TẾT XỨ NGƯỜI,

TẾT XỨ NGƯỜI,

Ba mươi tết đến trời thêm tối,
Xứ lạ quê người nhớ lắm thôi,
Mình ênh tống cựu buồn da diết,
Đốt nén nhan thơm nước mắt bồi…
Nắng nóng Sài gòn đón tết sang,
Cúc thắm,đào xinh,đóa cúc vàng,
Người người hớn hở mừng xuân đến,
Lặng ngắm miền xa… dạ xốn xang…
Dân ca khúc hát ngày xưa đã,
Vẳng lại đâu đây nỗi nhớ nhà,
Hồn tôi bước chậm về thôn cũ,
Đón tết âm thầm…vạn xót xa…
Liverpool.27/12/2012.
Song Như.

Chúc mừng năm mới LVC.

KHI THIÊN CHÚA BỊ CHỐI TỪ

KHI THIÊN CHÚA BỊ CHỐI TỪ

Vụ bắn giết kinh hoàng vừa xảy ra tại nước Mỹ, trong trường tiểu học Sandy Hook Elementary School ở Newtown, tiểu bang Connecticut, nơi mà một cuộc tàn sát thê thảm đã xẩy ra lúc 9:30 buổi sáng thứ sáu ngày  14/12/2012 đã làm rung động cả thế giới. Tử vong kể cả phạm nhân lên tới 28 người, trong đó có 20 con trẻ lớp 1 tuổi từ 6 cho đến 7, gồm 8 trai 12 gái. Nhiều em là giáo dân cuả giáo xứ St. Rose of Lima.

Adam Lanza, một thanh niên mới 20 tuổi còn ở với mẹ, đã bắt chết mẹ mình rồi vác 3 khẩu súng máy, lái xe tới trường, phá cửa kính xông vào và, không nói một lời, bắn giết 2 lớp học rồi tự sát. Có những thi thể bị bắn tới 11 viên đạn. Cuộc thảm sát xảy ra khi ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, những  nạn nhân, phần lớn là các em nhỏ, miệng vẫn còn măng sữa. Sự việc xảy ra, giữa thế kỷ 21, một thế kỷ được cho là thành công của những công nghệ tin học, y học và khoa học. Nhưng tại sao con người lại quá man rợ không khác gì vào những thời nguyên thuỷ, hoang sơ của các bộ lạc khi phải đấu tranh sinh tồn.

Có thể vô vàn những lý do, nhiều những chẩn đoán được đưa ra bàn luận, và cũng có những kết luận. Có thể Adam Lanza là một con người bất bình thường, khi có một hành động gây bao đớn đau cho nhiều người. Nhưng có một điều ít ai để ý: thế giới đang bị huỷ hoại về tình yêu, mà tình yêu đó,  từ nguồn mạch là Thiên Chúa. Thiếu đi nhịp thở yêu thương ấy con người trở nên man rợ đối với anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa trong xác thân của một em bé cất tiếng khóc oa oa chào đời cũng đã bị con người khước từ. Thánh Gioan ghi nhận điều này là: “ Ngài đã đến trong nhà ngài, nhưng người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gá,14).

Khước từ Thiên Chúa, con người không thể chấp nhận tha nhân là anh em mình. Hài Nhi Giê-su đã không có một chỗ nào cho Ngài. Hàng quán, quán trọ, ai cũng hất hủi và Hê-rô-đê thì tìm mọi cách để giết Ngài. Thiên Chúa trong dáng dấp của một bé thơ, vô phương tự vệ, chỉ biết phó thác hoàn toàn cho những sáng kiến của Thánh Giuse, trước sự truy sát của bạo vương Hê-rô-đê. Các trẻ thơ vô tội đã chết trước lòng hận thù trào dâng của con người. Cain giết Aben. Thảm hoạ cho nhân loại khi thế giới vắng bóng Thiên Chúa.

Những trẻ thơ đã tắt thở khi chưa kịp cất tiếng khóc và mở mắt chào đời. Con người không nhận ra trẻ thơ Giê-su chính là Ngôi Hai, con Thiên Chúa đã Giáng sinh trong một con người. Trật tự thế giới rơi vào tình trạng hỗn mang khi Thiên Chúa bị xua đuổi. Nếu xưa trong vười địa đàng, chiều chiều, bước chân Thiên chúa đến dạo chơi cùng con người, thì hôm nay, con người không còn tiếp nhận Ngài đến nữa. Hài nhi Giê-su đến đem bình an, tuổi thơ của Thiên Chúa mang đến cho nhân loại tình thương, sự sống và những ngọt ngào dịu vợi. Sự ác không đến từ Thiên Chúa, chỉ con người một khi nhẫn tâm đẩy Thiên Chúa ra xa lạ, thì tăm tối và tội lỗi sẽ lên ngôi.

Tội nghiệp cho Thiên Chúa, trong một đêm sinh hạ, lẽ ra con người kính thờ Ngài, thì trái lại họ khước từ Ngài. Mãi mãi trong những đêm đông của mùa tuyết rơi, Hài Nhi Giê-su vẫn bị chối từ bởi sự ích kỷ, lòng kiêu căng, thói tự phụ của con người.

Lạy Chúa Hài Đồng, xin mở lòng chúng con để chúng con đón nhận Ngài vào trong cuộc đời của mình, trong đêm Giáng sinh an bình tình yêu.

Lm Giacobe Tạ Chúc

Thế hệ “Bánh Mì Kẹp”

http://lh6.ggpht.com/-EedJRJl6PNg/T9CziYp8EWI/AAAAAAAATEo/xUMCWqUekW0/sandwich%252520generation%2525202_thumb%25255B1%25255D.jpg?imgmax=800
Thế hệ “Bánh Mì Kẹp” (The Sandwich Generation)

Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây và hai mươi năm
nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và tôi đã sống “vô tư lự” bên
trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn ngập trời nơi quê nhà.

http://4.bp.blogspot.com/-n6lhwF_4BP4/T2D9i7hwouI/AAAAAAAAEF8/RZy8MPXGEOE/s320/exodus.jpg

Giờ đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi đã phải cuốn gói rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng nhiên phải sống tản mác trên toàn thế-giới như những cây bị bật rễ, ở những chốn dung-thân như Mỹ, Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…

Phần mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi và chúng tôi, thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương, chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc lõng trong tâm-tư văn hoá.  Một thế-hệ “bánh mì kẹp”.

Kẹp giữa hai quê-hương
http://4.bp.blogspot.com/-BwdAyzP-2co/T2D9-PSmr9I/AAAAAAAAEGM/dh5RaLa599k/s320/flags-globe-thumb541425.jpg
Những người di-dân này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp, Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp, Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp, Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi mùi nước mắm chứ không hôi hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ (Pháp, Úc…) mà chỉ sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ búa Á-Đông, hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.

Những người Mỹ (Pháp, Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có dịp, có phương-tiện là lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần lớn vẫn vì nhớ nhà.
Tôi không nhớ ai đã có nói:  “Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)

Tôi muốn tin ông lắm, tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc, là rễ cơ mà ?

Ở hải-ngoại, đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn sung, mặc sướng, đủ tiền mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống này, nhiều đồng-bào ta nơi quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi « hạnh phúc » hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn những người tha-hương chúng tôi mà thôi.
Nhất là trong trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?
Quê-hương như người mẹ đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng, dậy-dỗ tôi nên người, và quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi tôi không còn chỗ đứng dưới ánh mặt trời.
Ơn-nghĩa này, chúng tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị nên thôi gửi quà).
Tôi cảm quí những bà « mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi, quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc… ? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?


Kẹp giữa hai nền Văn-hoá

Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)

Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình, Qua bao năm tháng đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.

Tuy nhiên, bao nhiêu năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên ngoài, chỉ có thể thay đổi hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi đứng, nói chuyện, chỉ có thể tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.

Tất cả những năm tháng đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi (tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với thời-gian), không hề lay-chuyển âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm suy-sút kho-tàng văn-hoá tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.

Nước Pháp đã ban thêm cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế nền văn-hoá của tôi.
Nhưng có lẽ đó cũng là nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây cối làm sao sống thiếu gốc rễ? Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm sao tôi có thể vui sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?
Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse nhưng bao giờ tôi cũng vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.

Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một chai Volnay nhưng tôi vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et Glacières d’Indochine” (BGI).
http://2.bp.blogspot.com/-5H1wjVHM2gI/T2D9xlLCOpI/AAAAAAAAEGE/xZl2g3yN12Y/s320/roots.jpg

Tôi có thể thích xem phim “action” Mỹ hay nghe Claude Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ… Đại-Hàn (Việt-Nam tôi làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn khi tôi nghe nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt.
Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc vàng, mắt xanh nhưng tôi chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng “Mình ơi!”.

Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi, vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó là vết-tích của mấy ngàn năm
lịch-sử.

Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá.

Kẹp giữa hai thế-hệ

Bố mẹ chúng chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.

Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán.

Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.

Vì sự lưu-truyền đó sẽ gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những điều chúng tôi cố-gắng răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên ngoài.

Tôi đã được chứng-kiến một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được. Hôm đó, một người bạn có tổ-chức một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.
Về khuya, chúng tôi tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp. Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy truyền-hình lên và nằm xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và đợi một lúc, không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.

Tôi á-khẩu. Làm sao tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã chợt hiểu nền “độc-tài” của con trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này. Nhưng điều tôi phân-vân nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là bố mẹ cậu trai trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không nhìn thấy điều gì cả.
Trong khi tôi, đầu đã bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ, để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái mới mười lăm tuổi đã đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong trường, bạn bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào mắt (piercing) thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?
Nhà chúng tôi lúc trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm bất cứ gì, ăn cơm phải vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này lấy cho đầy đĩa nhưng không ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi chúng cảm thấy no.

Tôi đã tận mắt thấy những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ nào dám đánh con mà không sợ chúng nó gọi “911”?

“Trời làm một trận lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”. Ngày nay, thế-giới đảo lộn và chúng tôi đi lộn đầu, để con cái trèo đầu, trèo cổ thôi.
Lúc trước còn ở bên Pháp, tôi vẫn cố gắng
mỗi năm lấy máy bay sang thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ
(vì không cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp thăm con.

Hoá ra, chúng tôi ở trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên thì bị bố mẹ mắng, ở dưới thì bị con trách !?!
Kẹp giữa hai thế-hệ.

Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá

Nói như vậy không phải để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó không nói được tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn là với môi-trường gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?

Tôi đã có nghe những đứa trẻ nói với bố mẹ:
“Bố mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt. Văn-hoá của bố mẹ không
phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!” Phũ-phàng thay, đau lòng
thay, nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng ta khi chúng nó sống trong
một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”? Làm sao chúng nó có thể
nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như khác hẳn?

Có lẽ chính chúng nó có lý. Bổn-phận cha mẹ là giúp con cái thành công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp chúng nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ không phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo văn-hoá nơi đó thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con mình thất-bại khi ra đời, cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.
Đây không phải chỉ là vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn” như vậy), mà còn rắc-rối thêm vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con cái có thể hiểu nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng, cùng những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?

Nỗi buồn u-uẩn

Dĩ nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam bên hải-ngoại nào cũng như trên, nhưng có lẽ phần đông là như thế (?)

Nói lên vài điểm cho dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy và tôi không có khả-năng phân-tích nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao lâu nay, trong mối liên-hệ với tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của mình.

Tôi không tức-giận, không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ, chúng tôi là một thế-hệ “bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì tương-lai đã bít kín.
Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận.
Vả lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi không có vấn-đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này sẽ không còn ai bàn đến nữa.
Chúng tôi chỉ là một giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát, bị hy-sinh để dân-tộc di-dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới.
Để đời sau, con cháu chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người, đi tiếp con đường mà chúng tôi đã không đi hết.

Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.

Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.
Yên Hà

Đêm Thánh

Joyeux Noël

Đêm Thánh

Đêm đông mưa tuyết phủ đường
Tâm tư chùng lắng…xót thương Chúa Trời
Là Vua cao cả sáng ngời
Vì yêu nhân thế làm người trần gian
Sinh trong máng cỏ cơ hàn
Sẻ chia khốn khổ lầm than nhân trần
Con Trời không chốn nương thân
Dạy ta suy niệm đức ân khó nghèo
Dẫu đời bể khổ gieo neo
Tình yêu Thiên Chúa sơn keo vững bền
Giáng Sinh đàn trổi thanh êm
Hân hoan ta đến thánh đền cung nghinh
Sao ngàn tinh tú lung linh
Chúc mừng Con Chúa Thiên Đình cứu nhân
Tầng không hòa tấu thiên thần
Cung âm thánh thót chuông ngân vang lừng
Lòng yêu Thiên Chúa không ngừng
Sao người hờ hững chẳng dừng tôi nhơ
Thành tâm dâng Chúa hồn thơ
Nỗi niềm yêu mến trông chờ hồng ân
Giúp con xa tránh tội trần
Khát khao ước nguyện sống gần Chúa thương.
chúc anh

CHUÔNG MỪNG SINH NHẬT

CHUÔNG MỪNG SINH NHẬT

 

Tiếng chuông mừng Chúa giáng sinh

Ngôi Hai Con Một hiển vinh muôn đời

Xuống trần nhập thể làm người

Sẻ chia số kiếp tơi bời phận thân

Ba năm phục vụ tha nhân

Ngày đêm nào có đo cân bao giờ

Giê-su, thụ tạo tôn thờ

Tri ân Ngài đã bến bờ yêu thương

Trở nên nơi ẩn náu nương

Cho ta trên bước hành hương Quê Trời

Ôi tình huyền nhiệm cao vời

Lặng thầm suy niệm không lời chứa chan

Nô-en hạnh phúc mênh mang

Thanh âm réo rắt, ngân vang cõi lòng!

 

* Nguyễn Sông Núi

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Dec. 23, 2012)

Từ Sơn Nguyễn gởi

GIỌT LỆ ĂN NĂN

GIỌT LỆ ĂN NĂN
Catholic : closeup of a figure of Jesus Christ
Tâu lạy Chúa vì sao đời bể khổ ?

Cõi lòng con tràn ngập nỗi cô đơn
Trong tim con chất chứa vạn tủi hờn
Cùng vô số sợi buồn giăng tâm trí

Không điểm trang để tình Ngài ngự trị
Không lắng nghe lời âu yếm, yêu thương

Không thiết tha tìm bóng Chúa thiên đường
Không ghi nhớ giáo điều Ngài truyền dạy
Con lớn lên trong khó nghèo đâu thấy :
Tia nắng hồng soi chiếu gót chân son,
Ánh trăng thanh sưởi ấm mảnh tâm hồn,
Vầng mây trắng giữa khung trời tuổi ngọc
Con sinh ra, lớn dần trong tang tóc
Trong hoang tàn của cuộc chiến vô tâm
Đường con đi đầy gian khổ, sóng gầm
Thân chĩu nặng vết thương đời rướm máu
Bỗng chợt nghe tiếng chuông chiều vọng thấu
Từ giáo đường, thổn thức trái tim cha
Hằng xót thương – hằng chờ đợi – thứ tha
Mong nhân loại trở về đường công chính
Trong tiềm thức, thoảng vang cung Thánh vịnh
Trọn hồn buồn, lòng thống hối – ăn năn
Nguyện xin Cha thứ tha những lỗi lầm
Thanh tẩy con bằng “Máu đào” cực trọng.

chúc anh

VÔ CẢM

VÔ CẢM

MINH DIỆN

Chuyên có thật 100%


Trời bừng sáng sau cơn  mưa đêm… Bầu không khí tươi mát ùa vào căn phòng trực cấp cứu của bệnh viện.  Cô y tá trẻ mặc bộ blue trắng nhận ca trực, cô vừa lật cuốn sổ ghi chép của  ca trước vừa sửa lại bình hoa tươi trên bàn. Hai má cô ửng hồng, đôi mắt long  lanh và làn môi xinh tươi như hoa hồng mới nở.
Cách đó không xa, ông  bác sĩ tuổi trung niên ngồi trước bàn làm việc của mình, mỉm cười nhìn dòng  chữ “Thầy thuốc như mẹ hiền” uốn bằng đèn huỳnh quang màu đỏ tươi rực rỡ vừa  mới sắm.
Bỗng một chiếc xe gắn  máy phóng thẳng tới cửa phòng cấp cứu. Gã lái xe mặt mày bậm trợn, ngồi sau  là cô gái mặc mỗi chiếc áo nịt, phấn son nhòe nhoẹt. Cô ta đang ôm một thằng  bé chừng mười tuổi được quấn trong cái áo khoác phụ nữ loang máu.
Gã lái xe giật thằng bé  trên tay cô gái rồi bồng vào trong phòng, nói với cô y tá:
– Bác sĩ ơi cấp cứu!…
Cô y tá rời mắt khỏi  cuốn sổ:
– Sao vậy?
– Thằng bé bị tai nạn giao thông!
– Anh là bố nó à?
– Không, tôi lái xe ôm…
– Thế còn cô kia?
Cô y tá liếc mắt về phía cô gái ăn mặc hở hang đứng ngoài cửa rồi bĩu môi cau mặt! Nước mưa đã cuốn trôi lớp son phấn rẻ tiền trên mặt cô ta để lộ ra lớp da nhợt nhạt. “Trông chẳng khác gì gái điếm đứng đường mạt hạng. Vào nơi công cộng mà dám phô ra như thế à!?…” -Cô y tá nghĩ. Quả thật cô gái mặc áo ngực ấy là một gái điếm nghèo, sáng sớm nay cô đang đi xe ôm của gã kia về phòng trọ thì gặp thằng bé bị tai nạn nằm ngất bên đường. Chiếc xe nào đã quẹt phải nó rồi bỏ chạy luôn. Thương hại, cô cởi áo khoác quấn cho thằng bé rồi cùng anh xe ôm đưa nó đến đây.
Gã xe ôm bối rối liếc qua cô gái, ấp úng trả lời cô y tá:
– À! Cô này…
Cô y tá xinh đẹp không thèm nhìn hai người, cất giọng lạnh lùng:
– Sang bên kia làm thủ tục nhập viện.

Gã xe ôm đặt thằng bé xuống thềm, rồi chạy sang dãy nhà đối diện. Người bảo vệ chỉ cho gã cái lỗ hình vuông bằng hai bàn tay trên tấm kính dày, chung quanh bịt lưới sắt. Gã khom lưng nhìn vào trong ô vuông đó, thấy gương mặt hồng hào của người nữ nhân viên ngồi sau chiếc bàn chất đầy sổ sách. Gã nhũn nhặn:
– Chị ơi, cho tôi làm thủ tục nhập viện…
Người phụ nữ không ngẩng mặt lên, nói máy móc:
– Tên gì? Hộ khẩu? Chứng minh nhân dân?…
– Dạ… thằng nhỏ mà!…
– Thằng nhỏ à?… Anh là gì của nó?
– Tôi lái xe ôm… Thấy nó bị tai nạn nên chở tới đây.
– Rắc rối đây! Sao anh không gọi bố mẹ nó tới làm thủ tục nhập viện?
Gã xe ôm nói lắp bắp:
– Tôi đâu biết bố mẹ nó… Với lại gấp quá! Cấp cứu mà!
– Thôi được! Nộp tiền tạm ứng viện phí.
– … Bao nhiêu chị?
– Hai triệu.
Gã xe ôm ngẩn ra, hắn biết trong túi mình có chưa tới hai trăm ngàn. Gã móc hết tiền ra rồi nói với chị nhân viên:
– Tôi chỉ có bi nhiêu…
Chị làm ơn cho thằng bé nhập viện, rồi tôi sẽ tìm bố mẹ nó tới thanh toán.
– Không được! Anh không biết bố mẹ nó thì làm sao mà tìm?
– Chị làm ơn… Thằng bé sắp chết!…
– Đã bảo không được! – Chị nhân viên gắt, cộc cằn máy móc – Bệnh viện đã quy định.

Gã xe ôm đành chạy trở lại lại phòng cấp cứu, hỏi cô gái điếm:
– Cô có tiền không?…
Cô gái khẽ quay đi, moi trong chiếc áo nịt ra mấy tờ bạc được xếp cuốn chặt rồi đưa cho anh xe ôm. Anh ta mở ra: Chưa tới trăm ngàn!…
– Bi nhiêu nhằm nhò gì?
– Anh xe ôm lắc đầu cau mặt.
Mặt anh xe ôm xám ngắt, mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt của anh ta như muốn nhai nát cái gì đó… Cô gái điếm nhìn bộ mặt cau có của anh ta mà phát sợ, nói như phân trần:
– Đêm qua mưa… tôi không có khách…

Thằng bé nằm dưới thềm kêu khóc thảm thiết. Nhìn nó thật thê thảm: Chiếc quần đùi rách tướp để lộ ra cẳng chân dập nát, da thịt chỗ đó bầy nhầy. Máu vẫn chảy từ vết thương chưa được băng bó. Da thằng bé bợt nhớt như con cá ươn, ngực thoi thóp và đôi mắt long lanh đảo nhìn mọi người như cầu cứu. Trong túi áo ngực của nó còn thò ra xấp vé số ướt nhẹp.
Gã xe ôm nhìn thằng bé mà ứa nước mắt. Gã chợt quỳ mọp xuống trước mặt ông bác sĩ, hai tay cầm mấy tờ bạc cô gái điếm vừa đưa đội lên đầu:
– Tôi lạy bác sĩ! Bác sĩ làm ơn cứu thằng bé!…
Khuôn mặt đen sạm của gã xe ôm méo mó khổ sở. Ông bác sĩ ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhịp nhịp chân phải…

Gã xe ôm biết có quỳ xin cũng không được. Gã đứng dậy nói với cô gái điếm:
– Thôi được! Cô trông thằng bé, để tôi đi cầm đỡ chiếc xe vậy.
Cô gái điếm lau nước mắt:
– Hay anh… để em qua phòng bên kia… bán máu?
Gã xe ôm nhìn lướt qua thân hình gầy gò của cô gái, lắc đầu:
– Cô thì có bao nhiêu máu mà bán? Chưa chắc họ đã chịu mua…
Gã nói xong hấp tấp chạy ra cửa bệnh viện.

Lúc ấy phòng cấp cứu tiếp nhận thêm mấy bệnh nhân: Một cô gái tự tử vì thất tình, một anh chàng say rượu bị trúng gió và một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim – ông này được đưa tới bằng xe hơi Mercedes kèm hai Honda @ hộ tống. Người thân của ông nhà giàu đứng chật phòng cấp cứu. Bà vợ mập mạp của ông ta nhanh nhẹn dúi vào tay bác sĩ và cô y tá mỗi người một phong bao:
– Tốn kém bao nhiêu cũng được, bác sĩ mau mau cứu sống chồng tôi.
Ông bác sĩ vội vã rời cái bàn như bị bắt vít từ sáng, cô y tá cuống quýt đẩy băng ca… Ông bệnh nhân “đại gia” được đưa thẳng vào phòng chăm sóc đặc biệt không cần qua thủ tục nào.
Trong khi đó, thằng bé bị bỏ quên ngoài thềm cùng cô gái điếm.

… Ánh mặt trời rực rỡ chiếu xuống sân bệnh viện. Ba lá cờ phấp phới tung bay trên đỉnh cột thép không rỉ, trên cùng là cờ đảng,giữa là cờ tổ quốc và dưới cùng là cờ bệnh viện với hình con rắn mổ cái cốc thủy tinh. Cuộc chào cờ buổi sáng thứ hai của cán bộ nhân viên bệnh viện vừa kết thúc. Người thân của những bệnh nhân nghèo kéo nhau tụ tập dưới chân cột cờ để nhận cơm, nhận cháo từ thiện của một sư bà mang tới.
Đang múc cơm cháo cho mọi người, sư bà bỗng nghe tiếng kêu rên của thằng bé từ phòng cấp cứu vọng ra. Bà ngừng tay lắng nghe… tiếng kêu rên càng lúc càng rõ hơn… Bằng tâm thức của một người tu hành, sư bà thấu hiểu tiếng kêu tuyệt vọng của một sinh linh. Bà vội trao công việc phát cơm cháo cho người khác rồi chạy tới.

Thằng bé đã kiệt sức, mắt nhắm nghiền… Cô gái điếm bất lực ngồi bên cạnh. Sư bà cúi sát xuống khuôn mặt trẻ thơ trắng bệt:
– Nam mô A Di Đà Phật!…
Thằng bé mở mắt nhìn bà sư, nước mắt nó ứa ra. Sư bà nhìn chiếc áo phụ nữ vấy máu, rồi liếc qua cô gái ốm yếu ăn mặc hở hang phong phanh… Bà hiểu ngay sự tình, liền quay lại chỗ phát cơm cháo từ thiện, nói với mọi người:
– Thưa quý vị! Trong kia có một đứa trẻ đang hấp hối vì không có tiền nhập viện. Tôi biết quý vị ở đây cũng không giàu có gì…
Sư bà chỉ nói được như vậy. Những người nghèo khó lại có trái tim nhạy cảm – họ hiểu ngay điều sư bà muốn nói và việc cần làm. Thế là chiếc vung nồi cháo từ thiện biến thành thùng công đức…
Vừa lúc đó gã xe ôm trở về, mặt mướt mồ hôi. Gã đã cầm được chiếc xe gắn máy là cần câu cơm của gia đình, phải năn nỉ mãi mới được triệu rưỡi, cộng với số tiền của gã, của cô gái và lòng hảo tâm của nhiều người nghèo, may quá được hơn hai triệu! – Đủ ứng tiền nhập viện cho thằng bé.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngồi quây quần bên nhau ở góc sân chia nhau húp những bát cháo từ thiện.
Bỗng cô y tá xăm xăm đi tới nói với gã xe ôm:
– Thằng bé cần phải tiếp máu. Nhóm máu O…
– Trời! – Gã xe ôm thốt lên! Thẩn thờ đặt bát cháo đang húp dở xuống nền gạch…
Bầu không khí như chết lặng trước tình huống bất ngờ. Cô gái điếm bỗng lên tiếng:
– Máu O à!?… Tôi nhóm máu O!…
Nói xong, cô nhanh chóng theo y tá vào phòng hiến máu. Gã xe ôm cũng vội vã bước theo…

Nửa giờ sau gã xe ôm dìu cô gái điếm ra. Trên gương mặt nhợt nhạt của cô hé nở nụ cười.

Minh Diện
Anh Nguyễn v. Thập gởi

__._,_.___

Đột kích nhà mẹ đẻ: Tuyên bố không thừa nhận bố mẹ

Đột kích nhà mẹ đẻ: Tuyên bố không thừa nhận bố mẹ
nguồn: Báo Datviet.vn
(ĐVO) – Ngày 12/12, cụ Nguyễn Thị Muộn (82 tuổi) đã có đơn trình báo gửi cơ quan chức năng tố cáo hai người con trai thuê côn đồ đột nhập vào nhà cụ cắt khóa, sinh sống trong nhiều ngày.
Con trai
Cụ Nguyễn Thị Muộn (82 tuổi, Láng Hạ, Hà Nội) sinh được 7 người con, 2 gái, 5
trai.
Theo trình bày của cụ Muộn, cụ có quyền sử dụng thửa đất cùng quyền sở hữu nhà
ở tại địa chỉ: 153 phố Láng Hạ, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, HN theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số do Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, cấp ngày 26/04/2012 mang tên bà Nguyễn
Thị Muộn (có chồng là ông Đào Văn Sỏi đã chết).
Hình ảnh được cho là nhóm côn đồ đã phá khóa, chiếm nhà cụ muộn
Hình ảnh được cho là nhóm côn đồ đã phá khóa, chiếm nhà cụ Muộn
Nhưng 2 phòng của ngôi nhà ở tầng 1 (nơi cụ Muộn vẫn sống và thờ cúng chồng) bị con trai cả của cụ là Đào Văn Chung (60 tuổi, phố Hàm Long, phường Hàng Bài) cho một chủ cửa hàng kinh doanh nước đóng bình thuê bất hợp pháp (cửa hàng kinh doanh nước chính là của ông Chung làm chủ thuê vợ chồng anh em trai quản lý).
Sau khi cụ Muộn cùng 5 người con đuổi nhân viên cửa hàng ra khỏi nhà để cho người khác thuê lại, người con trai út là Đào Minh Lợi cùng vợ xông vào hành hung, khóa cửa lại. Người thuê mới buộc phải dùng khóa khác, khóa lần 2.
Ngày 7/12, ông Lợi đã thuê các đối tượng xã hội và các đối tượng mạo danh
thương binh đến cắt khóa nhằm chiếm căn phòng. Cụ Muộn đã trình báo chính quyền
địa phương nhưng không được giải quyết.
Ngày 11/12, anh Lợi cùng vợ tiếp tục thuê hàng chục đối tượng xã hội cùng nhiều
xe tự chế (giả xe thương binh) đến tiếp tục cắt khóa cả cửa trong và cửa ngoài,
chiếm dụng cả 2 phòng. Các đối tượng còn ăn ở, sinh hoạt trái phép trong nhà từ
ngày 11/12 đến chiều tối ngày 14/12.
“Nó còn đổ mắm tôm, dầu nhớt trước cửa để cho tôi đi trơn ngã mà chết”, cụ Muộn cay đắng cho biết.
Cụ Muộn cùng các con đã phải cầu cứu công an phường Láng Hạ và cảnh sát 113,
nhưng khi cơ quan chức năng đến lại chỉ đứng nhìn mà không giải quyết.
Trước hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật của
các đối tượng, cụ Muộn đã có đơn cầu cứu tới các cơ quan chức năng. Trong đơn
cụ viết: “Là một công dân lương thiện, tôi khẩn thiết mong quý cơ quan có
biện pháp can thiệp kịp thời để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của gia đình tôi,
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật”.
Ngày 18/12, trao đổi với phóng viên, cụ Muộn chỉ mong muốn được trả lại tầng 1
của ngôi nhà cho cụ ở đỡ phải leo lên, leo xuống.
Theo anh D (người thuê gian nhà tầng 1 của cụ Muộn để bán phở) cho biết:
“Có khoảng 7 xe giả xe thương binh xếp thành hàng dài dọc ngõ 151 Lạng Hạ.
Mỗi xe ít nhất là một người, họ có phải là xã hội đen hay đầu gấu hay không tôi
không biết. Tôi chỉ thấy họ vào nhà ngồi trong nhà nhưng không đập phá, đánh
đập hay gây gổ gì.
Sự việc kéo dài trong mấy ngày, nhưng vì là người thuê nhà nên tôi cũng không
quan tâm chuyện nhà chủ. Nói ra nói vào không phải đầu cũng phải tai”, anh
D cho biết.
Một cụ ông ngõ 151 cho biết thêm, mâu thuẫn thực chất đã xảy ra từ mấy năm
trước. Nhiều lần cụ thấy chuyện tranh chấp, xảy ra giữa anh em, mẹ con tại ngôi
nhà này.
Không thừa nhận bố mẹ
Theo cụ Muộn, mọi mâu thuẫn bắt nguồn từ quyển sổ đỏ của cụ bị vợ chồng ông Đào
Văn Chung tự ý đi làm thủ tục sang tên đổi chủ. “Nó bảo tôi cho nó mượn
quyển sổ đỏ để làm thủ tục kê khai. Ai nghĩ rằng nó lại làm lại sổ đứng tên vợ
chồng nó mà gạt tên tôi ra khỏi sổ”.
Ông Đào Văn Chung và Đào Minh Lợi đã có đơn gửi cơ quan chức năng không thừa nhận cụ Muộn là mẹ đẻ của mình
Ông Đào Văn Chung và Đào Minh Lợi đã có đơn gửi cơ quan chức năng không thừa nhận cụ Muộn là mẹ đẻ của mình
Nghĩ rằng, cũng là con cái, nhà cửa không ai khiêng đi được nên cụ Muộn cũng bỏ qua. Đến khi các con cụ ở nước ngoài trở về đã yêu cầu trả lại tên sổ đỏ cho cụ.
Đến ngày 26/4/2012, Ủy ban quận Đống Đa đã ra quyết định hủy sổ đỏ của vợ chồng
ông Chung, cấp lại GCN Quyền sở hữu cho cụ Muộn.
Ngày 25/10/2012, ông Chung cùng em trai là Đào Minh Lợi đã có Đơn khiếu nại
khẩn cấp gửi các cơ quan chức năng cho rằng chính quyền địa phương đã cấp nhầm
sổ đỏ cho người đã chết.
Vì sổ hộ khẩu mới cấp cho cụ Nguyễn Thị Muộn và chồng là Đào Văn Sỏi (đã chết).
Nhưng hai người đó không phải là bố mẹ ông.
Theo ông Chung, bố mẹ ông phải là cụ Đào Văn Sõi (đã chết) và mẹ là Nguyễn Thị
Muôn (chứ không phải là cụ Muộn và cụ Sỏi).
Do vậy, các giấy chứng nhận sở hữu nhà đất tại số nhà 153 phường Láng Hạ mà UBND
quận Đống Đa cấp ngày 26/4/2012 cho cụ Nguyễn Thị Muộn và chồng là Đào Văn Sỏi
(đã chết) là trái pháp luật vì… hai người có tên trong sổ mới không phải là
mẹ và bố ông Chung, không phải là chủ sử dụng mảnh đất tại 153 phố Láng Hạ,
quận Đống Đa, Hà Nội.
Sau khi cấp lại giấy chứng nhận, cụ Muộn đã đòi lại 1 phòng tầng 1 cho thuê lại
với giá 21 triệu/tháng. Căn phòng thứ 2 do Công ty nước của con trai cụ Đào Văn
Chung và Đào Minh Lợi là nhân viên không chịu rời đi dù đã được cụ đưa thông
báo.
Cụ Muộn cùng các con đã dùng khóa khóa cửa phòng, cho người khác thuê, dẫn đến
sự việc ông Lợi thuê người đến phá khóa, đột nhập vào sinh sống trong nhà.
“Ngôi nhà 153 Láng Hạ là ngôi nhà do bố mẹ tôi là ông Đào Văn Sõi và mẹ Nguyễn Thị Muôn để lại, những người tên là Nguyễn Thị Muộn và ông Đào Văn Sỏi không phải là bố mẹ của chúng tôi,
không có quyền hành gì tại ngôi nhà 153 Láng Hạ”, ông Lợi và ông Chung khẳng định.
Tuy nhiên, tại công văn trả lời của Ủy ban nhân dân quận Đống Đa, đã khẳng
định, việc cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà ở cho cụ Muộn là hoàn toàn hợp pháp.
Đồng thời cũng khẳng định, cụ Nguyễn Thị Muộn với cụ Đào Văn Sỏi chỉ là một.
Việc ông Chung phủ nhận bố mẹ, cho rằng cụ Muộn và ông Sỏi không phải bố mẹ ông
Chung là không có cơ sở.
Trả lời phóng viên, ông Cáp Quang Thành – Trưởng công an phường Láng Hạ cho biết,
những đối tượng đó không phải là xã hội đen. Khi công an xuống, thì họ đã rút hết
khỏi hiện trường.

Ông Thành cũng cho biết, căn phòng đó là nơi vợ chồng ông Lợi đã từng sinh sống,
làm ăn từ nhiều năm nay, giờ đang xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, ông Thành không nói rõ về hình thức xử lý những đối tượng này. Theo
ông Thành, đó là chuyện nội bộ trong gia đình.

Những bóng hồng làm nguyên thủ quốc gia

Những bóng hồng làm nguyên thủ quốc gia

Giới lãnh đạo nữ trên thế giới vừa bổ sung thêm một nhân vật, nữ Tổng thống Hàn Quốc, Park Geun-hye.

Bà Park Geun-hye trở thành tân Tổng thống Hàn Quốc hôm qua. Bà là con của cựu Tổng thống Park Chung-hee. Ở tuổi 61, bà Park chưa chồng và không có con. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc giữ cương vị này.
Yingluck Shinawatra sinh ngày 21/6/1967. Bà trở thành thủ tướng thứ 28 của Thái Lan từ hồi tháng 8/2011. Bà Yingluck là nữ Thủ tướng Thái Lan đầu tiên trong lịch sử quốc gia này và là thủ tướng trẻ tuổi nhất Thái Lan trong vòng 60 năm qua.
Cristina Fernández de Kirchner sinh ngày 19/2/1953. Bà là đương kim tổng thống thứ 55 của Argentina và là góa phụ của người tiền nhiệm Néstor Kirchner. Bà Cristina là nữ tổng thống đầu tiên của Argentina được bầu và là bóng hồng thứ 2 giữ cương vị này trong lịch sử. Trước đó, bà Isabel Martínez de Perón đã là tổng thống của Argentina từ năm 1974 đến 1976.
Helle Thorning-Schmidt năm nay 57 tuổi. Bà trở thành Thủ tướng Đan Mạch từ ngày 3/10/2011 và cũng là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đảm nhiệm cương vị này.
Bà đầm thép Angela Merkel là nữ thủ tướng đầu tiên của Đức. Bà năm nay 59 tuổi. Bà Markel đảm nhiệm chức vụ đứng đầu nước Đức từ năm 2005.
Dilma Vana Rousseff sinh năm 1947, là đương kim tổng thống thứ 36 của Brazil. Bà cũng người phụ nữ đầu tiên ở quốc gia Mỹ La tinh này trở thành người đứng đầu đất nước.
Julia Eileen Gillard sinh năm 1961, hiện là thủ tướng thứ 27 của Australia. Bà đảm nhiệm công việc này từ tháng 6/2010 và cũng là bóng hồng đầu tiên trong lịch sử quốc gia này làm thủ tướng.
Ellen Johnson Sirleaf năm nay 64 tuổi, là tổng thống thứ 24 của Liberia. Trước đó, bà đã là bộ trưởng Tài chính từ năm 1979 đến năm 1980 dưới thời của Tổng thống William Tolbert. Cho đến nay, bà đã là tổng thống của Liberia được 7 năm. Bà là phụ nữ châu Phi đầu tiên trở thành người đứng đầu nhà nước.
Sheikh Hasina sinh năm 1947, là Thủ tướng Bangladesh từ năm 2009. Trước đó, bà cũng có một giai đoạn làm thủ tướng nước này từ 1996 đến 2001. Bà Sheikh cũng chính là con gái đầu lòng của Tổng thống Bangladesh đầu tiên,
Sheikh Mujibur Rahman.
Laura Chinchilla Miranda năm nay 54 tuổi và là tổng thống nữ đầu tiên của Costa Rica trong lịch sử nước này. Bà là phụ nữ thứ 6 trong lịch sử châu Mỹ La tinh giữ cương vị tổng thống và tổng thống nữ đầu tiên của Costa Rica từ tháng 5/2010.
Jóhanna Sigurðardóttir sinh năm 1942, là thủ tướng của Iceland. Bà cũng là nữ thủ tướng đầu tiên của quốc gia này đồng thời là nhà lãnh đạo Chính phủ đầu tiên công khai đồng tính.
Kamla Persad-Bissessar sinh năm 1952, là nữ thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Trinidad và Tobago. Bà nhậm chức tháng 5/2010.
Dalia Grybauskaitė là tổng thống của Lithuania, bà nhậm chức tháng 7/2009. Bà Dalia là người phụ nữ đầu tiên ở đất nước này giữ cương vị đứng đầu nhà nước.

 

Truyện Rất Ngắn

Truyện Rất Ngắn

“VỢ CHỒNG

Mỗi lần đi du lịch, anh thường bật cười trước tính nhút nhát của chị.

Xe qua đèo: sợ

Lên núi cao: sợ

Biển sóng lớn: sợ

Những lúc như thế, anh thường ôm lấy chị, vỗ
về:

– Đừng sợ, đã có anh ở đây. Can đảm lên em!

Công ty phá sản!

Từ cương vị giám đốc, anh quay về với 2 bàn tay trắng.

Anh suy sụp, hốc hác.

Chị ôm anh vào lòng, xoa xoa mái tóc:

– Đừng tuyệt vọng, anh còn có em mà.

Can đảm lên anh nhé!”

Cái bóng

Ông luôn phàn nàn về cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn mà gia đình dành cho mình. Ông
chê bà ít học, chẳng tương xứng với sự lịch lãm của ông. Mọi việc ông thường tự
quyết, chẳng coi bà vào đâu. Bà tồn tại bên ông như cái bóng lặng lẽ trong cuộc
sống chung có nhiều thăng trầm.

Một ngày, bà nhẹ bỏ ông sau một cơn bạo bệnh. Ông ra vào ngẩn ngơ như thể đang
kiếm tìm. Nhà thiếu bà, ông mới thấy rõ những khỏang trống. Ông nhận ra sự lịch
lãm cũng chẳng tạo nên được một gia đình nếu thiếu đi sự hy sinh

Ăn cơm

Thằng Tèo ngồi tiu nghỉu. Tựa lưng vào cây trứng cá bên hông nhà, thỉnh thoảng
nó giơ tay gạt nước mắt.

Không biết chuyện gì? Cả buổi sáng nay ba má nó liên hồi ẩu đả. Bỏ ông táo lạnh
tanh. Giờ mỗi người mỗi góc.

Rồi cuộc chiến lại tiếp tục. Từ võ ba càng chuyển sang võ miệng. Bỗng má nó lớn
giọng :

– Ông ăn chả, tôi ăn nem. Mặc xác ông!

Đến đây, cái bao tử thúc giục, Tèo tham chiến :

– Con không thèm ăn thứ đó, con chỉ muốn ăn cơm thôi!”

Chiếc đài

Theo bạn bè, cô đòi bằng được bố mua cho chiếc đài nghe nhạc. Đưa cô ra hàng đồ
cũ, ông chọn cho cô chiếc đài rẻ tiền nhất nhưng với hy vọng nó là cái tốt
nhất. Hai tháng sau, đài hỏng.

“Bố chỉ ham đồ rẻ, không mua đồ tốt cho con. Tại sao bố lại keo kiệt
thế?” cô phụng phịu

“Con muốn biết thì đứng đón bố ở cửa” mẹ cô gợi ý

Từ hôm đó, ngày nào, cô cũng đứng trước cửa đợi. Ngày nào ông cũng đi về với
cùng một chiếc quần cũ sờn màu.

MÙA CÁ BÔNG LAU

Quê tôi ở ngã ba sông Vàm Nao, nơi nổi tiếng có nhiều cá bông lau. Dầu vậy, giá
cá ở đây cũng không phải rẻ.

Đến mùa, thi thoảng má mua một khứa cá nhỏ nấu nồi canh chua để cả nhà cùng ăn.
Thường anh chị em tôi nhường phần cá cho má. Má nói cá tanh, thích rau hơn.

Cậu ở thành phố xuống đòi ăn chua cá bông lau má nấu. Cậu chạy mua con cá to.
Đến bữa không thấy má gắp cá. Cậu bảo:”Hồi xưa chị thích nhất món cá này?”.

Tôi thấy má tôi bối rối.

Lời mẹ

Con đi học xa. Mẹ dặn:

– Cuộc sống ở trọ không như ở nhà. Từ nay con phải tự lo cho mình.

Chị lấy chồng. Mẹ lại bảo:

– Sống bên nhà chồng chẳng khác gì ở trọ. Con phải biết cách làm đẹp ý gia đình
chồng. Có như vậy, cuộc sống của con mới được hạnh phúc.

Thời gian trôi, con ra trường. Con không còn ở trọ mà trở về bên mẹ. Con cảm
thấy vui vẻ và ấm áp hơn.

Còn chị, chị xa chồng, cũng về với mẹ. Nhưng chị không còn tươi tắn như ngày
nào. Mẹ nhìn chị khẽ thở dài.

Dấu chấm hỏi

Ngày đầu tiên cô phụ trách một lớp học tình thương đa phần là những trẻ lang thang không nhà cửa. Cuối buổi học.

– Cô ơi. Dạy tụi con hát đi cô.

– Hát đi cô. Còn mười phút. Nhìn những cái miệng tròn vo và những đôi mắt chờ đợi, cô dạy cho tụi trẻ bài “Đi học về”.

– Hát theo cô nè… Đi học về là đi học về.
Con vào nhà con chào ba mẹ. Ba mẹ khen… Phía cuối lớp có tiếng xì xào:

– Tao không có ba mẹ thì chào ai? – … Cô chợt rùng mình, nghe mắt cay cay.”

Lệ trần

Chuyện kể rằng, ở miền nọ có chàng trai, cô gái yêu và thương nhau rất nhiều.

Họ quấn quýt bên nhau, vui cười hạnh phúc như chẳng có thứ gì có thể chia lìa
đôi lứa.

Nhưng rồi một ngày, cô gái chết đi, để lại chàng trai trong muôn vàn xót thương.

Chàng khóc. Chàng khóc ngày này qua ngày khác, người đời mủi lòng, khuyên nhủ
chàng nên để ký ức được ngủ yên. Nhưng chàng vẫn khóc, khóc rất nhiều.

Rồi một đêm, trong giấc mơ, chàng thấy mình đứng trước ngưỡng cửa thiên đường.
Có rất nhiều các cô gái trong trang phục dạ hội lộng lẫy, trên tay cầm những
ngọn nến lung linh, huyền ảo. Và chàng thấy người yêu chàng, cũng áo quần lộng
lẫy, cũng ngọn nến trên tay, nhưng nến tắt.

Chàng hỏi:

– Sao em không thắp nến lên?

Nàng rơi lệ:

– Mỗi lần em chưa kịp thắp lên thì nước mắt anh lại rơi xuống. Van anh, xin anh
đừng khóc nữa!

Nếu lỡ mất đi người thân yêu nhất, bạn chọn cố gắng sống hạnh phúc để người đó
được an nghỉ hay mãi chìm trong khổ đau của cả hai?

Anh Nguyễn Thập gởi

‘Cái nước mình nó thế!’

‘Cái nước mình nó thế!’

Nguyễn Hưng Quốc

24.12.2012

nguồn: VOA

Từ trên dưới 10 năm nay, một trong những câu nói cửa miệng của mọi người, đặc biệt giới trí thức, ở Việt Nam, chắc chắn là câu “Cái nước mình nó thế!” Nghe nói câu ấy xuất phát từ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng tôi không chắc. Tôi chỉ chắc một điều: mỗi lần nghe đề cập đến tình trạng bi đát, nhiễu nhương, trớ trêu và bất công ở Việt Nam, ai nấy đều buông một câu, thoạt nghe, có vẻ đầy ưu thời mẫn thế: “Cái nước mình nó thế!”

Đường xá càng lúc càng xuống cấp, ở đâu và lúc nào cũng kẹt xe, tai nạn giao thông thuộc loại đứng đầu thế giới ư? – Cái nước mình nó thế! Giáo dục càng lúc càng suy đồi, học trò đạo văn; thầy cô giáo cũng đạo văn; thi cử thì đầy gian lận, bằng cấp giả tràn lan ở mọi cấp ư? – Ừ, thì cái nước mình nó thế! Kinh tế càng lúc càng suy thoái, hết đại công ty này phá sản đến tập đoàn quốc doanh kia phá sản, nợ nần quốc gia cứ chồng chất ư? – Ừ, thì cái nước mình nó thế! Chính trị sa lầy trong bế tắc, đối với dân thì độc tài và tàn bạo; với nước ngoài thì hèn yếu và xu nịnh ư? – Ừ, thì cái nước mình nó thế!

Vân vân.

Câu nói ấy không phải không đúng. Nó đúng ở hai khía cạnh. Thứ nhất, trên thực
tế, quả thật tình hình Việt Nam càng ngày càng bế tắc. Bế tắc một cách đặc biệt, không giống với bất cứ một nước bình thường nào khác. Bế  tắc triền miên. Gỡ cái này thì vướng cái khác. Sửa cái sai này thì cái sai khác lại xuất hiện, có khi còn trầm trọng hơn. Thứ hai, về phương diện tâm lý, nó cũng phản ánh được tình trạng tuyệt vọng của mọi người. Người ta hiểu rõ tất cả bi kịch nhưng không biết cách nào thoát khỏi được bi kịch.

Tuy nhiên, ngay cả khi đúng về hai phương diện vừa kể, câu nói ấy vẫn sai.

Hơn nữa, sai một cách nguy hiểm.

Thứ nhất, nó là biểu hiện của tư tưởng định mệnh chủ nghĩa. Nó làm như mọi thứ
đã được an bài, gắn liền với bản chất của người Việt Nam. Của dân tộc Việt Nam.

Nhưng chắc chắn sự thật không phải như vậy. Tất cả những cái dốt, cái ngu, cái
tham, cái ác và cái vô liêm sỉ trong chế độ cũng như trong xã hội Việt Nam hiện
nay không phải vì “cái nước mình nó thế”. Trong lịch sử, nước mình không thế.
Ngày xưa, cả hàng ngàn năm, người Việt Nam đã từng bất khuất trước một nước
Trung Hoa to lớn và hùng mạnh, hơn nữa, trước một nước Mông Cổ từng giẫm nát
gần hết châu Á và một phần châu Âu. Ngày xưa, ngay cả dưới thời phong kiến, cha
ông chúng ta cũng không phải chịu đựng nạn tham nhũng tràn lan như bây giờ. Chỉ
cách đây hơn 40 năm, ở miền Nam, ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt,
giáo dục cũng không suy đồi như bây giờ; sinh viên và giáo sư không ăn cắp văn
chương của người khác một cách phổ biến như bây giờ; học trò không khinh thường
thầy cô giáo như bây giờ. Ở miền Nam lúc trước cũng như cả thời Pháp thuộc,
người bị bệnh, khi vào bệnh viện, không phải đút lót hết người này đến người
khác, từ y công đến y tá và bác sĩ như bây giờ. Thời nào giới làm chính trị cũng nói dối, nhưng chưa bao giờ họ nói dối một cách trơ trẽn như bây giờ.

Xem cái dốt, cái ngu, cái tham, cái ác và cái vô liêm sỉ là bản chất của dân tộc Việt Nam rõ ràng là không đúng.

Mà thật ra, trên thế giới, không có dân tộc nào có bản chất như vậy cả. Những
cái xấu như thế không có tính chất bẩm sinh. Chúng chỉ là những hiện tượng có
tính chất lịch sử. Ngay cả một dân tộc vĩ đại như Nga hay Trung Quốc, bình
thường vĩ đại, nhưng dưới chế độ độc tài, bỗng dưng thành dốt, ngu, tham, ác và
vô liêm sỉ một cách lạ lùng. Nhiều quốc gia khác ở Tây phương, bình thường đầy
nhân đạo, nhưng thời tư tưởng thực dân chủ nghĩa bành trướng, cũng trở thành
tham và ác, dù không phải lúc nào họ cũng dốt, ngu và vô liêm sỉ.

Bởi vậy, câu “cái nước mình nó thế”, thật ra, là một câu nói vô nghĩa.

Nói “chế độ mình nó thế” thì được. Còn “nước mình nó thế” thì sai.

Thứ hai, gắn liền với chủ nghĩa định mệnh, câu nói ấy cũng mang tính đầu hàng
chủ nghĩa. Trước mọi nghịch cảnh, chỉ cần buông câu “cái nước mình nó thế”, người ta dễ có cảm tưởng an tâm và chấp nhận những nghịch cảnh ngang trái ấy như một cái gì hiển nhiên, đương nhiên, không thể tránh thoát. Nó tiêu diệt mọi ý chí phản kháng, hơn nữa, mọi nỗ lực thay đổi. Nó tạo ra vẻ ưu thời mẫn thế giả. Nó đóng kín mọi lối ra. Thực chất, nó dễ trở thành một sự đồng loã với những cái dốt, cái ngu, cái tham, cái ác và cái vô liêm sỉ.

Nhà cầm quyền Việt Nam không cần một thái độ nào hơn cái thái độ ấy.

Bởi vậy, tôi nghĩ, người Việt Nam hiện nay nên tập nghĩ và tập nói: CÁI NƯỚC
MÌNH NÓ KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!

Không thể.

 

Thánh Stêphanô

Thánh Stêphanô
(c. 36?)
26 Tháng Mười Hai

Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
“Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ‘Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.’ Ðề nghị trên
được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy
Thánh Thần,…” (CVTÐ 6:1-5)
Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan  và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.


Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. “Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy” (CVTÐ 7:51b).
Lời ngài nói đã làm họ tức giận. “Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, ‘Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.’… Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài… Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con… Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'” (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).

Lời Bàn
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết “sung sướng” lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi