MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

1. Câu châm ngôn thứ nhất:

“Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh.”
2. Câu châm ngôn thứ hai:
-Ði với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu.
-Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc.
Ba DƯỠNG
1. Bảo dưỡng.
2.Dinhdưỡng.
3. Tu dưỡng.
Bốn QUÊN
1. Quên tuổi tác.
2. Quên tiền tài.
3. Quên con cái.
4. Quên buồn phiền.

Năm PHÚC
1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc.
2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc.
3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc.
4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc.
5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc.
Sáu VUI
1. Một vui là hưu nhưng không nghĩ.
2. Hai vui là con cái độc lập.
3. Ba vui là vô dục tắc cương.
4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ..
5. Năm vui là có nhiều bạn hữu.
6. Sáu vui là tâm tình không già.
Bẩy SUNG SƯỚNG
1. Biết đủ thường sung sướng.
2. Biết giải trí khi nhàn rỗi.
3. Biết đắc chí tìm niềm vui.
4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui.
5. Biết dùng người làm vui.
6. Biết vui khi hành thiện.
7. Bình an là vui nhất.

Tám CHÚT XÍU
1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa.
2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa.
3. Nóng giận ít thêm một chút nữa.
4. Ðộ lượng nhiều hơn một chútnữa.
5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa.
6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa.
7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút xíu nữa.
8. Mĩm cười nhiều thêm chút nữa.

Chín THƯỜNG

1. Răng thường ngậm.
2. Nước miếng thường nuốt.
3. Mũi thường vê.
4. Mắt thường động.
5. Mặt thường lau.
6. Chân thường xoa (bóp).
7. Bụng thường xoay.
8. Chi thường vươn.
9. Hậu môn thường co bóp


MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH
1. Ít thịt, nhiều rau.
2. Ít mặn, nhiều chua.
3. Ít đường, nhiều trái cây.
4. Ít ăn, nhai nhiều.
5.Ít áo, tắm nhiều.
6. Ít nói, làm nhiều.
7. Ít muốn, bố thí nhiều.
8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn.
9. Ít đi xe, đi bộ nhiều.
10. Ít nóng giận, cười nhiều hơn.
Anh Nguyễn v Thập gởi

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam.  Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính.  Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin.  Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay.  Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người.  Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu.  Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá.  Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma.  Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

********************************************

Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên.  Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin.  Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo.  Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đủ.  Chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện, hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay.  Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại như các anh em khác.  Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại.  Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài.  Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém.  Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.

Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh.  Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa.  Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.

Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện, không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng, Chúa đã sống lại.  Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.

Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ.  Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ.  Chúng ta hãy nhớ lại những tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới.  Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi.  Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất.  Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra.  Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức nhóm tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh.  Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ.  Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài.  Và sau khi tiếp xúc với Ngài, các tù nhân đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người.  Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế.  Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian, bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên.  Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma.  Vậy thì chúng ta có thể làm gì?

Chúng ta có thể làm như những tù nhân ở bờ sông Kwai.  Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ.  Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta.  Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.

Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta, cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin.  Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại, và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta, và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.

Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ.  Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân…  Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.

Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thư cảm ơn ĐTC viết từ nhà tù thiếu nìên Los Angeles!

Thư cảm ơn ĐTC viết từ nhà tù thiếu nìên Los Angeles!
Trần Mạnh Trác4/2/2013

 

 

(CNA) – Sau khi nghe tin Đức Giáo Hoàng Phanxicô rửa chân cho các tù nhân vị thành niên, những thanh thiếu niên trong trại giam Los Angeles đã viết thư cảm tạ Ngài vì đã cho họ một niềm hy vọng.

“Cảm ơn ông đã rửa chân cho những người trẻ giống như chúng tôi ở bên Ý”, một tù nhân viết, “Chúng tôi cũng là những người trẻ đã phạm phải sai lầm và Xã hội đã mất hy vọng về chúng tôi, cảm ơn ông đã không bỏ mất hy vọng về chúng tôi. ”
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gây xôn xao dư luận sau khi quyết định sẽ cử hành Thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh tại Casal del Marmo là trung tâm giam giữ thanh thiếu niên ở Rome, thay vì ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô.

Trong lúc còn lãnh đạo tổng giáo phận Buenos Aires, Ngài (Hồng Y Bergoglio) cũng đã từng cử hành phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh trong một nhà tù, một bệnh viện hoặc một nhà tế bần cho những người bị gạt ra bên lề xã hội.
Đức Thánh Cha đã giải thích lý do với các bạn trẻ ở Casal del Marmo rằng: “Đây là điều Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vì thế mà đây là những gì Cha làm. Và Cha làm điều đó với tất cả trái tim của Cha. Cha làm điều này bằng trái tim của Cha bởi vì đó là nhiệm vụ của Cha, là một linh mục và giám mục, Cha phải phục vụ các con. “

Ngài nói thêm “Nhưng đó là một nhiệm vụ đến từ trái tim của Cha và là một nhiệm vụ mà Cha yêu thích. Cha thích làm việc đó bởi vì đây là những gì Chúa đã dạy” .

Đức Thánh Cha khuyến khích những người trẻ tuổi ở Rome trở nên tự hiến và hữu ích. “Và như vậy,” Ngài nói , “nhờ giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ làm tốt cho nhau.”
Ngay trước khi rửa chân cho họ, Đức Giáo Hoàng xin các bạn trẻ tự đặt câu hỏi với chính mình: ‘Tôi thực sự sẵn sàng giúp đỡ người khác chưa?’
Theo gương Đức Thánh Cha, những thành viên của một tổ chức mục vụ cho thanh thiếu niên bị bỏ tù, hội ‘Sáng kiến Phục hồi Công lý cuả dòng Tên’ (the Jesuit Restorative Justice Initiative) đã rửa chân cho những trẻ vị thành niên ở nhà tù LA và đọc những lá thư đáp ứng cuả họ gửi cho Đức Giáo Hoàng trước nghiã cử cuả Ngài.

Một tù nhân cho biết, gương của Chúa Kitô qua việc rửa chân cho Mười Hai môn đệ đã dạy anh ta “một cái gì đó rất khác” so với những gì anh đã được dạy khi lớn lên, là chỉ đạt được sự tôn trọng trong cách “làm tổn thương kẻ thù”.

“Khi Chúa Giêsu rửa chân cho môn đệ của mình, Ngài đưa ra một cái gương về sự khiêm nhường,” tù nhân còn ở độ tuổi vị thành niên đó viết tiếp. “Tôi hy vọng chúng tôi có thể học hỏi từ điều này”.

Một tù nhân cho biết anh ta đã “lớn lên trong một ‘khu rừng’ của băng nhóm ma túy và bạo lực,” anh xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho anh để “một ngày nào đó khi Con được tự do, Con sẽ có thể để giúp đỡ những thanh niên khác như Cha (ĐGH) đã làm.”
Một thanh niên xin cầu nguyện cho “tất cả các nạn nhân bạo lực” đặc biệt là các gia đình của những người mà anh và các tù nhân khác “đã làm tổn thương.”

Hành động cuả Đức Giáo Hoàng sẽ khuyến khích cuộc chiến chống lại nạn nghiện ngập, một thiếu niên viết,
“Ma tuý là một phần đời sống cuả tôi từ rất lâu,” thiếu niên đó viết, “Nhưng ông (ĐGH) đã truyền cảm hứng cho tôi và tôi hứa là sẽ tỉnh táo và giúp đỡ người khác vượt qua các cơn nghiện độc ác của crystal meth”.

Một số tù nhân cảm ơn Đức Giáo Hoàng trong việc lựa chọn tên Phanxicô để noi gương thánh Phanxicô Assisi.
“Ngài (thánh Phanxicô) là một người hòa bình và đơn giản,” lá thư xin Đức Giáo Hoàng “cầu nguyện cho khu phố đầy băng đảng của chúng con có hòa bình.”
“Tôi chưa bao giờ được đến Rome”, một thanh niên viết cho Đức Thánh Cha, “Tôi không biết nó có ở gần Los Angeles không bởi vì tất cả đám thanh niên chúng tôi chỉ biết đến khu phố của mình mà thôi.” Anh cho biết hy vọng một ngày nào đó nhận được một ” cơ hội thứ hai ” và có lẽ nhận được “phép lành” từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Một thiếu niên nghĩ rằng Đức Thánh Cha phải “ở một gia đình tốt” và thừa nhận rằng “gia đình cuả Em đang đau khổ nhiều vì Em.”

“Em biết Em đã làm nhiều điều tồi tệ, nhưng Em không phải là một đứa trẻ xấu đâu”, bức thư viết.
Một thiếu niên xúc động về việc Đức Giáo Hoàng “hiểu rằng chúng Em có thể thay đổi và muốn thay đổi “, điều nó “giúp chúng Em” giúp đỡ người khác án giam khắc nghiệt nhất cho một trẻ vị thành niên ở Ý là 20 năm, một tù nhân ước ao rằng “điều đó trở thành một sự thật ở đây,” anh thêm rằng anh “hãnh diện” là một người Công giáo “bởi vì tôi có một giáo hoàng tuyệt vời như Đức Thánh Cha !!!”

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Một kỷ niệm về niềm tin từ câu Tin Mừng Ga 13:13

Tác giả: Hoàng Ngọc Tấn

nguồn:thanhlinh.net

Tôi còn nhớ năm 1979, lúc đó tôi đi học chuyên ngành để ra đi làm. Trong chương trình học có một môn học mà bài học mở đầu nó mang một tựa đề rất dài, mãi cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ từng chữ từng lời: “ Không phải Thượng đế tạo nên con người nhưng chính con người đã dựng nên Thượng đế: Thượng đế chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.” Để truyền đạt bài học này, người ta đã mời một người thầy của một trường lớn ở xa về. Bằng một kiến thức rộng, nhất là về khoa học, người thầy đó đã thuyết phục các học viên rằng không có thượng đế hiện hữu và thượng đế chỉ là sản phẩm trí tưởng tượng của con người.

Không biết bây giờ người ta đã thay đổi chương trình học hay chưa, nhưng những năm sau năm 1975 thì những ai từng học đại học và trung học nghề đều phải trải qua cái bài học này. Những người trẻ chuẩn bị đi vào đời đã được trang bị những kiến thức như vậy.  Lúc đó bản thân tôi cũng chưa có gì gọi là niềm tin; chỉ có một lòng tự ái nổi lên vì mình cũng là dân Công giáo, là Catholic vậy mà người ta bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái vũ trụ này; thế thì những truyền thống Công giáo mà mình đang thực thi đây là vô nghĩa sao? Và lúc đó thầm trách mình sao chưa đủ kiến thức để thấu đạt mọi vấn đề.

Đó là chuyện đã qua của ngày xưa.

Lúc đó sống ở môi trường tập thể. Sinh hoạt văn hóa những năm đó thật nghèo nàn, muốn tìm cái gì đó đáng đọc thì cũng chẳng có gì để mà đọc. Gia tài tình cờ may mắn có được quyển Tân Ước nho nhỏ mà truớc năm 1975 người Tin Lành thường hay phát không trong các bệnh viện. Thế rồi những lúc rảnh rỗi cũng cầm lên đọc, và đọc cũng chỉ để mà đọc. Đọc dần thuộc rất nhiều, nhận ra sự giống nhau và khác nhau giữa các quyển tin mừng, nhất là sự khác biệt của tin mừng thánh Gioan. Sau này mới được biết trong giáo hội đã có tư tưởng ví tin mừng thánh Gioan như cánh phượng hoàng bay vút trên cao. Có lẽ vì là người môn đệ được Chúa thương yêu nhiều nhất nên điều này đã góp phần để thánh nhân cảm nhận được cái sâu thẳm, cao vời mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và toát lên trong quyển tin mừng thứ tư tuyệt vời này. Và một ngày nọ trong lúc đọc đến tin mừng thánh Gioan đoạn 13:13 mà nguyên văn được dịch là: ” Các con gọi ta bằng Thầy bằng Chúa, các con nói phải vì ta chính thật là như vậy.”. Có thể đoạn tin mừng ấy đã đọc qua nhiều lần nhưng chỉ lần đó một cảm giác kỳ lạ tràn ngập tâm hồn mình, một sự giật mình để thốt lên trong lòng rằng: Vậy là Chúa có thật sao?; và cũng tự mình trả lời:”Phải rồi Chúa là có thật rồi.” Nếu ai từng đọc tin mừng của thánh Gioan; đọc một mạch từ đầu chương 13 đến cuối chương 17, tức là từ đầu đến cuối bữa tiệc ly sẽ luôn cảm nhận nơi những đoạn tin mừng này toát lên cái man mác của tâm tình biệt ly, cái vời vợi của bao nhiêu nổi niềm mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ cùng các môn đệ của Ngài-những người đã đi theo Chúa với một tấm lòng mà có thể chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Ngài. Một chí sĩ đã có câu rằng: “Con chim sắp chết hót tiếng bi thương. Con người sắp mất nói lời tâm huyết.” Một lát nữa đây Chúa Giêu Ngài sẽ một thân một mình bước vào cuộc thương khó, còn các môn đệ thì tan tác. Rồi đây các ông sẽ không còn được nhìn thấy Chúa thường ngày nữa. Thầy trò sẽ không còn cùng nhau rong ruổi trên những nẻo đường của đất Palestina để truyền giảng tin mừng nữa rồi. Bữa tiệc này là bữa tiệc sau cùng, bữa tiệc của biệt ly. Chính trong bối cảnh đó Chúa Giêsu đã khẳng định lại một điều quan trọng mà ơn của Chúa vào thời điểm đọc đoạn tin mừng đó đã tuôn đổ, khai sáng, đánh động để lòng mình cảm nhận ra một cách trọn vẹn rằng Chúa là có thật và để những năm tháng sau này khi đọc hoặc nghe đoạn tin mừng trên lòng lại bồi hồi, rưng rưng nhớ lại là từng có một thuở Chúa đã dùng đoạn tin mừng trên để cho mình sự nhận biết về Ngài.

Và những dòng này đã được viết ra:

“ Con muốn khóc vì tràn đầy vui sướng

Con muốn ca lên vang dậy cả núi đồi

Con thổn thức vì tin, yêu, hy vọng

Con xao xuyến tâm hồn vì Chúa đã thương con.”

Trong đời sống tập thể những năm tháng ấy, tôi cũng chứng kiến có người từng hung hăng trong vô tín, thành khẩn, lâm râm với nén nhang trên tay trước một chuyến xe đi xa mà có lần đã suýt chết. À thì ra trước cái may rủi mong manh của đời người, trước cái chết người ta cũng run sợ; cũng cảm nhận ra cái gì đó linh thiêng vượt trên giới hạn của con người.

Niềm tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là món quà cho không của Ngài dành cho con người. Niềm tin cũng là cả một tiến trình trải nghiệm, cảm nghiệm qua những biến cố, những sự kiện xẩy ra trong cuộc đời của mỗi người, rồi soi rọi nó dưới ánh sáng của tin mừng, của lời Chúa. Niềm tin cũng sẽ chỉ đến đối với những ai trải lòng mình ra một cách đơn sơ, chân thành để đón nhận.

Vậy thì trước những luận thuyết phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa cho rằng Ngài không tồn tại trong cái vũ trụ này bạn và tôi ta cùng cứ trải lòng mình ra để đón nhận, để tìm hiểu về cuộc đời của một con người mang tên là Giêsu cùng với những tư tưởng, giáo huấn của Ngài. Ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, sinh ra ở miền đất Palestina vào đầu công nguyên. Nhưng có một điều rất quan trọng, vô cùng quan trọng. Đó là Ngài không đơn thuần chỉ là con người. Ngài là con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã chịu nhiều nhục nhằn bất công mà đáng ra Ngài chẳng cần phải chịu. Chỉ vì tình thương đối với con người, những con người mà Ngài đã nhào nặn nên từ bụi đất đó, Ngài đã cam chịu chết để bạn và tôi cùng được cứu, cùng được có diễm phúc được làm con, làm bạn hữu với Ngài. Rồi từ trong cõi chết Ngài đã sống lại để những ai tin vào Ngài cũng có được niềm hy vọng sẽ sống lại trong quê hương của chính Ngài. Rồi trong suốt hai ngàn năm qua, Giáo hội mà Ngài đã gầy dựng nên ấy, Giáo hội đó có sự thánh thiện và cũng có khiếm khuyết, những khiếm khuyết mà những tư tưởng muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới này đã dùng nó để làm lung lạc niềm tin ngay cả đối với những người đã tin vào Ngài. Cũng trong suốt hai ngàn năm qua, đã có biết bao con người dành trọn cuôc đời mình dấn bước ra đi vun đắp niềm tin về Ngài nơi những người anh em đồng loại của mình.

Với sự trải lòng mình ra để đón nhận Đức Giêsu Ki-tô và tìm hiểu về cuộc đời của Ngài như vậy; qua thời gian, qua tiến trình được vun đắp, một niềm tin sẽ dần lớn lên trong tâm hồn của bạn và tôi. Rồi một ngày nào đó trong tương lai chúng ta lại nghe nói đâu đó trong cái thế giới này có ai đó đưa ra luận thuyết này, luận thuyết nọ bảo rằng không có Thượng đế, không có Thiên chúa trong cái thế giới này đâu. Có thể khi đó bạn và tôi ta sẽ chỉ mỉm cười mà trong lòng mình tràn ngập bình an, mạnh mẻ tự nhủ rằng: “Điều mà người ta nói đó chẳng có nghĩa gì với tôi đâu, chẳng làm bận lòng, chẳng làm lung lạc được tôi đâu; bởi vì chính tôi đã gặp được Ngài rồi. Tôi đã gặp được Ngài trong những giây phút nguyện cầu; đã gặp được Ngài và nhận ra Ngài qua những biến cố, những sự kiện trong cuộc đời của chính bản thân tôi; rồi mai này tôi cũng mang một niềm tin, một niềm hy vọng sẽ gặp lại được Ngài ở buổi họp mặt sau cùng đầy vinh hiển và vĩnh cửu trong quê hương của chính Ngài.”

Khi Stephen Hawking nhà vật lý học nổi tiếng trình bày trong cuốn “ Sự thiết kế Vĩ đại” rằng vũ trụ này đã được hình thành dựa trên những quy luật, những định luật vật lý mà không cần có bàn tay của Thiên Chúa; người ta lại nhao nhao lên rằng: Đấy bác học Stephen Hawking lỗi lạc đã bảo là không có Thiên Chúa trong vũ trụ này đâu!

Có một em bé mà vào dịp lễ Giáng sinh, đứng bên cạnh hang đá Bêlem nhìn vào trong đó; nơi có máng cỏ, có Chúa Hài Đồng. Dưới cái nhìn của em bé đó thì Thiên Chúa Ngài cũng đơn sơ, thân thương, gần gủi qua hình hài trẻ thơ bé nhỏ như vậy. Rồi đứa bé đó thầm thì bên tai Chúa Hài đồng những ao ước của mình, những ao ước có lẽ cũng đơn sơ như chính tâm hồn của nó hiện giờ.

Và cũng có một cụ già; cụ chẳng biết gì về khoa học, chẳng biết gì về những triết thuyết phức tạp của con người. Từ mấy mươi năm nay cụ đã được truyền đạt và tiếp nhận rằng có một Chúa cứu thế Giêsu người Nazarét đã chết cho cụ và cho mọi người. Cũng từ mấy mươi năm nay cụ vẫn hằng liên lỉ nguyện cầu với đấng Cứu thế ấy. Giờ đây ở buổi xế chiều của thân phận con người, cụ vẫn mong, vẫn tin sẽ gặp được Đấng mà cụ vẫn tôn thờ.

Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, một Stephen Hawking lỗi lạc được ngưỡng mộ kia có thể lại không bằng cụ già hay em bé đây đã có cái nhìn đơn sơ về Thiên chúa nhưng tin cậy nơi Ngài. Niềm tin vào Thiên Chúa luôn gặp nhiều thách thức từ bên ngoài nhưng cũng chính điều này càng làm cho niềm tin ấy trở nên có giá trị và được chúc phúc.

Một niềm tin mà chính vì nó chúng ta đã hiện diện trong cái thế giới này, có mặt trong cuộc đời này như lời của Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng là Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã viết trong “Nhật ký tâm hồn” của ngài: “Sống ở đời chỉ là để nhận biết, để yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa mà thôi.” Và lời này cũng có thể trở nên là một trong nhiều câu trả lời mà Kytô giáo có thể dành cho khoa học, dành cho triết học về cái trăn trở ngàn đời của con người: Chúng ta là ai? -Chúng ta từ đâu tới?- Chúng ta sống để làm gì? -Chúng ta đi về đâu?.

Hoàng Ngọc Tấn

Lời Chứng Tôi Đã Trở Về Giáo Hội Công Giáo Như Thế Nào

Lời Chứng Tôi Đã Trở Về Giáo Hội Công Giáo Như Thế Nào

27/03/2013

nguồn:thanhlinh.net

Hai Giấc Mơ Kỳ Lạ Của Gió Lang Thang.

Trước khi kể về hai giấc mơ kỳ lạ, tôi (Gió Lang Thang) xin nói về mình một chút, đó là, tôi sinh ra trong một gia đình truyền thống Công Giáo, lớn lên khi học đại học tôi có theo một số giáo phái Tin Lành trong khoảng thời gian 6 năm, sau những biến cố cuộc đời, với những trăn trở, suy tư và cầu nguyện… tôi đã thực sự quy đạo và trở về với giáo hội Công Giáo Rô-ma. Có nhiều lý do khiến tôi trở về giáo hội Công Giáo, trong đó có cả những giấc mơ, tuy không phải là lý do chính nhưng cũng ảnh hưởng tới tôi, và tôi xin kể ra sau đây:

1-Giấc Mơ Thứ Nhất

Tôi nằm mơ thấy một người cầm gươm đâm xuyên qua bụng tôi, tôi thấy mình rỉ máu và thực sự cảm thấy đau đớn về thể xác (mặc dù trong mơ). Khi đó, tôi thấy bố tôi đang ở trên một chiếc thuyền vác một cây thánh giá rất nặng nề tiến đến kẻ dùng gươm đâm vào bụng tôi, tên này thấy thế sợ hãi liền bỏ chạy. Và ngay lập tức tôi thấy có một luồng ánh  sáng chiếu vào bố tôi, tôi thấy kỳ lạ chạy đến thì vết thương nơi bụng tôi được chữa lành.

Lời bàn: Bố tôi là một tín hữu Công Giáo tin kính Chúa và rất sùng đạo, ông đã cầu nguyện cho tôi rất nhiều khi tôi đi xa khỏi giáo hội Công Giáo.

2-Giấc Mơ Thứ Hai

Tôi nằm mơ thấy mình đi đến một ngôi nhà thờ nọ, bên ngoài nhà thờ có rất nhiều linh hồn bơ vơ và có một đám đông ma quỷ với hình thù kỳ lạ xấu xí bao quanh.
Tôi tự nhiên đọc kinh Kính Mừng (Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ / Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.). Khi tôi đọc đến đâu ma quỷ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn đến đó… và tôi thấy rất nhiều linh hồn đến nắm tay và đi theo tôi. Tình cờ tôi gặp một người thanh niên vẻ mặt buồn thảm, tôi hỏi, “Sao anh không đọc kinh Kính Mừng”- Anh ta trả lời, “Tôi không đoc được!”. Và tiếp theo tôi đi dọc hành lang nhà thờ, tôi thấy một người thanh niên nọ chặn đường và nói với tôi, “Anh phải đến Quảng Trị”. Vừa nghe câu nói này tôi giật mình thức dậy.
Lời Bàn: Ngày hôm xảy ra giấc mơ thứ hai này, tôi có viết một bài viết xin lỗi Đức Mẹ Maria vì tôi thấy áy náy do trước đây khi tôi theo đạo Tin Lành có viết một bài đại ý là, “Chúng ta chỉ nên cầu nguyện với Chúa Jesus, không nên cầu nguyện với Đức Mẹ Maria và các thánh”, sau đó tôi thấy ân hận vì cảm thấy mình đã phát ngôn liều lĩnh, không đúng đắn,… nên tôi đã công khai xin lỗi Đức Mẹ và các thánh. Và đêm hôm đó xảy ra giấc mơ thứ hai như tôi kể trên.

Có một điều lạ là tôi không hiểu trong giấc mơ thứ hai, người thanh niên nói với tôi, “Anh phải đến Quảng Trị” là có ý gì? Tôi kể với mẹ tôi, mẹ tôi liền bảo, “Quảng Trị là nơi có linh địa đền thánh Đức Mẹ La-vang, Đức Mẹ đã hiện ra ở đây vào năm 1798” Tôi suy nghĩ có lẽ mình sẽ phải đến đây hành hương xin lỗi tạ tội chăng…

Trên đây là những điều tự thuật của tôi về hai giấc mơ kỳ lạ không thừa một từ, không thiếu một từ. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nhưng xin phép không giải thích gì thêm, phần cảm nhận xin dành cho anh chị em và các bạn. Trong tình yêu thương của Chúa Giê-su Ki-tô và Mẹ Maria. Thân ái.

Gió Lang Thang (Vũ Thắng)

Facebook:   http://www.facebook.com/giolangthang123

MỘT NỀN TẢNG CHO NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

MỘT NỀN TẢNG CHO NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

(Suy niệm Tin Mừng thánh Gioan (Ga 20, 19-31)

Tác giả: Lm Inhatio Trần Ngà

nguồn:conggiaovietnam.net

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau biến cố tử nạn đau thương, Chúa Giê-su phục sinh bất thần hiện ra giữa các môn đệ đang họp nhau trong phòng đóng kín khiến các ông ngạc nhiên đến sững sờ.

Thấy các môn đệ hoang mang vì tưởng mình là hồn ma hiện về, Chúa Giê-su cho các ông xem tay và cạnh sườn, để chứng thật đây chính là Giê-su có thân xác chứ chẳng phải là hồn ma. Bấy giờ các môn đệ vui mừng khôn xiết vì Thầy Giê-su đã thực sự sống lại.

Thế nhưng hôm ấy ông Tô-ma vắng mặt nên không thể chứng kiến biến cố trọng đại nầy. Khi được các môn đệ khác thuật lại cho hay sự kiện đó, Tô-ma tỏ ra ngờ vực và đòi kiểm chứng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20,25)

Hôm nay, để vững tin vào biến cố Chúa Giê-su phục sinh, chúng ta không thể đòi cho được “thấy dấu đinh ở tay Người” hoặc “xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” như ông Tô-ma ngày xưa, vì Chúa Giê-su không còn hiện diện cách hữu hình giữa chúng ta, nhưng chúng ta có thể nhận biết Chúa Giê-su đã thật sự sống lại dựa vào sự kiện các tông đồ của Người đã hiến cả mạng sống và đổ máu mình ra mà minh chứng.

Nếu Chúa Giê-su chết đi mà không sống lại như lời Người báo trước, thì các tông đồ sẽ có những phản ứng sau đây:

* Các ông sẽ ngộ ra rằng Thầy Giê-su mà họ đem lòng tin tưởng, yêu mến và ngưỡng mộ bấy lâu không phải là Con Thiên Chúa như lời Người nói mà chỉ là người phàm lại tự xưng mình là con Thiên Chúa. Như thế, Người là một tên lừa bịp và tất nhiên các ông sẽ oán ghét Người, phế bỏ Người.

* Các ông sẽ không bịa đặt chuyện Chúa Giê-su phục sinh rồi đi rao truyền khắp nơi để lừa bịp người khác; vì khi làm như thế, các ông chẳng những chẳng được lợi lộc gì mà còn mất tất cả, kể cả mạng sống mình.

* Các ông sẽ không điên rồ đến nỗi từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, lại phải chịu đòn vọt, xiềng xích, tù đầy và chịu chết để đi loan truyền một điều láo khoét là Chúa Giê-su sống lại.

Trong thực tế, các phản ứng kể trên không hề xảy ra. Trái lại, các tông đồ đã hy sinh tất cả, từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, chấp nhận đòn vọt, tù đày và chấp nhận chịu chết để tôn vinh Đức Giê-su là Chúa, để loan truyền cho mọi người biết Chúa Giê-su đã thực sự sống lại từ cõi chết.

Chỉ khi tận mắt chứng kiến Đức Giê-su thực sự sống lại thì các tông đồ mới tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và sẵn sàng vâng lệnh Chúa Giê-su để loan báo cho mọi người nhận biết Người là Đấng Cứu Độ muôn dân, cho dù phải hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình.

Vậy, ta có thể kết luận rằng:

Sự kiện các tông đồ của Chúa Giê-su tiếp tục từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con và nhất là từ bỏ cả mạng sống để làm chứng rằng Đức Giê-su sống lại, thì đó là một lời chứng hoàn toàn đáng tin. Không ai liều chết và đánh mất tất cả chỉ vì một điều bịa đặt bao giờ.

Khi người làm chứng dám chịu chết để minh chứng mình nói thật, thì lời chứng của người đó là chân thật. Các tông đồ của Chúa Giê-su đã chấp nhận lãnh lấy án chết để minh chứng rằng Chúa Giê-su đã thực sự sống lại, vậy sự kiện Đức Giê-su sống lại là hoàn toàn chắc chắn.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ các tông đồ hy sinh mạng sống để làm chứng Chúa đã phục sinh nên chúng con mới được vững tin vào Chúa là Đấng cứu độ và được hạnh phúc làm môn đồ của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương các ngài, hy sinh thời gian, công sức, khả năng và trí tuệ của mình để làm cho nhiều người được tin Chúa là Đấng đã sống lại và là Đấng cứu độ trần gian.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Vợ Hiền

Vợ Hiền

Tràm Cà Mau

vietfun.com

1.
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!

Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.

Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.

Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.

2.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là “tam thập nhi lập”. Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng.

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng “chuyên chính” của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng.

Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:
– Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.

 

Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt!

Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về.

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá,chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?

3.
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:
– Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:
– Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:
– Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.

Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.

Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

4.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:
– Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép.

Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:
– Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:
– Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.

Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:
– Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:
– Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng.

 

Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại

.5
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:
– Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.

Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:
– Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
– Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.

Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.

6.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:
– Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.

Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới.

Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình….

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam . Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản.

Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền….

7.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:
– Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.

Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.

Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:
– Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.

Cùng với bạn bè cũ mới,chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm.Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên…

Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.

8.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới….

Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà.

Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã…

Nhiều đêm Mai thì thầm:
– Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? …

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.

Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền …Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:
– Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.

Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn…

9.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
– Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?Nàng nói:
– Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.

Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.

Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.

Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.

10.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:
– Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:
– Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.

Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.

Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.”

Mai kết luận rằng: “Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương”.

11.
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: “Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”.

Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Sài Gòn – Người Việt có câu “cửa miệng” rất bình dân: “Chó chết là hết chuyện”. Nói vậy là sao? Vì “chó” là loài động vật “phổ biến” đối với dân Bắc (mà miền Bắc là “gốc” của Việt quốc, miền Nam là do “giành dân chiếm đất” từ cuộc Nam Tiến xưa kia).

Câu nói đó giản dị mà thâm thúy, liên quan nhiều thứ, thậm chí liên quan cả đức tin Kitô giáo. Tại sao? Có nói ngoa không? Thưa là “không”. Tại sao là “không”? Thánh Phaolô xác định: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy” (1 Cr 15:13). Đức Kitô phục sinh là “ấn tín” chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Bài “Công bố Tin Mừng Phục Sinh” (Exultet), trong đêm Vọng Phục Sinh, nói rõ: “Nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”.

Nếu Đức Kitô không phục sinh vinh thắng, tất nhiên chúng ta cũng không bao giờ sống lại, thế thì niềm tin của chúng ta là hão huyền, cuộc sống của chúng ta vô ích, chúng ta chẳng khác gì “chó chết”, sống rồi chết, người ta ăn tiết canh và “sống trên đời ăn miếng dồi chó”, thế là xong, và thế là “hết chuyện”. Thế thì chúng ta chẳng hơn gì loài động vật hoặc sinh vật. Động vật có giác hồn (sống và biết buồn, biết vui,…), sinh vật có sinh hồn (sống mà không biết vui, buồn,…), nhưng ct có linh hồn (sống và biết buồn, biết vui,… đặc biệt là có đời sống tâm linh).

Sống cũng có những cách sống khác nhau, sống cũng có “điều kiện”. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Đó mới thực sự là niềm tin của chúng ta.

Tiếng A-lê-lu-ia quá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là trong Mùa Phục Sinh. Tôi không rành khoa ngôn ngữ (ngữ học), chỉ mày mò Việt ngữ cũng chưa “nên thân”, dĩ nhiên là không dám “múa rìu qua mắt thợ”, nhưng thấy người ta nói rằng âm Việt ngữ đọc là A-lê-lu-ia, theo tiếng Hy Lạp là Αλληλούϊα (Ha-lê-lu-ia), thấy các nhà ngữ học trích dẫn Kh 19:3 ghi: “Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!” (Καὶ δεύτερον εἴρηκεν, Ἁλληλούϊα: καὶ ὁ καπνὸς αὐτῆς ἀναβαίνει εἰς τοὺς αἰῶνας τῶν αἰώνων).

Hallelujah, Halleluia, Allelluja, Alleluia, thậm chí có người còn viết là Alleluya. Viết thế nào? Thực ra đó chỉ là quy ước của nhân loại. Chẳng biết Tây hay Ta, mà chỉ là “ba rọi”, theo thiển ý của tôi, âm “ia” phát âm gần giống Việt âm là “da”, thế thì sao không Việt hóa luôn? Cứ đọc “toạc móng heo” ra là Ha-lê-lu-da hay A-lê-lu-da cho… “khỏe”. Nửa nạc nửa mỡ, chả ai biết thế nào, mà dân Việt mình đâu có vốn ngoại ngữ nhiều, không khéo lại hóa “ngại ngữ” đấy! (Vì cách phiên âm của Việt Nam không thống nhất. Vì dụ: Giê-su hay Giê-xu?).

Viết này viết nọ rồi “minh chứng” là “h aspiré” hoặc “haleine” để làm gì? Có thực sự cần không? Có chăng chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu hoặc người biết loại ngôn ngữ đó. Giới bình dân có mấy ai hiểu? Còn hơn là “vịt nghe sấm”. Sao không nói dùng Việt ngữ là “câm” cho mọi người cùng hiểu? Tục ngữ Việt Nam có câu hay lắm: “Thà chết đống hơn sống một mình”. Chí lý thật!

Sự thật mất lòng, nói thẳng như ruột ngựa chứ “vòng vo tam quốc” chi cho rắc rối. Mà bản chất ngôn ngữ là giản dị, nói sao người ta hiểu đúng ý là được, “màu mè” và “rườm rà” chỉ là dạng “chảnh”, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình. Khi dịch từ tiếng nước này sang tiếng nước nọ cũng vậy, ai cũng “mắc dịch”, vừa khôi hài vừa thâm ý! Thế nên người ta thường phải sử dụng “ngôn ngữ cơ thể” – Hán Việt gọi là “thể ngữ”.

Chị Maria Mađalêna đã từng bị người ta lôi ra ném đá và được Chúa Giêsu tha bổng (x. Ga 8:2-11), Chị cũng lại bị người ta chê trách khi Chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau (x. Ga 12:1-8), rồi Chị còn hoảng hốt khi thấy mộ trống, tưởng thi hài Thầy bị lấy mất (Ga 20:1-2). Thế nhưng Chị lại là người đầu tiên được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Ga 20:11-18). Sau khi được Chị báo tin, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô còn ngớ người ra khi thấy mộ trống. Đặc biệt là trong Lễ Phục Sinh, Giáo Hội còn có phần Ca Tiếp Liên nói về việc này. Ai dám nói gì thêm không???

Chúa Giêsu phục sinh, đó là niềm hạnh phúc tột đỉnh của nhân loại, của mỗi tội nhân chúng ta. Phàm ngữ không thể đủ từ ngữ để diễn tả, điều duy nhất chúng ta có thể làm là chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ không ngừng, đồng thời phải loan truyền về Đức Kitô Phục Sinh hằng ngày, qua từng động thái!

TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật Phục Sinh – 2013

May còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau

May còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau

Đăng bởi lúc 12:51 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Đồng Nai – Ánh mắt Chúa sáng lên trong những thân phận nghèo khổ. Chúa đã chịu chết vì chúng con, và hôm nay Chúa sống lại, chúng con đi loan báo Tin Mừng. Chúng con không có gì nhiều, ngoài duy nhất niềm tin nơi Chúa. Ngôi nhà mà chúng con ghé đến cách Sài Gòn khoảng 125km, thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Trong ngôi nhà đó là 3 con người neo đơn của 3 thế hệ và một mầm sống yếu ớt đang lớn lên từng ngày trong bụng người phụ nữ đáng yêu thương. Ngôi nhà được xây tạm bợ bằng gạch không tô trên một nền đất chật hẹp, nó rộng khoảng 10m2. Không có quạt, không có gió vì họ không có tiền để kéo điện vào nhà sử dụng, không khí nóng bức của vùng đất khô cằn khiến người ta khó chịu. Trong nhà chỉ có một chiếc tủ cũ được chằng sợi mắt xích mỏng, một chiếc bàn nhỏ và chạn bát đặt góc phải, chỗ giường nằm của 3 người được che bằng chiếc màn hoa.

Người đàn ông là cha của cô gái mang bầu, năm khoảng năm mấy tuổi, công việc của ông chỉ có vào mùa mưa, ông đi tưới tiêu, mỗi ngày được khoảng 50 ngàn đồng, còn vào những ngày nắng không mưa thế này, ông đi lượm nhặt ve chai đem bán kiếm được vài ngàn một ngày. Cô gái mang bầu mặc dù đã được 8 tháng nhưng ngày ngày vẫn cùng bà nội năm nay đã 74 tuổi đi mót bắp nuôi miệng. Mẹ cô đã bỏ cô từ ngày cô còn nhỏ xíu cho nội và cha nuôi. Năm 10 tuổi cô gái đã vào Sài Gòn bán cháo cùng bà nội, đến 18 tuổi thì đi làm công cho hãng da giầy, số tiền kiếm được trong suốt thời gian đã chính là căn nhà 10m2 tạm bợ đang có. Sau khi bị người đàn ông ở Trà Vinh dụ ngọt, cô có bầu và bị bỏ rơi. Thế nhưng cô gái 22 tuổi quyết không từ bỏ đứa trẻ vô tội, cô về quê cùng nội và cha kiếm miếng ăn từng ngày.

Chỉ còn hơn 1 tháng nữa là đến ngày sinh nở, nhưng không biết phải nương vào ai, điện thoại cũng đâu có vì nhà không có điện, nhưng cũng may còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau. Chúng con với tinh thần hoan hỉ trong ngày lễ phục sinh đã ghé đến để cầu chúc bình an cho cả gia đình ấy, nhất là cô gái và đứa bé trong bụng.

Chúng con cầu xin lòng thương xót Chúa trong chúng con.

Monica TRỊNH KIM TIẾN

Theo: https://www.facebook.com/trinhkimkim

ĐGM Kontum rửa chân cho dân làng cùi Đăk Pnan

ĐGM Kontum rửa chân cho dân làng cùi Đăk Pnan

Đăng bởi  lúc 11:08 Sáng 29/03/13

VRNs (29.03.2013) – Gia Lai – Đức Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh, giám mục giáo phận Kontum, chủ tế lễ rửa chân tại làng cùi Đăk Pnan xã Konthup, Huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, chiều hôm qua, lúc 18 giờ thứ năm ngày 28 tháng 03 năm 2013 cùng hai Linh mục đồng tế là cha Nguyễn Văn Công CSsR quản hạt Mang yang và cha Trần Thành Tâm, dòng Ngôi Lời

Chúng tôi cùng với Đức Cha Micae rời Thành phố Pleiku từ 16 giờ vượt qua khoảng 60 km, về phía Đông, tới làng cùi Đăk Pnan. Nơi đây bà con dân làng đã đến đông đủ và đang cùng với cha Công tập hát chuẩn bị lễ và chào đón Đức Cha Micae. Khi Đức Cha tiến vào khu vực dâng lễ thì bà con cùng vỗ tay và ùa ra chào đón Đức Cha thấm tình cha con.

Đức cha Micae đội nón giám mục lên đầu cháu bé – Ảnh VRNs

Làng cùi Đăk Pnan trước kia có nhà nguyện, nhưng năm vừa qua nhà cầm quyền đã phá nhà nguyện và tháp chuông của dân làng, nên bà con dân làng phải dời tạm ra nhà dệt của làng để làm nơi đọc kinh và tham dự thánh lễ. Sau sự kiện đó thì bà con đồng bào có làm đơn xin nhà cầm quyền cho che bạt để bà con có nơi tham dự lễ và đọc kinh không bị mưa, nắng nhưng không được. Vì vậy hiện nay bà con làng cùi phải dự lễ ở ngoài trời.

Trong phần chia sẻ lời Chúa Đức Cha nói bằng tiếng Bahnar, đề cập đến Đạo yêu thương, bác ái, phục vụ mà tất cả mọi người chúng ta bất kể lương hay giáo, chúng ta đều là anh em với nhau, đã là anh em với nhau thì phải yêu thương nhau.

ĐGM Kontum giáo huấn cộng đoàn – Ảnh VRNs

Cộng đoàn Bahnar và Kinh lắng nghe chia sẻ Lời Chúa

Sau phần chia sẻ lời Chúa là nghi thức rửa chân tưởng nhớ lại việc Chúa Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ và lập bí tích Thánh Thể và chức Linh mục. Đức Cha đã đến cúi xuống rửa chân cho 12 người đồng bào dân tộc Bahnar và dân tộc Kinh.

ĐGM Kontum rửa chân cho dân làng cùi Đăk Pnan – Ảnh VRNs

Cha Công, CSsR và cha Tâm, SVD đồng tế với Đức cha Micae

Sau phần nghi thức Thánh thể là giờ chầu chung của đồng bào, trước đó Đức Cha nói với đồng bào là vì chúng ta không có nhà nguyện nên chúng ta không có kiệu mình Thánh, nên chúng ta cùng quì chầu Thánh thể tại đây sau đó chúng tôi sẽ để ở trên phòng bà con đến chầu Thánh thể ở đó.

Một giáo dân người Bahnar nói với chúng tôi: “Chúng con rất cảm động và vui mừng vì Đức Cha đến làng Đăk Pnan dâng lễ trọng đại này, giúp cho bà con nhớ lại việc làm của Chúa khi xưa, bà con vui lắm và cũng cầu  xin sao cho chính quyền cấp phép dựng nhà nguyện cho đàng hoàng để bà con xem lễ không bị mưa nắng vì mùa mưa đến rồi không biết sao đây?”

Một chị khác thì nói: “Ôi bà con ở đây mừng lắm vì hôm nay Ông đến dâng lễ rửa chân cho bà con ở đây. Chúng tôi nhớ lời của Ông giảng khi nãy là yêu thương nhau và tất cả là anh em”.

Một anh khác nói tôi rất xúc động khi Đức Cha quì xuống rửa chân cho đồng bào làng cùi chúng tôi, chân chúng tôi dơ lắm làm rẫy mà chú. Bà con dân làng xin tất cả anh chị em ở xa có điều kiện hơn cầu nguyện cho dân làng Đăk Pnan chúng tôi để chúng tôi sớm được chính quyền cho dựng nhà nguyện để có cái chổ mà đọc kinh xem lễ.

PV. VRNs tại Pleiku

Anh chị Thụ & Mai gởi