TRÁNH SỰ NGỘ NHẬN

TRÁNH SỰ NGỘ NHẬN

Thánh Gia-cô-bê dạy: “Mau nghe, chậm nói, khoan giận” (Gc 1,19).

Trong cuộc sống hằng ngày, một vấn đề thường xảy ra làm phương hại đến quan hệ giữa các cá nhân với nhau là sự ngộ nhận về người khác.  Nhiều khi sự hiểu lầm còn dẫn đến hậu quả tai hại khôn lường, mà dù hối hận đến đâu cũng không thể bù đắp được những thiệt hại đã gây ra.  Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:

Năm đó tại ALASKA Hoa Kỳ, có một đôi vợ chồng sống chung với nhau trong một căn nhà ở bìa rừng.  Sau một thời gian, chị vợ mang bầu và đã từ giã cuộc đời trong lúc sinh con, để lại cho chồng một bé trai kháu khỉnh.  Từ khi vợ chết, anh chồng vất vả với cảnh gà trống nuôi con: hằng ngày anh phải địu đứa con theo vào rừng săn bắn và chở gỗ mang đến nhà máy gần chợ bán lấy tiền nuôi con. Rất may, một ngày kia anh đã gặp một con chó hoang đang bị thương nằm thoi thóp bên đường, anh liền mang về nhà chăm sóc và huấn luyện trở thành chó nhà giúp việc đắc lực cho anh.  Đây là giống chó bẹc-dê rất thông minh và mạnh khỏe.  Nó luôn ngoan ngoãn đi theo giúp chủ chăm sóc em bé khi chủ làm việc trong rừng.

Ngày nọ, anh chủ nhà có việc phải ra khỏi nhà không tiện mang theo con nhỏ.  Trước khi đi, anh ta đã dặn dò con chó phải ở nhà thay anh trông coi đứa bé cho anh.  Lẽ ra công việc chỉ cần sáng đi tối về, nhưng hôm đó trời có bão tuyết, nên anh đành phải ở nán lại tránh tuyết mãi đến trưa hôm sau mới về đến nhà.  Anh hơi chột dạ khi thấy cổng ngoài nhà anh đã bị mở toang và con chó của anh từ trong nhà khập khiễng chạy ra vẫy đuôi chào chủ.  Thấy miệng con chó còn dính đầy máu tươi, anh liền chạy vào nhà thì thấy một quang cảnh tan hoang: Đồ đạc lộn xộn, chỗ nào cũng có máu đỏ, ngay cả trên giường cũng bê bết máu nhưng không thấy con anh đâu cả.  Anh gọi nhưng không thấy con trả lời. Nghĩ là con chó của anh đã trở lại cái tính dã man của loài thú hoang trước kia để ăn thịt con mình, trong lúc nóng giận, anh liền rút súng ra nhắm bắn vào đầu con chó tội phạm.  Nó chỉ kịp kêu “ẳng” lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất giãy chết.  Ngay lúc đó, anh đã nhìn thấy đứa con của anh đang từ dưới gầm giường bò ra và kêu lớn tiếng gọi ba.  Anh vội bồng con lên quan sát từ đầu đến chân.  Tuy trên mình nó cũng có vết máu, nhưng dường như con anh không bị thương chỗ nào cả.  Anh nhìn lại con chó, thấy trên đùi của nó bị mất một miếng thịt, và tại góc nhà gần đó là xác một con chó sói bị chết nằm giơ bốn vó lên, trên miệng con chó sói vẫn còn đang ngậm miếng thịt cắn con chó nhà anh.  À, thì ra con chó bẹc-dê của anh đã anh dũng chiến đấu chống lại chó sói để cứu cậu chủ, nhưng lại bị chính ông chủ “lấy oán đền ơn” ra tay giết hại oan uổng.  Đây là một sự ngộ nhận gây hậu quả nghiêm trọng, mà từ đó về sau mỗi lần nghĩ tới anh đều cảm thấy áy náy và đau nhói trong tim.  Anh luôn tự trách mình đã quá nóng nảy hồ đồ, khi chưa hiểu rõ thực hư, đã vội giết chết con chó trung thành đã có công bảo vệ con mình khỏi bị sói rừng cắn xé.

***********************************************

Nguyên nhân dẫn đến ngộ nhận hiểu lầm một phần là do tính nóng nảy giận dữ như người ta thường nói: “Giận quá mất khôn”.  Phần khác do có thành kiến về người khác như anh chủ nhà trong câu chuyện trên đã nghĩ sai là con chó bị biến đổi về tính hoang dã trước kia.  Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do thái độ thiếu kiên nhẫn và quyết định hồ đồ khi chưa biết rõ thực hư như anh chủ nhà đã hấp tấp giết hại con chó trung thành.

Sự ngộ nhận tiến triển từ sự nghĩ không tốt cho đối phương, làm cho sự hiểu lầm càng lúc càng thêm trầm trọng, đưa đến chỗ không thể ngồi lại nói chuyện phải quấy với nhau được.  Ngộ nhận đối với một con vật mà đã phát sinh hậu quả nghiêm trọng như câu chuyện trên, thì sự ngộ nhận giữa người với người còn tác nghiêm trọng đến mức độ nào.

***********************************************

Lạy chúa, trong cuộc sống chung với tha nhân, chúng con thường hay hiểu sai về người khác và cũng thường bị người khác hiểu không đúng về mình.  Theo con nghĩ: nguyên nhân chính dẫn đến hiểu lầm về nhau là do thành kiến về người khác, do thái độ hồ đồ thiếu cẩn trọng khi xét đoán sự việc, và hành động theo tính nóng nảy của mình.  Xin cho chúng con quyết tâm thực hành lời Chúa trong thư thánh Gia-cô-bê Tông Đồ: “Mau nghe, chậm nói và khoan giận”.  Nhờ đó, chúng con sẽ bình tĩnh suy xét thấu đáo mọi việc và hành xử đúng đắn trước bất cứ tình huống nào trong cuộc sống chung xã hội.

LM Đan Vinh – hhtm

From: langthangchieutim

Kêu gọi trả tự do cho tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu!

Kêu gọi trả tự do cho tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu!

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-07-16

07162013-urgen-cal-obsc-priso-ng-h-cau.mp3

Cháu Yến Nhi

Cháu Yến Nhi

Files photos

Nghe bài này

Tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu người bị giam tù tổng cộng cho đến lúc này là 37 năm hiện sức khỏe rất yếu kém trong trại giam. Gia đình và một số tổ chức quốc tế lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay cho ông nếu không sẽ chết trong tù.

Cháu kêu oan cho ông

Cô bé Trần Phan Yến Nhi, năm nay 14 tuổi, và mới hồi đầu tháng sáu vừa qua trong chuyến cùng gia đình đi thăm ông Nguyễn Hữu Cầu tại trại giam Z30 A Xuân Lộc, Đồng Nai mới biết mặt người sinh ra cha của cháu.

Đến ngày 7 tháng 7 vừa qua, trên mạng Internet xuất hiện Thư kêu oan cho ông nội của cháu Trần Phan Yến Nhi. Trong thư cháu nhắc đến 30 phút thăm gặp mà người ông cho biết tình hình sức khỏe hiện rất yếu do những bệnh tật mù mắt trái, mắt phải chỉ còn thấy mờ mờ, suy tim nặng, máu không lên não được, hay bị xỉu, răng rụng hết chỉ còn một chiếc, đau dạ dày kinh niên và tóc bị nấm.

“Cô bé Trần Phan Yến Nhi cho biết gia đình từ thời cụ cố cho đến nay đã có hơn 500 lá đơn kêu oan mà không có kết quả gì. Nay cháu gửi đơn đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới”

Chính ông Nguyễn Hữu Cầu trước khi chia tay những đứa cháu đã nói hãy về kêu oan cho ông nội. Cô bé Trần Phan Yến Nhi cho biết gia đình từ thời cụ cố cho đến nay đã có hơn 500 lá đơn kêu oan mà không có kết quả gì. Nay cháu gửi đơn đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới và mong những người lớn giúp chuyển đơn đến tận tay cho những người tại tổ chức đó với hy vọng giúp được cho người ông phải chịu tù qua hai thế kỷ.

Anh Trần Ngọc Bích, người con của ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1973 chỉ hai năm trước khi ông này bị đi học tập vào năm 1975 và không được mang họ cha, cho biết:

Ông Nguyễn Hữu Cầu, ảnh do cháu Yến Nhi chụp lén khi đi thăm ông nội lần đầu.

Ông Nguyễn Hữu Cầu, ảnh do cháu Yến Nhi chụp lén khi đi thăm ông nội lần đầu. Photo by Yen Nhi

Cảm nhận của con em khi đi thăm ông nội về thấy rất tội, cháu khóc hoài. Cháu có viết thư kêu oan, một bức gửi đến ông chủ tịch nước, một bức gửi bộ trưởng công an; nhưng cả hai bức đều chưa thấy trả lời. Và bức thư gửi tổ chức nhân quyền thế giới. Tôi cũng gửi thư đến các cô chú, ông bà lên tiếng cho ba tôi được ra ngoài; chứ nếu ở trong thì tôi nghĩ không bao lâu nữa ba tôi sẽ mất.

Khi đi thăm, mấy chú mấy bác có nói không được chụp hình vì nếu chụp hình lần sau họ sẽ không cho thăm. Thế nhưng đứa con của tôi lén dùng điện thoại của tôi và chụp được hai tấm hình của ông nội. Tôi nhắc cháu lời của các chú, các bác là không được chụp hình, cháu nói nếu không chụp lỡ khi ông nội bị chết trong trại  lấy gì mà thờ; và cháu nói nếu không cho thăm sẽ viết đơn thưa nữa.

“Cảm nhận của con em khi đi thăm ông nội về thấy rất tội, cháu khóc hoài. Cháu có viết thư kêu oan, một bức gửi đến ông chủ tịch nước, một bức gửi bộ trưởng công an; nhưng cả hai bức đều chưa thấy trả lời

Anh Trần Ngọc Bích”

Một tù nhân lương tâm từng bị giam chung với ông Nguyễn Hữu Cầu tại trại Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai, ông Trương Minh Đức cho biết một số thông tin mà ông này có được về tù nhân xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu:

Trước đây tôi ở chung với ông Nguyễn Hữu Cầu tại K2 Xuân Lộc, từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 3 năm 2010. Sau đó tôi bị chuyển sang trại khác; ông Cầu vài tháng sau cũng bị chuyển sang K3. Ông Cầu chịu án quá lâu, nhiều chứng bệnh răng rụng hết ăn uống khó khăn, mắt một bên bị mù, một bên chỉ thấy mờ mờ… Sau khi chuyển sang K3 cũng có thông tin về ông Cầu: những anh em xây dựng đi lưu động xây dựng các công trình, một anh cho biết ông Cầu cũng bị giữ cô lập không thể liên lạc gì. Sau này có nghe ông bị bệnh nặng nên phải chuyển về lại K2. Ở đó ông cũng bị cô lập không được sinh hoạt với tù chính trị để những người này có thể chăm sóc cho ông. Ông luôn bị cô lập và sức khỏe nay rất kiệt.

Văn bút quốc tế lên tiếng

Hồi cuối tháng ba vừa qua, Ủy ban Văn bút Quốc tế Bênh vực Nhà văn Bị đàn áp và Cầm tù ra Thông cáo/ Kháng nghị thư bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng của tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu trong trại giam Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai.

Văn bút Quốc tế cho rằng việc giam giữ và đối xử với ông Nguyễn Hữu Cầu như thế là vi phạm Điều 19, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết. Văn bút Quốc tế kêu gọi phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho ông Nguyễn Hữu Cầu. Theo tổ chức này thì nếu ông Cầu không được khẩn cấp trị bệnh và tự do tiếp nhận sự chăm sóc y tế cần thiết sẽ có nguy cơ chết trong tù.

“Văn bút Quốc tế cho rằng việc giam giữ và đối xử với ông Nguyễn Hữu Cầu như thế là vi phạm Điều 19, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết. Văn bút Quốc tế kêu gọi phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho ông Nguyễn Hữu Cầu”

Sang đầu tháng 7, tổ chức Văn Bút Anh cũng lên tiếng kêu gọi cần có hành động khẩn cấp cho nhà văn Nguyễn Hữu Cầu. Lý do cũng như Văn bút quốc tế nêu lên là vì quan ngại ông này sẽ chết ngay trong tù.

Văn bút Anh kêu gọi gửi thỉnh nguyện thư đến cho ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Anh Quốc. Song song đó là gửi thông điệp ủng hộ đến ông Nguyễn Hữu Cầu và gia đình của ông.

Sự trả thù?

Cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Đức cho biết ngay tại trại Z30 A Xuân Lộc, Đồng Nai đã có một số trường hợp phải chết rũ tù mà ông có thể nhớ được:

Trường hợp chết trong tù của anh em tù nhân lương tâm, tù chính trị có ông Nguyễn Văn Trại hồi năm 2011; trước đó có linh mục Nguyễn Văn Vàng. Ông này bị bỏ đói và bị cùm; khi ông chết đang bị cùm…Tôi vào ông Cầu kể lại nhiều chuyện rất độc ác trong trại này.

Xin phép được nhắc lại, ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1945, quê quán Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Ông từng là một nhà thơ, soạn giả bài hát và là một cựu sĩ quan quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước đây. Ông bị bắt làm tù binh hồi năm 1975 cho đến năm 1980. Năm 1981, ông viết đơn tố cáo và làm thơ lên án Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân và phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang về những hành vi tội ác như hối lộ, hiếp dâm… Ông bị bắt hồi tháng 10 năm 1982. Đến tháng 5 năm 1983, ông bị tòa sơ thẩm kết án tội phá hoại với mức tử hình. Mẹ ông kháng án, tại phiên xử phúc thẩm 2 năm sau đó án giảm xuống còn chung thân.

Như trình bày của cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Đức, khi vào tù ông Nguyễn Hữu Cầu thường bị biệt giam và đối xử hết sức khắc nghiệt. Thế nhưng ông vẫn cho rằng bản thân không hề có tội gì.

DÒNG SÔNG NHỚ THƯƠNG,

DÒNG SÔNG NHỚ THƯƠNG,

Sông sâu nước chảy hai màu,
Phù sa lớp lớp đua nhau đắp bồi,
Buồn đời hỏi lại riêng tôi,
Vì sao cứ phải xa xôi xóm nghèo,
Khi xưa bé bỏng mè nheo,
Nhìn người xuống bãi đua theo học đòi,
Lên tàu nước mắt như ngòi,
Thương thay số phận buồn thôi ngập dòng,
Bây giờ cách biệt thay lòng,
Đau đầy giếng mắt còn mong lối về,
Trăng cao khảm mấy câu thề,
Đòng đưa gió thổi hồn tê tái buồn,
Mây đùn nhỏ giọt mưa tuôn,
Câu thề rụng mất vào nguồn đáy sông…
Chèo xuồng vớt lại tình nồng,
Mà sao nước lại mênh mông khắp trời…

Liverpool.16/7/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
KT

Suy ngẫm

Suy ngẫm

Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử?

Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được.

Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ.

Ðời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được..

Ðời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa.

Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa. Ðến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiền, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng ngãng, mắt đã kèm nhèm.

Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..

Suốt đời cặm cụi, nhịn ăn nhịn mặc, để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi.

Người xưa đã nói:

Một năm được mấy tháng xuân

Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa

Và:

Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi

Bo bo giữ lấy của trời làm chi

Bẩy mươi chống gậy ra đi

Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi

Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần.

Ông Cả ngồi trên sập vàng

Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo

Ông bếp ngồi cạnh đống tro

Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm

Ðời người sống mấy gang tay

Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm

Hoặc là

Ăn con cáy, đêm ngáy o..o

Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ.

Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70).

Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn.

Những phát minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lạc.

Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè.

Già thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh.

Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh.

Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc).

Người ta bảo trên 60 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của Thượng Đế.

Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được : Ðời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc SỐNG

Anh chị Thụ & Mai gởi

Ở ĐẬU TRẦN GIAN…

Ở ĐẬU TRẦN GIAN…

Sinh thời học được nhiều nghề,
Vui chơi khắp chốn thôn quê thị thành,
Ngày ngày có mặt sân banh,
Đêm đêm đánh bạc thâu canh ngủ vùi,
Cào tôm bắt ếch mua vui,
Lên đèo xuống ruộng khoai lùi bếp than,
Trời dành số kiếp cưu mang,
Đem thân ở đậu trần gian suốt đời,
Vì sao có rượu người mời,
Không say lại nở buông lời trách thân…
Ai ơi ! ráng chút chuyên cần,
May ra trúng số…là phần thưởng ai ???


Liverpool.15/7/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT.

Dân biểu Châu Âu lên tiếng về nhân quyền Việt Nam

Dân biểu Châu Âu lên tiếng về nhân quyền Việt Nam

Đại diện Cấp cao phụ trách chính sách ngoại giao và an ninh của Liên hiệp Châu Âu, bà Catherine Ashton.

Đại diện Cấp cao phụ trách chính sách ngoại giao và an ninh của Liên hiệp Châu Âu, bà Catherine Ashton.

Trà Mi-VOA

15.07.2013

Hàng chục dân biểu quốc hội Châu Âu yêu cầu Đại diện cao cấp phụ trách an ninh-đối ngoại kiêm Phó Chủ tịch Ủy hội EU lưu ý những vi phạm trầm trọng về quyền con người tại Việt Nam và thúc đẩy Hà Nội cải thiện nhân quyền.

Thư đề ngày 11/7 của 34 dân biểu Châu Âu gửi bà Catherine Ashton nêu lên những quan ngại về thực trạng nhân quyền ngày càng tồi tệ của Việt Nam với khoảng 50 nhà đấu tranh dân chủ và bảo vệ nhân quyền đã bị kết án hoặc giam cầm trong năm nay.

Thư tố cáo các nhà hoạt động này bị bắt tùy tiện, bị đe dọa, thẩm vấn, và bị tước đoạt các quyền pháp lý giữa lúc chính phủ Việt Nam tiếp tục sách nhiễu các quyền tự do tôn giáo cũng như tăng cường trấn áp giới blogger.

Các dân biểu EU đồng ký tên trong thư chỉ ra rằng các tổ chức tôn giáo độc lập tại Việt Nam vẫn bị đàn áp, bị đập phá cơ sở thờ tự, bị tịch thu tài sản, và bị tù tội.

Thư nêu rõ bất chấp nhiều lời kêu gọi của cộng đồng quốc tế, Việt Nam vẫn giới hạn quyền tự do ngôn luận và kiểm duyệt internet gắt gao, nhắm mục tiêu các hoạt động trên mạng như theo dõi người dùng net, khóa chặn và đánh phá các trang web độc lập.

Các nhà lập pháp Châu Âu cho rằng tại Việt Nam đang diễn ra “một sự sụp đổ về pháp trị” với việc sử dụng các cáo buộc mơ hồ về tội “lật đổ chính quyền” và “tuyên truyền chống nhà nước” để bắt bớ những nhà cổ xúy nhân quyền, giam người không cần xét xử, và dùng các tội danh như “trốn thuế” để bỏ tù các nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng.

Theo dẫn chứng của các dân biểu EU, nhiều trường hợp giam cầm các nhà hoạt động chính trị tại Việt Nam đã được Nhóm Hành động của Liên hiệp quốc Chống Giam giữ Tùy tiện xác định là vi phạm luật quốc tế.

34 dân biểu Châu Âu ký tên trong thư yêu cầu Đại diện cấp cao của Liên hiệp EU kêu gọi Hà Nội phóng thích các tù nhân chính trị như blogger Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, luật sư Lê Quốc Quân, nhạc sĩ Việt Khang, mục sư Nguyễn Công Chính, hòa thượng Thích Quảng Độ, nhà hoạt động đất đai Trần Thị Thúy, sinh viên Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha.

Thư cũng đề nghị bà Catherine Ashton phát huy vai trò của Liên hiệp Châu Âu tích cực hơn trong việc hỗ trợ xã hội dân sự tại Việt Nam, thúc đẩy Hà Nội thực hiện cải cách pháp lý, dỡ bỏ các điều luật tiếp tay cho việc bắt giữ tùy tiện các nhà cổ xúy nhân quyền, cũng như thúc giục Việt Nam thông qua luật bảo vệ quyền phản kháng ôn hòa, quyền tụ tập, thực thi tự do ngôn luận, và thành lập các tổ chức chính trị xã hội.

Mặt khác, các dân biểu này cũng đòi hỏi EU phải tăng cường đưa vấn đề nhân quyền vào các cuộc đối thoại với Việt Nam, buộc Hà Nội phải chứng tỏ tiến bộ nhân quyền trước khi có bất kỳ phái đoàn cấp cao nào đến thăm Việt Nam. Họ đồng thời cũng yêu cầu Liên hiệp Châu Âu phải tái khẳng định điều kiện nhân quyền trong các mối quan hệ ngoại giao, kể cả các mối quan hệ thương mại, của EU với các nước thứ ba bao gồm Việt Nam.

Trước lá thư của 34 dân biểu Châu Âu, trên chục tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế hồi đầu tháng này cũng đã gửi thư cho Đại diện cấp cao phụ trách an ninh-đối ngoại của EU, Catherine Ashton, lưu ý bà về vụ án của luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân, người sắp bị đưa ra xét xử về tội danh “trốn thuế”.

Áp lực quốc tế về thành tích nhân quyền của Việt Nam đang gia tăng giữa chiến dịch leo thang đàn áp của Hà Nội đối với những người chỉ trích nhà nước.

Chính phủ Hà Nội nhất mực khẳng định tại Việt Nam không có tù nhân chính trị hay tù nhân lương tâm, mà chỉ có những người phạm pháp bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, Hà Nội thừa nhận còn nhiều khác biệt quan điểm giữa Việt Nam với quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền.

Vấn đề nhân quyền theo dự kiến sẽ được nêu lên trong cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ với Chủ tịch nước Việt Nam khi ông Trương Tấn Sang công du Hoa Kỳ vào ngày 25/7 tới đây.

Thủ tướng Anh thúc giục lãnh đạo Miến Điện bảo vệ nhân quyền

Thủ tướng Anh thúc giục lãnh đạo Miến Điện bảo vệ nhân quyền

Thủ tướng Anh Cameron  cùng vị khách Miến Điện Thein Sein tại phủ thủ tướng ở Luân Đôn, ngày 15/07/2013

Thủ tướng Anh Cameron cùng vị khách Miến Điện Thein Sein tại phủ thủ tướng ở Luân Đôn, ngày 15/07/2013

Reuters

Thanh Phương

Thủ tướng David Cameron hôm nay 15/07/2013 đã thúc giục tổng thống Thein Sein bảo vệ nhân quyền, nhân dịp lãnh đạo Miến Điện lần đầu tiên viếng thăm chính thức Anh quốc.

Tiếp tổng thống Miến Điện một cách long trọng trong chuyến « viếng thăm lịch sử » tại phủ thủ tướng, lãnh đạo chính phủ Anh Cameron cho biết ông đặc biệt quan ngại về các vụ bạo động nhắm vào cộng đồng người thiểu số Hồi giáo Rohingya, khiến hàng trăm người thiệt mạng.

Tổng thống Thein Sein hiện đang viếng thăm Luân Đôn và Paris trong tuần này trong bối cảnh Miến Điện tiếp tục thoát khỏi tình trạng cô lập, trở lại sân khấu quốc tế, nhờ đã thực hiện một loạt cải tổ chính trị và kinh tế.

Tuy kêu gọi tổng thống Thein Sein tôn trọng nhân quyền, nhưng thủ tướng Anh Cameron theo đúng chủ trương của cộng đồng quốc tế, tức là nên giúp Miến Điện phát triển kinh tế để hỗ trợ tiến trình cải tổ ở nước này.

Ông Cameron tuyên bố : « Chúng tôi tin rằng có nhiều lĩnh vực mà Anh quốc và quý quốc có thể hợp tác với nhau, như ngoại giao, đầu tư và thương mại, viện trợ phát triển, cũng như trong lĩnh vực quân sự ». Tuy nhiên, thủ tướng Anh không nói rõ các mối quan hệ quân sự đó là gì.

Để đáp lại các nỗ lực cải tổ của Miến Điện, Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ đã bãi bỏ phần lớn các biện pháp trừng phạt nước này.

Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công trình to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã trung thực khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rõ ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ hiểu.

Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?

Đọc hồi ký “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình. Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi ký ông đã rất khiêm nhượng :

“… Chép hồi ký về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.

Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-1990 và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.

Tôi đã ghi tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lý tính con người, nó bị tình cảm sai khiến, lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”

Ở trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy. Những công trình của ông, là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.

Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dã dã“ bị suy vi và trường học đã dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.

Nguyễn Ngu Ý trong ‘Sống và Viết“ đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:

“Trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như anh; bốn mươi bốn quyển đã in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi :

– Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?

Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả lời được.

Cứ xét lối làm việc thì anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống, lối cư xử thì lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính tình có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc của nhà Nho. Sách anh viết và dịch thì có những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương thiện thì anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A phòng Cung phú, Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã Hạc, về Địa lý (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo Ảnh, nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.

Cho nên bảo anh là cổ thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, thì anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”

Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách trình bày trong sáng, đơn giản nhưng không qua loa, người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và ý hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến thức cần thiết cho đời sống.

Nhưng, tôi không thích ông ở ý hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng về miền Bắc. Trong hồi ký ông viết :

“Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội : xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ (societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”

Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến chống thực dân lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.

Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đã từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải…

Nhưng, sau khi đã sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong cuốn hồi ký đã giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xã hội Việt Nam. Phần viết trong hồi ký ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Võ Thắng Tiết là có, còn bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…

Trong Tự Điển Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :

“Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như :

1- Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

2- Ngôn ngữ học : Để Hiểu Văn Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.

3- Triết Học : Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị (1958), Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel (1971).. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.

4- Sử Học : Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn, 1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử ký Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.

5- Gương Danh nhân : gồm có một số tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu (1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971).. là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.

6- Giáo Dục : trình bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam. Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ (1968), Sống 24 Giờ (1956)

7- Tự luyện đức trí : Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xã hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ý Cao Tình Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.

8- Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Hòa Bình (1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

9- Dịch thuật : Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.

10- Du Ký : gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xã hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành (trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975)..”

Thật là một công trình văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông, như Bình Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.

Năm 1981, ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bản in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất lớn. Bản in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa, xã hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Trước 1975, ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đã đọc những cuốn sách viết về đời sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đã đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống đối gay gắt.

Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có hòa bình và sẽ có chính phủ ba thành phần.

Nhưng, khi đã sống với Cộng sản, ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong thời kỳ đó. Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xã hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..

Đọc Hồi ký Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một người đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ưu đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.

Đọc những đoạn văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co, không dám chấp nhận cái sai sót của mình. Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy, không có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.

Hãy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên :

“Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy..” (trang 109)

Hay : ”Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam.Trước ngày 30 – 4 -1975, miền Nam rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau mà!..” (trang 115)

Hoặc : ” làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..” (trang 119-120)

Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký. Viết hồi ký có phải là ghi lại trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc đó, trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà còn nói : “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”

Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lãnh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, còn một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi ký, ông tỏ lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một trí thức đúng nghĩa trí thức …

Tu Cam Tran

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-07-14

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

AFP

Nghe bài này

Tầng lớp nông dân Việt Nam hiện đang bị mất đất, bị bóc lột trong chính một chế độ mệnh danh là đấu tranh cho giai cấp công nông. Một giai cấp mới đã được hình thành sau khi cuộc cách mạng cộng sản thành công.

Cờ đỏ búa và liềm

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân, xưa cũ gần 100 năm. Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày trong những năm đầu tiên của cuộc cách mạng Nga năm 1917.  Những người dân cày vốn ít học, không thể hiểu những triết lý phức tạp về kinh tế chính trị của các ông Karl Marx, Engel,…khi thấy cái liềm gặt thiết thân của cuộc đời họ, bèn đứng lên đi theo đảng Bolsevik lúc ấy ở Nga, và những đảng cộng sản sau này trên khắp thế giới.

Về nguyên tắc, các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, nếu không xuất thân từ hai giai cấp công nhân và nông dân, thì cũng là đại diện cho họ, đấu tranh cho quyền lợi của họ. Đặc biệt trong tình hình cụ thể của xã hội Việt Nam, với đại đa số dân chúng là nông dân thì hình ảnh cái liềm trên lá cờ đảng càng có giá trị lớn lao, ngay từ khi đảng cộng sản Đông Dương mới thành lập hồi năm 1930 cho đến nay.

“Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân…Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày”

Bên cạnh biểu tượng lưỡi liềm, các đảng cộng sản cũng đề ra các khẩu hiệu dễ hiểu rất dân túy để cổ vũ tầng lớp nông dân. Năm 1930 được biết đến cuộc nổi dậy của nông dân tại Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu nổi tiếng, Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, tức là tiêu diệt hết những giai cấp khác ngòai nông dân; hay sau đó là Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản tiến hành cuộc chiến tranh giai cấp cho Đảng, với hy vọng có được ruộng đất để mà sử dụng cái liềm vàng đẹp đẽ trên lá cờ đỏ màu máu cách mạng.

Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản với hy vọng có được ruộng đất

Với một đảng chính trị có tổ chức chặt chẽ, cùng với sự hậu thuẫn của hàng triệu nông dân, những người cộng sản đã nắm chính quyền, nắm một cách độc tôn. Và ở Việt Nam, họ đã thực hiện lời hứa với những người dân cày bằng cuộc cải cách ruộng đất diễn ra sau năm 1954. Trong trận chiến giai cấp này, các khái niệm trừu tượng của kinh tế chính trị Marxism đã biến thành các con số phần trăm trong dân chúng là địa chủ ở mỗi làng để cách mạng tiêu diệt. Nhiều người đã chết dù không có một tấc đất nào trong tay. Người địa chủ nổi tiếng ở miền Bắc là bà Nguyễn Thị Năm, người ủng hộ tiền tài nhân lực cho đảng của ông Hồ Chí Minh, nằm trong những người bị xử bắn đầu tiên.

Những người chết rồi cũng bị quên đi trước những khó khăn vất vả của đời thường, của hợp tác xã nông nghiệp, và của các tập đòan sản xuất tại miền Nam sau ngày đất nước được thống nhất. Tất cả mọi người dường như đã trở thành chung một giai cấp công nông, dường như cuộc đấu tranh giai cấp đã thành tựu.

Giai cấp cộng sản và những đặc quyền

Nhưng giai cấp đã không mất đi. Milovan Djilas, nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam Tư, đã viết vào năm 1957 rằng: Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền.

“Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền”

Nếu đặc quyền của giai cấp mới vào những năm chiến tranh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa chỉ là vài cân thịt ngon ở cửa hàng Tôn Đản, hay vài thước vải đẹp cung cấp theo tiêu chuẩn, thì từ năm 1986 trở đi, năm mà đảng cộng sản quyết định kết hôn ý thức hệ công nông của mình với kinh tế thị trường tự do, nó đã trở nên trù phú hơn. Bây giờ là nhà xưởng sản xuất công nghiệp để thu lợi trên sự bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân theo lý thuết của Karl Marx, và đất đai.

Milovan Djilas viết tiếp, Dù về mặt pháp lý tài sản là của xã hội, của quốc gia, nhưng trên thực tế chỉ có một nhóm nhỏ kiểm sóat và thu lợi từ đấy.

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân...

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân…Files photos

Tài sản quan trọng nhất đối với đại đa số dân chúng Việt Nam chính là đất đai, và nay nó thuộc sỡ hữu tòan dân, tức là do cái nhóm nhỏ cộng sản cầm quyền kiểm sóat.

Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng không được hô hào nữa. Hàng đòan nông dân mất đất đi khiếu nại, thưa kiện từ Nam ra Bắc, vì đất đai của họ bị tịch thu, dưới danh nghĩa dùng cho các dự án phát triển kinh tế xã hội của những công ty, mà trên thực tế nhiều đảng viên cộng sản, hoặc những người có quan hệ chặt chẽ với bộ máy quyền lực của đảng, nắm giữ. Các cuộc biểu tình này thường xuyên bị chính quyền cộng sản của giai cấp công nông Việt Nam dẹp đi. Chưa có thống kê nào về số lượng các cuộc biểu tình đòi đất hàng năm, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, có thể nêu nhiều vụ xảy ra liên tiếp, vụ nông dân lõa thể giữ đất ở Cần Thơ, vụ Văn Giang, vụ Dương Nội, rồi đỉnh cao là vụ Đòan Văn Vươn ở Hải Phòng nơi mà súng đã nổ thay cho luật pháp. Và trong khi những dòng chữ này đến với quý độc giả thì hàng trăm nông dân làng Trịnh Nguyễn, Từ Sơn Bắc Ninh đang dầm mưa giải nắng giữ đất.

Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu,

“Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản

Milovan Djilas”

“Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đâu vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu tòan dân!”

Lời phát biểu của ông Lê Hiếu Đằng như một bức tranh tổng kết những gì những người cộng sản đã hứa hẹn khi họ còn hàn vi ngày xưa đến khi họ trở thành giai cấp mới ngày nay.

Còn những người nông dân đã tự nguyện đứng dưới lá cờ của giai cấp công nông thì nghĩa gì?

Bà Ngô Thị Đức, một nông dân ở làng Trịnh Nguyễn, có 47 tuổi đảng và bị đảng của bà khai trừ vì bà đấu tranh cho quyền lợi của những người nông dân, nói với chúng tôi,

“Tôi nhiều năm phấn đấu để vào đảng, nay họ làm sai, tôi thấy cũng chả cần. Sợ mất dân hơn là mất Đảng. Phần mình mình phải lo, ai mà lo tới mình thì mình đã toi rồi.”

Có phần chắc là bà Ngô Thị Đức và những người nông dân làng Trịnh Nguyễn không biết Milovan Djilas là ai, chỉ biết rằng… “họ” tức những người cộng sản cầm quyền đã làm sai. Họ đã trở thành một giai cấp mới, cũng bóc lột như trong những cuốn sách lý thuyết cộng sản mà đảng cộng sản phát cho các đảng viên của mình.

Điều khá mỉa mai, là khi những người nông dân Trịnh Nguyễn giữ đất chống giai cấp mới, họ vẫn trương cờ đỏ búa liềm, và khi Đòan Văn Vươn nghe lời tuyên án vẫn nói lời cảm ơn đảng cộng sản, đảng của một giai cấp mới.

Có lẽ để kết thúc, chúng tôi mượn lời cựu phó chủ tịch đảng cộng sản Nam Tư, Milovan Djilas, “Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản.”