Ngoại trưởng Úc đặt vấn đề nhân quyền với chính phủ Việt Nam

Ngoại trưởng Úc đặt vấn đề nhân quyền với chính phủ Việt Nam

VOA

Bộ trưởng Ngoại giao Australia Bob Carr.

Bộ trưởng Ngoại giao Australia Bob Carr.

02.07.2013

Ngoại trưởng Australia Bob Carr yêu cầu chính phủ Việt Nam phóng thích 3 nhân vật hoạt động cho quyền của người lao động đã bị giam cầm trong 3 năm qua.

SBS, Hệ thống phát thanh đặc biệt của Australia, trích tin của hãng tin AAP hôm nay tường trình rằng Ngoại trưởng Australia Bob Carr đã yêu cầu Hà Nội phóng thích 3 nhà hoạt động bênh vực quyền của người lao động Việt Nam ra khỏi nhà tù.

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị kết án hồi năm 2010 vì vai trò của họ trong một cuộc đình công tại một xưởng sản xuất giầy dép tại Việt Nam.

Trong một thông báo, Bộ trưởng Ngoại giao Úc phát biểu:

“Chúng tôi nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền tự do lập hội, và quyền tự do thành lập công đoàn. Hôm nay tôi đã yêu cầu Việt Nam trả tự do cho những cá nhân này.”

Hồi đầu tháng 6 vừa rồi, cả ba nhà hoạt động trẻ tuổi này đã được nêu tên trên trang mạng của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, khi Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao Động Daniel Baer nhắc tới 120 tù nhân chính trị bị giam cầm tại Việt Nam chỉ vì đã hành sử quyền tự do ngôn luận.

Theo tin của AAP, Ngoại Trưởng Carr đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh bên lề hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại Brunei.

Nguồn tin cũng cho hay trong dịp này ông Bob Carr còn nêu lên trường hợp của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Luật sư  Lê Quốc Quân, người sẽ ra tòa về tội trốn thuế vào ngày 6 tháng 7 sắp tới.

Ngoại trưởng Carr thuật lại rằng Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cho biết ông sẽ yêu cầu điều tra 5 trường hợp đã được Ngoại trưởng Carr nêu ra.

Nguồn: AAP, Bloomberg, Vnexpress

Di tích Thánh Phaolô tại Roma: Nơi tử đạo và Đền Thánh Phaolô Ngoại Thành

Di tích Thánh Phaolô tại Roma: Nơi tử đạo và Đền Thánh Phaolô Ngoại Thành

 

Nhân ngày lễ thánh Phêrô và Phaolô thiết tưởng sẽ không thừa khi nhắc đến một số các di tích tại Roma có liên quan đến cái chết và ngôi mộ của thánh Phaolô – người chưa từng gặp Chúa Giêsu khi còn sống nhưng đã mạnh dạn rao giảng và dùng cái chết để minh chứng về Ngài.

Vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nero, một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi hầu như toàn bộ thành Rome. Tin đồn cho là chính Nero ra lệnh phóng hỏa để ông xây dựng một thành phố khác tráng lệ huy hoàng hơn. Để xoa dịu dân chúng, ông đã qui tội cho những người theo Chúa Giêsu đốt thành Rome và từ đó cuộc bách hại trở nên khốc liệt. Trong bối cảnh trên, thánh Phaolô lúc đó đang bị canh giử ở Rome, bị chém đầu vào khoảng năm 67 tại Aquae Salviae.

I. Nhà Thờ St Paul at the Three Fountains

Ngày nay nơi thánh nhân chịu tử đạo là nhà thờ St Paul at the Three Fountains (Thánh Phaolô Ba Dòng Suối), nằm trong khuôn viên Tu viện Ba Dòng Suối (Tre Fontane Abbey).

Đường vào Tu Viện Tre Fontane có tượng thánh Benedict

Đường vào nhà thờ St Paul at the Three Fountains

 

Nhà thờ được xây dựng vào thế kỷ V và tái thiết vào năm 1599

 

Tấm bảng trên cửa nhà thờ có ghi S. Pauli apostoli martyrii locus ubi tres fontes mirabiliter eruperunt có nghĩa là nơi thánh Phaolô tử đạo có ba dòng suối phát sinh.

Theo truyền thuyết được thánh Gregorio Cả chấp nhận, thủ cấp thánh Phaolô sau khi bị chém lìa đã nẩy lên 3 lần trên mặt đất và nơi đó phát sinh 3 dòng suối nhưng vào năm 1950 đã bị lấp vì gây ô nhiểm. Trong hình dưới đây trụ cột nơi thánh Phaolô bị chém đầu được rào quanh bằng khung sắt. Bên trái là nơi dòng suối phát sinh khi thủ cấp rời khỏi cổ.

Trụ cột nơi hành quyết thánh Phaolô

 

Nơi phát sinh dòng suối

II. Đền Thánh Phaolô Ngoại Thành

Sau khi thánh Phaolô chịu tử đạo, các môn đệ an táng thánh nhân và dựng nên một đài tưởng niệm tại ngôi mộ này, cách nơi hành quyết khoảng 3 km.

Năm 324 hoàng đế Constantine cho xây một ngôi thánh đường thế vào đài tưởng niệm và ĐGH Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh đường được gọi là “ngoại thành” vì tọa lạc ở ngoài tường thành do hoàng đế Aureliano xây cất và năm 271 để chống lại các cuộc tấn công từ các sắc dân man di.

Năm 386 hoàng đế Theodosius I cho củng cố và xây rộng thêm. Sau đó các ĐGH không ngừng cho chăm sóc và tu bổ.

Đến năm 1823 một trận hỏa hoạn đã phá hủy hầu như toàn bộ ngôi thánh đường và các di tích vốn đã tồn tại suốt 15 thế kỷ từ thời sơ khai.

Ngôi thánh đường chúng ta thấy ngày hôm nay được xây dựng lại vào năm 1840 và được Đức Giáo Hoàng Pio IX thánh hiến vào năm 1855.

Ðền Thờ dài 136 mét, rộng 65 mét, và cao 29.7 mét. Thánh đường có 5 gian. Phía trước có một sân vuông.

Toàn bộ khuôn viên Đền Thánh Phaolô Ngoại Thành (hình Google)

 

150 cột đá nguyên khối bao bọc khu sân vuông bên ngoài

 

Chi tiết mặt tiền nhà thờ – Phía trên Chúa Giêsu ngự giửa hai thánh Phêrô và Phaolô; Chính giửa, Con Chiên tượng trưng cho Chúa Giêsu ở trên 4 dòng suối 4 thánh sử và 12 con chiên chung quanh là 12 thánh Tông đồ. Phía dưới là 4 tiên tri thời Cựu Ước: Isaiah, Jeremiah, Ezekiel và Daniel.

 

Tượng thánh Phaolô bên ngoài khu sân vuông

Bên trong nhà thờ chia làm 5 gian do 4 hàng cột cẩm thạch – mỗi hàng có 20 cột.

.

Trên các hàng cột có chân dung 265 vị Giáo Hoàng,

từ thánh Phêrô

đến Ðức Benedictô XVI gần đây nhất.

Phía trên cung thánh có bức tranh Chúa Kitô đang ngồi trên ngai,

có thánh Phêrô và Anrê ở bên phải, thánh Phaolô và Luca ở bên trái.

Trần nhà thờ nhìn về phía cung thánh.

Toàn bộ trần nhà thờ

Bàn thờ phụ bên phải

Bàn thờ phụ bên trái

Mộ thánh Phaolô được đặt dưới bàn thờ phụ ngay giửa nhà thờ trước khi rẻ vào nhánh phải và nhánh trái.

 

Lối vào mộ thánh Phaolô

Mộ thánh Phaolô

Truyền thống xưa tin rằng đây là sợi dây xích đã xích chung thánh Phaolô và người lính canh giử ngài tại Roma.

 

Bàn thờ, dây xích và mộ thánh Phaolô.

Mộ thánh Phaolô được khai quật năm 2006 và các xét nghiệm khoa học kết luận rằng xác trong quan tài là một người đã sống vào thế kỷ I – trùng hợp với niềm tin của giáo hội thánh Phaolô chịu tử đạo vào khoảng năm 65-67.

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng thánh Phaolô là người đã đi bách hại những người tin theo Chúa Giêsu nhưng sau này được biến đổi thành người đi rao giảng về Chúa Giêsu và trở nên người bị bách hại.

Cú ngã lần đầu tiên trên đường Damascus đã thêm cho giáo hội một người rao giảng nhiệt thành. Cú ngã lần thứ hai đầu lìa khỏi cổ tại Aquae Salviae đã minh chứng lòng yêu mến mãnh liệt với Chúa Kytô. Lòng yêu mến mà thánh nhân đã định nghĩa “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được.” (ICr 13, 4-8)

 

Hien Quang – Lễ thánh Phêrô và Phaolô năm 2013

 

Websites tham khảo:

THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

THÁNH PHAOLÔ & EPHÊSÔ (EPHESUS)

Hien Quang

Mang danh nghĩa là người có…đạo, và đã nhiều chục năm đi lễ – từng nghe thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Corintô, Ephêsô, Roma v.v… nhưng chỉ khi đến Ephesô trong chuyến du thuyền theo “Dấu Chân Thánh Phaolô” ở duyên hải Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ gần đây, người viết mới hình dung được một phần nào công cuộc truyền giáo của Thánh Nhân cách nay 2000 năm!

Ephesus nằm trên trục đường truyền giáo từ Jerusalem sang Châu Âu


Ephêsô
Êphêsô (Ephesus) nằm sát thành phố Selcuk và cách hải cảng Kusadasi của Thổ Nhĩ Kỳ 45 phút lái xe, là một một thành phố cổ hình thành từ 1100 năm trước khi Chúa Giêsu ra đời, bị đế quốc Roma cai trị từ năm 190 BC – phồn thịnh sung túc trong khoảng thời gian 1-4 AD – (ngang hàng với Roma thời bấy giờ) và là một trong các điểm đến trong 12 năm truyền giáo của Thánh Phaolô.  Ephêsô ngày xưa từng có đến 250 ngàn cư dân – ngày nay là một khu bảo tàng ngoài trời toàn các phế tích đổ nát hoang tàn.  Nếu không có các đoàn xe buýt  lui tới di chuyển khách du lịch đa số từ Châu Âu và Châu Mỹ đến xem các hàng cột trơ trụi và các đống gạch đổ nát do thiên tai và thời gian tàn phá, khu vực này sẽ trở nên hoang vắng.

Những điểm chánh ở thành phố Ephêsô

Con người Thánh Phaolô
Thánh nhân là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin.  Khi chịu phép cắt bì Ngài được đặt tên là Saolô.  Theo một số học giả, vào năm 171 BC, để phát triển thương mại tại Tarsus (ngày nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ), Roma hứa cho người Do Thái nhập tịch nếu di dân đến nơi này.  Đó là lý do tại sao Thánh Phaolo có quốc tịch Roma (Cv 22:26–28)­­.
Thánh nhân là người phái Pharisêu, nói rành các ngôn ngữ, Aramic, Hêbrơ, Hy Lạp và biết cả tiếng Latin – có nghề làm lều do cha truyền dạy.  Thuở thiếu thời đã được gởi đến Jerusalem học lề luật Do Thái. Có thể nói Thánh nhân là người trí thức rất nhiệt thành trong việc giữ gìn tập tục cha ông (Gl 1:14).

Hình Thánh Phaolô do chuyên gia của LKA NRW (Đức Quốc) tạo dựng


Bối cảnh thành Êphêsô thời Thánh Phaolô
Là một trung tâm tri thức, tôn giáo và thương mại, phồn thịnh và giàu có, Êphêsô có nhiều thành phần dân chúng cũng như nhiều hạng tư tế thuộc các tôn giáo khác nhau, cộng với các pháp sư, thầy cúng, lang băm v.v…Niềm kiêu hảnh của Êphêsô là Đền thờ Artemis vốn là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Ngày nay đền thờ này chỉ còn lại duy nhất một cây cột!

Những gì còn lại của đền thờ Artemis và tượng thần Artemis


Giàu có, quyến rủ và nhiều tà giáo – Êphêsô là nơi có nhiều cơ hội cũng như thách đố cho thánh Phaolô.


Cơ hội
Trong chuyến truyền giáo lần thứ ba, khoảng năm 53 đến năm 57, Thánh Phaolô đã ở tại Ephêsô ít là 2 năm 3 tháng. Chuyến đi này được kể rỏ trong Tông Đồ Công Vụ chương 18 câu 23 đến chương 21 câu 26.  Riêng đoạn 19 nói về những gì xảy ra tại Ephêsô.


Ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ. Nhưng có một số người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên ông tuyệt giao với họ, tách các môn đệ ra ; ngày ngày ông thảo luận trong trường học của ông Ty-ran-nô. Cứ như thế trong vòng hai năm, khiến mọi người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa. (Cv 19, 8-10)


Giờ sinh hoạt chính ở Ephêsô là buổi sáng, lúc nhiệt độ ít nóng bức.  Sau 11 giờ là thời gian nhàn rỗi.. Có thể dung để giải trí, thể thao hay văn nghệ v.v… Có vẽ như thánh Phaolô được cho mượn, một phòng lớp để sử dụng từ sau 11 giờ trưa đến chiều khoảng 4 giờ chiều.  Hãy tưởng tượng dạy giáo lý 5 tiếng mỗi ngày và trong vòng 2 năm – Như thế không ngạc nhiên khi mọi người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa. Thời nay chắc hiếm có ai dạy giáo lý, hay nói về Đức Giêsu 5 tiếng mỗi ngày!


Thiên Chúa dùng tay ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường, đến nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất. (Cv 19, 11-12)


Như thế thiên hạ đi theo thánh nhân là phải rồi – vì có ai làm được bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất. Đến nỗi có những thày pháp thày bùa thấy thế nên làm theo kiểu hàng nhái “cáo mượn oai hùm” cũng nhân danh thần Giêsu để trừ quỷ. Nhưng các con quỷ này – rất bực tức và bẽ mặt sau khi bị thánh Phaolô qua uy quyền của Đức Giêsu bắt xuất ra khỏi các người bị ám – rất … tiểu nhân, lợi dụng cơ hội các thầy bùa tay non hay múa máy, bèn phản pháo bằng cách chất vấn lại: “Cho tụi tao xem thẻ chứng nhận chúng bây là ai – Giêsu và Phaolô chúng tao biết rồi, còn đồ giả danh như tụi bây thì hãy xem đây…”  Vừa dứt lời các tà thần hô biến xông vào lũ thày bùa ăn theo đánh đấm tơi bời hoa lá đến nỗi áo sống rách toang phải bỏ nhà mà chạy mình mẩy trần truồng thương tích tùm lum tà la!


Họ nói : “Nhân danh Đức Giê-su mà ông Phao-lô rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi !” Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp : “Đức Giê-su, tao biết ; ông Phao-lô, tao cũng tường ; còn bay, bay là ai ?” Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy ; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giê-su. (Cv 19, 13-17)


Thử tưởng tượng thành phố Ephêsô thời đó khoảng 250 ngàn dân cư đều biết chuyện này – cộng với dân chúng ở Do Thái và Hy Lạp … Có thể nói được là thánh Phaolô đã rất nổi tiếng ở Ephêsô và số người từ bỏ tà thần để tin vào Đức Giêsu rất nhiều!  Còn các tay pháp sư sau khi lành lặn thương tích đã tuyên bố giải nghệ, đốt toàn bộ cách sách cẩm nang trừ quỷ và có lẽ từ đó tin vào Đức Giêsu – là Đấng các quỷ thần phải run sợ!


Khá đông người làm nghề phù thuỷ đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi người ; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc. (Cv 19, 19)


Thách Đố
Tuy nhiên lớn thuyền lớn sóng.
Khi số lượng bỏ tà thần tin theo lời thánh Phaolô giảng dạy ngày càng nhiều – lập tức ảnh hưởng đến – không phải các tôn giáo khác – nhưng đến nồi cơm của các tay thợ bạc! Như đã nói ở trên – Ephêsô hảnh diện vì đền thờ Artemis. Khách thập phương đến đây khấn cầu và mua các ảnh tượng có hình đền thờ và thần Artemis.  Nhưng từ khi thánh Phaolô giảng về Đức Giêsu, tại trung tâm thương mại nhu cầu mua hình tượng sụt giảm nhiều khiến cho thu nhập của các tay thợ bạc tuột dốc như lúc thị trường chứng khoán lao đao!  Trong số đó cay cú nhất là Demitrius!  Ông này tụ tập nhiều người trong đó có các  đồng nghiệp và nhân công thợ bạc.  Khuyến cáo họ không phải vì nồi cơm đang bể nhưng dưới chiêu bài tôn giáo rằng nữ thần Artemis đang bị hạ bệ và rồi đền thờ sẽ vắng như chùa bà Đanh – không ai cúng bái và thần sẽ hết linh thiêng.

Đền thần Artemis


Vào thời kỳ ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm trọng liên quan đến Đạo. Số là có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô, chuyên làm mô hình đền nữ thần Ác-tê-mi bằng bạc, và nhờ đó đem lại cho các người thợ một nguồn lợi không nhỏ. Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự, và nói : “Thưa các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát tài. Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết : không những ở Ê-phê-xô này, mà gần như trong khắp cả A-xi-a, tên Phao-lô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không phải là thần. Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của chúng ta bị chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị người ta coi chẳng ra gì, và rốt cuộc vị nữ thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng chẳng còn gì là vĩ đại nữa.” (Cv 19, 23-27)


Kết quả là đám đông kéo đến hí trường, có nhiều người không biết tại sao mình đến đó.  Và toàn hí trường 25 ngàn chổ vang dội tiếng hò hét: “Vĩ đại thay thần Artemis của người Ephêsô – Vĩ đại thay thần Artemis của người Ephêsô…” liên tục trong 2 tiếng đồng hồ. Sau đó vì sợ bị kết án gây bạo loạn trong thành phố, và lúc đó sự hung hãn cũng giảm bớt phần nào, đám đông được giải tán êm thắm! Trong vụ này Thánh Phaolô bình an vô sự vì nghe theo lời khuyên không đến hý trường.

Hý trường nơi đám đông hò hét phản đối Thánh Phaolô suốt 2 tiếng


Cả thành đầy hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông A-rít-ta-khô là những người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của ông Phao-lô. Ông Phao-lô muốn ra trước đại hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho. Có mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của ông Phao-lô, cũng sai người đến khuyên ông đừng liều mình đến hí trường. Dân chúng hò la, kẻ thế này, người thế nọ, đại hội trở nên hỗn loạn và phần đông không biết mình họp nhau để làm gì .(Cv 19, 29-32)

Sau vụ lộn xộn đó thánh Phaolô rời Ephêsô qua Hy Lạp tiếp tục rao giảng về Đức Kytô

Ngày nay – tại Ephêsô người ta có thể đến đi dọc theo con đường chính Curetes (hình dưới) sau khi qua khu trung tâm hành chính (State Agora) từ cổng Magnesian.

 

Dọc theo hai bên đường là di tích các đền thờ, tượng đài và các kiến trúc trang trí cho thành phố cổ xưa. Cuối đường Curetes là thư viện Celsus có 2 tầng, được coi là trung tâm thành phố.

Có lẽ với quan niệm thư viện là nơi lưu trữ kiến thức và sự khôn ngoan của nhân loại nên kiến trúc này được đặt ở trung tâm. Một điều khá thú vị là đối diện với thư viện là khu…nhà thổ. Tại sao biết được: tượng thần Priapus được tìm thấy trong khu vực được ngăn chia thành nhiều phòng nhỏ này!

Trong khu nhà thổ nhìn ra thư viện

Gần đó khoa khảo cổ còn tìm thấy khu vệ sinh công cộng

Kế bên thư viện Celsus là cổng vào khu trung tâm thương mại, một khu vực vuông vức mỗi cạnh 110 m.  Hãy hình dung tại đây mỗi sáng tay thợ bạc Demitrius rao bán các hình tượng thần và đền thờ Artemis cho khách thập phương đến cúng bái vị thần này – giống như các cửa hàng lưu niệm hay các người bán dạo chung quanh các khu du lịch.  Và cũng tại đây thánh Phaolô có thể đã có một chổ buôn bán hay chế tạo lều bạt để mưu sinh (Thánh Phaolô có nghề làm lều).

Hý trường Ephesô phía sau trung tâm thương mại (commercial agora)

Một địa điểm khác có liên quan trực tiếp đến Thánh Phaolô: khu hý trường. Đây là nơi theo truyền thống được tin là Thánh Phaolô đã giảng cho dân chúng là không được thờ phượng tà thần. Và vụ nổi loạn xách động do các tay thợ bạc vì kinh tế bị ảnh hưởng. Việc này có đề cập trong sách Tông Đồ Công Vụ như đã nói trên.

Có 2 địa điểm được đề cập trong sách TĐCV nhưng hiện nay khoa khảo cổ chưa tìm ra: Hội đường Do Thái và trường Tyrannus! Đây là nơi Thánh Phaolô đã rao giảng về Đức Giêsu. Đầu tiên là ở Hội Đường Do Thái 3 tháng nhưng sau đó tách ra và sử dụng trường học Tyrannus trong 2 năm.

Có thể suy ra trong 2 năm 3 tháng ở Ephêsô, Thánh Phaolô đã tiếp xúc với rất nhiều người và đã thiết lập một Hội Đồng Giáo Xứ để quản nhiệm cộng đoàn.

Trong chuyến trở về từ Hy Lạp, thay vì ghé Ephêsô, Ngài đã ghé vào Miletus nằm về hướng Nam cách Ephêsô 80 km (đường xe hiện nay) và cho người mời các “quới chức” từ Ephêsô tới để nói lời giả biệt rất thống thiết (Cv 20, 17-38).

Chương trình tour có sẳn diễn viên đóng vai Thánh Phaolô nói tiếng Anh

Hý trường Miletus nơi Thánh Phaolô giả biệt các trưởng lão Ephêsô

Đường vào hý trường phế tích Miletus

Video Thánh Phaolô giả biệt các trưởng lão Ephêsô (4′ 53″)

httpv://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=A6AFWMXmsWU

Từ Miletus, Thánh Phaolô trở về Giêrusalem sau khi ghé qua Tyrô và Caesarea. Tại Giêrusalem, để tránh âm mưu ám sát của các kỳ mục Do Thái, chính quyền Roma giải Thánh Phaolô về Caesarea. Từ đó Ngài kháng cáo lên Hoàng Đế César và bị giải về Roma.

Từ việc ngã quỵ lần thứ nhất trên đường đi Damascus (Cv 9:3), tại Roma Thánh Nhân gục ngã lần thứ hai để từ đó Tin Mừng Chúa Ky-tô được tiếp tục rao giảng đến ngày nay.

Hien Quang


Tham khảo

Sài Gòn: Chè Khúc Bạch Chế Biến Từ Keo Công Nghiệp

Sài Gòn: Chè Khúc Bạch Chế Biến Từ Keo Công Nghiệp

(07/01/2013)

nguồn: Vietbao.com

SAIGON — Gần đây, tại Sài Gòn đâu đâu cũng thấy dựng bảng bán món chè khúc bạch. Hầu hết những điểm bán “trà chanh chém gió” nay cũng bán thêm món này… Chủ yếu làm từ nguyên liệu rẻ tiền, đáng ngờ của Trung Quốc, món chè ưa chuộng này của giới trẻ đã dễ dàng đem lại lợi nhuận cao cho người kinh doanh.

Theo báo Tuổi Trẻ, chị Hạnh – tiểu thương chợ An Đông, quận 5, Sài Gòn – tiết lộ là nguyên liệu chính để nấu chè khúc bạch “vừa ngon, vừa rẻ” đang được hầu hết các quán sử dụng chính là chất gelatine, nhờ có chất này mà sữa tươi và kem sữa mới kết dính với nhau và cho ra màu trắng sáng. Giá bán lẻ gelatine là 20,000 đồng/100gr., mua sỉ thì giá chỉ 100,000 đồng/kg.

Một xe chè khúc bạch trên vỉa hè đường Lê Quang Định (Bình Thạnh).

Gelatine là một loại chất keo công nghiệp chiết xuất từ da động vật sau khi ngâm thối rữa rồi nấu nhừ, đa số là hàng Trung Quốc. Và trên thị trường hiện nay rất hiếm có gelatine đúng là dùng trong thực phẩm, hoặc loại gelatin không phải của Trung Quốc. Như ở một cửa hàng có tiếng chuyên bán nguyên liệu làm bánh trên đường Bùi Viện (quận 1), người bán giới thiệu loại gelatine giá 24,000 đồng/100gr., quảng cáo là hàng Mỹ nhưng chỉ được đóng trong bịch ni-lông sơ sài, tuyệt nhiên không nhãn mác gì.

Bên cạnh đó, muốn lời nhiều, hầu hết chủ quán đều dùng sữa tươi và kem sữa tươi trôi nổi trên thị trường. Ngay cả hạnh nhân dùng “trang điểm” cho chè khúc bạch cũng xuất xứ từ Trung Quốc.

Theo báo Tuổi Trẻ, thông tin về công nghệ chế biến gelatine siêu bẩn đã bị phát giác ở Trung Quốc năm 2012. Loại gelatine công nghiệp này được sản xuất từ da phế thải nhưng lại được nhiều công ty ở nước này dùng để chế biến vỏ nang cho nhiều loại thuốc, dùng sản xuất kem, sữa chua và nhiều loại đồ uống khác… Loại chất này, nếu dùng trong thực phẩm, sẽ trở thành hóa chất độc hại có khả năng gây suy thận, suy gan và ung thư.

Mandela: người luật sư nhân quyền

Mandela: người luật sư nhân quyền

image

Cuộc đời ông Mandela

1918 Sinh tại Eastern Cape

1944 Gia nhập Đại hội Dân tộc Phi (ANC)

1956 Bị xử tội phản quốc nhưng tòa bác cáo trạng

1962 Bị bắt và xử vì tội phá hoại, án 5 năm

1964 Bị xử lần nữa, nhận án chung thân

1990 Được thả khỏi tù

1993 Nhận giải Nobel

1994 Trúng cử tổng thống da đen

1999 Rời chính trường

Đến thăm nhà tù trên đảo Robben, nơi chính quyền Nam Phi thời kỳ phân biệt chủng tộc đã giam ông Nelson Mandela 18 năm, Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama bày tỏ cảm xúc rằng đây là một trải nghiệm sâu sắc.

Sau đó, đến thăm Đại học Cape Town, ông Obama phát biểu:

“Nelson Mandela cho chúng ta thấy lòng dũng cảm của một người có thể thay đổi thế giới.”

Tại học đường từng chỉ dành cho người da trắng, ông Obama gặp mặt những sinh viên nhiều màu da, biểu hiện của viễn kiến ‘quốc gia cầu vồng’ mà ông Mandela từng nêu ra và phấn đấu cả đời để Nam Phi đạt được.

Sự nghiệp chính trị của Nelson Mandela, 94 tuổi, người hiện đang trong bệnh viện ở tình trạng rất yếu nhưng ổn định, không chỉ là giai đoạn thắng cử và tự nguyện rời bỏ chính trường, mà còn cả một thời kỳ đấu tranh lâu dài.

Luật sư nhân quyền

image

Thăm xà lim trên đảo Robben, tổng thống Barack Obama ca ngợi lòng quả cảm Nelson Mandela

Tổng cộng trong cuộc đời nhiều biến động, ông đã bị tù 27 năm và trong những giai đoạn không bị bắt giam hoặc ngồi tù, Nelson Mandela làm luật sư đấu tranh cho các bị cáo người da đen.

Xuất thân từ nông thôn, vài nămn 1942 ông nhận được việc hành chính tại một văn phòng luật sư da trắng có thiện chí cho người da đen làm việc.

Cùng lúc, Nelson Mandela ghi danh học luật bán trú tại Đại học Witwatersrand.

Luôn trung thành với tư tưởng nhà nước và xã hội pháp quyền, và tin rằng đấu tranh bằng con đường pháp lý là cách tốt nhất để thúc đẩy quyền lợi của người da đen, ông Mandela lập ra công ty luật đầu tiên của người châu Phi bản địa vào giữa thập niên 1950.

Cùng Oliver Tambo, người sau trở thành một lãnh đạo của ANC, ông Mandela đã nhận nhiều vụ bào chữa của giới đấu tranh nhân quyền.

Chính quyền apartheid đã dùng nhiều cách để ngăn cản hoạt động của công ty luật nằm tại trung tâm Johannesburg.

Các vụ phá phách, khám văn phòng chỉ là chuyện nhỏ.

Nelson Mandela và cộng sự bị hăm dọa, dọa giết, bị đánh, bắt và bỏ tù nhiều lần trong suốt thập niên 1960.

Chính quyền cũng tìm cách xóa tên ông khỏi danh sách Luật sư đoàn Nam Phi với lý do các hoạt động chính trị của ông thuộc loại ”vi phạm đạo đức nghề nghiệp”.

Nhưng niềm tin của Mandela vào sự công bằng của hệ thống pháp luật, dù bị ảnh hưởng của ý thức hệ chủng tộc, phần nào được củng cố khi một thẩm phán da trắng đã bác bỏ đơn của Hội Luật gia Nam Phi.

Nelson Mandela không chỉ hành nghề luật mà còn vận động cho các hoạt động nhân quyền của người đa den và đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho ANC.

Đòi công lý cho người da đen Nam Phi, nhóm công dân chiếm đa số nhưng bị tước các quyền chính trị, kinh tế và quyền sở hữu đất dù họ sống chủ yếu bằng nghề nông, ông cũng thách thức cả hệ thống chính trị apartheid.

Theo luật sư Sir Jeffery Jowell từ Anh và Giáo sư luật Hugh Corder từ Đại học Cape Town, Nelson Mandela trong lần bào chữa cho chính mình bị buộc tội “kích động biểu tình” trước tòa án ở Pretoria năm 1962 đã đặt câu hỏi về tính chính danh của chế độ.

Ông nói:

“Tôi e ngại rằng tôi sẽ không có một phiên tòa công bằng và chính đáng vì bản thân tôi cũng không bị ràng buộc cả về đạo đức và pháp luật bởi một Quốc hội tôi không có đại diện.”

Ông kết thúc bằng lời nói nêu bật tinh thần dân chủ và bình quyền như truyền thống của xã hội châu Phi và “tính luân lý nội tâm” của con người mà theo hệ thống apartheid đã không chấp nhận.

Sau khi lên cầm quyền, ông Nelson Mandela tiếp tục đề cao tinh thần pháp quyền và tuân thủ các quyết định của Tòa Bảo hiến kể.

Hai ông Mandela và De Klerk được giải Nobel Hòa bình vì tinh thần hòa giải

Kể cả khi tòa thách thức quyết định của ông ở cương vị tổng thống trong vụ xử năm 1994 là do Đảng cũ của ông, ANC nêu ra chống lại nghị viện, ông Mandela vẫn tỏ thái độ tôn trọng tòa, lúc này đã thuộc hệ thống tư pháp dân chủ.

Chính quyền của ông Mandela đã lập ra Ủy ban Sự thật và Hòa giải nhằm nói cho hết các vấn đề của xã hội Nam Phi thời apartheid nhưng nhằm hàn gắn, chứ không trả thù những đối thủ chính trị cũ.

Ngày nay, sự nghiệp đấu tranh của ông Nelson Mandela đã trở thành biểu tượng đấu tranh cho nhân quyền toàn cầu, các nhân vật từ phe tả và phe hữu đều có thể rút ra bài học, hoặc lấy cảm hứng từ cuộc đời ông.

Lý do là những gì ông Nelson Mandela nêu ra luôn mang tính phổ quát và vượt lên các lằn ranh chủng tộc, gia cấp, đảng phái và quốc gia.

image

Thông điệp của ông, cùng lúc, lại mang tính riêng tư cho mọi nhà hoạt động, điều được Barack Obama kể lại khi ông nói rằng cuộc đời Mandela đã khiến ông có dũng khí bước vào hoạt động cộng đồng và hành nghề luật ở Chicago.

Việt Nam điều tra về vụ nổi loạn ở trại Xuân Lộc

Việt Nam điều tra về vụ nổi loạn ở trại Xuân Lộc

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Thanh Phương

RFI

Công an Việt Nam thông báo sẽ điều tra về vụ hàng trăm phạm nhân phân trại I, trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai nổi dậy ngày 30/06/2013, giữ làm con tin giám thị trại, để đòi thực hiện những yêu sách của họ về điều kiện giam giữ.

Thông tin từ các tù nhân đưa ra hôm Chủ nhật cho biết vụ nổi loạn ở trại giam Xuân Lộc là để phản đối việc ngược đãi, đánh đập tù nhân, cắt xén các phần ăn của tù nhân. Theo báo chí trong nước ngày 02/07/2013, Tổng cục trưởng Tổng cục 8 (Tổng cục Thi hành án và hỗ trợ Tư pháp), tướng Cao Ngọc Ánh đã phủ nhận thông tin nói trên. Quan chức này khẳng định cán bộ trại giam Xuân Lộc vẫn « tôn trọng nhân phẩm, quyền con người » đối với tù nhân. Ông còn cho rằng các phạm nhân cần đầu vụ « gây rối » trong trại giam Xuân Lộc đều là « lưu manh chuyên nghiệp, không có quyết tâm cải tạo ».

Về phần tướng Hồ Thanh Bình, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục 8, thì cho biết sẽ « sàng lọc » những người cầm đầu và tham gia vụ nổi loạn, để xử lý theo luật hoặc xử lý theo kỷ luật trại. Đại tá Hồ Phi Thắng, giám thị trại giam Xuân Lộc thì thông báo là công an tỉnh Đồng Nai sẽ khởi tố vụ án « gây rối trật tự, phá hũy tài sản » tại trại giam Xuân Lộc.

Trại giam Xuân Lộc cũng là nơi giam giữ khoảng 10 tù chính trị, trong đó có Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Nguyễn Ngọc Cường, Phan Ngọc Tuấn, Việt Khang…. Chính Nguyễn Ngọc Cường đã dùng điện thoại di động gọi ra ngoài để thông báo về vụ nổi loạn của phạm nhân trại Xuân Lộc. Anh Cường cùng với bốn tù chính trị khác là Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Huỳnh Ngọc Trí ngay trong đêm 30/06/2013, tức là sau vụ nổi loạn, đã bị chuyển sang trại khác.

VẾT CHÉM !

VẾT CHÉM !

TIEU HO,

trích EPHATA số 568

Tai ương lắm lúc tựa như con dao sắc, chém chặt vào những mảnh đời, để lại những vết đau khôn lường. Nó dai dẳng làm tấy máu, bầm dập, lâu ngày tưởng lành nhưng vết thẹo còn sót lại lặn vào trong một nỗi đau sẵn sàng mưng mủ lở loét bất cứ lúc nào.

Con hẻm nhỏ bé này cứ mãi là những câu chuyện nối dài của những mảnh đời nghiệt ngã, nó khắc đậm một vết khắc của làng quê Việt Nam vốn dĩ hiền hòa chân chất, chân lấm tay bùn, chật vật ngoi lên giữa biển đời đầy giông bão luôn ập xuống.

Ngước mặt nhìn lên những tòa nhà cao ngất nơi phố thị để tận hưởng một chút phồn vinh rồi nhìn nhanh lại những mảnh đời rã nát nơi đây, lòng mênh mang từng sợi cảm xúc, có cái gì đó như thắt chặt, như đau nhói tận sâu thẳm con tim, nơi chất chứa những rung động, nơi khơi nguồn những xúc cảm để cùng chia sẻ với cuộc đời.

Bước chân chiều lòng vòng dẫn tôi ghé thăm nhà anh Trần Văn Quỳnh và chị Phạm Thị Bảy cùng sinh năm 1956, tại ấp Ba Rinh, xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Anh Quỳnh và Chị Bảy trước đây là một gia đình nông dân chí thú làm ăn. Ngoài việc canh tác 6 công ruộng, chị Bảy còn hàng ngày chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm, ngồi chợ để kiếm thêm đồng rau đồng cá bổ sung thêm cho bữa ăn gia đình. Anh chị sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Con cái anh chị do được thừa hưởng gien di truyền chăm chỉ làm ăn của anh chị, nên từ nhỏ đã biết cật lực làm việc. Con cái lớn, anh chị vui với niềm vui dựng vợ gả chồng cho con, cho con ra riêng, cơ ngơi lập nghiệp.

Chỉ còn duy nhất đứa con trai út, em Trần Thanh Dũng, sinh năm 1990. Học xong lớp 9 do cảm nỗi vất vả của cha mẹ già, cha em bị tai biến nhẹ nên không thể lao động, mẹ nặng vai gánh gồng, em đã xin phép cha mẹ cho nghỉ học và xin lên Sàigòn tìm việc làm và đã được nhận vào làm tại Công Ty TNHH Lốp Kumho Việt Nam.

Niềm vui chưa tròn trịa, buổi sáng định mệnh ngày 15.12.2009 tai nạn ập xuống đời em khi đang trên đường từ nơi trọ đến công ty. Chị Bảy kể chuyện, đôi mắt như còn cô đọng lại vẻ thất thần, nhìn sâu vào đôi mắt người phụ nữ ấy tôi như sờ mó được những vết chém ngang dọc cuộc đời chị, để rồi hằn cộm lên vết đau. Tin dữ báo về con bị tai nạn xe, chị quơ vội nắm tiền chắt chiu, chân ướt chân ráo ngơ ngác lên bệnh viện tìm con. Tim chị co thắt lại khi nhìn con bất động cộng với lời khuyên của bác sĩ nên đưa con về. Chị gào khóc van xin các bác sĩ cứu con chị. Cảm thương với tấm lòng bao la như biển cả của người mẹ như chị.

Bác sĩ đã mời chị vào ký giấy cam kết vì tình trạng nguy cấp của con chị. Theo chẩn đoán máu tụ ngoài màng cứng trán đỉnh phải. Mười phần chết chín chỉ còn may mắn một phần. Giọng điệu chất phác chị kể: “Bác sĩ nói tui ký giấy, có gì chịu trách nhiệm. Còn nước còn tát. Còn 1% cũng cố gắng. Rồi người ta bóp bong bóng ba ngày ba đêm, con tui từ từ thở được…”

Hai mươi lăm ngày con chị nằm ở tầng 2 nhà thương Chợ Rẫy là khoảng thời gian đau khổ nhất trong cuộc đời chị, sinh mạng con chị như ngàn cân treo sợi tóc. Bao nhiêu tiền dành dụm phút chốc tan biến nhanh, bao nhiêu món đồ quí giá trong nhà lần lượt chia tay gia đình chị. Tình nghĩa máu mủ các con chị trút hết những giọt máu cuối cùng có thể được để san sẻ cho em mình. Sau 25 ngày em được chuyển sang Quận 8, ba tháng ở Quận 8, mỗi ngày ít nhất phải chi năm triệu tiền thuốc, cơm thì chị xin của hội từ thiện.

Một số tiền quá lớn, họ hàng rồi cũng chỉ biết ngồi nhìn mà ngậm ngùi. Anh chị bán dần 6 công ruộng, rồi bán luôn căn nhà hai trăm rưỡi triệu, cũng không thấm vào đâu. Con trai thứ của chị vì thương em cũng bán luôn căn nhà 150 triệu để phụ lo cho em. Cả nhà về tá túc ở ngôi nhà của bà nội. Bốn năm nay anh chị phải chuyển con từ bệnh viện này sang bệnh viện khác, cho đến bây giờ phế quản vẫn chưa đóng lại được.

Ngôi chợ chồm hổm buổi sáng cảm thương với gia đình chị, người chia sẻ bó rau, người cho miếng xương heo, người cho con cá giúp em Dũng. Thương vì em là đứa con có hiếu, biết nghĩ cho cha mẹ, thương vì chị phải gánh nỗi đau quá lớn. Nhà cửa tiêu tan, bốn năm nay chị kề cận chăm sóc Dũng, không làm gì ra tiền, gia đình lùi dần vào con đường bế tắc. Em Dũng còn đang chờ đợi để đương đầu với một cuộc phẫu thuật rút ống thông thanh quản ra. Đôi mắt chị xa xăm tìm kiếm một điều gì đó trong vô vọng…

Nhìn cách em Dũng bắt đầu bình phục, nghe hiểu rồi viết được tên mình, ai cũng vui mừng. Nhìn sâu trong mắt chị Bảy ai cũng đọc được sự hy sinh cao cả, tình mẫu tử thiêng liêng. Còn anh Quỳnh thì lặng lẽ âm trầm với nỗi đau quá lớn của gia đình. Anh thở dài vì anh cũng đang bệnh, mọi thứ chất hết lên vai chị. Các anh chị em Dũng thì cố sức làm việc, bên cạnh cái gánh gia đình còn cái gánh ruột thịt không bỏ vào đâu được. Sức nặng đang đè nặng trên vai mọi người, không ai nói với ai, nhưng tất cả đều cảm nhận từ nhịp đập con tim.

Tôi đưa tay bắt lấy tay Dũng hỏi em có muốn ngồi trên xe lăn tôi đẩy em ra khỏi con hẻm này cho vui không ? Em gật đầu vui vẻ, nhưng ngồi trên xe lăn đôi chân em run lên bần bật, em bấu chặt tay tôi. Chắc có lẽ tai nạn khủng khiếp vẫn còn ám ảnh trong em, nỗi sợ hãi run lên theo từng vòng bánh xe lăn. Tự dưng giọt nước mắt tôi rớt xuống, lòng tôi lại dậy lên niềm khao khát, không phải chỉ đẩy em ra khỏi con hẻm này để tìm nguồn vui mà luôn cầu mong mọi người hãy chung tay đẩy gia đình em thoát khỏi cơn khốn khó. Hãy cùng nhau dùng tình thương xoa dịu nỗi đau, tìm lại cho em nụ cười và tiếng nói trong trẻo. Hãy san sẻ với một người mẹ vì trái tim bà vẫn sáng như một kỳ quan của thế giới.

Chia tay gia đình anh chị Bảy, con hẻm nhỏ khuất sau lưng tôi nhưng hình ảnh thương tâm của em Dũng và ánh mắt sâu thẳm của anh Quỳnh và chị Bảy theo tôi, như thúc giục tôi hãy cố gắng làm một điều gì đó, ít ra là hãy đưa vào em vào thế giới yêu thương của mọi người. Để tình thương của mọi người đấp ấm làm lành vết chém mà cuộc đời vô tình đã đánh trúng vào gia đình em.

TIEU HO, 6.2013

THEO CHÚA

THEO CHÚA

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

Trích EPHATA số 568 ngày 30-06-2013

Cuộc sống nhiễu nhương không biết bao nhiêu là ngã rẽ, vậy đâu chính là con đường để nhân loại thủ đắc được cuộc sống hạnh phúc đích thực ? Ai cũng muốn hạnh phúc, muốn được tồn tại cách an toàn nhất. Thế nên, người ta thao thức truy tìm cho mình con đường không phải quá vất vả đấu tranh, đối mặt với cơm áo gạo tiền. Thế nhưng, có lối mòn trần thế nào không vướng đầy bụi của vật chất, danh vọng, tiền tài. Càng lo cơm ăn áo mặc, người ta càng tranh giành chém giết lẫn nhau. Muốn mình chiến thắng, tất yếu kẻ bên cạnh thành chiến bại. Chỉ có một con đường duy nhất, có thể giải thoát nhân loại thoát khỏi cám dỗ của dục vọng, của tham sân si đó là đường thập giá.

Trớ trêu, trong khi nhân loại khóc than, oán trách cuộc đời đã không cho mình lối thoát để không bị bóng tối thế trần xâu xé chỉ bởi cơm áo, thì con đường Đức Giêsu vạch ra lại chẳng mấy ai theo. Cuộc sống trần thế này phức tạp thật đấy, nhiễu nhương thật đấy những cạm bẫy khiến con người khó có thể tìm được hạnh phúc đích thực, nhưng lại chẳng mấy ai muốn bước theo con đường thập giá, con đường phải từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa và tha nhân.

Có lẽ, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được nguyên nhân. Không nguyên nhân nào khác hơn ngoài nhu cầu chủ nghĩa cá nhân được đề cao đến mức tuyệt đối. Ai cũng muốn sống cho mình, và là chính mình. Ai có thể từ khước bản thân để chỉ có thể sống cho Thiên Chúa và tha nhân cách nhưng không được ?

Nói trúng hơn, nhân loại chẳng phải không muốn trở nên tốt lành, nhưng khổ nỗi, cái thực tế cuộc sống với những nhu cầu tối thiểu đã khiến cho thế giới bị điên đảo trong những vòng lẩn quẩn của mất niềm tin và phương hướng. Đời sống tâm linh thực sự quan trọng nhưng thực tế cuộc sống lại phũ phàng hơn rất nhiều. Cứ thế, cứ thế… nó cấu xé nhân loại, để rồi con người bị cuốn vào vóng xoáy của đam mê và tham vọng. Thiên Chúa còn bị lãng quên, nói gì đến chân lý mà Ngài muốn để đời cho nhân loại.

Giữa muôn vàn lựa chọn bởi lý tưởng cuộc sống, các tông đồ phân vân tự hỏi không biết mình nên đi đâu về đâu, không biết phải làm gì để sống, phải theo ai giữa cái thế giới xô bồ đầy vất vả truân chuyên này. Sự hiện diện của Đức Giêsu với đường lối và những giáo huấn của Ngài như một mở ngỏ dẫn các ông bước sang một thế giới khác. Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Các ông tin rằng, khi theo Đức Giêsu, các ông sẽ tìm được nơi nương tựa vũng chắc cho cuộc sống đầy bấp bênh này: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” ( Lc 9, 58 ). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời rất chân thật: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu” ( Lc 9, 58 ). Mặc dầu đã khẳng định như vậy, nhưng Đức Giê su vẫn mời gọi: “Anh hãy theo tôi” ( Lc 9, 59 ).

Đức Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ hiểu giá trị Nước Trời mà các ông đang muốn theo đuổi, giá trị ấy không tùy thuộc về bất kỳ điều gì trên thế gian này, nhưng chỉ đặt nền tảng trên sự tôn kính Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Nhân loại ai cũng ngỡ rằng theo Chúa sẽ được tất cả, cơm đủ no, áo đủ ấm, địa vị xã hội được cải thiện… thế nhưng tất cả mọi việc thuộc về thế gian này đều không quan trọng bằng việc loan báo triều đại Nước Thiên Chúa, tất cả đều không quan trọng bằng việc làm chứng cho thế giới này hiểu rằng Thiên Chúa chính là tất cả, quan trọng hơn tất cả.

Đường lối Thiên Chúa và nhân loại khác nhau xa quá. Trong khi con người ngày càng cố gắng xây đắp của cải vật chất và địa vị vững chắc, thì Đức Giêsu lại dẫn đưa họ đến một lối sống khác biệt, sự sống ấy hoàn toàn không được xây nên bằng của cải thế gian này nhưng bằng tình yêu và lòng mến. Tình yêu với Thiên Chúa và lòng mến đối với tha nhân. Sự đòi hỏi ấy dường như vượt quá khả năng nhân loại, để rồi người thì tiếc xót, kẻ thì níu kéo và những thái độ ấy đều bị Đức Giêsu khiển trách: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 62 ).

Lạy Chúa, “đi theo Ngài”, cụm từ ấy với con trải qua bao năm rồi nhưng vẫn không hề thay đổi. Ở tận đáy lòng, khi nào con chỉ cũng muốn theo Chúa và bước đi với Ngài mà thôi. Vì chưng, ngoài con đường ấy, con còn biết đặt chân đến nơi nào khác hơn. Chỉ có điều, có những giai đoạn trong cuộc đời con đã phải dừng lại, rẽ ngang, rẽ dọc… Thế nhưng, cho dù con có đi đến đâu, cũng không đi ra khỏi cõi lòng, nơi có con đường đưa con đến gặp Ngài. Dẫu hiện tại có phải mang gánh nặng nề bởi kế sinh nhai, nhưng niềm tin vào tình thương của Thiên Chúa đã giúp con vượt qua mọi thử thách.

Xin giúp con luôn hiểu rằng cho dù cuộc sống có cam go đến đâu, cũng đừng từ bỏ “đường theo Người”, để mà can đảm buông tay gửi mọi phù hoa cho thế trần.

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

Tất Cả Là Hồng Ân.

Tất Cả Là Hồng Ân.

Giuse Thẩm Nguyễn

nguồn:vietcatholic.net

Khi nghĩ về những hồng ân, người đời thường nghĩ về những điều phúc, điều lành, chứ không ai coi cái họa, cái xui là hồng ân cả. Tuy nhiên, câu thành ngữ : “tái ông thất mã, an tri họa phúc”, có nghĩa là “ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc” thì chứng tỏ phúc hay hoạ là do chúng ta thôi.

Chuyện Tái Ông Mất Ngựa trong sách Hoài Nam Tử như thế này: Ông lão ở nước Hồ bị mất một con ngựa, tưởng là xui. Ai ngờ vài tháng sau, con ngựa kéo thêm cho ông con ngựa khác, tưởng là phúc. Có ngựa nên con trai ông cưỡi ngựa bị gãy chân, tưởng là hoạ. Bị gẫy chân nên con trai của ông được miễn đi lính, tưởng là phúc….

Cái vòng luẩn quẩn phúc và họa ấy sẽ chấm dứt khi con người chết.Chết là hết chuyện. Thật vậy đối với đời sống con người cái chết là kết thúc mọi chuyện. Dù khi sống người ấy có là ông này bà kia, có giàu sang phú quý, hay nghèo hèn thế nào thì chết cũng là hết. Bởi thế không bản án nào nặng bằng bản án tử hình, tức là cướp đi sự sống của một người. Nói một cách khác, sự sống là món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.

Chết quả là sự cay đắng cho những ai chỉ cậy dựa và muốn hưởng thụ thế gian này, nhưng chết đối với người tin Chúa thì lại là niềm hy vọng được trở về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra mình.

Đối với đức tin Công Giáo, thì sống cũng là hồng ân mà chết cũng là hồng ân, nếu cái chết ấy được chuẩn bị chu đáo để sẵn sàng về hưởng Tôn Nhan Chúa. Thánh Phaolô quan niệm sự sống và sự chết của Ngài như thế này “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi “. (Pl 1,21

Theo quan niệm nhân gian, thì điều gì mình thích thì gọi là phúc, điều gì mình không thích thì gọi là họa. Sống thọ, có sức khỏe tốt, được người ta kính trọng, được giàu có thì ta gọi là phúc (hên). Ngược lại chết chóc, bệnh tật, bị hiểu lầm, bị nghèo đói thì gọi là họa (xui).

Cho nên trong các lời rao đầu lễ Chúa Nhật, tôi thường nghe thấy những lễ xin tạ ơn như được khỏi bệnh, được thăng chức, được thi đỗ, được có việc làm, được bằng an.. chẳng bao giờ tôi nghe thấy xin lễ tạ ơn vì đã bị bệnh, đã bị hiểu lầm, đã thất nghiệp, đã bị đau khổ… mà thực ra những điều chúng ta không thích cũng là hồng ân Chúa ban để giúp ta đến gần Chúa.

Suy tư về điều phúc và họa, tôi giật mình khi thấy đã bao lần tôi cất tiếng trong nhà thờ đọc kinh ‘Tám Mối Phúc Thật” mà chẳng ý thức về những điều Hội Thánh dạy.

Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó, người hiền lành, người sầu khổ, người đói khát sự công chính, người từ tâm, người có tâm hồn trong sạch, người kiến tạo hòa bình, người bị bách hại vì sự công chính, người bị xỉ nhục, bị bắt bớ, bị nói xấu, bị đặt điều vì Danh Chúa.

Tôi không biết có bao nhiều người hiện diện trong nhà thờ cầu mong những điều phúc này. Toàn là những điều mà thế gian gọi là tai họa, thế mà những người Công Giáo đích thực lại cho là có phúc?

Cái phúc ở đây ,theo người tin Chúa, là những cơ hội dẫn đưa ta về với Chúa là hạnh phúc cùng đích của đời sống. Sống không phải chỉ là sống mà là chuẩn bị cho sự sống bất diệt sung mãn cùng với Chúa Yêu Thương trong nước của Người.

Lần tìm trong Sách Giáo Lý Công Giáo, tôi được hiểu thêm: “Những phúc thật này vẽ lên khuôn mặt Chúa Kitô và mô tả đức bác ái của Người. ..Các phúc thật là những lời hứa nghịch lý để nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân, loan báo nhưng phúc lành và những phần thưởng mà các môn đệ của Chúa đã âm thầm đạt được.” (GLCG, câu 1717)

Người đời cho rằng trúng xổ số là có phúc, vậy mà theo báo Houston, ông Bille đã tự tử vì những đồng tiền từ trên trời rớt xuống ấy. Phóng viên Steve viết trong báo Houston rằng: ông Bille Bod Harrel Jr đã trúng 31 triệu dollars độc đắc bang Texas. Lúc đầu mọi sự đều tuyệt vời…Ông dùng tiền mua nhà, xe, làm từ thiện. Ông có thêm rất nhiều bạn… nhưng chỉ 20 tháng sau, gia đình ông tan tác, ông bị vỡ nợ và đã tự tử. (From A Treasury of Terribly sad Stories of Lotto Winners)

Có ai khổ cực trăm bề bằng những người Công Giáo bị bắt đạo thời xa xưa. Họ bị hành hạ thể xác, hành hạ về tinh thần và phải chịu chết một cách dã man. Thế mà đối với chúng ta, các Ngài đã được phúc tử đạo.

Tôi đã nghe và rất thích bài hát “ Tất Cả Là Hồng Ân”, tác giả cho rằng có những biến cố chúng ta cho là phúc, có những điều khác chúng ta cho là họa thì đối với Thiên Chúa Tất Cả Là Hồng Ân.

Những phúc/họa này có mục đích hướng chúng ta nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình và giúp chúng ta yêu mến Chúa nhiều hơn, giúp chúng ta đạt được mục đích đầu tiên khi được sinh ra trong cõi đời này là “ thờ phượng và yêu mến Chúa”. Như thế trong đời sống đức tin Công Giáo không có gì là họa, mà tất cả là hồng ân. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về mọi hồng ân Chúa ban cho mình.

Một bài thánh ca khác “ Khúc Ca Tạ Ơn”, tác giả cho rằng cuộc đời chúng ta được dệt bằng những niềm vui hân hoan hoà lẫn với những nỗi buồn da diết, những phút cười vui an bình pha lẫn những thử thách, long đong. Tất cả dệt thành Khúc Ca Tạ Ơn.

Nếu đời của chúng ta găp toàn chuyện may lành, thì chúng ta không biết giá trị của đau khổ, ngược lại nếu đời toàn là đắng cay thì cuộc sống chưa trọn vẹn. Một bức tranh đẹp do người hoạ sĩ tài ba là Chúa Giêsu vẽ lên cho đời ta phải điểm muôn màu muôn sắc. Tạ ơn Chúa vì chính Ngài đã dùng những nét chấm phá phúc-họa để vẽ lên con giống Chúa hơn.

Chúa đã dẫn tôi qua mọi biến cố của cuộc đời. Chúa đã cho tôi được gia nhập đạo Thánh Chúa khi vừa chào đời, Chúa đồng hành với tôi qua những tháng ngày tăm tối trong trại cải tạo, Chúa vui với tôi qua những tháng ngày bơ vơ nơi xứ người và Chúa nâng đỡ, kề cận tôi trong lúc tuổi già. Tôi đã phó thác trong tin tưởng để bước đi theo Chúa. Con đường quanh co, lúc thì phúc, lúc thì họa là con đường “Thánh Ý Chúa”.

Lạy Chúa, con đường phúc-hoạ nào Chúa đã đi qua, xin cho con được bước đi theo Ngài. Xin dạy con nhận ra sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa qua những biến cố trong đời con. Xin cho con biết chấp nhận để kiên trì vác thánh giá theo chân Chúa suốt đời con vì có Chúa thì “ Tất Cả Là Hồng Ân “. Amen.

Giuse Thẩm Nguyễn

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

Tác giả: Gs. Phan Văn Phước

nguồn:conggiaovietnam.net

(Bài viết cũ, có bổ sung, vào ngày 27.6.2013, bằng tài liệu về Kỳ Công của Đấng Tạo Hóa.)

I- Lời dẫn nhập:

Có ”kẻ” cho rằng con người LÀM nên tất cả, chẳng hạn: vô số ”nhà LÀM RA Khoa Học” đáng được cả thế giới khâm phục!!! Tôi bèn hỏi: ”Vậy AI LÀM RA vũ trụ?” Và đây là câu trả lời của lắm người KHÔNG tin có Thượng Đế: ”Đó là DO TỰ NHIÊN!” Tôi liền nói: ”Chữ ”tự” có nghĩa là MÌNH, TỰ MÌNH; chữ ”nhiên” có nghĩa là NHƯ VẬY. Cả hai chữ ấy có nghĩa: KHÔNG DO sức người LÀM RA! Mà có MUỐN LÀM chăng nữa, con người cũng CHỊU THUA!!! Thua AI, ông biết không? Thua ĐẤNG LÀM ĐƯỢC. Đấng ấy xưng MÌNH là TA như trong Kinh Thánh vì Ngài TỰ MÌNH phán THÌ có vũ trụ. Ngoài ra, chữ TỰ NHIÊN đồng nghĩa với THIÊN NHIÊN. Mà THIÊN là TRỜI!!! Như vậy, THIÊN NHIÊN có nghĩa là DO TRỜI LÀM RA! (Xin xem từ điển của Cao Đài.) Chữ ”tự nhiên; thiên nhiên” (nature; Natur”) là do từ Latinh: NATURA, có nghĩa: ĐƯỢC SINH RA: BE BORN!!!

Cho nên, thật là VÔ LÝ và BẤT CÔNG, BẤT CHÍNH, VÔ ƠN khi con người ”mở miệng” CA TỤNG hết lời ông A ”CHẾ RA” đủ loại máy móc, nhưng QUÊN rằng kim loại (mà ông ấy sử dụng) là DO TRỜI LÀM RA, tức THIÊN NHIÊN như đã định nghĩa.

Nhắm giúp ”nhân-vô-tri-bất-mộ” được sáng mắt, sáng lòng, tôi xin giới thiệu, ở cuối bài viết, Video ”Birds of Paradise; Winged Seduction Birds Of Paradise ” là phần trích từ bộ phim dài mà ”thiên hạ” (40 cameramen: người quay phim) phải bỏ ra hết 3000 ngày, tới 200 địa điểm trên khắp thế giới để khám phá Quyền Năng của Đấng Tạo Hóa. Ngoài ra, còn có Truyền Hình của Việt Nam (VTV2) giới thiệu con người HỮU HẠN đi TÌM HIỂU về THIÊN CƠ (thang máy) DO Ông TRỜI làm ra.

II- BÀI VIẾT:

Những người vẫn ”khư khư chủ trương KHÔNG CÓ Thượng Đế” sẽ CHẲNG bao giờ chứng minh được rằng ”không có Ngài” CHO DÙ họ dựa vào những phát minh mới về Khoa Học! Tại sao vậy?

Bởi vì ”Khoa Học” (1) KHÔNG PHẢI DO con người LÀM RA. Ví dụ: Sức đẩy của nước (định luật Archimède) KHÔNG DO ông ấy ”sáng chế” VÌ nó ĐÃ CÓ từ thuở ”TẠO THIÊN, LẬP ĐỊA”! Càng ”khám phá” phần nào đó ”Khoa Học CỦA ĐẤNG Tạo Hóa” (The Science OF The Creator) qua vũ trụ, con người, BỊ ”giới giạn bởi thời gian và không gian”, vẫn THẤY mình quá NHỎ BÉ và còn ”DỐT” trước ”Tri Thức CỦA Kiến Trúc Sư Tuyệt Đối” LÀM RA ”thiên cơ” (then máy của Trời) mà mình KHÔNG tài nào HIỂU THẤU được hết.

Ban đầu, đào đất, tôi tạo được một cái lỗ nhỏ. Càng đào đất ngày nầy qua ngày nọ, tôi KHÔNG còn thấy cái lỗ, mà quanh mình lại là một ”cái hố” rất rộng. Trong Lĩnh vực Khoa Học, cũng thế! Với ”viễn vọng kính” hiện đại, tối tân, sự hiểu biết CỦA con người (VỀ vũ trụ) CHỈ LÀ một phần ”tri thức” QUÁ NHỎ nên nhiều nhà nghiên cứu Khoa Học phải khẳng định rằng ”vũ trụ bao la, không cùng” là điều chứng minh CÓ ”Đấng Lạ Lùng” chế ra thiên cơ. Xin đơn cử trường hợp như sau:

Ngoài mặt trời, ngôi sao ”gần chúng ta nhất” được gọi là ”Proxima” nằm trong ”chòm Alpha Nhân Mã” (Alpha du Centaure), CÁCH chúng ta chừng 41 NGÀN TỶ cây số!!! Các nhà thiên văn phải ”tính gọn” khoảng cách ấy bằng NĂM-ÁNH-SÁNG (l’année lumière)! Mà vận tốc của ánh sáng trong mỗi giây là 300 NGÀN cây số! Vậy, trong một năm, ánh sáng đi được là 9,5 NGÀN TỶ cây số. Muốn ”bay” nhanh BẰNG ánh sáng để lên tới sao Proxima, tôi phải mất 4 năm và 3 tháng!!!

Quả Đất là hành tinh trong thái dương hệ (solar system) gồm có: Mercure, Venus, Terre, Mars, Jupiter, Saturne, Uranus (được khám phá năm 1781), Neptune (năm 1846) et Pluton (năm 1930). Thái dương hệ lại nằm trong ”Giải Ngân Hà” (Voie Lactée / Milky Way / Galaxy) có chừng 200 TỶ (200.000.000.000) ngôi sao! Các nhà thiên văn CHỈ mới khám phá được chừng 100 tỷ Ngân Hà trong một phần nhỏ của vũ trụ bao la! Cho nên ”chiêm tinh gia” nọ phát biểu và đặt câu hỏi như sau: ”Mới khám phá NGẦN ẤY về vũ trụ bằng viễn vọng kính TƯƠNG ĐỐI, mà tôi đã CHÓNG MẶT. Vậy, nên thư giãn tí xíu bằng cách tính kích thước ngắm được, thật KINH HOÀNG của Vũ Trụ, theo tỷ lệ KHIÊM TỐN của loài người! Phải chăng số NGÂN HÀ trong Vũ Trụ NHIỀU HƠN CÁT trên Địa Cầu?

Big Bang (Sự Bùng Nổ Lớn: Gigantesque Explosion) KHÔNG phải là chân lý (2), mà CHỈ là giả thuyết thuần túy siêu hình (une pure hypothèse métaphysique) bắt NGUỒN từ Cựu Ước nói về việc Sáng Thế từ HƯ VÔ (La création ex nihilo: Creation out of nothing) DO Quyền Năng của Thiên Chúa. CHẲNG chứng minh được rằng ”không có Thượng Đế”, còn DÈ DẶT vì lý do này, lý do kia, một số nhà nghiên cứu Khoa Học BÈN phát biểu: ”Do KHÔNG thể thấy Vũ Trụ ra sao trước Big Bang, chúng ta cũng CHẲNG biết được điều gì trong giai đoạn ẤY. Nhưng một số lý thuyết cho rằng có thể Vũ Trụ của chúng ta ‘chào đời giữa lòng Vũ Trụ khác’ ĐÃ CÓ TRƯỚC (préexistant).”

Như vậy, xét cho cùng, khái niệm ”Vũ Trụ Đà CÓ TRƯỚC” không phải là thiên cơ hữu hình, MÀ LÀ ”Đấng Vô Hình, Toàn Năng, Tuyệt Đối, Toàn Tri, Toàn Hảo…” Ngài có TRƯỚC thời gian và không gian, TỨC Đấng Tự Hữu (The Self-Existing) CHÍNH LÀ Thượng Đế. Cựu Ước nói ngắn gọn về việc Ngài khởi sự TẠO DỰNG vũ trụ như sau:

BAN ĐẦU, Thiên Chúa SÁNG TẠO trời và đất. Ðất còn trống không, mông quạnh, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa là là trên mặt nước. Và Thiên Chúa PHÁN: “Hãy có ánh sáng.” Và có ánh sáng. Và Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp và Thiên Chúa phân tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Và Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Đã có buổi chiều và buổi sáng: ngày thứ nhất.” (Sáng Thế Ký 1,1-5)

Gottfried Wilhelm Leibniz, nhà Toán Học, Triết Gia Đức, phát biểu: ”Thượng Đế tính toán, sử dụng ý tưởng của Ngài, cho nên thế giới đã được tạo thành. Trước hết mọi sự, Thượng Đế là VỊ tính toán vĩ đại, Nhà luận lý VĨNH HẰNG.” (Dieu calcule, il exerce sa pensée, et le monde est créé. Dieu est avant tout le grand Calculateur et l’éternel Logicien.)

Ông ta còn nói: ”KHÔNG gì CHẲNG gì mà KHÔNG lý do.” (Rien n’a rien sans raison.) Câu ấy phải được hiểu như thế này: Mọi sự đều CÓ nguyên nhân. Nhưng Thiên Chúa KHÔNG phải là ”sự, cái gì” VÌ Ngài là Nguyên Nhân CỦA mọi sự, mọi loài, TỨC Đầu Hết, LÀ Alpha bởi vì, trước chữ Alpha của mẫu tự Hy-lạp, KHÔNG CÓ chữ nào cả!

Tên đao phủSaulô đi lùng người tôn thờ Chúa Giêsu, đã được Ngài cho mù mắt để sáng lại, trở thành ‘‘Thánh Phaolô” đã cảnh cáo hạng người TƯỞNG mình là trí thức, nhưng vẫn MÊ MUỘI như sau: ”VÌ những gì thiên hạ có thể BIẾT về Thiên Chúa thì đã được mạc khải CHO HỌ. Từ thuở tạo thành vũ trụ, những việc tốt lành của Ngài mà mắt người đời không thấy được, TỨC là Quyền Năng vĩnh cữu và Thần Tính của Ngài. DO ĐÓ, họ VÔ phương chạy tội. VÌ đã BIẾT Thiên Chúa, NHƯNG họ KHÔNG tôn vinh Ngài là Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Trái lại, họ suy luận LẦM LẠC và tâm trí ngu si của họ trở thành TỐI TĂM. Họ tự KHOE là khôn ngoan, NHƯNG đã trở nên điên rồ.” (Roma 1,19-22)

Thật vậy, NHÌN cái ”máy vũ trụ” QUÁ LẠ LÙNG, vượt sức tưởng tượng của mình LÀ thọ tạo HỮU HẠN, ai CÒN ngoan cố, CÒN tự cao và CÒN KHÔNG TIN có Thượng Đế THÌ người ấy CŨNG nên làm kẻ ”điên rồ” bằng CÁCH lý luận rằng chiếc đồng hồ đeo tay chẳng có người nào làm ra!!!

Đaminh Phan văn Phước

Đức Quốc, 27 và 28.5.2012, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.

Ghi chú:

1. Chữ ”science” là cách biến âm của từ Latinh ”scientia” vốn là danh từ của động từ ”scire”: savoir; know; biết! Có bản dịch dùng chữ ấy trong thành ngữ ”l’arbre de la science du bien et du mal”: cây biết điều lành và sự dữ. Như vậy, chữ ”science” đồng nghĩa với ”connaissance; knowledge”. Cây ẤY ở Vườn Eden LÀM biểu tượng NHẮC Adam-Eva nhớ tới Lời của Thượng Đế LÀ Đấng Toàn Tri. (L’OMNISCIENT) ”Cây” gậy của Mosê đập đá để lấy nước nuôi Dân Chúa khỏi chết khát trong sa mạc. Vì Adam-Eva muốn được BẰNG CHÚA, ”Cây” Vườn Eden đã biến loài người trở thành nô lệ của Satan! Nhưng ”CÂY” Thập Giá giúp loài người đè đầu NÓ!!!

2. Bài khác sẽ nói về Big Bang.

Đức Quốc, 27 và 28.5.2012, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.

Đaminh Phan văn Phước

Kính mời xem Video về Kỳ Công của Đấng Tạo Hóa:

Birds-of-Paradise Project – YouTube

Winged Seduction Birds Of Paradise – YouTube

Khám phá thế giới – Kính thiên văn Hubble – YouTube

Tác giả: Gs. Phan Văn Phước

Tuần hành tại Hong Kong đòi dân chủ toàn diện

Tuần hành tại Hong Kong đòi dân chủ toàn diện

VOA

Người biểu tình ủng hộ dân chủ tuần hành qua các đường phố ở Hong Kong, ngày 1/7/2013.

Người biểu tình ủng hộ dân chủ tuần hành qua các đường phố ở Hong Kong, ngày 1/7/2013.

Hàng chục nghìn cư dân Hong Kong đã tham gia một cuộc tuần hành đòi dân chủ toàn diện nhân kỷ niệm 16 năm chủ quyền của đặc khu này được chuyển giao cho Trung Quốc.

Bất chấp mưa to do một cơn bão nhiệt đới gây ra, người biểu tình vẫn tới tham gia cuộc xuống đường thường niên vào ngày 1/7.

Cuộc tuần hành bắt đầu tại công viên Victoria và sau đó tiến tới quận thương mại trung tâm của thành phố.

Nhiều người biểu tình hô vang các khẩu hiệu đòi nhà lãnh đạo không được bầu của thành phố là ông Leung Chun-ying phải từ chức và kêu gọi chính phủ phải đảm bảo một cuộc bầu cử tự do và công bằng đối với vị trí trưởng đặc khu của ông Leung vào năm 2017.

Ông Leung nhậm chức ngày 1/7 năm ngoái sau khi được chọn lựa bởi một ủy ban của Hong Kong gồm đa phần những người trung thành với chính quyền và Bắc Kinh.

Kể từ đó, uy tín của ông sụt giảm vì các vụ bê bối liên quan tới nội các của ông, cách hành xử của ông trước khi nhậm chức cũng như sự bất mãn của công chúng về giá cả nhà đất tăng và con số người Hoa đại lục tới đặc khu.

Trung Quốc đã đồng ý để cho cư dân Hong Kong trực tiếp bầu trưởng đặc khu khi hết thời hạn nắm quyền của ông Leung vào năm 2017.