CÙNG LÊN TRỜI VỚI CHÚA

CÙNG LÊN TRỜI VỚI CHÚA                       Lm Nguyễn Nguyên

 Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

 Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

 Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.

 Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên cõi trần này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một khu xóm, nhưng quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn ; còn quý bà thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên đàng. 

 Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

  Lm Nguyễn Nguyên                         nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Để hưởng ứng “nhận định” của Uỷ ban Công lý & Hoà bình

Để hưởng ứng “nhận định” của Uỷ ban Công lý & Hoà bình

LM. Vũ Khởi Phụng, C.Ss.R.

20/05/12                                    nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (20.05.2012) – Minnesota, USA – Tuy đang ở nước ngoài, đêm nào tôi cũng bỏ ra hằng mấy giờ để theo dõi tin tức trong nước. Nhìn vào đâu cũng thấy bức xúc, từ những khó khăn về kinh tế tài chính đến những bất ổn trong xã hội, từ những tệ nạn của thời cuộc đến cơn khủng hoảng tinh thần, văn hóa, nhân văn, kể cả cơn khủng hoảng tâm linh đang thách đố các tôn giáo. Càng bức xúc lại càng cảm thấy trân trọng từng lời nói, từng hành động, từng thái độ của những ai có tâm hồn, và có can đảm đứng lên đương đầu với các tiêu cực nhằm duy trì và xây dựng một xã hội nhân ái. Trong tâm trạng đó, tôi lấy làm mừng được đọc “Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay” của Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam ngày 15/5/2012 vừa qua.

Từ dăm năm nay, trong nước cũng như ngoài nước, có những dư luận tiêu cực, đôi khi được bày tỏ một cách rất nặng lời, về Giáo Hội Việt Nam. Khá nhiều người cho rằng Giáo Hội Việt Nam, và đặc biệt là hàng giáo phẩm, chỉ lo lễ bái và xây cất, mà dần dần trở nên xa lạ và vô cảm với những nhân tố đang đục khoét, đang lũng đoạn tinh thần và tâm linh của xã hội Việt Nam. Chúng ta không câm nhưng cam tâm làm giáo hội thầm lặng. Có người dùng đến từ “chó câm”, nghe rất xấc xược, nếu chúng ta không kịp nhớ lại rằng đó là một điển Thánh Kinh (Is 56, 10), mới đây còn được Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI dùng lại.

Dư luận như thế, nếu không đúng, thì cũng rất tai hại cho thanh danh và mức độ khả tín của Giáo Hội, còn nếu đúng thì lại càng tai hại bội phần, bởi nó tố cáo một tình trạng muối đã lạt, đèn đã tàn. Kinh nghiệm cho thấy rằng mỗi khi Giáo Hội trở nên vô cảm như vậy, tức là đánh mất sự sáng suốt, sự can đảm trong nhận thức và hành động trước những nhu cầu có thực của thời đại mình thì luôn tạo ra trong lòng mình những trái bom nổ chậm, một hai thế hệ qua đi sẽ thấy cơ thể Giáo Hội bị đục rỗng không ngăn ngừa nổi. Trong lịch sữ không thiếu gì những giáo hội cũng đông, cũng sốt sắng, cũng “ngoan ngoãn” như Giáo Hội Việt Nam. Vậy mà với thời gian, ngày nay nhà thờ vắng hoe, thế hệ trẻ thì trơ tráo chẳng còn hiểu biết gì về một quá khứ đã tạo dựng nên văn hóa và tâm linh mà ngày nay không còn biết kế thừa. Nguyên nhân của những tình trạng sa sút đó thì có nhiều, nhưng có một nguyên nhân không bao giờ thiếu bóng, đó là vào một lúc nào đó, giáo hội đã tự cô lập mình với những vấn đề và thao thức của thời đại mình đang sống. Nếu những lời chỉ trích kia là đúng thì Giáo Hội Việt Nam phải hết sức cảnh giác, đừng đi vào vết xe đổ đó.

Bản Nhận Ðịnh của Ủy Ban Công Lý Hòa Bình rõ ràng mang dấu ấn của một công trình tập thể, có tác dụng cải chính luồng dư luận tai hại về một thái độ vô tri hoặc vô cảm của Giáo Hội và hàng giáo phẩm. Nó cho thấy các đấng bậc vẫn quan tâm đến vận mệnh con người, xã hội, đất nước, mặc dù trong nhiều trường hợp chẳng biết vì nguyên nhân nào các ngài đã yên lặng đến mức khó hiểu. Bản Nhận Ðịnh đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy.

Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Ðịnh đề ngày “15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Ðiệp Rerum Novarum” Bức thông điệp của Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Ðịnh, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Ðồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những “căn bệnh trầm kha”.

Giá trị của bản Nhận Ðịnh là ở chỗ nó là tiếng nói của Hội Ðồng Giám Mục, chứ không phải là ý kiến của cá nhân hoặc một tập thể riêng lẻ nào trong giáo hội. Giáo sĩ lẫn giáo dân có thể học hỏi nó mà không có cảm giác ngờ ngợ sợ mình bị những tham vọng hoặc ý đồ nào lôi kéo. Cái cảm giác ngờ ngợ đó nhiều khi chẳng dựa trên một cơ sở cụ thể nào, chỉ sợ bóng sợ vía thế thôi, nhưng cũng đủ để làm cho nhiều người co cụm, không dám suy nghĩ gì, cũng không dám có thái độ hay hành động gì trước những nguy cơ của thời đại. Lần này thì chẳng những an tâm mà còn được giáo quyền chỉ cho thấy những nhiệm vụ đang mời gọi mình.

Có được bản Nhận Ðịnh là quý. Nhưng dĩ nhiên vấn đề là đã nhận định như thế rồi thì ta phải làm gì? Nhận Ðịnh có gợi ý một vài điều: sửa đổi luật đất đai, thay đổi lề lối làm việc và lối áp đặt độc đoán của chính quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân năng động, trọng dụng nhân tài, cho các tôn giáo được có tính cách pháp nhân và được tham gia vào các lãnh vực giáo dục và y tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những đề xuất và giải pháp dù hay, dù tốt đẹp thì tự thân cũng chẳng lay chuyển được sức ỳ của những thói quen thủ cựu, trừ phi những đề xuất ấy được cả một cộng đồng đông đảo tiếp nhận, cổ võ, vận động.

Vả lại một vài đề đề xuất tiêu biểu ấy không thể bao biện hết muôn vàn vấn đề cụ thể mà người dân gặp và phải xử lý thường xuyên. Bản Nhận Ðịnh đã nêu lên một tinh thần, còn trong hành động thì vẫn luôn cần đến sự năng động của “xã hội dân sự”. Chẳng biết những nhóm học hỏi giáo huấn xã hội của Giáo Hội, các nhóm hoạt động phục vụ xã hội, các người Công giáo đang dấn thân trong các sinh hoạt đa dạng của cộng đồng có tiềm năng góp phần tạo nên cái xã hội dân sự đó hay không? Phải chăng các giáo xứ, hội đoàn, các nhóm thân hữu cũng nên ngồi lại với nhau để cùng nghiên cứu, suy nghĩ, và gầy dựng những sáng kiến mới? Trên cái nền chung như Nhận Ðịnh đã phác họa, không khó để có thể nhận ra còn biết bao vấn đề cần những sáng kiến và giải pháp cụ thể.

Ví dụ: đúng là hiện nay nhà thờ mở cửa, đông đúc, và như thế cũng bảo đảm một phần quyền tự do tôn giáo hiểu theo nghĩa là phụng tự, kinh nguyện; nhưng nếu đức tin đẩy ta đến chỗ phải có thái độ về những chuyện liên quan đến công bình xã hội, nhân phẩm, nhân quyền thì sao? Ðối với ta, tự do sống đạo bao gồm cả những lãnh vực đó nữa, nhưng có người sẽ bảo những lãnh vực đó không phải là tôn giáo thì sao?

Rồi trong một tình trạng xã hội mà sự thật hay bị che giấu, bị tô vẽ biến dạng, thì ta phải làm sao để phục vụ chân lý? Khiêm tốn nói thật thế nào? Thẳng thắn nói thật thế nào? Tự do nói thật thế nào? Cùng với nạn phủ nhận sự thật, sự sử dụng bạo lực thay cho lẽ phải có khuynh hướng gia tăng trong xã hội, nạn nhân là những dân nghèo, thấp cổ bé miệng, những người lương thiện, tâm hồn ngay thẳng, nhưng có lòng mà không có quyền. Vậy thì làm thế nào để bất bạo động mà vẫn không chấp nhận, không khuất phục, vẫn đối đầu, vẫn bài trừ, vẫn khắc phục bạo lực? Làm thế nào để cảm thông, để đón tiếp cho phải đạo những người nghèo, người bị áp bức, người cô đơn đau khổ không phân biệt tôn giáo hay chính kiến theo đúng tinh thần của Tám Mối Phúc, để cho đức Bác Ái đừng là một lý thuyết vô cảm và vô bổ, …v…v…. Quả là không thiếu gì những câu hỏi khiến ta không thể thụ động và lười biếng.

Chỉ có như thế ta mới có thể cùng với mọi người thiện chí tạo ra một động lực thăng tiến xã hội. Cũng chỉ có như thế ta mới thành môi trường gặp gỡ và cảm thông, thành một chốn gia đình cho bao nhiêu người thiện chí, cho những người nghèo, những nạn nhân của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những ai đang cần liên đới, cần tình người, cần hy vọng… Ðó cũng là một nỗ lực để ta mở một con đường đẹp cho Giáo Hội đi tới tương lai.

LM. Vũ Khởi Phụng, C.Ss.R.

 

Sự Khao Khát Được Về Trời

Sự Khao Khát Được Về Trời

                                                                         Tuyết Mai

Trong thời buổi tân tiến và duy vật, ai trong chúng ta còn ao ước muốn được về Trời mà không tìm cách để được hoãn lại? Ít nhất là một ngày?. Cường độ của sự khao khát mong muốn được về Trời trong chúng ta là bao nhiêu, nếu được hỏi từ 1 cho đến 10, thưa anh chị em?. Theo tôi nghĩ chẳng có nhiều đâu vì chúng ta ai cũng có rất nhiều lý do cá nhân. Vì có phải sự việc Về Trời đây là hão huyền, chẳng có ai trong chúng ta từng được chứng kiến, để mà so sánh, hay để cố gắng sống cho nên tốt lành.

Ai trong chúng ta cũng đều nghĩ rằng cuộc đời trần gian này ít nhất cũng cho chúng ta 80 năm tuổi thọ, còn những ai bị chết sớm là chuyện của họ chứ chẳng phải là của mình để mà sợ, mà chuẩn bị, mà lo toan cho việc linh hồn của mình. Nhất là ai trong chúng ta
cũng có vẻ chờ chờ đợi đợi trong giai đoạn cuối của cuộc đời mới muốn sửa đổi
tâm tánh và làm những điều lành. Giai đoạn cuối của cuộc đời là khi nào thưa
anh chị em?. Có phải thời gian mà chúng ta không còn cựa quậy cái thân xác được
nữa, là thời gian chúng ta chờ đợi cái chết đến, không được an thân vì thiếu
Bình An của Chúa?.

Thiên Đàng có phải nó cũng giống như Chúa ban cho mỗi người chúng ta mỗi người một mảnh vườn. Đất tốt Chúa cũng ban cho chúng ta có sẵn. Dụng cụ làm việc Chúa cũng ban cho. Chỉ có một đòi hỏi nơi chúng ta là ra sức mà vun xới, trồng trọt, tưới bón, trừ sâu
bọ, và thăm nom chúng từng ngày, và chờ ngày chúng lớn để cho bông cho trái.
Bông trổ càng nhiều, trái càng nặng trĩu sai cả cành, có phải đó là dấu chỉ của
sự thành công của người trồng trọt hay không?. Còn ai biếng nhác thì sao thưa
anh chị em?. Mỗi người nơi chúng ta đều có câu trả lời. Hậu quả của người ấy
thì có lắm thương đau nếu để cho vườn tược thành miếng đất chết. Đó cũng cho
chúng ta thấy là nơi người ấy luôn có sự cau có khó chịu và tâm hồn rất khô
cằn, như miếng đất của họ vậy!.
Người chăm lo trồng trọt thì luôn cởi mở và hạnh phúc, vì ai ra vườn nhìn thấy sự thành công của mình mà không hoan hỉ, mà không liền chúc tụng Thiên Chúa chứ?. Suốt cả năm
ròng họ đã ra sức vất vả để lo cho chúng cây, đến mùa gặt hái thì một mớ đem ra
chợ bán để nuôi thân vừa có tiền để dành, lại vừa có thể chia sẻ cho những ai
khốn cùng. Thật hạnh phúc thay cho những con người luôn biết sống từng ngày,
luôn biết cảm tạ và tri ân Thiên Chúa, luôn vui vẻ và thương yêu người có nhu
cầu. Chứ như những gì Chúa ban cho chúng ta là khả năng, là thời giờ, và là cơ
hội mà chúng ta đã biến chúng thành “không có” thì chẳng những chúng ta đói
khát mà là trở thành ung nhọt của xã hội. Có phải Chúa của chúng ta Người rất
công bình trong mọi việc khi Chúa sắp đặt cho từng người chúng ta?. Người ban
cho ai cũng bằng và ngang nhau, chỉ khác nhau là người thì thực hành và người
thì không.

Vâng, tôi chỉ có thể so sánh Nước Trời thật giản đơn là như thế, nhưng ai cũng hiểu rằng Nước Trời thì gấp nghìn lần hạnh phúc hơn trần gian nhiều, vì Nước Trời là Nơi mà con
người được giải thoát tất cả; không còn sinh, bệnh, lão, tử nữa!. Nước Trời là
nơi mà hạnh phúc cả bốn mùa. Luôn có tiếng nói cười, và đàn ca hát xướng. Nơi
mà yến tiệc không bao giờ ngừng. Nơi mà chúng ta không còn phải chạy từng ngày
cho miếng ăn, cái mặc, hay nơi chốn để ở. Nơi mà Thiên Chúa Cha thương yêu con
cái Người, ban cho tất cả sự sống vĩnh cữu và viên mãn.

Nước Trời thế có đủ để đánh động sự ham muốn của chúng ta mong mỏi để đến hay không?. Hay chúng ta để cho những sự ham muốn rất tầm thường trên trần thế này, hoãn lại hay làm gián đoạn những suy tính quan trọng hàng đầu của chúng ta là Con Đường Về Trời. Những sự ham muốn rất tầm thường mà ai cũng phải tất bật, tranh dành, chém giết
nhau đó có phải là nhà cửa, tiền bạc, danh vọng, quyền thế, rồi thưa gì nữa?.

Ai trên đời có thể tránh được cái chết bất đắc kỳ tử?. Ai tránh được hay hoãn

được thần chết khi ông đến gọi?. Ai có thời giờ …. để trối trăn cho người thân
thương, để lại gia tài cho ai, nhắn gởi những điều rất quan trọng?. Thưa một
tiếng thốt ra trong miệng còn không được thì điều gì còn quan trọng hơn nữa
trong giờ lâm tử?. Thưa giờ lâm tử có sợ lắm hay không …. và câu trả lời xin dành cho từng người chúng ta.

Amen.
Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(05-17-12)      nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Paschal Baylon

    Thánh Paschal Baylon

    (1540 – 1592)

                                                                        17 Tháng Năm

    Trong cuộc đời Thánh Paschal, đế quốc Tây Ban Nha cực kỳ có thế lực ở Tân Thế Giới, mặc dù sau đó không lâu, Pháp và Anh đã làm suy giảm thế lực này. Thế kỷ 16 thường được gọi là Thời Ðại Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha, vì đã phát sinh các vị thánh như Y-Nhã ở Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa ở Avila, Gioan Thánh Giá, Phêrô ở Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator ở Horta.

     Thánh Paschal sinh ở Aragon, Tây Ban Nha trong một gia đình nghèo nhưng đạo đức. Trong khoảng thời gian từ bảy đến 24 tuổi, ngài làm nghề chăn cừu và bắt đầu một cuộc sống rất hãm mình. Ngài luôn luôn cầu nguyện, ngay cả khi làm việc và nhất là khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu lúc dâng Mình Thánh trong Thánh Lễ.

     Năm 1564, Paschal gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn và tận tụy hiến thân cho cuộc đời ăn năn đền tội. Mặc dù ngài được khuyến khích học làm linh mục, nhưng ngài chọn làm thầy trợ sĩ. Trong những quãng thời gian khác nhau, thầy đảm trách các công việc giữ cửa, nấu ăn, làm vườn và chính yếu là đi khất thực.

     Thầy Paschal rất thận trọng tuân giữ lời khấn khó nghèo. Thầy không bao giờ phí phạm thức ăn hay bất cứ gì được sử dụng trong nhà dòng. Khi là người giữ cửa và tiếp đón các người nghèo đến xin giúp đỡ, thầy nổi tiếng là độ lượng. Ðôi khi, các tu sĩ trong dòng phải ngăn cản sự phóng khoáng của thầy!

     Một đặc tính của Thầy Paschal là sùng kính Thánh Thể. Ngoài những thời giờ bận rộn vì nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cuộc đời thầy đầy dẫy những phép lạ chữa lành mà dân chúng được lãnh nhận qua sự cầu nguyện của thầy. Tuy là thầy trợ sĩ nhưng lúc bấy giờ rất nhiều người tìm đến thầy để xin cố vấn.

    Ngay cả cái chết của thầy cũng được ghi dấu bằng một biến cố bất thường. Người ta kể rằng thầy trút hơi thở cuối cùng khi linh mục nâng Mình Thánh lên cao trong Lễ Hiện Xuống.

     Thầy Paschal được phong thánh năm 1690, và năm 1897, ngài được đặt làm quan thầy của các tổ chức cũng như nghị hội về Thánh Thể.

 Lời Bàn

    Việc cầu nguyện trước Thánh Thể chiếm nhiều thời giờ và năng lực của Thánh Phanxicô. Hầu hết các lá thư của thánh nhân đều thúc giục sự sùng kính Thánh Thể. Thánh Paschal cũng noi gương đó. Một giờ cầu nguyện trước Thánh Thể có thể dạy bảo chúng ta rất nhiều điều. Một số người Công Giáo đạo đức ngày nay thấy rằng công việc của họ được phong phú hóa là nhờ những giây phút dành để cầu nguyện và chiêm niệm trước Thánh Thể.

    Lời Trích

  “Hãy suy nghĩ kỹ về điều này: Hãy tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thật đúng khi bạn tìm kiếm Thiên Chúa trước hết và trên hết mọi sự, bởi vì Thiên Chúa cao cả sẽ ban cho bạn những gì bạn cầu xin. Ðiều này cũng giúp bạn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và kính mến Người cách tuyệt hảo hơn” (Thánh Paschal).

 Nguồn từ Maria Thanh Mai gởi

Hai câu chuyện nên đọc.

Hai câu chuyện nên đọc.

Có rất nhiều Quân nhân can trường trong thế chiến thứ Hai.Một trong những anh hùng đó là Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch O’Hare.Trung Tá O’Hare là Phi Công khu trục tùng sự trên Hàng Không Mẫu Hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương. 

Chuyện thứ nhất

 Một hôm toàn thể phi đoàn của ông được giao phó thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh và gia nhập đội hình bay, liếc nhìn bảng phi cụ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về tầu được. Trung tá O’Hare báo với Phi ĐoànTrưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình của phi đoàn và quay trở lại hàng không mẫu hạm.

 Trên đường về tầu, bỗng nhiên, trung tá O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: dưới thấp xa xa trước mặt ông là nguyên một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tìến về hải đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhìệm vụ và hải đội không còn ai bảo vệ cả. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không còn thời gian để báo với hải đội những nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi phá tan và chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.

 Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình đoàn oanh tạc cơ Nhật, với bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh đỏ rực, ông tấn công tới tấp bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hải đội Hoa kỳ.

 Cuối cùng, đoàn phi cơ Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo lại sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng hùng hồn nhất.Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.

 Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ.

Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường của thành phố Chicago , quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare. Dịp nào đó nếu dừng chân tại phi trường O’Hare, xin hãy đi thăm khu kỷ niệm O’Hare, nhìn tận mắt Huân Chương Danh Dự đã gắn lên ngực áo của ông. Khu lưu niệm này nằm giữa Terminal 1 và Terminal 2.

 Chuyện thứ hai

 Hơn mười lăm năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Easy Eddie. Trong thời gian này, Trùm tội ác Al Capone hầu như làm chủ thành phố. Capone nổi tiếng không do các hành động anh hùng mà vì các việc làm bóc lột, tàn nhẫn và hung ác. Thành phố Chicago , qua Capone, tràn ngập những nơi bán rượu lậu, các động mãi dâm và các vụ giết người không gớm tay.

Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi. Việc rành rẽ và biết lợi dụng các kẽ hở pháp luật của Eddie đã giúp Capole nhởn nhơ ngoài vòng tù tội. Để tỏ lòng biết ơn, Capole trả công Eddie rất hậu. Không chỉ về tiền bạc mà còn chu cấp về tài sản nữa. Chẳng hạn như gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, kín cổng cao tường và thừa mứa các tiện nghi của lúc đó với kẻ hầu người hạ ngay trong nhà. Lâu đài này lớn đến độ chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago . Dĩ nhiên với cuộc sống giầu có quyền thế của kẻ đương thời, làm sao Eddie có thể nhận và hiểu được những khốn cùng của xã hội chung quanh.

 Như mọi người, Eddie có một yếu điểm. Có một con trai và Eddie thương con vô cùng. Cậu bé có đủ thứ ở trên cõi đời, toàn những loại thượng hảo hạng: quần áo, xe cộ ngay cả trường học nồi tiếng vì giá cả tiền bạc không thành vấn đề, không gì có thể ngăn cản được. Mặc dù liên hệ chặt chẽ và chìm ngập trong tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dậy con thế nào là phải và trái.

 Vâng, Eddie đã cố dậy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽlà người tốt.. Cho dù giầu có và quyền thế xiết bao nhưng vẫn có hai thứ Eddie không thể cho con được, hai thứ mà chính Eddie đã chót bán cho Capone: làm gương và để lại cho con niềm danh dự.

 Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định việc để lại danh dự cho con cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa hơn là cho con cuộc sống giầu có với những đồng tiền từ máu và nước mắt của người khác. Phải thay đổi hoàn toàn những việc làm lầm lỡ trước kia, phải báo với chính quyền những sự thật vế Al Capone. Eddie cố gắng rửa sạch những nhơ nhớp trên cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.

 Để hoàn tất mọi chuyện, Eddie phải ra trước toà làm nhân chứng chống lại ông Trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Hơn tất cả mọi chuyện trên đời, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gưong và niềm danh dự.

Eddie ra trước toà làm nhân chứng, Trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago . Eddie đã để lại cho con trai một món quà lớn nhất trên thế gian này, mua bằng giá cao nhất là sinh mạng của chính mình.

 Hai câu chuyện này có liên hệ gì với nhau ? Trung tá phi công Hải Quân Butch O’Hare là con trai của Easy Eddie. Ước mong bạn cũng ngậm ngùi và cảm khái như tôi khi đọc những giòng này.

nguồn do chị Lý Bạch Yến gởi

Sự chết, chuyển hóa nhờ Ơn Ban

 

Sự chết, chuyển hóa nhờ Ơn Ban

                                                       Lòng anh em đừng xao xuyến,

                                             Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

                                                                                          ( Ga 14, 1 )

             Người Việt Nam chúng ta thường nói: “ Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” để chỉ những người thiển cận, chậm hiểu, chậm tin. Nói đến quan tài là nói đến cái chết, điều mà mỗi người đều phải qua. Có sanh, có tử, vậy mà sự chết luôn luôn là một hình ảnh kinh hoàng cho con người, không ai muốn nghĩ tới, đừng nói chi muốn nhìn thấy trong cuộc đời mình.

            Nhưng trước sự chết, Chúa Giêsu đã có thái độ thật rõ ràng: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết:Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được.” ( Lc 12, 4 ). Đối với Ngài, cái chết của thân xác không chấm dứt được Sự Sống lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho loài người, chỉ có Thần Khí mới dẫn con người vào được con đường của Sự Sống vô biên nơi Thiên Chúa. Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng ích lợi gì ( Ga 6, 63 ). Chúa Giêsu đã muốn bày tỏ cho con người biết có một đời sống khác lớn lao hơn đời sống của xác thân: Đời sống tinh thần, đời sống siêu việt của con người bất tử nhờ Ơn Ban của Thiên Chúa. Ngài muốn nói cho nhân loại biết qua cái chết và Phục Sinh của Ngài.

             Ngày chồng tôi còn trên giường bệnh, bác sĩ báo cho biết anh ấy phải qua lần giải phẩu thứ tư khi cơ thể đã hoàn toàn suy nhược, tôi thật sự lo âu vì nghĩ rằng chồng tôi khó qua khỏi lần giải phẩu nữa. Biết những lo lắng của tôi, bạn tôi khuyên: Chị ơi, ngày anh lên bàn mổ, chị đừng phí thì giờ ngồi chờ đợi trong bệnh viện, thay vào đó chị hãy đi chầu Thánh Thể, tham dự Thánh Lễ cầu nguyện cho anh thì hay hơn. Nghe lời khuyên của bạn, tôi đã đến quì hằng giờ thinh lặng trong nhà chầu trước Mình Thánh Chúa, và sau đó tham dự Thánh Lễ trước khi vào bệnh viện với chồng. Tâm hồn tôi xao xuyến gần như bấn loạn trước những biến cố dồn dập xãy đến cho gia đình tôi. Lúc hiệp dâng Thánh Lễ, tự dưng một tiếng nhẹ nhàng cất lên trong thâm tâm: “ Sao không để Cha chiếm hữu tâm hồn con ?” Tiếng nói lập lại lần nữa khi rước lễ giúp tôi bình tỉnh lại, mọi lo âu lắng xuống dần không còn khuấy động tâm hồn tôi. Trong lời nguyện thì thầm với Chúa Giêsu Thánh Thể vừa đón nhận, tôi hoàn toàn phó thác chồng tôi cho Chúa. Tôi xin Chúa đến và ở lại với chúng tôi, chiếm hữu tâm hồn tôi, để từ đây chúng tôi hoàn toàn thuộc về Chúa. Chồng tôi đã qua lần giải phẩu đó thật dễ dàng hơn tôi tưởng, khi bước vào phòng hồi sinh, tôi đã nhìn thấy anh tỉnh táo trên giường bệnh. Và những tháng ngày sau đó, dù trải qua thời gian rất nặng nề của thử thách, chúng tôi đã đi qua cuộc chiến đấu sau cùng với Ơn Chúa vì Ngài vẫn hiện diện với chúng tôi.

           Rồi chồng tôi cũng qua đời, nhưng câu hỏi: “ Sao không để Cha chiếm hữu tâm hồn con ?” vẫn tồn tại, như dấu ấn Chúa đặt vào tâm hồn thành chìa khóa giúp tôi mở toang cánh cửa linh hồn cho Chúa vào ngự trị, duy có Chúa chiếm hữu tâm hồn tôi. Với Chúa trong tâm, tôi trải qua những ngày sóng gió thật bình yên vì biết có Người luôn kề cận. Bình an của Thầy không giống bình an của thế gian, tôi đã hiểu và cảm nếm được bình an ấy. Chính với Bình An của Thầy, tôi nhận ra sự sống đời đời mà cái chết của thể xác không làm mất đi.

             Có lẻ, người ta quá chú trọng đến thân xác nên không nhìn thấy một đời sống lớn lao hơn, vượt ra khỏi biên giới của sự chết xác thân: đời sống tinh thần. Chính tinh thần sẽ hướng dẫn sự sống con người qua bao thời đại. 2000 năm trước, Chúa Giêsu nhận xét cách ăn nếp ở của người thời đó, và Ngài đã nhìn thấy sự diệt vong của loài người khi con người vẫn bước đi trên đường lối thế gian. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: Hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục ( Lc 12, 5 ). Tôi tin có thiên đàng, có hỏa ngục; cũng như niềm xác tín: có Thiên Chúa và có ma quỉ, kẻ đối nghịch cùng Thiên Chúa. Nhưng nếu đóng khung thiên đàng hay hỏa ngục trong những hình ảnh mà chúng ta được nghe từ nhỏ thì thật là những thiếu sót dẫn đến mặc cả : Tôi giữ đạo đúng từng lề luật để chết được lên thiên đàng thì, quả thật, tôi dùng đời sống đạo để chỉ mong mua lấy thiên đàng mà hưởng phước đời đời, chứ không phải tôi sống đạo vì lòng yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu mãnh liệt hơn sự chết như Đức Giêsu.

             Với tình yêu mãnh liệt dành cho Thiên Chúa và con người, 2000 năm trước Chúa Giêsu đã tuyên chiến với tên thủ lãnh thế gian để cứu con người, không phải chỉ đem con người lên thiên đàng, nhưng để khai mở triều đại Thiên Chúa ngay tại trần gian, trong vương quốc của Ngài con người được sống đời đời. Cuộc chiến thật cam go giữa tinh thần và vật chất, giữa tinh thần và tinh thần – giữa tinh thần Đức Kitô và tinh thần thế tục – vẫn đang tiếp diễn để quyết định sự tồn vong của nhân loại.

             Nhìn vào thời đại, chưa bao giờ tinh thần con người bị tấn công mạnh mẽ như thời nay. Tại các nước cộng sản, chủ nghĩa duy vật được thực hiện triệt để để hủy diệt tinh thần con người. Tại các nước tư bản, được mệnh danh là các quốc gia tự do, không khác gì hơn khi tiện nghi vật chất đã trở thành nhu cầu hàng đầu mà con người không muốn thiếu trong đời sống, đang dần dà điều khiển nếp sống con người. Tất cả chỉ làm cho con người trở thành nô lệ cho vật chất, cho thế gian, xa dần Thiên Chúa là nguồn cội Sự Sống toàn vẹn, vô biên.

             Trong thư thứ hai gỡi cho ông Ti-mô-thê, Thánh Phaolô viết thật rõ về những dấu hiệu của thời sau cùng, khi người ta sẽ ra ích kỷ và ham mê bất chính. Họ chạy theo hình thức bên ngoài, nhưng chối bỏ những ích lợi của tinh thần cốt lỏi bên trong. Họ yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa, bị đủ thứ đam mê lôi cuốn, nên học mãi chẳng bao giờ nhận biết Chân Lý. ( x.2Tm 3, 1-9). Đầu óc lệch lạc nên đường đi hoài mà chẳng tìm thấy Chúa đâu vì tâm trí họ không có Chúa chiếm hữu, thay vào đó là những đam mê dục vọng thấp hèn, quyền lực và những quyến rũ của vật chất thế gian.

            Ngày nay người ta xem dâm ô là chuyện bình thường, là trò giải trí, và ngay cả là sinh lý cần thiết cho đời sống con người. Dâm ô, không chỉ tà dâm bất chính mà ngay cả chính dâm vô độ, làm tâm trí con người nên mù quáng không còn nhận được ánh sáng Chân Lý. Ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối thì tồi biết chừng nào! ( Mt 6, 23 ). Dâm ô không phải chỉ là tội phạm đến thân xác mà, trước tiên, dâm ô làm tổn hại tinh thần nặng nề nhứt. Con người ham mê dâm ô nhục dục không còn nhìn thấy Thiên Chúa vẫn đang hiện diện, nên tội dâm ô là tội làm con người xa Chúa, mất Ơn Chúa nhanh chóng. Thần Khí Thiên Chúa không thể chiếm hữu những tâm hồn ô nhơ vì nó đã thành nô lệ cho thần ô uế, cũng như những tâm hồn chứa đầy tham vọng vật chất thì làm nô lệ cho tên thủ lãnh thế gian, lạc xa đường lối Chúa. Phúc thay ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa ( Mt 5, 8 ), được Thần Khí Thiên Chúa chiếm hữu, ngự trị.

             Người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự ( 1 Cr 2, 15 ), họ được ánh sáng Chân Lý dẫn đường, bước đi trong đường lối Thiên Chúa. Ngày nay, người ta lầm lẫn giữa thông minh của con người và khôn ngoan nơi Thiên Chúa. Họ tưởng là với thông minh hiện có, con người không cần Thiên Chúa nữa, mà gạt bỏ Chúa ra khỏi đời sống của họ. Họ không nhìn thấy một quan tài vĩ đại đang chôn vùi con người bằng chính những thành quả phát minh của họ, không có ơn Khôn Ngoan Thiên Chúa làm nền tảng dẫn đưa. Những cuộc khủng hoảng, bạo động mọi nơi và chiến tranh đem kinh hoàng tới cho con người, chỉ vì người ta tự hào về sự thông minh của mình, tìm kiếm quyền lực và giàu sang từ bấy lâu nay.

             Thông minh của thế gian tiêu diệt con người, nhưng khôn ngoan từ Thiên Chúa luôn luôn cứu con người cho được sống và sống dồi dào. Sự sống đời đời của con người nằm trong sự sống trường tồn của nhân loại phát triển nhờ Ơn Ban của Tình Thương Thiên Chúa. Thánh Giá Chúa Kitô là dấu hiệu của sự khôn ngoan Thiên Chúa, phục sinh tinh thần con người, cho nhân loại được sống lại trong đời sống mới phong phú trong tình thương của Thiên Chúa. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô minh xác cho tôi về sự sống đời đời trong Ơn Ban của Chúa Cha. Sự chết thể xác chỉ là một chuyển hóa từ đời sống nầy, con người được trở về nguồn cội Sự Sống của mình là Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Ngài là Cha, để tiếp tục được sống trong một chương trình mới mà Thiên Chúa sẽ đặt để cho từng người theo lòng tín thác của họ vào Ngài. Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa là Đức Tin cứu sống con người. Đức tin nông cạn làm cho đời sống tinh thần mau tàn héo; Đức Tin hời hợt sẽ dẫn con người đến mê tín; và Đức Tin ấu trĩ thì giết chết con người. 

             Đức Tin không bao giờ phản khoa học, trái lại Đức Tin làm cho những lợi ích của khoa học thêm phong phú vì những thành quả đạt được của khoa học dựa trên nền tảng  Đức Tin. Lòng tin tưởng mãnh liệt vào Tình Thương của Thiên Chúa dành cho con người, và của con người dành cho nhau trong đường lối công chính của Thiên Chúa, sẽ giúp cho những phát minh khoa học, nhân văn hay thực nghiệm, hỗ trợ và phục vụ con người mạnh mẽ hơn, hữu hiệu hơn. Nếu những người truyền bá Đức Tin nhìn thấy được Sự Sống lớn lao của nhân loại trường tồn trong Tình Thương và Ân Sủng Thiên Chúa, thì những điều gấp trăm của đời nầy trở nên vô nghĩa trước một tương lai nhân loại huy hoàng của con người chuyển hóa nhờ Tình Thương và Ơn Ban từ Thiên Chúa. Ngày nay, thỉnh thoảng người ta loan tin các khoa học gia tìm thấy thêm một hành tinh mới trong vũ trụ. Câu hỏi đầu tiên, người ta thường đặt ra: “ Có sự sống trên hành tinh đó không ? Có con người sinh sống trên đó không? ”. Tới ngày hôm nay, câu trả lời là : Không có, hay không thấy. Nếu đặt lại câu hỏi: “ Bao giờ con người của địa cầu nầy sẽ mang sự sống của chúng ta lên các hành tinh đó ?”, câu trả lời sẽ là : Sẽ có, vì trong Thiên Chúa, Đấng làm cho hư vô thành hiện hữu, điều gì cũng có thể, nếu con người không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt chính mình, khi  biết nhìn ra đường lối Yêu Thương vô biên của Thiên Chúa là Cha và tín thác vào Ơn Ban chuyển hóa lớn lao của Ngài.

             Trong Thánh Lễ an táng của chồng tôi, khi cô con gái vừa đọc bài đọc đến đoạn Kinh Thánh : “ Ta là Alpha và Omega…”, ngay lúc ấy tự nhiên bên ngoài nắng sáng lên, chiếu tỏa khắp gian cung thánh và phía trên nhà thờ một làn ánh sáng rực rỡ từ những cửa sổ kính màu, cho tôi như nhìn thấy ánh sáng vĩnh cửu diệu huyền tỏa lan và tôi mỉm cười. Đứa em kế bên phải nhắc: Chị ơi, chị đừng cười trong tang lễ của anh ! Sau nầy, tôi nghe có người phàn nàn, sao không thấy tôi khóc nhiều trong tang lễ của chồng tôi (?!). Tại sao tôi phải khóc nhỉ ? Tại sao tôi không được mỉm cười, khi Chúa đã cho tôi nhìn thấy hình ảnh quá đẹp của Tình Thương Thiên Chúa dành cho chúng tôi trong những tháng ngày cuối cùng của chồng tôi. Và giờ đây, ngay trong Thánh Lễ an táng, tôi đã nhìn được ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên quan tài của anh như ánh sáng dẫn đưa linh hồn chồng tôi về cùng Cha, Đấng đã cho anh được sống qua một đời. Chồng tôi trở về trong tay nhân lành của Thiên Chúa, để trong Tình Thương của Ngài, anh sẽ bước vào một đời sống mới, một chương trình mới Cha sẽ dành cho anh trong Ơn Ban chuyển hóa theo ý Ngài.

 Nam Hoa                    ngưồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Chứng nhân Lòng Thương Xót Chúa

Chứng nhân Lòng Thương Xót Chúa

Sat, 15/10/2011                                                     nguồn: thanhlinh.net

Đã từ lâu, tôi có nghe nói đến Lòng Thương Xót Chúa. Chuyền kể về Nữ tu Faustina được thị kiến và mạc khải bởi Chúa Giêsu. Kinh Lòng Thương Xót Chúa và Tuần Cửu Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa cũng đã được phổ biến. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã dành Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh để Kính Lòng Thương Xót Chúa.

Kinh Lòng Thương Xót Chúa chưa được phổ biến rộng rãi, nên nhiều người trong chúng ta chưa quan tâm đúng mức và cũng chưa biết rõ lắm. Tôi cũng nằm trong thành phần đó. Quyển sách Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa của Thánh Nữ Faustina tôi cũng đã mua, Kinh Lòng Thương Xót Chúa tôi cũng sẵn có, còn đọc… thì từ từ, khi nào người ta đọc thì mình đọc theo! Sách thì dầy quá, ngại đọc lắm! Tôi cũng đã đọc nhiều chuyện kể về những chứng nhân Lòng Thương Xót Chúa, nhưng đọc thì đọc, tôi cũng chẳng quan tâm gì lắm! Ngay cả chị bạn gần nhà, kể tôi nghe rằng: má chị và chị chiều nào cũng vậy, khoảng 3 giờ chiều, hai mẹ con cùng nhau đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa. Kết quả thật bất ngờ: má chị đã đi lại được sau 6 tháng nằm liệt giường! Nghe cho biết vậy thôi, chứ thực sự tôi cũng chảng mấy quan tâm đến việc mà chị bạn tôi cho là một phép lạ!

 Cho đến gần đây, chính tôi được Chúa chữa lành, việc này đã là một bước ngoặt trong niềm tin của tôi, một ngã rẽ trong cuộc đời tôi, khiến tôi không thể không tin, tôi viết lại những lời chia sẻ này như là một lời tạ tội với Chúa , đồng thời để ngợi khen Lòng Thương Xót Chúa mà tôi chính là người đã được Chúa đoái thương. Bây giờ thì tôi đã hiểu câu “Jesus, I Trust In You” dòng chữ dưới tấm ảnh, tạm dịch “Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy Chúa”. Hiểu rất rõ và cũng vô cùng thấm thía!

 Cách đây hai năm, tôi bị đau cổ tay và các ngón tay ở bàn tay phải. Tôi đi khám Bác Sỉ gia đình, Bác sỉ cho tôi uống nhiều loại thuốc Tây, kể cả tôi được gửi đi vật lý trị liệu. Cơn đau vẫn không thuyên giảm. Hàng đêm tôi phải vật vã với cơn đau. Tây y không kết quả, tôi tìm đến Đông y. Tôi phải uống những chén thuốc đen quánh, đặc sệt, đắng nghét, mà tôi rất ghét! Nhưng vì những cơn đau hành hạ từng đêm, tôi phải nhắm mắt, nhắm mũi mà ực từng ngụm. Hết thang thuốc này tới thang thuốc kia, mà cơn đau vẫn không thuyên giảm! Tôi cũng tìm đến các nhà châm cứu, Tây, Ta, Tàu đũ hết. Cũng chẳng bớt chút nào! Cuối cùng Bác Sỉ đề nghị giải pháp cuối cùng: mổ! Nghe đến giải pháp này, tôi rùng mình, ớn lạnh! Vì thú thật tôi rất sợ mổ. Thà đau, chết bỏ chứ mổ thì… cho tôi cám ơn! Nhưng, nhiều khi cơn đau hành hạ, chịu không nỗi, đã có lúc tôi định liều một phen, chịu mổ để khỏi chịu đau! Nhưng rồi lại ngần ngại, cuối cùng thì, thà chịu đau hơn bị mổ! Cơn đau vẫn làm khổ tôi từng đêm. Cơn đau cũng hạn chế mọi khả năng xử dụng bàn tay phải, ảnh hưởng đến viêc làm của tôi trong hảng… Tôi sút giảm thể lực và bi quan vô cùng. Trong tận cùng nỗi đau, tôi chợt nhớ đến Chúa, nhớ lại chuyện của bà mẹ chị bạn được Chúa chữa lành bệnh bại liệt… Tôi tự nghĩ, sao mình không chạy đến Chúa? Bại liệt Chúa còn chữa lành huống chi tay đau, “chuyện nhỏ”? Bảy, tám Bác sỉ ngoài đời, tốn bao nhiêu tiền mà cũng không chữa được tay mình, sao không chạy đến Bác sỉ Giêsu, có tốn đồng xu cắc bạc nào đâu, Bác sỉ Giêsu chỉ cần mình có Lòng Tin thôi! Còn chờ gì nữa!

 Từ hôm ấy, tôi bắt đầu đọc Kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày. Cứ khoảng 3 giờ chiều, dù ở nhà hay tại nơi làm việc, tôi cũng đọc kinh. Sau đó, tôi mời gọi chồng, con tôi cùng đọc chung với tôi trong những ngày nghỉ, đọc kinh tại nhà. Khoảng hai tháng sau thì đến Tuần Cửu Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa (tuần Cửu Nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh, kết thúc vào Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, tức là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa) Tôi gia tăng lòng Tin và khẩn thiết nài xin Chúa chữa lành tay tôi. Kết quả thật khả quan: tay tôi bớt đau, cử động nhẹ nhàng, xoay trở dễ dàng và không còn bị đau về đêm như trước đây nữa! Bác Sỉ Giêsu thật tuyệt vời! Ngài đã nghe lời tôi kêu xin, Ngài đã chữa lành cho tôi – cơn đau mà tôi đã phải khốn khổ vì nó suốt hai năm qua – không phải uống thuốc, không phải tốn tiền, không bận tâm gì cả! Thật ra tôi chỉ bỏ ra MƯỜI PHÚT mỗi ngày, cùng với LÒNG TIN vào Tình Yêu của Chúa. Thế thôi!

 Alleluia! Alleluia! Bây giờ thì tôi tin, tin tuyệt đối! Và tôi cũng cầu mong mọi người cùng có lòng tin như tôi! Tôi xin là một nhân chứng sống cho Chúa qua sự kiện Chúa đã chữa lành tay tôi! Bây giờ thì tôi thấm thía lời một bài Thánh Ca nào đó “Có Thần Linh nào như là Gia-vê? Mỗi khi khẩn cầu, có Ngài ngay bên…” Thật vậy, Chúa ở ngay bên cạnh chúng ta, sẵn sàng nghe lời ta kêu xin, vậy mà chúng ta thật vô tâm. Chúng có một nguồn hổ trợ vô cùng phong phú, vậy mà chúng ta không biết, không xử dụng trong cuộc sống của mình!

 Qua “câu chuyện thật đời tôi” mà tôi vừa chia sẻ, tôi ước mong mọi người hãy hưởng ứng đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày, với niềm tin rằng Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta, luôn mở rộng vòng tay chờ đón tất cả các con tìm về bên Trái Tim Yêu Thương vô bờ của Người!

 Lời chứng của Maria Kim Nhung

34 câu nói của người 90 tuổi đã trải đời

34 câu nói của người 90 tuổi đã trải đời

1. Life isn’t fair, but it’s still good.

 (Cuộc đời nhiều bất công nhưng vẫn còn tốt chán)

2. When in doubt, just take the next small step.
(Khi nghi ngại, hãy từ từ mà tiến.)
3. Life is too short. Don’t waste time hating anyone.

(Cuộc đời quá ngắn ngủi. Đừng phí thỉ giờ ghét bỏ ai làm gì.)

4. Only friends and family will be present in sickness. Stay in touch.

 (Đau ốm, chỉ có gia đình và bạn bè bên cạnh. Nhớ gần gũi.)
5. Pay off your credit cards every month.
    (Hãy trả hết nợ thẻ tín dụng mỗi tháng.)
6. You don’t need to win every argument. Agree to disagree.
    (Khi tranh luận, hơn thua không đáng kể. Nên chấp nhận bất đồng.)
7. Crying is good, but it’s more healing crying with friends.
    (Khóc cũng tốt, nhất là khi khóc với bạn bè.)
8. Release your children when they become adults, its their life now.
    (Buông tay với con cái trưởng thành. Chúng có cuộc sống riêng.)
9. Save for retirement starting with your first pay cheque.
    (Để dành cho tuổi về hưu ngay với số tiền lương đầu tiên.)
10. When it comes to chocolate, resistance is futile.
     (Để ý sự cám dỗ)   
11. Make peace with your past so it won’t screw up the present.
     (Hãy làm lành với quá khứ để hiện tại được yên ổn.)
12. It’s OK to let your children see you cry.
     (Con cháu thấy mình khóc đâu có sao/)      
13. Don’t compare your life to others. They have different journeys.
     (Đừng đem đời mình so với ai đó; đời mỗi người mỗi khác)
14. Never be in a secret relationship.

    (Đừng bao giờ dính vào một mối quan hệ bí mật)
15. Everything can change in the blink of an eye.
     (Mọi chuyện ở đời có thể thay đổi trong chớp mắt)
16. Take a deep breath. It calms the mind.
        (Hít thở sâu giúp tinh thần ổn định)
17. Get rid of anything that is neither useful, beautiful, nor joyful.
      (Hãy gạt bỏ những gì vô ích, xấu xa, buồn bã)
18. What doesn’t kill you really makes you stronger.
      (Điều gì không giết ta được sẽ giúp ta mạnh hơn)
19. It’s never too late to have a happy childhood.

      (Sống lại như trẻ con lần nữa cũng không phải là trễ quá)

20. For whatever you love in life, don’t take no for an answer.
     (Những gì yêu quí trên đời, ta đều phải ráng đạt cho được)
21. Today is special. Enjoy it.
     (Ngày hôm nay là ngày đặc biệt. Phải tận hưởng nó) 
22. Your belief of your being right doesn’t count. Keep an open mind.
   (Cứ tin mình luôn luôn đúng là bậy. Phải có đầu óc cỏ̉i mỏ̉)
23. No one is in charge of your happiness but you.
     (Hạnh phúc của mỗi người là mối lo riêng của người đó)
24. Forgive everyone everything.
     (Hãy tha thứ tất cả cho mọi người)
25. What other people think of you is none of your business.
     (Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó đối với mình)
26. Time heals almost everything. Give time time.
    (Thời gian hàn gắn gần như mọi sự. Xin cho thời gian có thì giờ
27. However good or bad a situation is, it will change.
        (Tình thế dù tốt hay xấu, rồi cũng thay đổi)
28. Don’t take yourself so seriously. No one else does.
     (Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Ai cũng vậy thôi)
29. Believe in miracles.
     (Hãy tin vào phép lạ)
30. Your children get only one childhood.
     (Con cái chúng ta chỉ có một thời trẻ trung)
31. Envy is a waste of time. 

(Đừng ganh tị. Mất thì giờ vô ích)

32. It’s OK to yield.
     (Làm được bao nhiêu cũng tốt) 
33. Life is a gift.”
       (Cuộc sống là một món quà)
34. Friends are the family that we choose.

     (Bạn bè là gia đình chính chúng ta đã chọn) 

 From Regina Brett, 90 years old.

Một con người, một bác sĩ, một tín hữu

Một con người, một bác sĩ, một tín hữu  (về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn)

            Trần Thị Quỳnh Giao – FMM

            Viết về Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đối với tôi là một cuộc trở về, trở về với quá khứ của một con người cũng như trở về với chính mình. Một con người trước đây đầy quyền lực trong một xã hội quyền thế. Với chính mình vì phải làm một cuộc ngoảnh mặt với những biến cố ít nhiều đã gây nhức nhối một thời… để tìm về một cái gì sâu thẳm hơn còn dấu kín trong lòng người, để có thể vươn cao hơn cái tầm thường của bản tính nhân loại và qua đó khám phá được Chân Lý tiềm ẩn nơi họ. Chân Lý đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm của lòng người vì “con người là đường đi của Giáo Hội” mời gọi ta tôn trọng và yêu thương.  

            Cần nói thêm là những gì tôi viết ra đây phần rất lớn là do những lần tâm sự của hai Ông Bà. Có thể có những điều báo chí đã biết và viết về Bác Sĩ, nhưng những chia sẻ sau đây dành cho Hiệp Thông là hoàn toàn những chia sẻ thâm tình mà Bác Sĩ và Chị đã gởi gắm vào tôi “ước mong một ngày kia Soeur Quỳnh Giao có dịp viết về mình với những tâm tư thầm kín sâu thẳm nhất của tôi dành cho Soeur”. Giờ đây với Hiệp Thông, tôi lại có dịp viết về Bác Sĩ và Chị Yến.

            I. CON NGƯỜI  

            Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn người gốc làng Nghĩa Đỏ, huyện Từ Liêm. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở ngoại thành Hà Nội. Cha mẹ không có cơ may học hành, không thể hướng nghiệp gì cho chàng trai trẻ. Học hết phổ thông, anh Ngoạn nộp đơn xin vào Đại Học Y Hà Nội. Năm đó là năm 1955. Ngày nộp đơn, bạn bè cũng như cha vợ tương lai ngăn cản và nài xin con gái “cố gắng khuyên Ngoạn nên đổi nghề khác chứ làm nghề ấy khổ lắm!”. Nhưng sau lần đi khuyên ấy, người bị thuyết phục lại là con gái cụ, bởi “em yêu anh nên muốn điều anh muốn”. Nhắc lại chuyện xưa, Chị Yến cười nói: “Em nói, nhưng anh ấy có nghe đâu, lại còn bảo: ‘Em ủng hộ anh nhé!’ Nói sao đây, kệ anh!”  

            Tháng 2, 1962, tốt nghiệp y khoa, với lời thề Hippocrate, Bác Sĩ Ngoạn nắm tấm bằng trong tay và mới cưới vợ chưa đầy 1 tháng, sống với vợ vỏn vẹn chừng 10 ngày để biền biệt đi mãi, chàng Bác Sĩ trẻ 27 tuổi Trần Hữu Ngoạn lại làm cho ông cha vợ một phen ‘sốc’ lần nữa khi xung phong vào làm Bác sĩ ở khu điều trị phong Quỳnh Lập. Chị Yến tâm sự: “Lúc đó em được 18 tuổi. Để em khỏi bịn rịn khóc lóc, anh ấy chờ em đi dạy, viết lại mấy chữ đặt ở bàn nước rồi khoác balô lên đường. Em không hề được hưởng hạnh phúc lâu dài với anh. Đến giờ Soeur biết không gần hơn 35 năm chung sống, anh chỉ ở với em tổng cộng nhiều lắm hơn 18 tháng!”  

            Một điều thú vị mà có lẽ nhiều người không biết, Bác Sĩ Ngoạn là một người Hà Nội ham mê âm nhạc từ nhỏ. Khi chứng kiến niềm vui rạng rỡ của Bác Sĩ dịp đi Mỹ dự một Hội Nghị Phong quốc tế năm Bính Thìn, Bác Sĩ khoe một trong những “thắng lợi” của chuyến đi này: “Một bác sĩ Mỹ tặng toàn bộ tác phẩm của Beethoven trong cuốn băng có chất lượng thu thanh tuyệt hảo: về hưu sẽ thưởng thức cái thú nghe những băng nhạc ấy trên căn gác nhỏ thanh tịnh chứ!” Có lần, để tưởng nhớ 200 năm ngày sinh của Beethoven, Bác Sĩ đã vượt qua bom đạn trở về Hà Nội chỉ để mời bạn bè yêu thích nhạc đến nhà làm một cuộc kỷ niệm nho nhỏ về nhạc sĩ vĩ đại này. Tại Qui Hòa, Bác Sĩ có cho làm một khu du lịch với hình một chiếc đàn, được hỏi vì sao lấy chiếc đàn này Bác Sĩ: “Vì còn trẻ tôi đã chơi đàn này và nhạc sư của tôi là thầy Đỗ Tình”. Khi trốn vợ đi phục vụ trại phong, Bác Sĩ đã để lại cây đàn violon và niềm vui tinh thần vật chất để đến với người bệnh phong.  

            Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn được mang nhiều tên khác nhau làm nên CON NGƯỜI được nhiều người qúy trọng và thương yêu: “Người Bác Sĩ ‘điên khùng’ và mặc cảm. Người Bác Sĩ thích dây dưa với hủi. Một người khùng đang yêu. Người của người bất hạnh. Người của lòng nhân ái. Người ‘xúc cảm với bệnh nhân phong’. Người ta chỉ ‘xúc cảm’ với cái đẹp, với nghệ thuật, với người đẹp! Một Nhà Khoa Học với tấm lòng nhân hậu. Vì sự nghiệp, Bác Sĩ là một trong số ít nhân viên không có gia đình ở gần. Hầu hết các Bác Sĩ trại là những nhân viên địa phương, có nhà trong thành phố; hết giờ làm việc thì về với gia đình. Cuộc đời Bác Sĩ, hơn 31 năm vào nghề cũng bằng từng ấy năm sống xa vợ con. Nhiều bạn bè khoa học có tầm cỡ cũng khuyên Bác Sĩ nên xin về với vợ con để họ bớt bị thiệt thòi, nhưng Bác Sĩ không nỡ bỏ bệnh nhân. Bác Sĩ kể: “Một lần mình được Bộ Trưởng Y Tế mời đến họp. Đã lâu không gặp ông Bộ Trưởng, nên khi gặp ông liền nói: Ah! Anh Ngoạn ơi ! Thường khi gặp ông lớn thì người ta xin 3 điều: một cho tăng lương, hai cho tăng chức, ba cho về ở gần gia đình. Anh nên xin một điều gì cho anh”. Bác Sĩ trả lời: “Lương đối với tôi tương đối đủ sống! Chức thì anh biết rồi đó, đối với tôi chỉ là một trò cướp giựt dơ bẩn. Còn về ở gần gia đình, thì người thầy thuốc ưu tiên là người của bệnh nhân”, và Bác Sĩ đã không xin gì.  

            Một sự kiện lớn khác minh họa cho con người không tham quyền hành mà chỉ chú tâm phục vụ người xấu số. Tháng 8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Ghandi. Bộ Trưởng Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản”. Sau đó qua các cơ quan y tế và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp”. Với bức thư này, Bác Sĩ đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi, để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần còn lại cho Bộ” (giải thưởng là 30.000 USD). Tôi buộc phải trả lời: “Người đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của họ”. Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó đến phóng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu này mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: “bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại”. Nhiều tấm gương của dòng tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống. 

            II. SỰ NGHIỆP  

            1. Quỳnh Lập :  

            Quỳnh Lập là trại phong lớn nhất miền Bắc với 2.600 bệnh nhân sống trong những mái nhà tranh tre lụp xụp, nghèo nàn. Thời còn sinh viên, thực tập tại Quỳnh Lập, Bác Sĩ chia sẻ: “Có lẽ khơi nguồn tôi đến với các bệnh nhân phong là từ nỗi đau đớn tinh thần của họ, sự mặc cảm sâu sắc của họ trước sự kỳ thị ghê gớm của xã hội, và cả tấm lòng qúy người cách kỳ lạ của họ nữa đã khiến tôi phải suy tư rất nhiều”.  

            Bác Sĩ tiếp: “Ngày còn là sinh viên thực tập, tôi đã chứng kiến cảnh người đi khám bệnh, biết mình bị phong là về nhà tự tử. Ngay cả ngành Y cũng đã làm cho người ta sợ vì những quy định kỳ cục: thư từ của bệnh nhân gởi ra ngoài phải được đóng dấu: ‘đã hấp chín’; có nơi người bệnh chỉ được nói chuyện với người thân qua một lớp kính chắn. Nơi tôi làm việc (Quỳnh Lập) nhân viên y tế làm ở khu vực riêng cách bệnh nhân mấy cây số! Khắc phục một tâm lý sai lầm còn gay go hơn tìm ra cách chữa một căn bệnh. Việc làm đầu tiên của tôi để chống lại tâm lý ấy là tự động vào sống chung với bệnh nhân. Sau khi nhận trách nhiệm giám đốc tôi quyết định đưa khu làm việc vào sát khu bệnh; lấy một số bệnh nhân đã được khỏi làm nhân viên”.  

            Trở lại Quỳnh Lập với chức Giám Đốc, lần này không còn có thể trốn vợ như trước bởi đã 40 tuổi và là cha của ba con: hai trai một gái, sợ vợ ngăn cản, ông mặc cả rằng: “Cho anh đi 10 năm nữa, năm em 40 tuổi thì anh về Hà Nội”. Trở lại chỗ cũ, tất cả chỉ là tang hoang vì bom đạn đã tàn phá ngôi làng. Hơn 200 bệnh nhân chết, chỉ còn lại vài người trong túp lều tranh lụp xụp. Không nhà cửa, nhiều người tìm về các hang núi sống như người rừng. Tất cả phải làm lại. Vừa xây nhà, ông vừa phải đi đến từng hang núi tìm và đem bệnh nhân về.  

            Qua tiếp xúc với họ, Bác Sĩ hiểu thêm rằng người phong sống một cuộc đời đau đớn về thể xác và tinh thần, bị người đời và cả gia đình xa lánh. Những bệnh nhân khỏi bệnh nhưng không được xã hội đón nhận, Bác Sĩ bố trí việc làm cho họ và đấu tranh cho sự bình đẳng của họ.

            2. Quy Hòa :  

            Có thể nói giờ đây không ai mà không biết đến tên tuổi của Bệnh Viện Hansen Quy Hòa, Quy Nhơn thuộc Hội Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ. Được thành lập từ năm 1932, Quy Hòa càng ngày phát triển và nhiều bệnh nhân từ xa xin đến được chữa trị. Bệnh Viện cũng đã đón tiếp những nhà thơ, những ca sĩ, tu sĩ, được chọn làm nơi quay những chuyện films với những cảnh núi đồi biển cả hùng vĩ, thơ mộng. Mặc dù việc quản lý Bệnh viện gặp vô vàn khó khăn.  

            Chấp nhận làm giám đốc bệnh viện, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn chấp nhận khoảng cách tình cảm giữa vợ chồng con cái, gia đình kéo dài thêm hàng ngàn cây số! Bác Sĩ không có ‘mộng ước làm quan’, một đời chỉ mong sao góp phần giảm bớt nỗi đau, đem lại hạnh phúc cho người bệnh và nghiên cứu thực hiện những công trình khoa học cùng với Viện Dịch Tễ Hà Nội nghiên cứu vi trùng qua kính hiển vi điện tử và hợp tác với các nhà khoa học Pháp, Hà Lan, Bỉ cùng nghiên cứu về bệnh phong.  

            Ngày nay với tiến bộ y học, người ta có thể chữa trị bệnh phong theo phương pháp đa hóa trị liệu, chứ không đơn thuần dùng DDS như trước đây. Ngay trong Quy Hoà, Bác Sĩ dành riêng một khu vực điều trị cho những người mắc bệnh mới vào, chữa cho khỏi rồi cho họ ra về với cộng đồng. Bác Sĩ thường đi Tây Nguyên giúp người bệnh có những kiến thức cần thiết để có khả năng phát hiện bệnh sớm.  

            Nhận làm giám đốc Quy Hòa từ năm 1985 đến 2001, Bác Sĩ muốn biến khu bờ biển tuyệt đẹp này thành khu du lịch. Ông nghĩ điều này sẽ giúp quan niệm của ông là xóa bỏ dần sự ngăn cách giữa người bệnh và xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập cho nhân viên. Vì vậy phải làm lại con đường vào Quy Hòa lâu năm bị mưa lũ xói lở. Con đường dài 2.600m. Khi Bộ đồng ý đầu tư cho trại làm lại con đường đèo, nhiều chủ đầu tư đã đến xin ông cho họ làm theo hình thức khoán gọn công trình, trong đó ông được 12% giá trị công trình, (12% là món tiền không nhỏ). Cơ quan giao thông dự trù 700 triệu. Bác Sĩ Ngoạn nhờ người thiết kế và cho những người dân làng phong còn sức khoẻ thi công, vừa tạo việc làm, có thu nhập và quan trọng hơn, giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm. Cuối cùng chi phí chỉ lên 140 triệu! Không được ăn thì đạp đổ: đơn kiện ông bay đi khắp nơi, vu cáo là ông không trong sáng trong vấn đề tiền bạc, ăn chặn tiền từ thiện, tha hoá về tư tưởng… và một ngày kia, cũng chẵn 10 năm làm giám đốc, một lần nữa ông nhận quyết định thôi làm giám đốc “vì không đủ khả năng làm quản lý” và nhận nhiệm vụ mới: chuyên viên của Vụ Điều Trị kiêm tạp vụ.  

            Bác Sĩ đã nếm đủ vinh quang và cay đắng của cuộc đời, của một cơ chế bất công, dành giựt quyền hành. Hai lần làm Giám Đốc, hai lần bị cách chức không có lý do!

            Giữa hai làn ‘bom đạn’, Bác Sĩ Ngoạn được gọi về Hà Nội làm ở khoa Da Liễu Bệnh Viện Bạch Mai vẫn là Bác Sĩ điều trị phong.

            3. Biến cố 23 tháng 10 năm 1984 tại Phú Khánh  

            Đó là biến cố của lòng nhân ái, liên đới với bệnh nhân mà mình phục vụ đồng thời cũng là một biến cố khoa học dũng cảm của một con người yêu thương bệnh nhân thật sự: Vào ngày ấy Bác Sĩ Ngoạn có dịp ghé thăm bệnh Viện Da Liễu Nha Trang. Trong đó có vài giường chứa bệnh phong. Nhân viên y tế có thái độ kiêng kỵ, tách biệt rõ rệt với bệnh nhân, Bác Sĩ giải thích nhưng nhân viên không tin, ông bèn nói: “Các cô cậu có muốn tớ tiêm trực tiếp trực khuẩn Hansen vào mình tớ không?”; “Được vậy thì thuyết phục chúng em ngàn lần hơn các tài liệu y khoa”.  

            Cuộc thí nghiệm được bắt đầu với sự chứng kiến của các giới chức khoa học, Giám Đốc Viện Pasteur Nha Trang, Tiến Sĩ vi trùng học Nguyễn Thị Thế Trâm và nhiều bác sĩ chuyên khoa của bệnh viện. Lúc đó có hai bệnh nhân phong, thể ác tính, 25 và 12 tuổi. Bác Sĩ Ngoạn đã lấy 200 milligramme u phong ở dái tai của người bệnh, được sự kiểm tra phân chất của các nhà khoa học chuyên môn có mặt. Mầm bệnh được lấy từ những vết lở loét trên cơ thể bệnh nhân. Bệnh phẩm, sau khi được nghiền nát, hòa với nước muối sinh lý, lọc lấy phần “tinh túy” và kiểm tra có đủ trực khuẩn có thể gây bệnh. Như vậy Bác Sĩ Ngoạn đã đưa vào cơ thể mình hàng tỷ trực khuẩn bằng nhiều đường: nhỏ vào mũi, uống và tiêm vào hai khủy tay và hai dái tai là những nơi trực khuẩn này dễ phát triển. Dám làm điều đó chỉ vì tin vào mình, tin vào kiến thức của nhân loại và đồng thời cũng chứng minh là bệnh phong không lây nhiễm và qua đó đánh tan mặc cảm cho bệnh nhân và xích xã hội lại gần hơn với họ. Với biến cố này Bác Sĩ Ngoạn đã chiếm lòng mọi người, đặc biệt các bệnh nhân.

            4. Vụ Điều Trị của Bộ  

            Về đây Bác Sĩ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giúp đỡ bệnh nhân qua những lần đi đây đó trên quê hương tìm thăm bệnh nhân và xem cách điều trị hữu hiệu hơn nữa.

              III. VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ PHÚC ÂM  

            1. Một lòng yêu thương người bệnh phong  

            Những điều đã nói trên chắc chắn đã cho thấy lòng tận tụy yêu thương bệnh nhân phong hiếm có nơi CON NGƯỜI này. Nhưng tôi cũng không thể bỏ qua một sự việc khác, mà đối với chúng ta là những Kitô hữu và Tu sĩ, chúng ta đã làm được chưa?  

            Trong cuộc đời bình thường, Bác Sĩ là một con người giản dị, lạc quan, rất biết cười và cười thoải mái, đặc biệt khi tôi chọc “quê”. Chị nhà cứ nói: “Sao anh Ngoạn khi nào mà có Soeur Giao chọc ghẹo thì anh cười thoải mái và cười “hết mình“. Một cô gái Hà Nội duyên dáng, dễ mến, là giáo viên cấp II, lấy một anh chàng Hà Thành như Bác Sĩ Ngoạn, mê nhạc, khôi hài, lạc quan, phúc hậu, là mẫu người mà vợ anh xưa kia hằng ao ước, mà bây giờ vẫn còn là thần tượng của chị… lại chấp nhận, vì người bệnh phong để sống xa vợ con suốt một quãng đời dài! Cuộc sống vợ chồng, được ở bên nhau là điều hết sức tự nhiên mà cũng khước từ cho tha nhân. Đến với thế giới bệnh phong để chữa bệnh cho những người hằng tuyệt vọng.

             2. Một tấm lòng thẳng thắn tìm về chân lý  

            Vì tâm hồn trong sáng, nên khi gặp các nữ tu, Bác Sĩ qúy trọng và tín nhiệm “bởi họ sống trong sạch hết mình, không bon chen, lừa lọc… Tư tưởng vô thần và hữu thần ở đây không có nghĩa gì cả, cao nhất trong đạo lý làm người là yêu thương tận tụy đối với nhau”. Bác Sĩ trả lời khi bị vu khống là thiên về tôn giáo!  

            Trong xã hội hiện thời, khi cuộc sống không còn chuẩn mực thước đo, khi nghĩa cử tốt đẹp còn hiếm, khi tiền là tất cả và giả dối lan tràn khắp phố phường, ngành nghề, ở mọi cấp bậc, khi người ta bịa đặt xấu xa để vu cáo nhau, lại dễ làm người ta tin hơn là nói thật những điều tốt đẹp, tìm được một viên ngọc qúy thật là vất vả. Và Bác Sĩ Ngoạn là mẫu người của lòng trong sáng, thẳn thắng, không ham danh lợi. Một tấm lòng như thế chỉ có thể hướng về chân lý, chuẩn bị đón nhận hồng ân của Sự Thật, là Thiên Chúa.

             3. Một con người liêm chính, khiêm tốn và khắc khổ  

            Mấy năm cuối cùng làm việc ở Vụ Điều Trị, ông sống lặng lẽ, hoàn thành công việc của một công chức liêm chính. Thời gian còn lại, ông cố gắng tập họp tư liệu để viết quyển: “Bệnh phong, lý thuyết và thực hành – Tóm Tắt” dày 600 trang được in tại nhà Xuất Bản Y Học.  

            Lần kia, trong một cuộc gặp mặt cuối năm giữa Bộ Trưởng Đỗ Nguyên Phương với anh em cơ quan Bộ, sau khi nhận bó hoa do công đoàn cơ quan tặng, Bộ Trưởng nói rằng, chính Bác Sĩ Ngoạn là người xứng đáng nhận bó hoa này. Lúc này nhiều người mới biết hai người cùng là bạn học ở Đại Học Y Hà Nội! Đó cũng là lần duy nhất ông được “vua biết mặt, chúa biết tên!” Vì nguyện vọng của ông sau khi nghỉ hưu là làm tình nguyện viên y tế để giúp đồng bào dân tộc ít người ở các vùng nghèo nàn lạc hậu còn nhiều khó khăn về y tế, nên Bộ Trưởng Bộ Y tế đã viết ngày 28 tháng 9 năm 1998:  

            “…Tôi thật sự rất cảm kích và hoan nghênh tinh thần xung phong tình nguyện của anh. Cá nhân tôi cũng như tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế, luôn đánh giá cao công lao đóng góp của anh liên tục trong nhiều năm qua, cũng như hiện nay đối với sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung, đối với công tác phòng chống và thanh toán bệnh phong nói riêng là một nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương rất đáng học tập”. Suốt cuộc đời, Bác Sĩ Ngoạn không hề nhận về cho mình một thành tích nào mà chỉ lẳng lặng đi tìm phục vụ người xấu số.  

            “Vị ẩn sĩ” liêm chính, khiêm tốn này cũng sống rất khắc khổ, ít nói. Ngồi trong xe đi công tác đây đó, đôi khi mở miệng chỉ để nói: “Ai cần mở cửa sổ thì cứ mở, tôi chịu lạnh quen rồi”. Hành lý đi đường của ông lẹp xẹp dù mới đi Mỹ đi Pháp về. Đôi dép thì mòn gót, te tua, ăn mặc đơn giản: có lẽ gia tài của ông không quá ba bộ áo quần. Được hỏi qua Mỹ hay Pháp có mua sắm gì cho mình không, Bác Sĩ trả lời: “Không, không sắm gì, chỉ xin được một lô quần áo cho khu điều trị. Mua cho vợ con vài món… Của ăn đường dài chỉ một ổ bánh mì khô, hoặc vài bánh biscuit!. Bác Sĩ nói: “Mình đã chuẩn bị sống thích nghi với hoàn cảnh khó khăn nhất. Mình có thể ăn thật ít, thật khổ, có khi nhịn cả ngày cũng được. Nếu bị bệnh thông thường mình không hề uống thuốc mà để bệnh tự hết. Mình không có nhu cầu gì lớn cho bản thân. Nếu không tập một sức đề kháng như vậy, không sống với bệnh nhân và đồng bào dân tộc được đâu”. Không hút thuốc, không rượu chè café, bia chỉ uống một lon khi cần. Nếp sống khắc khổ bản thân của ông, đã gặp nhiều điều không mấy dễ chịu trong công việc. Có những người không thích cách sống khổ hạnh, liêm khiết của ông; không thích ông có vẻ tán dương tinh thần làm việc tận tụy của các bà soeur “vì suốt đời cống hiến cho người bệnh, tới lúc chết vẫn không cho phép ai nhắc đến việc làm của mình”. Đó là tác phong và y đức của một người quả là hiếm có trong thời buổi này.

             IV. CHẶNG DỪNG CHÂN  

            Tâm hồn màu mỡ ấy đã sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Sau đây tôi chỉ xin kể lại sự kiện Bác Sĩ Ngoạn chọn Chúa làm lẽ sống.  

            Tuy rất có nhiều cảm tình với các chị em Phan Sinh phục vụ tại Quy Hòa, nhưng Bác Sĩ chưa hề một lần nói lên ý nguyện “theo” Chúa của mình. Nghỉ hưu, Bác Sĩ vẫn tiếp tục đi đây đó giúp bệnh nhân phong và về lại sống với gia đình một nếp sống bình thường. Ba cháu, hai trai là Bác Sĩ với hai cô con dâu cũng là bác sĩ và một gái, Kế Toán. Thời gian gần đây, bị bệnh, Bác Sĩ thường xuyên ở nhà hơn. Được vợ chăm sóc chu đáo và tận tụy hết mình. Nhờ có công tác tại Hà Nội, tôi lui tới thăm Bác Sĩ, mang nặng trong tâm hồn một ước vọng dày vò: là làm sao cho Bác Sĩ Ngoạn phải nói lên lời ưng thuận “theo” Chúa, rõ ràng, dứt khoát. Trước đó tôi đã có vài giờ giáo lý cho Bác Sĩ và có dịp tặng ông video về Đức Mẹ Lộ Đức và Thánh Phanxicô Assisi. Bác Sĩ đã bị ấn tượng nhiều, suy tư nhiều và càng trầm lặng hơn. Sau đó vài tháng, ra Hà Nội đến thăm Bác Sĩ, tôi vui mừng nhận thấy ở vách tường đối diện với cửa đi vào nhà, một bức tranh vừa quen thuộc vừa lạ kỳ. Quen thuộc vì vị thánh trong bức tranh ví tựa như Chúa Giêsu quỳ gối trong Vườn Cây Dầu. Kỳ lạ vì hình tượng vẽ lại là hình tượng của Thánh Phanxicô. Sau đó được biết là chính Thánh Phanxicô, một bức tranh mà Bác Sĩ rất thích được ai đó tặng và nói là Thánh Phanxicô Nghèo Khó”. Mình khổ nhiều vì bức tranh này, chị Quỳnh Giao có biết không? Người ta cứ hỏi hình này là ai? Sao không treo hình Bác nơi chính của căn nhà?  

            Một tháng trước khi đi Anh Quốc, tôi tự vạch cho chính mình một kế hoạch là khi đi công tác Hà Nội tôi sẽ dành một tuần và liên tiếp đến dạy giáo lý mỗi ngày cho Bác Sĩ. Từ thứ hai đến thứ năm hay thứ sáu, tôi muốn Bác Sĩ sẽ nói lên lời ưng thuận công khai đó với tôi. Tôi cầu nguyện nhiều. Tôi vẫn hiểu một người tự trong thâm tâm muốn theo Chúa đã là người “Công Giáo”, là người “có đạo” rồi. Nhưng sao tôi vẫn mơ ước thấy Bác Sĩ đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy và mang tên Phanxicô. Mỗi lần bắt đầu giờ giáo lý, tôi thường hỏi han sức khoẻ và ngày sống của hai ông bà, sau đó là một giờ giáo lý. Bác Sĩ lắng nghe chăm chú, thỉnh thoảng hỏi đôi câu. Đến ngày thứ năm vẫn không thấy gì, thứ bảy tôi phải bay về TP.HCM. Sáng thứ sáu đó, tôi đến, lòng thổn thức âm thầm. Lần này, ngồi xuống, Bác Sĩ không để cho tôi nói trước, ông làm một mạch không ngừng, người vốn ít nói: “Tôi muốn được nhận lãnh Bí Tích Thanh Tẩy. Một ngày của Đức Mẹ. Sớm nhất v.v”. Tôi hỏi: “Vậy chị có chịu không?”; “Không chịu tôi cũng làm! Nhưng nhà tôi từ trước vẫn để tôi tự do trong việc này. Bà thì theo Phật rồi đó. Chúng tôi không vô thần đâu!” Sau khi kê ra danh sách các ngày lễ của Đức Mẹ, và được giải thích, Bác Sĩ và tôi ưng thuận chọn ngày 8.12.2003. Sau đó vì Bác Sĩ có chút vấn đề sức khoẻ nên chúng tôi dời lại vào ngày 1 tháng Giêng 2004, lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bác Sĩ muốn làm tại Quy Hòa để “thanh tẩy những vết nhơ ô uế mà một số người đã gây ra trên đất thánh này…, và hôm đó tôi sẽ đứng ra công khai tuyên xưng đức tin của mình trước các thành phần của cơ quan và bệnh viện”. Đức TGM Hà Nội được hay biết, đề nghị để ngài chủ sự trao ban Bí Tích và chủ tọa Thánh Lễ. Năm đó là Năm Truyền Giáo. Bác Sĩ vui mừng ra mặt vì Ngài đã đến thăm Bác Sĩ hai lần, dịp Noel, Phục Sinh và còn chụp hình với Bác Sĩ, điều làm Bác Sĩ hãnh diện và khoe với mọi ngừơi.  

            Biến cố vĩ đại này mà mình đang sống và chứng kiến lúc bấy giờ có quá nhiều điều vui đến từ quá nhiều điểm mà lòng tôi ước mơ ôm ấp từ những tháng qua. Lẽ nào niềm vui lớn lao này mà Thiên Chúa trao ban, lại được hưởng dễ dàng như vậy mà không một chút hy sinh, không chút phó thác vào quyền năng của Ngài sao? Ngài mời gọi ai đấy phải dâng hiến, dâng hiến trong tin tưởng, trong âm thầm khiêm tốn như chính cuộc đời đã được sống và Ngài xin một không gian thoáng, rộng, để thể hiện Ý của Ngài theo cách thức riêng của mình? Cả hai, chúng tôi chờ ngày vui lớn của Đại Gia Đình Giáo Hội.  

            Một ngày nọ, chị Nguyễn Thị Triệu, cựu Giám Tỉnh của chúng tôi gọi tôi và thông báo cho biết là tôi phải ra Hà Nội ngay “vì chỉ có em mới ngăn được Bác Sĩ. Bác Sĩ không chịu nghe ai cả, chị Yến qùy lạy xin em đó!”. Thì ra có biến cố vì “ước muốn này”.  

            Không hiểu làm sao “người khác” biết rõ chuyện này để người con gái sau thời gian nghỉ phép vì sanh nở, đi làm lại thì bác sĩ giám đốc “đề nghị cho nghỉ tiếp, cứ nghỉ dài dài”. Sau nhiều lần trao đổi, cô ta được hỏi “bố sắp theo đạo phải không?”. Người con cả là bác sĩ, trước đây được du học tại Mỹ chăm lo học hành nên lần này được đi tiếp để trình luận án cũng gặp khó khăn rằng: “Gia đình cháu có bác sĩ nhiều mà chưa ai đóng góp gì cho đất nước” và nhiều chuyện khác…  

            Phần Bác Sĩ Ngoạn vẫn một mực giữ ý định không thay đổi. Bạn bè, Linh mục, các Soeurs góp ý nên nhường bước để vợ con không bị gì. ĐTGM/HN cũng khuyên lơn, nhưng Bác Sĩ nghĩ “tôi không có gì để mất. Tôi chỉ được thêm thôi!…” Chị Yến thì lạy lục xin tôi góp ý với Bác Sĩ, – dù tôi cũng đã phải buộc lòng đi ngược lại với ước nguyện ban đầu của mình – Bác Sĩ trầm ngâm một hồi và nói: “Soeur đề nghị làm tại cộng đoàn của Soeur ở Nam Định, như thế có vẻ lén lút, mà đây không có gì phải lén lút cả!” Chị Yến lại nài nỉ thảm thương với tôi: “Một đời em đã làm theo ý chồng. Em và con đã không sợ gì cả để cho anh đi con đường đúng đắn của anh. Nhưng giờ đây đụng đến tương lai con cái, em xin chị nói với anh. Mai này êm xuôi, anh sẽ thể hiện ý nguyện của anh và lòng em vẫn hoàn toàn toại nguyện”. Bác Sĩ đã miễn cưỡng chấp nhận lùi lại ngày trọng đại đó.  

            Và tôi đã từ giã Bác Sĩ và gia đình, tạm vắng trong một thời gian xa quê hương. Từ xa, tôi nhận được tin, ngày kia, Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn đã nhận lãnh Bí Tích Thanh Tẩy từ một người âm thầm trao ban hồng ân lớn lao là được làm Con Thiên Chúa và Giáo Hội. Buồn hay vui lúc đó? Tôi chỉ biết là mình cảm thấy rất tiếc vì lời tuyên xưng ngôn sứ bị chặn đứng bởi sự hời hợt vội vã của một hình thức bên ngoài mà ta thường quá lưu tâm thay vì đi sâu vào chiều kích ngôn sứ và có tính Giáo Hội của một Bí Tích như Bí Tích Thanh Tẩy: tuyên xưng đức tin của một người vào một Con Người, nói lên cho mọi người biết mình chọn Con Người ấy vì mình tin tưởng phó thác đời mình cho Người đó. Và việc làm này được Giáo Hội chứng giám, phê chuẩn và chấp nhận. Còn niềm vui nào hơn niềm vui được làm Con Thiên Chúa và được Giáo Hội nuôi dưỡng, đón nhận. Và vì vậy, sự kiện này đáng ra phải được công khai và công nhận.  

            Giờ đây, với cuộc sống bệnh tật, có thời gian gẫm suy và lặng tĩnh bên cạnh người vợ tuyệt vời, kiên nhẫn và yêu thương chăm sóc, Bác Sĩ Ngoạn cảm thấy tâm hồn thanh thản nhiều lắm, vẫn còn cười đùa mỗi khi tôi đến, nhưng “vẫn tiếc nuối cái gì đó làm lòng chưa hoàn toàn được toại nguyện”. “Cái gì đó” phải chăng là vai trò Ngôn Sứ mà mỗi người tín hữu có nhiệm vụ thể hiện?  

            Khi còn trò chuyện được, tôi có lần hỏi Bác Sĩ, nếu muốn truyền đạt điều gì đó thiết yếu mà Bác Sĩ tâm niệm nhất, thì Bác Sĩ sẽ nói điều gì? Ông trả lời: “Hãy đến với những người không ai đến, hãy cho những người không ai cho. Hình như đó là một câu trong Kinh Thánh”.  

            Một cuộc đời dầy đặc yêu thương, nghiêm khắc với chính mình và biết cười tươi, hoàn toàn thoải mái với những câu nghịch ngợm khôi hài của người khác, đặc biệt khi bị chọc quê. Một cuộc đời cho đi mà không tính toán, không tìm lợi danh. Hình như đó là cuộc sống mà Thầy Chí Thánh ước muốn cho môn đệ mình.

nguồn từ anh Hồ Công Hưng chuyển.

“Sân Chư dân” có thể được tổ chức tại Jerusalem

 “Sân Chư dân” có thể được tổ chức tại Jerusalem

WHĐ (10.05.2012) / LPJ – Theo tin từ trang web vaticaninsider.it của Italia, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa, Đức hồng y Ravasi nói rằng ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem.

Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên trang vaticaninsider.it, Đức hồng y Ravasi cho biết ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem, vì nơi đây hẳn là “một khởi điểm lý tưởng” cho cuộc đối thoại giữa người tin và người không tin. Đức hồng y nói: “Tôi rất vui mừng tổ chức một cuộc gặp gỡ ở Jerusalem với các nhà trí thức và các nghệ sĩ Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, vì người Do Thái và người Công giáo cùng chia sẻ nhiều giá trị chung”. Và cả hai tôn giáo này đang phải đối mặt với mối lo về “sự bành trướng của chủ nghĩa thế tục hóa của xã hội”. Thực tế là, như Đức hồng y nhận định, “ngày nay, đối với nhiều người, biết Thiên Chúa hiện hữu hay không cũng chẳng quan trọng”. Đó cũng là khẳng định của cha Pizzabella, Quản thủ Thánh Địa khi được hỏi về điều này. Ngài nói ở Thánh Địa “có ít người vô thần hơn những người không tin”. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho sự kiện này để không rơi vào nguy cơ chỉ là một “cuộc họp mang tính hàn lâm”, cha Pizzabella quả quyết một “Sân Chư dân” tại Jerusalem “có thể là một thúc đẩy rất quan trọng cho việc suy tư và gặp gỡ với những người tin”.

Được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khởi xướng, “Sân Chư dân” là một cơ cấu của Giáo Hội Công giáo nhằm đối thoại với người không tin. Tên gọi này có liên quan trực tiếp đến Sân Chư dân ở Đền thờ Jerusalem, là một khu vực bên ngoài của Đền thờ cũ dành cho dân ngoại. Dưới sự bảo trợ của Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa do Đức hồng y Ravasi làm Chủ tịch, Giáo Hội muốn qua đó củng cố ý muốn giao tiếp với những người coi tôn giáo là điều xa lạ và với những ai có thể muốn tiếp cận một Đấng mà họ không biết. Được chính thức tổ chức vào tháng Ba 2011, “Sân Chư dân” lần đầu tiên đã diễn ra tại Paris. Ngay sau đó là tại Bucarest, Firenze, Barcelona và Tirana… và lần gần đây nhất tại Palermo, Sicilia. Mỗi lần hoạt động đều quy tụ các danh nhân văn hóa và tôn giáo, người tin và người không tin, nhằm đề cập đến các vấn đề cụ thể của mỗi quốc gia. Đây là một cách truyền thông tốt đẹp của Mẹ-Giáo Hội trước khi diễn ra Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm hóa vào cuối năm nay.

(Amelie La Hougue, lpj.org)

 Nguồn:  WHĐ          Từ Maria Thanh Mai gởi

Chúa về trời, con vào đời

Chúa về trời, con vào đời     

                                                                  tác giả Trầm Thiên Thu

 Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để làm chứng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với hy vọng đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.

 Theo sách Công vụ Tông đồ (Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Chúa.

 CHÚA VỀ TRỜI

Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh emkhông cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).

 Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Bó tay! Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11).

 Chúa đi rồi chắc hẳn các ông buồn lắm, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Đại Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người mà! Đại Sư Phụ biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng.

 Từ khi phục sinh, Chúa Giêsu không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sống lại và về trời với Ngài. Vì thế: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9).

 Vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần tác động. Chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ…

 CHÚNG TA VÀO ĐỜI

 Thánh Phaolô nói: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự cho rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Chúa, mọi người đều bình đẳng!

Bằng nhau ư? Đúng, vì “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý.

 Thánh Phaolô dẫn chứng rất lạ: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.

 Ý Chúa quá mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn. Ai cũng làm giám đốc thì lấy đâu có công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy đâu nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Vì Chúa Giêsu đã xác định: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta thích làm ngược lại. Đừng khinh suất hoặc ảo tưởng! Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tớitầm vóc viên mãn của Đức Kitô (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai.

 Chúa Giêsu sai mọi người vào đời khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”(Mc 16:15-16). Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18).

 Thánh Máccô kể: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…

 Lạy Chúa, xin thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

 TRẦM THIÊN THU

Ta Không Kết Án Con

   Ta Không Kết Án Con

       Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Ðức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được tạm trổ vào khoảng thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị giang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.

     Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa tin lành và công giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống công giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.

     Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!

     Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn giang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.

     Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.

     “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.

     Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trừu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.

     Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Ðiều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi