiếng trong làng giải trí nói trên báo rằng, từ khi ông bán đi mấy chiếc xe hơi thì thấy thanh thản, thoải mái hơn. Bây giờ mỗi khi đi đâu chỉ cần gọi taxi hoặc xe ôm là được. Lúc còn mấy chiếc xe hơi phải thuê người lái, đi đến đâu
phải tìm chỗ đậu xe cũng mệt. Thỉnh thoảng bị tài xế làm khó dễ để vòi tiền.
Khi gặp bạn bè hay đi tiệc tùng thì lại nghe những lời bàn tán về xe, họ bình
luận, so sánh, chê khen, nào là xe này đẹp, xe kia không đẹp; xe này sang, đắt
tiền, xe kia thuộc hạng xoàng rẻ tiền; xe này sành điệu, thời thượng, xứng
tầmđại gia, xe kia lỗi thời, cổ lỗ v.v… Nghe những chuyện như thế rất mệt.
Có người nghe ông nghệ sĩ kia nói thế thì cho rằng ông ta “giả bộ”, nói không thật bụng, có xe sướng quá mà làm bộ than phiền. Đâu phải ai muốn có xe hơi cũng được. Người chưa từng có xe hơi thì nghĩ có xe hơi là “ngon lành” lắm, sung sướng lắm, có phương tiện tốt để đi lại, hãnh diện với bạn bè. Nhưng người có rồi thì cảm thấy có xe cũng thêm nhiều phiền phức, cũng vướng bận thêm vì phải lo có chỗ đậu mỗi khi đến
đâu, phải lo giữ gìn, bảo quản, lo chiều lòng tài xế, lo bà con, bạn bè buồn khi hỏi mượn mà mình không cho, mà cho muợn thì không yên tâm lắm (rủi xảy ra tai nạn hoặc hư xe thì cũng khổ)…
Đối với vấn đề họa phước, người trí bình thản, an nhiên, không để nó làm dao
động tâm mình, chỉ xem nó như mây trôi, gió thoảng. Nhìn mây trôi ngang qua
trời, nghe gió thoảng qua bên tai, chỉ thấy thế, chỉ nghe thế, biết thế thôi,
không cần bận tâm, không cần nghĩ ngợi, không vui buồn vì nó. Phải tập như thế,
phải tu sao cho được như thế (dù là pháp môn nào) thì tâm mới được tự tại, an
vui, không buồn không lo, không khổ não.
Tâm bình thản, an nhiên, khôngđiều chi có thể làm bận lòng, như thế không phải là người vô tri, không phải là người vô tâm, vì vẫn hay vẫn biết, vẫn thấy, vẫn sống và hành động dưới sự soi sáng của tuệ giác nhưng tùy duyên, không miễn cưỡng, gượng ép, không vướng mắc, không bị buộc ràng, hệ lụy.
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng việc Đề Bà Đạt Đa lăn đá và xua voi dữ giết hại mình là họa. Đức Phật cũng chưa bao giờ cho rằng việc Ngài được vua Bình Sa cúng cho vườn tre Trúc Lâm, được ông trưởng giả Cấp Cô Độc cúng khu đất để xây tinh xá Kỳ Viên, khu đất mà ôngđã mua với số tiền vàng trải đầy trên mặt đất, và được hoàng thân Kỳ Đà cúng cho vườn cây trên mảnh đất này là phước. Tâm Phật không hề dao động trước nhữngđiều xảy ra đó, Ngài không mừng khi được cúng dường, tán dương khen ngợi; không lo không buồn khi bị chống đối, hãm hại, Ngài bình thản, an nhiên, tự tại.
Cũng như trong âm có dương, trong họa có phúc và ngược lại
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có. Nhưng người vô trí thì biến cái mà thế gian cho là phước thành họa. Ví dụ Đức Phật đã biến sự chống đối, dã tâm làm hại Ngài của Đề Bà Đạt Đa thành cơ hội khảo nghiệm, thành thử thách giúp Ngài thành tựuđạo hạnh, viên mãn công đức.
Một người con có tài trí, có nhân phẩm, đạo đức tốt biết tận dụng tài sản do ông cha để lại (phước) để xây dựng hạnh phúc cho mình, phát triển sự nghiệp bản thân, làm ích nước lợi nhà. Nhưng ngược lại, người con bất tài vô trí, nhân phẩm đạo đức kém sẽ ỷ lại vào gia sản của ông cha để lại mà ăn chơi phóng túng, sa đọa trụy lạc, kết cục
anh ta biến cái phước (có nhà cao cửa rộng, có tài sản, sự nghiệp) thành ra cái họa.
Người có tài năng, có đức độ, có chí hướng, biết siêng năng cần mẫn, dù sinh ra trong hoàn cảnh cùng  khổ, khốn đốn (kém phước), họ vẫn vươn lên và đạt nhiều thành công trong cuộc sống. Đó là vì họ biết tận dụng hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt để rèn luyện mình, nuôi dưỡng chí hướng phấn đấu vươn lên. Họ đã chuyển sự không may (hoàn cảnh kém phước) thành điều hạnh phúc. Cũng như người biết xử lý rác thải có khả năng biến đống rác bỏ thành những vật dụng trong nhà, có thể dùng rác để tái chế ra những sản phẩm mới. Nhưng người vô trí, không biết sử dụng thì có thể biến những sản phẩm mới thành ra đống rác.
Họa hay phước là do chúng ta. Bản chất của họa phước vốn không có thực, chúng là pháp duyên sinh, không có thực thể, thực tướng. Cái phước thật sự, lớn nhất là khi làm chủ được tâm mình, không bị những thành bại, được mất, hơn thua làm cho bận lòng, làm cho phiền não.

Hồ Như…

Có đôi lúc ta ngỡ mình ngọn núi

Trên thân đầy cây cỏ với ngàn hoa.
Cũng có khi ta ngỡ mình con suối
Cùng chim rừng hòa âm điệu, hoan ca..
Có đôi khi ta ngỡ mình như đá
Nằm im lìm mặc rêu phủ thời gian.
Một lần kia, thấy phận mình như bụi
Bay trong chiều hồn sa mạc khô khan.
Và có khi ta ngỡ mình hạt nắng
Giữa tim người cổ mộ đóng nghìn năm.
Rồi thi thoảng phiêu du là cơn gió
Hương Từ bi ta quyện đến xa xăm..
Một lần nọ ta thấy mình như biển
Hát ru đời ca khúc Hải Triều Âm.
Rồi lẳng lặng ta làm con sóng nhỏ
Hòa đại dương… thôi chuyển biến, thăng trầm.
Bao la đời…, không còn chút vọng âm.
Bodhgaya chớm Đông 2012

Th Tánh Tuệ

Anh Nguyễn văn Thập gởi

Thánh Lucia

Thánh Lucia

(c. 304)

13 Tháng Mười Hai

Các thiếu nữ có tên thánh là Lucia chắc phải thất vọng khi muốn tìm hiểu về vị
thánh quan thầy của mình. Các sách cổ viết dài dòng nhưng rất ít chi tiết liên
hệ đến truyền thuyết. Các sách mới đây cũng dài dòng dẫn chứng một sự kiện là
những truyền thuyết này không có trong lịch sử. Chỉ có một chi tiết về Thánh
Lucia còn sót lại đến ngày nay, đó là người cầu hôn với thánh nữ vì bị từ chối
nên đã tố cáo ngài là Kitô Hữu, do đó ngài bị xử tử ở Syracuse thuộc Sicily vào
năm 304. Nhưng cũng đúng là tên của thánh nữ đã được nhắc đến trong lời cầu
nguyện Rước Lễ Lần Ðầu, có những địa danh và một bài dân ca mang tên thánh nữ,
và qua bao thế kỷ, hàng chục ngàn thiếu nữ đã hãnh diện chọn ngài làm quan
thầy.
Cũng dễ để hiểu những khó khăn của một thiếu nữ Kitô Giáo khi phải chiến đấu trong một xã hội trần tục như ở Sicily vào năm 300. Cũng tương tự như xã hội ngày
nay, nhiều thói tục của xã hội đã ngăn cản chúng ta sống xứng đáng là người
theo Ðức Kitô.

Các bạn bè của Lucia có lẽ cũng ngạc nhiên về Ðấng mà Lucia yêu quý, đó là một
người đi rao giảng khắp nơi, sống trong một dân tộc nô lệ và đã bị tiêu diệt
cách đó 200 năm. Người từng là một người thợ mộc, từng bị chính dân của Người
kết án và chết trên thập giá. Với tất cả tâm hồn, Lucia tin tưởng rằng chính
Người đã sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa đã minh chứng tất cả những gì Người
nói và hành động. Ðể làm chứng cho đức tin ấy, thánh nữ đã thề giữ mình đồng
trinh.
Thật là một điều khôi hài đối với các bạn ngoại giáo của thánh nữ! Giữ mình trong
trắng trước khi thành hôn là một lý tưởng cổ hủ của người Rôma, ít người còn
giữ nhưng không ai kết án lý tưởng ấy. Tuy nhiên, ngay cả cô ta không muốn kết
hôn thì điều đó thật quá đáng. Chắc cô ta phải có điều gì xấu xa cần giấu diếm,
như miệng lưỡi thế gian thường đồn đãi.
Chắc chắn Thánh Lucia đã nghe biết về nhân đức anh hùng của các vị đồng trinh tử
đạo. Ngài muốn trung thành với tấm gương của các đấng ấy, cũng như theo gương
của người thợ mộc, là Người mà ngài tin là Con Thiên Chúa.
Lời Bàn
Nếu bạn chọn Thánh Lucia làm quan thầy thì đừng thất vọng. Vị quan thầy của bạn
thực sự là một nữ anh thư, hơn hẳn mọi người, là một hứng khởi vô tận cho bạn
và cho mọi Kitô Hữu. Sự can đảm sống luân lý của người thiếu nữ Sicilian tử đạo
ấy đã tỏa sáng như để soi dẫn giới trẻ ngày nay cũng như giới trẻ trong thời
đại ấy.
Maria Thanh Mai gởi

Một tân tòng giữ lời hứa với Đức Mẹ

Mt tân tòng gi li ha vi Đc M

Phan Văn Sỹ

12/11/2012
nguồn: Vietcatholic.net

Rửa Tội Cho Một Tân Tòng Trong Cơn Nguy Kịch hay Người Thợ
cuối cùng Vườn Nho Nhà Chúa “

Vào lúc 4:00 PM. Ngày 6 Tháng 12 năm 2012, những ngày bước vào Mùa Vọng, cha Giám Đốc Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas Giuse Đồng Minh Quang cùng một số anh chị em thuộc hai Hội Đòan Các Bà Mẹ Công Giáo và Hội Hồn Nhỏ thuộc Cộng Đòan Đức Mẹ La Vang đã đến nhà anh Hồ Long tại số 5592 W. Twain Avenue
Las Vegas NV. 89103 để cùng tham dự buổi lễ Rửa Tội đặc biệt cho anh Long.

Anh Hồ Long bị bệnh ung thư phổi giai đọan ba, bác sĩ điều trị đã bó tay không
thể chữa trị vì ung thư lan rộng khắp nơi, lên cả não bộ. Anh gọi điện thọai
cho chúng tôi ngỏ ý muốn theo đạo. Anh kể lại khi còn ở Việt Nam, nhiều lần đến
nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng và khấn xin nhiều việc tại núi Lộ
Đức. Anh được Đức Mẹ nhận lời, anh hứa với Đức Mẹ nếu anh nhận được những ơn Mẹ chuyển cầu, anh sẽ theo đạo.

Cuộc đời dong duổi bôn ba nhiều nơi, nay qua đến nước Mỹ, đã nhiều lần anh đến
tham dự Thánh Lễ tại Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas. Lời hứa năm xưa vang vọng
trong tâm khảm anh, không ngờ anh lại gặp lại Mẹ năm xưa tại Đền Thánh. Anh ao
ước được rửa tội để theo đạo như lời anh đã hứa với Mẹ năm xưa, vì anh rất mến
yêu Mẹ và biết ơn Mẹ vì những ơn Mẹ chuyển cầu trao ban.

Cha Giám Đốc đã nhờ một số anh chị em trong Hội Hồn Nhỏ và Các Bà Mẹ Công Giáo
đến gặp gỡ anh và hướng dẫn anh về giáo lý cũng như phép đạo, biết là anh bệnh
nặng, khó qua và không thể kéo dài việc hướng dẫn. Ban Giáo Lý sau hai lần đến
thăm và hướng dẫn anh rồi về trình cha Giám Đốc xin quyết định, vì sức khỏe anh
càng ngày càng suy sụp, sợ anh ra đi sớm, không kịp cứu linh hồn anh. Cha Giám
Đốc đã quyết định hôm nay đi cùng một số giáo hữu đến để cử hành Bí Tích Rửa
Tội cho anh.

Điều cảm động nhất là sau khi Rửa Tội, cha Giám Đốc hỏi anh có gì muốn nói không ? Anh súc động kể hành trình gặp gỡ Mẹ khi ở Việt Nam đến Dòng Chúa Cứu Thế để khấn xin ơn và được Mẹ nhận lời. Anh nói nguyện sẽ theo và giữ đạo suốt đời, nguyện xin Vâng như Mẹ để theo Chúa, mặc dù cuộc sống rất vắn vỏi. Khi anh chị em ban Giáo Lý đến hướng dẫn anh, tặng anh bức tượng Đức Mẹ có giây đeo, anh vui mừng kính cẩn chòang đeo ngay vào cổ như nhận được một báu vật quí giá anh yêu mến.

Thấy đức tin của anh và lòng yêu mến Đức Mẹ của anh, hai Hội Hồn Nhỏ và Các Bà
Mẹ Công Giáo đã chung mua bức tượng Đức Mẹ La Vang đem đến nhà tặng anh. Cha
Giám Đốc sau khi rửa tội cho anh đã làm phép bức tượng và trao bức tượng cho
anh, anh kính cẩn, trân quí ôm trên lòng, mặc dù sức khỏe thật yếu, không nâng
nổi đầu lên để nhận phép rửa tội.

Sau nghi thức rửa tội, mọi người ra về và dâng lời nguyện xin cho anh: “ Xin cho anh được ơn chữa lành hoặc vâng theo thánh ý Chúa “. Trên đường về Đền Thánh Mẹ để cùng nhau tham dự giờ chầu Thánh Thể và hiệp dâng Thánh Lễ, chúng tôi vẫn tiếp tục dâng lời cầu nguyện cho anh và chia mừng với anh vì anh là người thợ vườn nho cuối cùng vẫn được nhận lãnh 1 đồng tiền công như người thợ làm vườn từ sáng sớm./.

Mùa Vọng năm 2012

Phan Văn Sỹ

Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979
đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ
cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm
trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám
ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao
lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một
phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không
có gì để ăn”.

Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta
biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng
càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.

Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.

Anh chị Thụ & Mai gởi

và Từ hnkimnga

Học cách quên

Học cách quên

Đời người không phải lúc nào cũng được như ý, muốn bản thân vui vẻ, đôi khi việc giảm áp lực cho chính mình là điều cần thiết và cách để giảm áp lực tốt nhất chính là học cách quên, bởi trong cuộc sống này có những thứ cần nhặt lên và bỏ xuống đúng lúc.

Cuộc đời con người giống như một cuộc hành trình dài, không ngừng bước đi, ven đường nhìn thấy vô vàn phong cảnh, trải qua biết bao những gập ghềnh, nếu như đem tất cả những nơi đã đi qua đã nhìn thấy ghi nhớ hết trong lòng thì sẽ khiến cho bản thân mình chất chứa thêm rất nhiều gánh nặng không cần thiết.

Sự từng trải càng phong phú, áp lực càng lớn, chẳng bằng đi một chặng đường quên một chặng đường, mãi mãi mang một hành trang gọn nhẹ trên đường.

Quá khứ đã qua, thời gian cũng không thể quay ngược trở lại, ngoài việc ghi nhớ lấy những bài học kinh nghiệm, còn lại không cần thiết để cho lòng phải vướng bận
thêm. Sẵn sàng quên đi là một cách cân bằng tâm lý, cần phải chân thành và thản
nhiên đối mặt với cuộc sống.

Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để
trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình
, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác. Rất nhiều người thích câu thơ : “Xuân có hoa bách hợp, thu có trăng. Hạ có gió mát, đông có tuyết”.

Trong lòng không có việc phải phiền lo mới chính là mùa đẹp của nhân gian.

Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp.

ST

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:46 Sáng 12/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (12.12.2012) – Sài Gòn – Cần Giờ 15/6/1990

Anh Lan, chị Vân và bé Chi Thương,

Ngày mai, 16/6/1990, chúng ta ăn  mừng “đầy tháng” đó. Phải, chúng ta mừng vì đã sống cho Giáo hội và cho dân tộc, mình được bằng khen do miệng Caipha như anh nói: ngày họ đọc lệnh quản chế và lục soát nhà anh, ngày họ trục xuất tôi ra khỏi “hội đường” Kỳ Đồng, ngày chị Vân được giấy cho nghỉ việc vì lý do những gì xảy ra ngày 16/5, mặc tổ Tin đã nói lên tình thương và cảm phục của tất cả các tổ viên đối với chị Vân. Như vậy, mình không vui sao được, không mừng sao được. ngày mai tôi sẽ đồng tế “chui” với anh Điệp (mình dự lễ như một giáo dân và dâng lễ) để tạ ơn Chúa cho
chúng ta. Và sau đó sẽ mở chai rượu cabernet anh gởi cho hôm nọ, để cụng ly
mừng ngày “đầy tháng”. À rượu cabernet của anh, như vậy chứng minh tôi điều độ
lắm đó: bữa ăn trưa có 3 người mà có 2 lon bia. Bữa ăn tối, một ly nhỏ rượu nếp
than của anh Điền TS Châu gửi biếu. Anh thấy tôi ngoan chưa? Thôi chúng ta trở
về với những chuyện nghiêm túc hơn. Hôm nay, đọc lại không biết lần thứ mấy lá
thư 31/5 và 4/6 anh gửi cho tôi, cũng như lá thư 3/6 anh gửi cho bé Lan Chi.

Trước hết, khi đọc những đoạn nói về những buổi “làm việc” kéo dài ngày này qua ngày khác của bạn hữu ta cũng như việc nhốt cachot “bé bự D.” Trong khi đó không hỏi “thủ phạm” chính một câu nào, thì rõ là giận cá chém thớt, hành hạ những người bạn của ta vô tội như ta. Có người bảo một nhân vật nào đó trong chính quyền nói rằng CT giăng bẫy để nhốt CT mà họ không mắc bẫy, họ chỉ cho về nhà Dòng Chúa Cứu Thế Duyên Hải. Tôi chắc tất cả các bạn đã chấp nhận chia sẻ với anh em ta.

Với ngày 16/5, vị trí của anh em ta trong lòng Giáo hội và dân tộc càng rõ nét đối với mọi người xa gần… Trong nước cũng như nước ngoài, ngoại cũng như đạo, đảng viên cũng như không đảng viên. Tôi tạm gọi anh X, Y, Z người có tên trong thư (cả 3 đảng viên): “Cha ơi biết nói gì đây, khi chúng con để cho cha, một người cha 70 tuổi, suốt đời chỉ vì tình thương đối với con người mà phải sống cảnh đày ải như hôm nay? Anh em luôn luôn nghĩ và hiểu về cha, xem cha là cha của mình. Cha can đảm vì bên cha
còn bao nhiêu tấm lòng, bao trái tim luôn luôn nhớ đến cha. Anh Z đã nói về cha
đã khóc với con, nước mắt của anh Z là nước mắt của chúng con. Không thể nói
nhiều nhưng cha hiểu chúng con luôn luôn nghĩ đến một xã hội có tự do, có hạnh
phúc và phải làm cho bằng được điều đó, nếu không thì có tội với bao thế hệ mai
sau. Cha an tâm và giữ gìn sức khỏe. Ba mẹ và X đòi đi thăm cha, nhưng anh em
không cho. Hôn cha ngàn cái hôn yêu thương và cảm phục.” Y.

Đọc thư trên, tôi không cầm nổi nước mắt. Khóc vì tình thương của con người ngoại đạo dành cho tôi và anh, cho tất cả những ai “thụ nạn” vì nhân dân. Khóc vì mừng có những người thiện tâm như X, Y, Z trong những đảng viên. Có khác với bà giám tỉnh nào đó anh nói trong thư.

Rất hiên ngang và rất thương “người cộng tác đắc lực” của anh và như thế cũng là của tôi. Xin dành sự cảm phục và tình thương có thể có được cho chị Vân. Nhất là dành cho chị nhiều kinh nghiệm để chị cứ công tác đắc lực cho anh và cho tôi. Ngoài kinh Phụng vụ, tôi suy gẫm Lời Chúa (từ ngày về suy niệm Thư Galát và Philip) liên qua đến thánh Phaolô bị đày và tù tội, tôi cầu nguyện cho anh, cho chị Vân, cho bé Chi cũng đang tù tại gia, cũng như cầu cho tôi, người tù tại gia với người “cai tù” nhân hậu là anh Điệp, tương tợ thánh Phaolô ở Rôma. Phaolô ở hai năm như vậy, trước khi bị chém đầu ở Trefontane. Tôi không biết tôi có vượt Phaolô về năm tháng hay không.
Nhưng, như tôi đã viết cho anh: lúc nào họ trả tự do cho người “cộng tác”, “thủ
phạm” chính mới có quyền ra khỏi chốn tù đày.

Thấy anh, “người cộng tác đắc lực” phải đi làm việc mỗi tuần với “bạn dân”, trong khi tôi không ai hỏi một câu, trừ vụ công an đến nhà thờ yêu cầu tôi không được làm lễ và giảng (tôi chủ tế và giảng ngay ngày 16/5, lúc mới xuống Duyên Hải và trong 4 ngày đầu), tôi rõ không muốn bịt miệng tôi và khủng bố bạn bè và “người cộng tác đắc lực”.

Hôm nọ, được thư anh VKP cho biết: “Ở Hà Nội, nói chung là dè dặt kể cả các vị có uy tín như cha Oánh… cho rằng không nên nói mạnh làm gì (điều này trước 16/5). Ở Bắc Ninh và Hải Phòng thì lại có vẻ rất nhiệt tình đối với tôi và anh. Đức cha Cương nhờ VKP chuyển lời với anh: “Tôi không được quen ông, nhưng rất hoan nghênh ông.” (Những vụ  tiếp xúc với BN và HP đều trước 16/5). Đó là phía giáo sĩ. Giáo dân Hà Nội rất nhiệt tình, chuyền tay nhau bản tin của báo nhân dân và xuýt xoa. Đến bây giờ thì có những người lúc thường không mấy để ý đến vấn đề này, nhưng từ nay “cầu nguyện cho cha Chân Tín” đều đều. Có người thuộc thành phần tích cực thì phát biểu:
“Lúc này mà các giám mục không lên tiếng thì chờ lúc nào?”

Nhân đám tang Hồng Y Căn. VKP có gặp Đức Tổng ở Hà Nội. Anh nói với ngài “Mấy hôm nay Đức Cha có điều gì buồn phiền không?”

– Tôi buồn phiền lắm chứ. Giáo dân nó viết thư đến TGM phê bình tôi không lên tiếng như Đức Cha Điền, Đức Cha Thuận, thật các cha Dòng Chúa Cứu Thế làm tôi tổn thọ quá.

– Đức Cha tính lên tiếng như thế nào?

– Tôi biết lên tiếng làm sao bây giờ? Thôi để tôi về Sài Gòn, rồi bàn với mấy cha xem sao.

Đức Cha im tiếng (chắc đã về Sài Gòn bàn với mấy ông Đoàn kết), UBĐKCGYN cũng im tiếng tuyệt đối. Tờ Công giáo và Dân tộc không những im tiếng mà còn đi dự cấm phòng các linh mục ngóng xem cụ Lịch sẽ thông tin như thế nào. Đủ loại tin tức bên Tây, bên Bỉ. Nhưng không có một tiếng về vụ Chân Tín. Cho tới bây giờ chưa có gì mới.

Hôm cha Điện đến cứu đói với quận 10 có ghé nghỉ mưa và có nói: trong buổi họp 50 linh mục, tu sĩ, giáo dân, cụ Lịch có hỏi hai câu: “Ông Lan cộng tác đắc lực có cái gì rõ ràng không? Ông CT thanh minh hôm Chúa nhật về việc ông giảng về sám hối có làm chính trị không?” Điều này không biết cụ Điện có nói đúng hay không? Nhưng thái độ im lặng mà anh P nói là cái im lặng đồng lõa với những ai bắt bớ anh em ta.

Hôm nọ anh Điệp lên Đức Tổng, để yêu cầu ngài can thiệp, lên tiếng. Nhưng tôi cản. Dù vậy, khi anh Điệp lên có việc, thì Đức Tổng hứa sẽ về Duyên Hải thăm tôi. Có đi thì hỏi Ban Tôn Giáo và mấy ông Đoàn kết? Mình cũng không mấy muốn ngài xuống thăm.

Chúc anh chị, cháu Chi bình an trong Chúa.

 

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 22-24)

 

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

(Trích tập san GHXHCG số 4)

►Mẩu Bút Chì

nguồn: conggiaovietnam.net

Người ta thường bảo rằng những người tân tòng được Chúa đặc biệt yêu thương. Đó là một màu nhiệm, tôi không hiểu thấu. Nhưng tôi biết chắc một điều: tôi là một tân tòng và tôi được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi.

Tôi biết Chúa khi đã trưởng thành, đó là ơn Người ban cho tôi theo nghĩa Người cho tôi có cơ hội trải nghiệm hai trạng thái tâm linh: Sống chưa biết Chúa và sống có Chúa.

Khi chưa biết Chúa, tôi chưa biết khái niệm “dấn thân”, chỉ biết “ở hiền gặp lành”, “làm phước gặp may”, “bố thí’, “từ thiện”…, nghĩa là mở lòng THI ÂN với đời.

Khi đón nhận bí tích thanh tẩy, quả là tình thương và ân sủng Chúa đổ đầy hồn xác tôi. Chúa gần tôi như hơi thở. Người nghe lời thủ thỉ của tôi và tỏ hiện cho tôi biết lòng thương xót của Người. Đã có thời tôi khao khát: nếu chưa lập gia đình, tôi nguyện sẽ
đi tu. Tôi đắm chìm trong nguyện cầu, Thánh Lễ,  Lời Chúa và sự hướng tâm nên Thánh. Tâm hồn tôi tràn ngập bình an, thanh khiết.

Thời ấy, tôi dự lớp Kinh  Thánh mấy khóa liền, nên cầu nguyện rất thạo và Lời Chúa gần như nằm lòng. Ưu tiên số một cho đời sống tâm linh, các thực thể trần gian, các mưu cầu vật chất đối với tôi dường như rất nhẹ. “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình” –  tôi muốn từ bỏ tất cả để đi theo Ngài trọn vẹn. Với lòng sốt sắn ấy, Chúa đã dùng tôi để hoán cải nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh, và đưa nhiều người trở về nhận biết Chúa, trong đó có bà, cha mẹ và một số anh chị em ruột của tôi. Linh hồn tôi chứa chan vui sướng, và không ít lần nước mắt ràn rụa trong niềm cảm tạ.

Nhưng rồi tôi phải đối mặt  với nhiều sự xung đột trong cuộc sống: có người ngưỡng mộ, ước muốn được như tôi, nhưng gánh nặng cơm áo trĩu vai, đầu tắt mặt tối lo không trọn, thời gian đâu nghiền ngẫm Kinh Thánh, tham gia nhóm cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa hay làm công việc bác ái như tôi. Và họ buồn lòng lắm, cứ như là cánh cửa Nước Trời đã đóng lại trước mắt. Nhưng cũng có người diễu cợt rằng tôi sống như “người cõi trên”, xa rời thực tế… Những ý kiến ấy cũng không mấy quan trọng, mà quan trọng là chồng và con tôi dần dà thấy không vui, muộn phiền khi tôi thường
xuyên vắng nhà, đi cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa khi gần khi  xa, bỏ lỡ công ăn việc làm cũng như không thể chu toàn bổn phận gia đình cho tươm tất. Bởi lúc ấy trong nhận thức của tôi, ngoài việc đem lời Chúa đến với mọi người (theo nghĩa đen), tất cả là thứ yếu. Có lẽ tôi đã hiểu quá cạn nghĩa của hai tiếng “từ bỏ”“nên Thánh” trong Lời Chúa.

Lương tâm tôi giằng xé dữ dội. Làm sao cho trọn vẹn? Lời Chúa mời gọi tôi dấn thân, loan báo Tin Mừng, nhưng tôi cũng được dạy rằng gia đình bé nhỏ yêu thương của tôi cũng là một ân huệ của Chúa. Nhưng quả thực tôi không tìm ra con đường để dung hòa giữa sự hướng thượng của tâm linh với những đòi hỏi của thực tại trần thế, giữa
những nhu cầu kinh tế, vật chất và những ước muốn dấn thân phục vụ con người,
phục vụ thiện ích chung. Có lúc tôi đã thật sự lâm vào khủng hoảng – cho đến
lúc tôi học biết GHXHCG.

GHXHCG dạy tôi biết rằng tôi không cần phải đi đâu xa để loan báo Tin Mừng hay dấn thân phục vụ, mà hãy loan báo và dấn thân ngay trong công việc, nghành nghề, gia đình của mình: “Nếu người ta xã thân làm việc với lòng tin, cậy, mến của các môn đệ Đức Kitô, thì ngay cả kinh tế và tiến bộ cũng có thể biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hóa” (x. số 326 sách Tóm lược HTXH). Giáo huấn cũng dạy tôi rằng lao động là một phương tiện để nâng cao phẩm giá con người, hãy sử dụng lao động như cách thế diễn tả tình yêu và cộng tác vào ơn cứu độ Thiên
Chúa (Chương VI sách tóm lược HTXH).

Tôi nghiệm ra một điều: chắc chắn Giáo hội và xã hội đang cần tôi chung sức, chung trí, nhưng cũng chắc chắn rằng tôi không thể hướng đến sự nên Thánh trước khi tôi làm một con người tử tế, sống tròn những bổn phận mà Chúa đã trao ban cho tôi. Và tôi không thể nên Thánh, nếu như tôi không tham gia xây dựng xã hội trần thế này cho được ổn định, an sinh hơn. Trước khi Chúa Giêsu đến phán xét lần thứ hai, thì người nghèo  vẫn được ký thác cho tôi. (“Nghèo” ở đây không đơn thuần là nghèo vật
chất mà còn là tình thương, tinh thần, tự do, văn hoá, tín ngưỡng… ) Ngài mời
gọi tôi dấn thân cho những thiện ích giúp người, giúp đời, mà Thiên Chúa là “sự
thiện tối thượng”.

Dấn thân cho công ích không còn đơn thuần là một “việc đạo đức” tuỳ hứng hay một “ước muốn hướng thượng”, mà là sự thúc giục của lương tri, của tình đồng loại trong tôi. Đó còn là một trách nhiệm ràng buộc tôi phải cam kết với Thiên Chúa. Và GHXH chính là phương thế giúp tôi diễn tả, cụ thể hóa Lời Chúa trong đời sống hôm nay, bằng những ngôn từ hiện đại của kinh tế, lao động, môi trường, nhân phẩm, quyền con người.v.v…

Con đường dấn thân của tôi như thế đó, nó gập ghềnh theo từng bước trưởng thành tâm linh và ý thức của tôi.

Xin Chúa nhân từ  luôn ở cùng con, để dù con có xiêu vẹo nghiêng ngả, Ngài cũng sẽ đưa con đến cùng đích cuộc đời.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

Nhận và Cho


Nhận và Cho

 

TRẦM THIÊN THU

Cuộc đời là xã hội, là cộng đồng, nghĩa là không ai lại không phải ít nhiều nhờ
vả nhau – dù trực tiếp hay gián tiếp. Không ai có thể sống như một ốc đảo, mà
luôn có những mối quan hệ và những hệ lụy theo một quy luật tất yếu của cuộc
sống.

Trong quan hệ đó, mỗi người có một nhân sinh quan riêng nhưng luôn hợp thành
một tổng thể cộng đồng. Như vậy, cần có tình đồng loại thực sự. Con người vốn
dĩ yếu đuối nên rất cần sự cảm thông và tha thứ không ngừng. Sống chân thành và
hài hòa với nhau là hạnh phúc được nhân đôi: Cho bạn và cho tôi. Mỗi người phải
biết chia sẻ, không thể khư khư giữ “cái tôi” mãi.

Nhưng, để được NHẬN thì phải biết CHO trước. Tất nhiên phải biết mở lòng ra như
cuốn sách để người khác “đọc” mà cùng quan tâm lẫn nhau.

Dĩ nhiên không ai trên đời có thể hiểu hết nhau – dù trong mối quan hệ nào. Có
chăng là hiểu một đôi phần trong lĩnh khía cạnh nào đó. Cố gắng hiểu người chứ
đừng đòi người hiểu mình nhiều quá. Vả lại, ai cũng có “khoảng riêng” bất khả
xâm phạm. Biết vậy để tự trọng và tôn trọng nhau đúng mức. P. Gerandy (Mỹ) phân
tích: “Chỉ cần hơi giống nhau là có thể hiểu nhau,
nhưng cần phải hơi khác nhau để có thể yêu nhau”.

Có những người chê bai, trách cứ mà không chịu “nhìn” để cảm thông. Có những
người chỉ biết đòi hỏi mà không biết trao tặng. Có những người lại quá “hạ
mình” đến mức nhu nhược hoặc hóa kiêu ngạo. Người may mắn có cuộc sống sung túc
từ nhỏ thì không muốn quen thân những người nghèo khó. Người giàu có nhờ “số
hên” thì coi trời bằng… nắp bia.

Biển luôn vỗ sóng vì lòng biển thẳm sâu, chứa nhiều châu báu. Những con người
đau khổ và gian nan là những người đầy kinh nghiệm. Pythagore cảnh báo: “Đừng
thấy bóng mình to lớn mà tưởng mình vĩ đại”. Biết người, biết ta thì không ai
dám “nổ”. Khoác lác là tự phơi bày cái “không tưởng” của mình.

Nhưng thế nào là quan tâm đến nhau? Có thể dùng ngôn ngữ, cử chỉ, động thái,
ánh mắt, nụ cười,… để thể hiện. Quan tâm đến nhau là điều cần thiết trong mọi
mối quan hệ. Thiết tưởng, dưới đây là các “khởi điểm” để tạo mối quan thiết tốt
đẹp và bền vững:

1. Bạn có thể viết thư, gởi thiệp, tặng hoa hoặc quà để chúc mừng vào những dịp
đặc biệt như sinh nhật, lễ, tết, cưới hỏi, thi đậu, thôi nôi, tân gia, ngày
8-3, ngày tình yêu (Valentine’s Day, 14-2),… Trên thế giới còn có những ngày
khác như Ngày Ông Bà (Grandparents’ Day, Chúa nhật thứ nhất sau lễ Lao động),
Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa nhật thứ nhì của tháng Năm), Ngày Thân Phụ
(Father’s Day, Chúa nhật thứ ba của tháng Sáu) dành cho con cháu tỏ lòng thảo
hiếu đối với Ông Bà và Cha Mẹ mình.

2. Thi thoảng, nếu có thể thì thường xuyên điện đàm, nhắn tin, thăm viếng,… kẻo
“xa mặt cách lòng”.

3. Luôn biết sử dụng tiếng “xin lỗi”, “cảm ơn” và “làm ơn…”, dù bạn đi mua
hàng, hỏi đường, hỏi giờ,…

4. Biết sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần (an ủi, động viên, khen ngợi, chân thành
sửa lỗi…). Một người bạn tốt là người có mặt đúng lúc, và là người dám làm trái
ý cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta.

5. Xởi lởi, trung thực, chân thành tâm sự để chia vui sẻ buồn, cả thành công
lẫn thất bại trong cuộc sống để cùng dìu nhau đi.

Nhưng đôi khi cũng cần biết “phớt tỉnh Ăng-lê” (kiểu người Anh) để không “xoi
mói” đời tư người khác.

Sống tốt khó hay dễ tùy mỗi người. Ai có cá tính mạnh là có tính cách đặc biệt
“khác người”. Bạn có thể bị hiểu lầm, nhưng một khi hiểu ra thì người ta càng
nể phục. Hãy sống theo “chiều sâu”, đừng sống theo “chiều dài”, và hãy cứ là
chính mình chứ đừng để tính cách bị “lai căng”.

Biết quan tâm đến người khác là một cách sống tốt, điều mà không ai lại không
muốn, và giúp người khác cùng sống tốt. Đừng “vô tình” biến họ thành Chí Phèo!
Văn hào Victor Hugo nói: “Tôi thích trở thành người nổi tiếng, vì đó là hạnh
phúc. Nhưng tôi muốn trở thành người hữu ích, vì đó là nghĩa vụ”.

Nguyễn văn Thập gởi

Chân Phước Honoratus Kosminski

Chân Phước Honoratus Kosminski

(1829 – 1916)

10 Tháng Mười Hai

 

Ngài sinh ở Biala Podlaska (Ba Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha. Vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau. Năm 1848, ngài gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Honoratus Kosminski. Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.

Năm 1860, Cha Honoratus làm giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết mệt cho dòng Ba Phanxicô.

Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm lật đổ Nga hoàng Alexander III, đã bất thành đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw và buộc phải sống ở Zakroczym, là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ cũng như không phải sống trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.

Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể: 42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ hạnh, sự sùng kính Ðức Maria, về lịch sử, về mục vụ — chưa kể các thư từ ngài viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.

Vào năm 1906, một vài giám mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng phục quyết định của Giáo Hội dù tương lai có ra sao.

Một người đương thời với ngài cho biết, Cha Honoratus “luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa.” Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Ðại Diện cho các tu sĩ Capuchin ở Ba Lan.

Ngài được phong chân phước năm 1988.

Lời Bàn

Chân Phước Honoratus  đã làm việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một cách cay đắng và oán hờn khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm tay; nhưng ngài đã coi đó là những “niềm vui tuyệt đối.”
Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của
mình để phục vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.

Lời Trích

Khi Giáo Hội lấy đi  quyền điều khiển các tu hội của ngài và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân Phước Honoratus viết: “Ðấng Ðại Diện Ðức Kitô đã cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin& Anh chị
em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một
cách quả cảm đối với Giáo Hội.”

Maria Thanh Mai gởi

 

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

(“A Christmas Carol for the World” – Per Ola và Emily D’Aulaire)

Mỗi mùa Lễ Giáng Sinh, những giọng hát bằng nhiều ngôn ngữ đã tái tạo một bài hát tuyệt vời ra đời trong hoàn cảnh tầm thường cách đây 194 mùa Giáng Sinh.
“Silent night, Holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin
Mother and child
Holy infant so tender and mind
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace.”
Tuyết nhẹ rơi trên những ngôi nhà bằng gỗ và đá ở Oberndorf, một ngôi làng Áo gần Salzburg. Trong làng, người dân trang hoàng đèn nến, trái cây và hạt trên những cây vân sam mà họ đã chuẩn bị cho những đêm thánh vô cùng này. Chẳng mấy chốc nữa đây, tiếng chuông từ ngôi nhà thờ cổ kính
của Oberdorf sẽ ngân vang để loan báo Thánh lễ lúc nửa đêm, và giáo dân sẽ tưởng niệm ngày Đức Kitô ra đời với những lời kinh và tiếng hát.
Tuy nhiên, bên trong Nhà thờ Thánh Nicolas  không khí lại nặng nề, ảm đạm vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1818. Cha xứ Joseph Mohr, 26 tuổi, vừa nhận ra chiếc phong cầm bị hư hỏng nặng. Cho
dù bàn đạp được bơm cứng hơi thế nào đi nữa, ngài cũng chỉ có thể làm cho cây đàn cũ kỹ ấy phát ra những tiếng khò khè. Cha Morh thất vọng. Đợi đến lúc thợ sửa đàn đến được giáo xứ này chắc Lễ Giáng Sinh đi qua lâu rồi. Đối với một cha xứ trẻ, Lễ Giáng Sinh mà thiếu nhạc là điều không thể tưởng tượng được.
Cha Mohr có một thiên khiếu âm nhạc. Khi còn là một cậu bé, đứa con trai ngoài giá thú của một cô thợ may với một người lính, cậu đã kiếm tiền bằng cách ca hát, chơi đàn violon và ghi-ta nơi công chúng. Ở bậc trung học, rồi lên bậc đại học, cậu đã sống bằng đồng tiền kiếm được khi trình diễn ca nhạc. Làm việc chăm chỉ cùng với tài năng của mình đã gây sự chú ý đến một tu sĩ, người mà đã thuyết phục cậu bước vào nhà dòng. Thụ phong linh mục năm 1815, Cha Mohr được bổ nhiệm đến Oberndorf vào năm 1817. Ở đó, ngài không chỉ truyền giảng ca vịnh, mà còn làm ngạc nhiên một số người trong giáo đoàn của mình với cách chơi ghi-ta, chuyển một cách dễ dàng từ nhạc điệu dân gian sang nhạc điệu thánh ca.
Bây giờ phải đối mặt với với một khủng hoảng xảy ra vào Lễ Giáng Sinh. Vị linh mục trẻ rút về phòng làm việc yên tĩnh của mình. Nhận ra rằng những bài thánh ca Giáng Sinh truyền thống không phù hợp với đàn ghi-ta. Ngài quyết định sáng tác một bài mới. Cúi xuống tờ giấy trắng, với cây bút lông duyên dáng sẵn sàng, ngài nghĩ về một gia đình thuộc giáo xứ mà mới đây ngài đã viếng thăm và làm phép rửa tội cho đứa bé mới chào đời của họ. Ký ức về người mẹ ôm đứa con được ủ ấm để chống lại cái lạnh mùa
đông đã khiến những suy nghĩ của Cha Mohr đến một sự ra đời khác nữa cách đây hơn 2.000 năm.
Ngập ngừng do dự, ngài bắt đầu viết. Cây bút của ngài di chuyển y như thể được hướng dẫn bởi một bàn tay vô hình nào đó. Một điệp khúc được gợi lên, “Stille nacht, heilige nacht!” xuất hiện trên tờ giấy: “Đêm thầm lặng, Đêm thánh!” Bằng những câu giản dị, mộc mạc như một bài thơ dành cho nhi đồng. Vị cha xứ trẻ này nói về phép lạ Lễ Giáng Sinh trong 6 khổ thơ. Tưởng chừng đó là những lời chảy xuống tự thiên đàng.
Khi ngài viết xong, thời gian còn rất ngắn. Những vần thơ này còn phải được phổ nhạc kịp lúc cho Thánh lễ nửa đêm. Cha Mohr quyết định tìm một người bạn thân tên là Franz Xavier Gruber, 31 tuổi, một thầy giáo ở làng Arnsdorf cạnh bên, là người soạn nhạc giỏi hơn ngài.
Không giống như Cha Mohr, Gruber đã phải giấu niềm đam mê âm nhạc của mình. Với người bố khắt khe của ông, một người thợ dệt, âm nhạc không phải là nghề thích hợp để kiếm sống. Nên cứ vào buổi chiều, Franz đã phải lén ra khỏi nhà để đi học lớp nhạc của một thầy giáo địa phương. Ông đã học rất giỏi đến nỗi một ngày nọ khi bố ông nghe ông chơi phong cầm, bố ông đã bớt gay gắt và để cho con trai mình học nhạc.
Franz cũng quyết định trở thành một thầy giáo. Hồi đó người ta muốn thầy giáo còn phải là một người chơi phong cầm và là người điều khiển dàn hợp xướng ở nhà thờ địa phương. Được gửi đến Arndorf
để dạy học, Gruber lại còn được chào đón tại Nhà thờ Thánh Nicholas gần đấy.
Khi Gruber đọc những lời bài hát của Cha Mohr, ông chắc hẳn đã bị tác động mạnh bởi cái đẹp và sự trong sáng của lời bài hát. Ông bước tới chiếc đàn dương cầm của mình và bắt đầu làm việc trong lúc Cha Mohr trở về nhà thờ.
Sử dụng 3 trong số hoà âm cơ bản nhất trong kỹ năng âm nhạc, phong cầm thủ ấy đã tạo nên một giai điệu mộc mạc và gợi cảm sâu sắc. Rồi gần nửa đêm, ông mang bài hát đến cho Cha Mohr. Với thời gian vừa đủ để tập dượt, hai người đồng ý rằng Cha Mohr sẽ chơi ghi-ta và hát bè cao trong lúc ông Gruber hát bè trầm. Sau mỗi phiên khúc, dàn hợp xướng sẽ cùng hát điệp khúc.
Vào lúc nửa đêm, giáo dân xếp hàng một bước vào nhà thờ, có lẽ đang mong đợi chiếc dàn phong cầm sẽ ngân lên khắp nhà thờ âm hưởng của những bài hát mừng Giáng Sinh. Thay vào đó, nhà thờ vẫn im
lặng khi họ ngồi chen chúc trên những hàng ghế dựa hẹp bằng gỗ.
Cha Mohr bước vào gian giữa nhà thờ và ra dấu cho thầy Gruber đến đứng cạnh mình. Cầm chiếc đàn ghi-ta, Cha xứ có lẽ đã giải thích cho con chiên biết rằng, mặc dù chiếc phong cầm bị vỡ, tuy thế, Thánh lễ nửa đêm vẫn có nhạc: ngài và ông Gruber đã chuẩn bị một bài hát Giáng Sinh đặc biệt cho giáo đoàn.
Với Cha Mohr, gảy đàn ghi-ta, hai giọng hát dịu êm chẳng bao lâu đã tràn khắp giáo đường. Dàn hợp xướng hát bản hoà âm gồm 4 đoạn này ở mỗi điệp khúc. Giáo dân lắng nghe với sự ngạc nhiên
trước bài thánh ca tinh khiết và tươi mát như dòng suối ở dãy núi Alps. Sau đó, Cha Mohr cử hành Thánh lễ Misa, và giáo đoàn quỳ xuống cầu nguyện. Ngày trước Lễ Giáng Sinh ở Nhà thờ Thánh Nicholas đã
thành công.
Câu chuyện tưởng như đã kết thúc ở đây. Cha Mohr và ông Gruber sáng tác bài thánh ca của họ như một sự thay thế cho khó khăn tạm thời mà họ gặp phải và có lẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc trình diễn lại bài hát này. Mùa xuân sau đó, một người thợ sửa đàn đã vá lại chiếc phong cầm ấy. Chẳng bao lâu, Cha Mohr được chuyển đến một xứ khác. Mất vài năm, bài thánh ca đó đã rơi vào im lặng như cái đêm mà nó đã đem lại vẻ vang vào năm 1818.
Nhưng may mắn thay cho thế giới,chiếc phong cầm ở Nhà thờ Thánh Nocholas vẫn dở chứng. Vào năm 1824 hay năm 1825 gì đó, giáo xứ này đã thuê một người thợ sửa đàn phong cầm bậc thầy tên là
Carl Mauracher đóng lại nó. Trong lúc làm việc, tình cờ ông Mauracher thấy bài hát của Cha Mohr và ông Gruber sáng tác. Sự giản dị phổ quát của bài hát đã lôi cuốn người thợ sửa phong cầm lớn tuổi này. Trông nom việc sửa lại chiếc đàn phong cầm của Nhà thờ Thánh Nicholas, Gruber đã vui vẻ đồng ý khi ông Mauracher xin bản sao bài “Silent Night”.
Khi rời Oberndorf, Mauracher đã mang theo bài hát này. Những người nghe bài hát qua giọng hát của ông đã say mê vì lời cùng giai điệu của nó. Chẳng mấy chốc, những đoàn dân ca vùng Tyrol, những người thường xuyên toả khắp Âu châu, đã bổ sung bài “Silent Night” vào tiết mục trình diễn của họ.
Trong số những người đưa bài hát này vào tiết mục trình diễn phải nói đến là ban nhạc Gia đình Strasser. Bốn anh chị em trong ban nhạc với những giọng hát thần tiên đã trình diễn tại những hội chợ thương mại trong lúc họ bán bao tay mà gia đình họ làm ra. Vào năm 1831 hay 1832 gì đó, ban nhạc Strasser đã hát bài “Đêm thầm lặng” tại một hội chợ ở Leipzig, nước Đức. Khán giả rất thích bài hát này. Sau đó không lâu, một nhà xuất bản địa phương đã in bài hát này lần đầu tiên, chỉ công nhận nó như bài Tirolerlied hay một bài hát thuộc vùng Tyrol. Không đề cập gì đến Cha Mohr hay ông Franz Gruber gì hết.
Lời hát và điệu nhạc giờ đây đã lan đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu, “Silent Night” đã cùng với ban
nhạc Rainers vượt qua Đại Tây Dương, một gia đình các ca sĩ dân ca trình diễn và chu du khắp Hoa Kỳ. Ở Thành phố New York vào năm 1839 hay 1840 gì đó, ban nhạc Rainers đã gưới thiệu bài hát này với thế giới nói tiếng Anh.
Khán giả khắp mọi nơi bắt đầu tin rằng “Silent Night” vượt lên trên một bài dân ca mộc mạc. Một
số thính giả cho đó là một trong những ca khúc của Haydn. Nhưng ở trong làng của mình, ông Gruber và Cha Mohr vẫn không hay biết gì về những xôn xao mà bài hát của họ gây ra. Cha Mohr đã qua đời vì bệnh viêm phổi, không một xu dính túi, năm 1848 ở tuổi 55. Ngài không bao giờ biết rằng bài hát của ngài đã vươn tới những vùng xa xôi nhất của trái đất.
Mãi đến năm 1854, Gruber mới nghe nói về sự thành công của bài hát, khi người điều khiển buổi hoà nhạc phục vụ vua Frederick William IV của nước Phổ bắt đầu truy tìm nguồn gốc của bài hát
này. Khi lời đồn đại đến tai Gruber, lúc đó ông 67 tuổi, ông đã viết một lá thư tới Berlin kể vế nguồn gốc của bài hát.
Thoạt tiên, ít có học giả nào tin rằng hai con người khiêm tốn ấy lại có thể nghĩ ra một bài Thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng như thế. Năm 1863, khi ông Gruber qua đời, quyền tác giả của ông vẫn bị thách thức. Cùng năm ấy, Cha John Freeman Young, người mà sau này trở thành Giám mục Tân giáo ở Florida
đã dịch 3 khổ thơ của bài hát này sang tiếng Anh mà ngày nay chúng ta vẫn hát.
Không còn bất kỳ một tranh cãi nào về tác quyền của nguyên thuỷ bài hát này. Các tượng đài ở Áo đã biểu lộ lòng tôn kính đối với Cha Mohr và ông Gruber, và di sản của họ đã trở thành một phần thiết yếu của Lễ Giáng Sinh khắp mọi nơi. Ông William E. Studwell ở Đại học Northern Illinois, Hoa Kỳ, một chuyên gia Thánh ca Giáng Sinh, đã nói: “Đêm thầm lặng là biểu tượng âm nhạc của Lễ Giáng Sinh.”
Thực ra, bài Thánh ca này giờ đây được hát khắp các lục địa trên thế giới bằng nhiều ngôn ngữ, từ tiếng gốc Đức đến Welsh, từ tiếng Swahili đến tiếng Afrikaans, từ tiếng Nhật đến tiếng Nga, từ tiếng Triều Tiên đến tiếng Việt rồi tiếng Hoa – tất cả cùng diễn tả một cảm giác sâu lắng về sự thanh bình và niềm hân hoan. Nó đã được ghi âm với những giọng ca của những ca sĩ, từ Bing Crosby đến Elvis Presley.
Qua bao năm, bài Thánh ca mộc mạc này đã biểu hiện một quyền lực mạnh mẽ để tạo ra cảnh an bình trên thiên quốc. Chẳng hạn trong thời gian ngưng bắn Lễ Giáng Sinh năm 1914, những người lính
Đức dọc theo phòng tuyến mặt trận phía Tây đã bắt đầu hát bài “Silent Night”. Từ phía bên kia của vùng cấm địa. Những binh sĩ Anh cũng cùng hát bài hát đó.
Trong cùng cuộc chiến ấy, tại trại tù binh Seberi, các tù binh người Đức, Áo và Hungari bỗng cùng đồng thanh hát bài “Silent Night”. Với những giọt nước mắt rưng rưng trong khoé mắt, viên cai tù người Nga nói bằng tiếng Đức bồi: “Đêm nay là lần đầu tiên trong hơn một năm của cuộc chiến mà tôi đã có thể quên giữa các anh và tôi xem nhau như những kẻ thù.”
Ở Tiệp Khắc bị Đức Quốc Xã chiếm đóng vào năm 1944, một sĩ quan Đức thăm một trại mồ côi đã hỏi xem có em nào biết bài “Đêm thầm lặng” bằng tiếng Đức không. Một bé trai và một bé gái ngập
ngừng bước tới, rồi bắt đầu hát “Stille Nacht, heilige Nacht”. Viên sĩ quan nhoẻn miệng cười, nhưng sau đó hai đứa trẻ ngừng hát, như chừng chúng bắt đầu nhớ ra điều gì và trông chúng sợ hãi. Ở vùng đất của quốc gia đó, những người biết tiếng Đức chủ yếu là người Do Thái. Thấy vẻ sợ hãi của chúng, viên
sĩ quan này đã dỗ dành chúng. “Đừng sợ”, ông nói. Ông ta cũng bị xúc động bởi sự kỳ diệu của bài hát.
7 năm sau đó, vào một Lễ Giáng Sinh trong thời chiến tranh Triều Tiên, một người lính Mỹ trẻ tên là John Thorsness, khi đang trong phiên gác, anh nghĩ mình đã nghe thấy tiếng quân địch. Ngón tay
đặt trên cò súng, anh thấy một đám đông người Triều Tiên đi ra từ bóng tối, họ đang mỉm cười. Khi người lính trẻ này đứng sững sờ, nhóm người này đã hát bài “Silent Night” bằng tiếng Triều Tiên, sau đó họ lui dần vào bóng tối.
Bài hát đã được sáng tác rất xa về không gian và rất lâu về thời gian: “Đêm thầm lặng, đêm thánh, tất cả
đều êm đềm, tất cả đều ngời sáng…”
. Những lời hát khó quên giai điệu mộc mạc ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn của chúng ta như đã từng lắng đọng trong tâm hồn của mọi người trên khắp thế giới kể từ khi một vị cha trẻ và một người bạn của ngài làm thầy giáo làng đã hát nó lần đầu tiên cách đây 194 năm.
(Mùa Vọng Giáng Sinh 2012)
Jos. Tú Nạc, NMS
Silent Night (with lyrics)