Phim: Khám phá Đất Thánh phần I & II (full)

Phim: Khám phá Đất Thánh phần I & II

Bộ phim :” Khám phá đất Thánh” sẽ đưa chúng ta đến với những vùng đất trong Kinh Thánh bằng những hình ảnh sống động.

Cùng với bộ phim, chúng ta không những có cơ hội được khám phá những vùng đất mà ngày xưa đã từng in dấu tích lịch sử trong lịch sử Công Giáo mà còn là dịp để chúng ta cùng học biết về những nét văn hóa đặc sắc về những cư dân hiện đại cũng như những con người xa xưa nữa.

Nhờ đó, người Ki tô hữu có thể hiểu thêm về Kinh Thánh, hiểu thêm và tin yêu thêm vào Đức Giê su, Đấng Cứu độ duy nhất của chúng ta.

Kính mời xem phim:

Phần 1

httpv://www.youtube.com/watch?v=xzTM3V4xuQY&feature=player_embedded

Phần 2

httpv://www.youtube.com/watch?v=kZU6pMpzp4o

Anh Nguyễn v Thập gởi

Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại

Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại

Bí quyết để luôn hạnh phúc là hãy tắt điện thoại di động và quan tâm đến bạn bè cũng như gia đình.

Giáo sư Paul Dolan, thuộc trường kinh tế London (Anh), tin rằng sự phổ biển của iPhone và các điện thoại thông minh khác khiến mọi người ít quan tâm hơn tới những người người thân và bạn bè của họ. Ông cảnh báo rằng nếu mọi người không thay đổi cách ứng xử hiện nay, họ có thể mắc bệnh tâm thần.

Sự phổ biến của các loại điện thoại thông minh khiến  mọi người ít quan tâm hơn tới người thân và bạn bè.

Sự phổ biến của các loại điện thoại thông minh khiến mọi người ít quan tâm hơn tới người thân và bạn bè.

Phát biểu tại sự kiện Hay Festival ở Cartagena (Colombia), giáo sư Paul Dolan cũng cảnh báo hội chứng nghiện Internet và hội chứng Phantom Vibration Syndrome (PVS) trở nên phổ biển trong giới trẻ. Hội chứng PVS xảy ra khi bạn có điện thoại di động trong túi và nghĩ rằng mình có tin nhắn, nhưng không phải.

“Hãy chú ý tới những gì bạn đang làm và những người đồng nghiệp của mình. Thay vì thường xuyên kiểm ra điện thoại và email, bạn hãy tắt điện thoại, nói chuyện và đi chơi cùng bạn bè và những người thân. Bởi vì những thói quen này giúp bạn hạnh phúc hơn”, giáo sư Paul Dolan cho biết.

Ông Paul Dolan cho biết giải pháp để duy trì cuộc sống luôn vui vẻ là tạo ra một số thay đổi trong môi trường mọi người sử dụng điện thoại di động. Ví dụ, trong một bữa ăn, bạn hãy để điện thoại di động tại bàn sau khi sử dụng và nói chuyện vui vẻ với mọi
người.

Khi nói về hạnh phúc, ông Paul Dolan cũng đưa ra một nghiên cứu khoa học cho thấy những người lập gia đình và theo tôn giáo hạnh phúc hơn những người độc thân
hay không theo tôn giáo nào
. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng cuộc sống
hạnh phúc của các cặp vợ chồng tương đối ngắn chỉ kéo dài khoảng 3 năm, nếu các
mẫu thuẫn vợ chồng không được giải quyết.

Giáo sư Paul Dolan cũng cho biết những người giàu có thường ít cảm thấy hạnh phúc. Một cuộc khảo sát gần đây đã đánh Columbia là quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới, cho dù thu nhập bình quân theo đầu người của nước này chỉ là 5.000 bảng/năm.

Gọi điện thoại cũng bị ảnh hưởng do thời tiết

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chó mòn mỏi đợi chủ

Sau khi chủ đã chết. Chó ngồi đợi chủ ở nhà thờ

Sau khi chủ nhân qua đời, chú chó Tommy ở Ý vẫn kiên trì ngồi đợi chủ ở nhà thờ và câu chuyện này đã khiến không ít người cảm động.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Khi tiếng chuông nhà thờ rung lên trong tang lễ của bà Maria Margherita Lochi vào tháng 11 vừa qua, chú chó Tommy đã chạy vào bên trong nhà thờ, đến bên cạnh quan tài bà Lochi trong giây phút cuối cùng nó được ở bên cạnh chủ.

Khi còn sống, bà Lochi đã mang Tommy về nhà nuôi sau khi phát hiện nó bị bỏ rơi ở một cánh đồng gần nhà tại Brindisi, miền nam nước Ý. Từ khi được bà Lochi nuôi dưỡng, Tommy đã trở thành một người bạn đồng hành trung thành nhất của bà Lochi.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Cha xứ Donato Panna nói: “Tommy luôn xuất hiện ở đây mỗi khi nhà thờ có lễ, nó rất ngoan ngoãn và biết nghe lời. Tommy cũng không bao giờ làm ồn, thậm chí tôi chưa bao giờ nghe thấy một tiếng sủa của nó từ khi nó xuất hiện ở đây.

Nó thường đến nhà thờ để trông ngóng bà Lochi dù bà ấy đã chết. Tôi đã để cho Tommy ngồi bên trong bởi vì nó rất ngoan, mọi người cũng không ai phàn nàn gì về sự xuất hiện của Tommy tại nhà thờ”.

Chú chó Tommy ở nhà thờ

Tommy là một giống chó Đức được bà Lochi nuôi từ nhỏ. Kể từ khi bà Lochi qua đời, những người dân trong làng đã thay nhau chăm sóc nó.

“Tommy đã được người dân trong làng nuôi dưỡng, và giờ đây nói đã trở thành bạn của tất cả mọi người. Mọi người thay nhau chăm lo, cơm nước cho Tommy. Nó vẫn thường đến nhà thờ kể sau đám tang của bà Lochi. Tommy đến và chỉ ngồi một cách lặng yên ở đó, có lẽ nó đang trông ngóng bà Lochi trở về”, cha Panna cho biết thêm.

Anh Nguyễn v Thập gởi

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
6iykim2000002
Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
alt
Chuyện có thật
Chàng là giáo sĩ, nàng là nữ tu, chuyện tình của họ so về mức độ mãnh liệt và
cả sự bi đát thì không thua gì Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có
thật. Họ là Pierre Abelard, nhà triết học và thần học lừng danh của nước
Pháp thế kỷ 12, và Heloise, một trang giai nhân mà sắc đẹp của nàng tuy đã hơn
người nhưng nếu so với trí tuệ và phẩm cách thì không kém phần nổi bật. Họ tạo
nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm
nhất trong lịch sử loài người.
Mối tình bị cấm đoán
Pierre Abelard gặp  Heloise lần đầu tiên khi chàng đã 36 tuổi, còn nàng mới là thiếu nữ tuổi 16. Lúc đó, Abelard đã là một triết gia, một nhà thần học kinh viện lừng danh, là giáo sư xuất sắc trong các lĩnh vực này ở Paris. Còn Heloise là cháu ruột của
Fulbert, một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Nàng được hưởng một nền
giáo dục tốt từ nhỏ, và đến tuổi trăng tròn thì đã trở nên thông tuệ hơn người.
Không rõ vì đã biết đến Heloise từ trước và phải lòng nàng nên Abelard mới “thu
xếp” để Fulbert mời chàng đến làm gia sư dạy nàng về triết học, hay ý muốn trau
dồi kiến thức cho cháu gái của Fulbert đã tạo điều kiện cho đôi tài tử giai
nhân gặp gỡ. Chỉ biết rằng không bao lâu sau khi Abelard đến ở nhà Fulbert để
dạy học, giữa hai người đã nảy sinh một tình yêu nồng cháy.
Dù khéo che đậy đến  mấy, mối tình này cũng nhanh chóng bị phát hiện. Ngài Fulbert nổi giận, lập tức chia rẽ đôi tình nhân. Thế là bắt đầu một thiên tình sử qua những lá thư sau này sẽ trở nên những áng văn chương bất hủ đối với nền văn học thế giới. Và
trong một lá thư như thế, Heloise cho biết một giọt máu của tình yêu đã thành
hình trong cơ thể nàng. Biết tin, Abelard tìm mọi cách đưa Heloise đi trốn.
Nàng ẩn náu tại nhà của chính chị gái Abelard, và sinh một đứa con trai đặt tên
là Astralabe.
Không còn đường nào  khác, Abelard phải tìm gặp ông bác của người yêu để nói chuyện và xin cưới nàng. Điều này làm cho cơn giận của Fulbert càng bùng lên dữ dội vì ông vẫn muốn nhắm cho Heloise một người chồng trong đám vương công giàu có. Nhưng rồi ông cũng chấp nhận. Abelard không nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến Heloise nên vô cùng sửng sốt khi đã được Fulbert gật đầu rồi thì lại bị nàng chối từ. Heloise
biết rằng, người mình yêu sẽ bất hạnh khi gắn bó cuộc đời với nàng, không muốn
một trí tuệ như chàng phải phiền lụy vì những mối khổ tâm của cuộc sống đời
thường. Nhưng sau một thời gian Abelard vật nài, van vỉ, nàng cũng đồng ý bởi
không muốn chàng tuyệt vọng nghĩ rằng nàng không yêu chàng nữa. Một đám cưới bí
mật được tổ chức rất giản dị. Và ngay cả sau khi cưới, họ cũng ít được gặp
nhau, cũng không gặp gỡ công khai.
Cuộc báo thù tàn khốc
Dù chuyện hôn nhân của  cô cháu cưng đã an bài nhưng Fulbert không bao giờ nguôi mối hận đối với Pierre Abelard, và ngài tự thề sẽ trả thù. Ngài rỉ tai bạn bè, người thân từng chút một về chuyện của Abelard – Heloise, gieo vào lòng họ sự khinh bỉ đối với cặp đôi này, và họ làm nhục thiếu phụ những khi có dịp. Ngài thậm chí còn có ý định
giết Abelard và gả cháu gái cho một người khác.
Xót xa cho cảnh bị hành hạ, lăng nhục của vợ, Abelard bảo nàng hãy tạm lánh vào một tu viện và gửi con về cho chị gái chàng. Biết tin này, Fulbert càng điên giận, nghĩ cô cháu dại dột của mình đã hết lòng yêu một kẻ không xứng đáng để rồi bị bỏ rơi, bị
ruồng rẫy đến mức phải vào nhà tu kín. Để trừng phạt, đêm nọ, Fulbert thuê một
nhóm người xông đến nhà Abelard đè ra thiến chàng.
Về nỗi đau này, Abelard viết: “Khi tôi đang chìm vào giấc ngủ, họ đã đột nhập với sự tiếp tay của một tên đầy tớ của tôi bị họ mua chuộc. Tại đó, họ trút sự trả thù vào tôi
với sự tàn độc nhất và cách trừng phạt đáng hổ thẹn nhất. Tất cả những việc họ
làm khiến cả thế giới kinh hoàng, vì họ cắt lìa bộ phận của cơ thể tôi với với
suy nghĩ tôi là nguyên nhân nỗi đau buồn của họ”. Nỗi đau khủng khiếp cơ thể
không là gì so với nỗi nhục nhã và tuyệt vọng về một hạnh phúc lứa đôi, sau sự
biến này, Abelard chính thức trở thành một tu sĩ thuộc dòng tu Benedek ở
Saint-Denis. Từ đó, cuộc đời chàng dành trọn cho nghiên cứu triết học, thần
học. Còn tình yêu đau đớn đối với Heloise, thứ tình yêu mà thảm kịch và sự chia
lìa không diệt nổi, chỉ được tiếp tục qua những trang thư.
Mất chồng, Heloise cũng nguyện không cải giá. Nàng phủ khăn đen lên đầu, trở thành một nữ tu cùng dòng tu với Abelard. Dù thân thể đã bị bó buộc, trái tim họ vẫn dành cho nhau suốt đời. Những lá thư trao qua đổi lại trong những năm ấy đã trở thành những áng văn chương bất hủ của nhân loại. “Anh biết không, anh yêu dấu? Cả thế giới đều biết, em đã mất anh. Làm thế nào mà số phận khốn khổ với hành động phản bội trắng trợn lớn nhất lại có thể cướp đi anh của em?”; “Nếu mất anh, em còn gì để
hy vọng chứ? Tại sao phải tiếp tục khi trong cuộc hành hương của đời người, em
chẳng còn chỗ dựa nào ngoài anh, chẳng ai chịu hiểu rằng anh vẫn tồn tại và em
bị cấm tất cả những niềm vui khác bên anh, nỗi lòng hân hoan về sự hiện diện
của anh hết lần này tới lần khác có thể cứu rỗi chính em?”, trong thư gửi
Abelard, Heloise đã viết như vậy.
Những năm xa nhau, Abelard tiếp tục đi sâu hơn, xa hơn trên con đường học thuật và phát triển tư tưởng của mình, những tư tưởng được vô số trí thức ngưỡng mộ học hỏi, nhưng cũng khiến cho những kẻ thủ cựu nổi giận. Sự bất đồng đó khiến ông bị cáo buộc tội dị báng bổ, dị giáo, bị đuổi khỏi tu viện, bị quản thúc, lưu đày, bị đốt
sách do mình viết, và không ít lần phải đối mặt với ấm mưu ám hại, thủ tiêu…
Những sự đọa đày đó dần làm Abelard kiệt sức. Ông qua đời ở tuổi 63. Còn Heloise, bà sống thêm 22 năm nữa trong sự tưởng nhớ người đàn ông duy nhất của đời mình, cai quản tu viện nơi bà gắn bó, nuôi dạy những đứa trẻ theo tinh thần khoa học và đạo đức mà mình tin tưởng.
Ngày nay khi đến thăm kinh thành Paris hoa lệ, nhiều người không quên đến thăm nghĩa trang Père Lachaise, nơi an nghỉ những linh hồn cao quý nhất của nước Pháp – những trí thức, nhà văn, nhạc sĩ, thiên tài, và đặc biệt là cặp tình nhân huyền thoại
Abelard –  Heloise. Sau khi lìa đời, họ đã được chôn cạnh nhau ở tu viện mà
Heloise cai quản, và 7 thế kỷ sau đó, họ được đưa về nghĩa trang này, ở bên
nhau vĩnh viễn.
Dũng cảm hơn cả Romeo  và Juliet – đôi tình nhân dám chết khi cuộc đời không cho ở bên nhau -, họ đã làm được một điều đáng cho ta cúi mình kính ngưỡng: tiếp tục sống, tiếp tục chịu đau đớn để cống hiến, để yêu. Và dù cách mặt, họ thực sự đã bên nhau, có nhau suốt cuộc đời và cả khi đã sang bên kia thế giới.
alt

Sưu tầm
From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng gởi

HỘI NGỘ XUÂN CALIFORNIA,

HỘI NGỘ XUÂN CALIFORNIA,

Nắng ươm vàng chiều Ca li óng ả,

Giọt sương rơi lành lạnh bóng ngày qua,

Vui hội ngộ tâm tình nơi xứ lạ,

Ấm tình nhau nhắc nhớ buổi xa nhà…

Học trò già ôm Thầy Cô tóc trắng,

Lời yêu thương chưa thốt lại muốn ngăn,

Lệ rưng rưng mắt ướt nói chi bằng,

Trong tư tưởng muôn ngàn câu trĩu nặng…

Trời se lạnh mùa xuân trước cửa,

Nhưng ấm lòng học trò nghịch năm xưa,

Giờ gặp Thầy vui quá lại muốn thưa :

Em cố gắng làm tròn lời đã hứa…

Thầy gật đầu mỉm cười nheo đuôi mắt,

Hớn hở vui em lí lắc cười theo,

Mai chia tay đường đời chia vạn nẻo,

Nhớ Thầy luôn trên đường đời trước mặt…

Liverpool.4/2/2013.

Song Như.

Kính tặng Quý Thầy Cô và các bạn Nam California.

Kim Trọng.

TẾT NGHÈO,

TẾT NGHÈO,

Cuộc sống bon chen ở xứ người,

Đón tết lòng đau mặt giả tươi,

Người qua kẻ lại đùa vui vẻ,
Có hiểu riêng ta thiếu nụ cười…

Khổ ải dân đen gánh gấp mười,

Cuộc sống lầm than vẫn phải bươi,

Nuôi thằng bán nước thân tròn lẳng,

Đắng ngắt đời mang số phận người…

Liverpool.3/2/2013.

Song Như.

Kính chúc Quý Thầy Cô và các bạn LVC một năm

thật bình an,hạnh phúc,vui vẻ và nhiều may mắn.

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Sứ Điệp Mùa Chay 2013 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Tin trong Đức Ái khơi dậy lòng Bác Ái”

Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. (1
Ga 4, 16)

Anh chị em thân mến,

Việc cử hành Mùa Chay, trong bối cảnh của Năm Đức Tin cho chúng ta một cơ hội quý báu để suy niệm về mối quan hệ giữa đức tin và đức ái: giữa việc tin vào Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Chúa Giêsu Kitô, và tình yêu, là hoa quả của tác động của Chúa Thánh Thần, và là điều hướng dẫn chúng ta trên con đường tận hiến cho
Thiên Chúa và cho tha nhân.

1.Đức tin và sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa

Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, tôi đã đưa ra một số yếu tố để hiểu mối liên
hệ gần gũi giữa hai nhân đức đối thần là đức tin và đức ái.  Dựa vào lời xác quyết
cơ bản của Thánh Gioan Tông Đồ: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” (1 Ga 4:16), tôi nhớ lại rằng “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng cuộc gặp gỡ với một biến cố,một con người, mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định … Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4:10), tình yêu không còn chỉ là một “mệnh lệnh”, nhưng nó là sự đáp lại món quà tình yêu mà với
Thiên Chúa đến gần chúng ta (Deus Caritas Est, số 1).  Đức tin là một sự
gắn bó cá nhân – trong đó bao gồm tất cả năng quyền của chúng ta – với mặc
khải về tình yêu nhưng không và “đắm đuối” mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, được
thể hiện trọn vẹn trong Đức Chúa Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là Tình Yêu không chỉ liên hệ đến con tim, mà cả trí tuệ: Việc nhìn nhận Thiên Chúa hằng sống là một con đường dẫn đến tình yêu, và câu trả lời ‘xin vâng’ của ý chí chúng ta theo Thánh Ý của Ngài kết hợp trí tuệ, ý chí và tình cảm của chúng ta trong hành động bao quát của tình yêu. Tuy nhiên, tiến trình này luôn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ ‘hoàn thành hoặc xong.” (ibid., số 17.).  Kể từ đó, đối với tất cả các Kitô hữu, và đặc biệt là “những người tham gia trong các công việc bác ái”,cần phải có đức tin, vì “cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô đánh thức tình yêu của họ
và mở tâm trí của họ ra
cho tha nhân, để tình yêu của họ dành cho những
người lân cận không còn là một mệnh lệnh bị
áp đặt, có thể nói là, tư bên ngoài, nhưng một kết quả phát sinh từ đức tin của họ, một đức tin trở nên tích cực qua đức ái(ibid., n. 31a).  Các Kitô hữu là những người đã được chinh phục bởi tình yêu của Đức Kitô và do đó được thúc đẩy bởi tình yêu này – caritas Christi urget nos (2
Cor 5: 14) – họ mở lòng cách sâu xa ra để  yêu thương những người lân cận cách cụ thể (x. ibid, số 33). Thái độ này phát sinh chính từ ý thức rằng mình được yêu thương, tha thứ, và thậm chí phục vụ bởi Chúa, là Đấng cúi mình xuống để rửa chân cho các Tông Đồ và hiến mình trên Thánh Giá để thu hút nhân loại vào tình yêu của Thiên Chúa.

Đức tin cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã ban Con Ngài  vì chúng ta và ban cho chúng ta sự chắc chắn chiến thắng la điều thật sự có thật:  Thiên Chúa là tình yêu … Đức tin, là ý thức về tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu qua của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, mà  đến lượt nó cũng gợi lên tình yêu. Tình yêu là ánh sáng – thực raánh sáng duy nhất – có thể luôn luôn soi sáng một thế giới đang trở nên mờ tối ban cho chúng ta lòng can đảm cần thiết để sống và làm việc” (ibid., số 39.)  Tất cả những điều này làm cho chúng ta hiểu rằng thái độ chủ yếu để phân biệt các Kitô hữu chính là tình yêu dựa trên đức tin và hình
thành bởi đức tin”
(ibid., số 7).

2. Đức ái là đời sống trong đức tin

Toàn thể đời sống Kitô hữu là một sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.  Sự đáp trả đầu tiên chính là đức tin như sự chấp nhận, đầy bất ngờ và biết ơn, sáng kiến ​​không
thể tưởng tuởng được của Thiên Chúa là điều đi trước chúng ta và chất vấn
chúng ta. Và lời “xin vâng” của đức tin đánh dấu bước đầu của một câu chuyện sáng ngời về tình bằng hữu với Chúa, được hoàn thành và mang lại ý nghĩa đầy đủ cho toàn thể cuộc đời chúng ta.  Nhưng Thiên Chúa chưa thỏa mãn với việc chúng ta đón nhận tình yêu nhưng không của Ngài.  Ngài không những chỉ yêu thương chúng ta, nhưng còn muốn kéo chúng ta đến với Ngài, biến đổi chúng ta một cách sâu xa đến nỗi chúng ta có thể nói cùng Thánh Phaolô rằng: không còn là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi(xem Gal 2: 20).

Khi chúng ta nhường chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta trở nên giống
Ngài, chúng ta chia sẻ chính đức ái của Ngài.  Mở lòng ra cho tình yêu của Ngài có nghĩa là để cho Ngài sống trong chúng ta, và dẫn chúng ta đến tình yêu với Ngài, trong Ngài và giống như Ngài; chỉ khi ấy đức tin của chúng ta mới thực sự “hoạt
động qua đức ái” (x. Gl 5, 6);và chỉ khi ấy Ngài mới ở trong chúng ta (x. 1 Ga 4, 12).

Đứctin là biết chân lý và gắn  bó với nó (x. 1 Tim 2, 4), đức ái là “bước đi” trong chân lý (x. Ep 4: 15).  Với đức tin, chúng ta bước vào tình bằng hữu với Chúa; với đức ái,
chúng ta sống và nuôi dưỡng tình bằng hữu này (x. Ga 15:14tt).  Đức tin làm cho chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa và Thầy, đức ái cho chúng ta hạnh phúc trong
việc đưa mệnh lệnh ấy ra thực hành (x. Ga 13:13-17).
Trong đức tin, chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa (x. Ga 1:12tt); đức ái làm cho chúng ta kiên trì cách cụ thể trong việc làm con cái Thiên Chúa qua việc
mang lại hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5:22).  Đức tin cho phép chúng ta nhận ra những hồng ân mà Thiên Chúa nhân lành và đại lượng đã trao phó cho chúng ta;
đức ái làm cho chúng sinh hoa kết quả (x. Mt 25, 14-30).

3. Sự liên hệ bất khả phân ly giữa đức tin và đức ái

Trong ánh sáng của những gì đã được nói ở trên, rõ ràng là chúng ta không bao giờ có thể tách rời hoặc thấy sự đối chọi giữa đức tin và đức ái.  Hai nhân đức đối thần này liên kết chặt chẽ với nhau, và thật sai lầm khi thấy sự đối kháng hoặc “phản bác”
giữa chúng.  Thật vậy, một đàng, người ta quá một chiều khi nhấn mạnh đến quyền ưu tiên và tính quyết định của đức tin và đánh giá thấp cùng hầu như khinh thường những công việc bác ái, hạ chúng xuống thành việc làm nhân đạo cách
chung.  Nhưng, đàng khác, cũng chẳng lành mạnh gì khi nói thái quá về quyền tối cao của đức ái và hoạt động của nó, trong khi nghĩ rằng việc làm có thể thay thế đức tin.  Để có một đời sống tâm linh lành mạnh, chúng ta cần tránh cả chủ thuyết duy tín (fideism) lẫn chủ thuyết hiếu động về luân lý (moral activism).

Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy lòng nhiệt thành của các Tông Đồ trong việc
rao giảng Tin Mừng, và khơi dậy đức tin của dân chúng liên hệ chặt chẽ với quan tâm của các ngài trong việc bác ái phục vụ người nghèo như thế nào (x. Cv 6: 1-4).  Trong
Hội Thánh, việc chiêm niệm và hành động, tượng trưng một cách nào đó bằng hai
chị em Maria và Martha trong Tin Mừng, phải cùng chung sống và bổ túc cho nhau (x. Lc 10: 38-42).  Ưu tiên phải luôn luôn là mối liên hệ với Thiên Chúa và việc
chia sẻ của cải thật sự phải xảy ra trong tinh thần Tin Mừng, phải được ăn rễ trong đức tin (x. Bài Giáo Lý trong buổi triều yết chung ngày 25 tháng 4 năm 2012). Quả thật, đôi khi người ta có khuynh hướng thu nhỏ thuật ngữ “bác ái” vào đoàn kết, hay
đơn thuần là viện trợ nhân đạo.  Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng công việc bác ái lớn nhất chính là truyền giáo, nghĩa là “thừa tác vụ Lời Chúa.”  Không hành động nào hữu ích hơn, và do đó bác ái hơn, đối với những người lân cận của chúng ta bằng việc bẻ bánh Lời Chúa, chia sẻ với họ Tin Mừng của Phúc Âm, giới thiệu họ vào một mối liên hệ với Thiên Chúa: truyền giáo là cách thăng tiến con người cao nhất và toàn vẹn nhất.  Như Đấng Tôi Tớ của Thiên Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong Thông Điệp Populorum Progressio, yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển là rao giảng Đức Kitô (x. số 16).  Đó là chân lý nguyên thủy của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, được sống và được công bố, mở cuộc đời chúng ta ra
để đón nhận tình yêu này và làm cho việc phát triển trọn vẹn của nhân loại và của tất cả mọi người có thể xảy ra (x. Caritas in Veritate, n 8).

Tóm lại, tất cả phát xuất từ Tình Yêu và hướng về Tình Yêu.  Tình Yêu nhưng không của Thiên Chúa được truyền đạt cho chúng ta qua việc rao giảng Tin Mừng.  Nếu chúng ta chào đón Tình Yêu này bằng đức tin, chúng ta nhận được sự tiếp xúc đầu tiên và cần thiết với Thiên Chúa, làm cho chúng ta có thể “yêu Tình Yêu”, để rồi chúng ta có thể  sống và lớn lên trong Tình Yêu này và vui mừng truyền thông
Tình Yêu này cho những người khác.

Về mối quan hệ giữa đức tin và các việc làm của đức ái, có một đoạn trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô tóm lược sự liên hệ của hai nhân đức này cách hay
nhất: Vì nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin; và đó không phải
bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa; không phải bởi việc làm, để không
ai có thể tự hào. Vì chúng ta là công trình của Ngài, được dựng nên trong Ðức
Chúa Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ
trước, hầu chúng ta sống trong chúng
(2, 8-10).  Ở đây chúng ta nhận thức rằng toàn
thể sáng kiến ​​cứu độ đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài, từ ơn tha tội nhận
được từ Ngài trong đức tin;nhưng sáng kiến ​​này, thay vì hạn chế sự tự do và trách nhiệm của chúng ta, lại thực sự là điều làm cho chúng xác thực và hướng chúng về những việc bác ái.  Những điều ấy không chủ yếu là kết quả của nỗ lực của con
người, khiến chúng ta hãnh diện vì chúng, nhưng phát sinhtừ chính đức tin và chảy ra từ ân sủng mà Thiên Chúa ban cho cách dồi dào.  Đức tin không có việc làm cũng
giống như một cây không có quả: hai nhân đức này bao hàm nhau. Mùa Chay mời gọi chúng ta, qua những thực hành truyền thống của đời sống Kitô hữu, nuôi dưỡng đức tincủa mình bằng cách lắng nghe  Lời Chúa nhiều hơn và kéo dài hơn cùng tham dự
các bí tích, đồng thời lớn lên trong đức ái và trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân, cũng như qua các dấu chỉ cụ thể của việc ăn chay, sám hối và bố thí.

4.Tính ưu tiên của đức tin, tính ưu việt của đức ái

Nhưmọi hồng ân của Thiên Chúa, đức tin và đức ái bắt nguồn từ tác động của một và cùng một Thánh Thần (x. 1 Cor 13), Thánh Thần ở trong chúng ta kêu lên “Abba!
Cha
ơi(Gal 4:6), và làm cho chúng ta nói rằng: “Chúa Giêsu là Chúa (1 Cor 12: 3) và “Maranatha! (1 Cor 16:22, Kh 22:20).

Đức tin, như hồng ân và sự đáp trả, giúp chúng ta biết chân lý của Đức Kitô là
Tình Yêu nhập thể và chịu đóng đinh, là sự vâng phục hoàn toàn và hoàn hảo Thánh
Ý Chúa Cha, và là lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với những người lân cận.  Đức tin của chúng ta khắc sâu vào con tim và tâm trí niềm xác tín chắc chắn rằng chỉ có Tình Yêu này là thực tại duy nhất có thể chiến thắng sự dữ và sự chết.  Đức
tin mời gọi chúng ta nhìn về tương lai bằng đức cậy, trong kỳ vọng chắc chắn rằng chiến thắng của tình yêu Đức Kitô sẽ đạt đến sự viên mãn của nó.  Về phần nó,
đức ái dẫn chúng ta vào tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô, và gắn liền
chúng ta một cách cá nhân và sống còn với việc tự hiến hoàn toàn và vô điều kiện
của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho anh chị em chúng ta.  Bằng cách đổ đầy đức ái vào chúng ta, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta thành những người chia sẻ món quà riêng của chính Chúa Giêsu: hiếu thảo với Thiên Chúa và huynh đệ với mọi người (x. Rm 5: 5).

Mối liên hệ giữa hai nhân đức này tương tự như giữa hai bí tích cơ bản của Hội
Thánh: Bí Tích Rửa Tội và Thánh Thể. Bí Tích Rửa Tội (Sacramentum fidei) đi trước Bí Tích Thánh Thể (Sacramentum Caritatis), nhưng nó là hướng về Bí Tích Thánh Thể, là sự viên mãn của cuộc hành trình của Kitô hữu.  Tương tự như thế, đức tin trước đức ái, nhưng đức tin chỉ được chứng minh là thật khi được đội triều thiên bởi đức ái. Tất cả bắt đầu từ việc khiêm tốn đón nhận đức tin (“biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương”), nhưng phải đi đến chân lý của đức ái (“biết cách yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người lân cận”), là điều sẽ còn tồn tại mãi mãi, như là việc làm
tròn tất cả các nhân đức (x. 1 Cor 13:13).

Anh chị em thân mến, trong Mùa Chay này, chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh, trong đó tình yêu của Thiên Chúa đã cứu chuộc thế gian và chiếu ánh sáng của mình trên lịch sử, tôi cầu chúc tất cả anh chị em sống thời gian quý báu này bằng cách làm tái sinh đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Giêsu Kitô, để
cùng Người bước vào cuộc hành trình tình yêu đối với Chúa Cha và tất cả anh
chị em mà chúng ta gặp trong cuộc đời mình.  Để đạt được mục đích này, tôi dâng lời cầu nguyện của mình lên Thiên Chúa, và nguyện xin phúc lành của Chúa đổ xuống trên mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng!

Làmtại Vatican, ngày 15 tháng mười năm 2012

BENEDICTUS PP. XVI

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ từ tiếng Pháp

http://giaoly.org/vn

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Cách mạng Thánh giá (29)

Đăng bởi lúc 2:10 Sáng 4/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2013) – Sàigòn

Cách mạng Thánh giá

Mùa Thương sắp trở về với chúng ta.

Nói đến Mùa Thương, tức là nói đến một cuộc cách mạng có một không hai trong lịch sử loài người, một cuộc cách mạng đã đổi hướng xoay chiều lối đi của Lịch sử: cách mạng Thánh Giá.

Cách đây gần hai ngàn năm, trật tự của thế giới La Hy là trật tự của người giàu: giàu tiền của, giàu thế lực, giàu chức tước. Người ta xây dựng trật tự trên xương máu của đám nô lệ, duy trì trật tự bằng võ lực, bằng mưu mô, bằng gian trá. Người ta không biết công lý và nhân đạo là gì. Người ta chỉ biết có luật: mạnh được yếu thua.

Chúa Kitô đã đến đã phá hủy trật tự ấy và đã thiết lập một trật tự mới, trật tự của tám mối Phúc thật:

“Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho kẻ hiền lành, vì họ sẽ làm Đất Hứa làm cơ nghiệp.

Phúc cho kẻ ưu sầu, vì họ sẽ được an ủi.

Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được thương xót.

Phúc cho những kẻ có lòng trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.

Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các người và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta” (Mt,5,1-12)

Qua bản Hiến chương Nước Trời đã được Chúa Kitô long trọng tuyên bố, chúng ta nhận thấy:

Đức Kitô không thiết lập trật tự mới dựa trên đấu tranh giai cấp, trên cách mạng tư bản hay cách mạng vô sản, nhưng trên tinh thần khó nghèo của mọi người, mọi tầng lớp xã hội: “Phúc cho kẻ có trí ý nghèo khó”.

Đức Kitô không làm cách mạng với bạo lực, dao búa, với những vụ xuống đường, nhưng với lòng nhân từ: “Phúc cho kẻ hiền lành”.

Đức Kitô lên án tất cả những hình thức bất công và chúc phúc cho những người công chính: “Phúc cho những kẻ đói khát công chính”.

Đức Kitô không lấy sự thù hằn làm động lực gây cuồng tín, nhưng là lòng thương xót: “Phúc cho những kẻ biết thương xót”.

Đức Kitô lên án chia rẽ, lên án  chiến tranh, và chỉ chúc phúc cho những ai hoạt động cho hòa bình: “Phúc cho những kẻ gây hòa thuận”.

Đức Kitô chúc phúc cho những ai làm cách mạng Thánh Giá như Người: “Các ngươi có phúc khi người ta chửi rủa các ngươi và bắt bớ các ngươi, đặt điều xấu đủ chuyện về các ngươi vì cớ Ta”.

Nói tóm lại Đức Kitô đã loại bỏ tất cả những phương tiện cổ điển của mọi cuộc cách mạng trên trần gian, như tiền bạc, bạo động, bất công, hận thù, chia rẽ, mưu mô, áp lực, cấu kết. Người chỉ  dùng những phương tiện nghèo, phương tiện vô hiệu lực theo con mắt người đời. Cách mạng của Đức Kitô là cách mạng Thánh Giá: Thánh Giá từ ngày sinh trong hang bò lừa cho đến cái chết nhục nhã trên thập giá. Cách mạng của Người là cách mạng của Chân Lý và Tình Thương. Và trật tự mới của Người cũng là trật tự Chân Lý và Tình Thương.

Tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô giữa trần gian qua các thế hệ, Giáo hội không thể đi vào con đường của tiền bạc, thế lực, của quyền bính, của mưu mô. Con đường của Giáo hội là con đường nghèo khó, con đường hòa bình, con đường chân lý, con đường tình thương, con đường tám mối phúc thật, đó là con đường duy nhất của Giáo hội để hoàn thành cuộc cách mạng vĩ đại của Chúa Kitô: Cách mạng Thánh Giá.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 190-3/1965

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ

THANH ANH NHÀN

Trên đời này có những cái chết quá thương tâm mà người ngoài thì xót xa, người trong cuộc thì ân hận khôn cùng. Bản thân tôi đã được một lần chứng kiến một trong số những cái chết như thế…

Khi tôi đến thăm em thì cũng có vài người bạn của em cùng đến, có cả bố mẹ chồng và bố đẻ em ngồi đó. Đằng sau nhà, bà ngoại đang đút cơm cho thằng cháu chưa đầy 5 tuổi, đứa bé đẹp trai bụ bẫm dễ thương như một thiên thần.

Nhìn em nằm đó, tôi nhủ thầm: “Em đẹp quá !” Hình như càng lúc em càng đẹp, dù em đang phải đối diện với những cơn đau đớn tột cùng của căn bệnh thế kỷ, em nằm một chỗ chỉ còn da bọc xương, người xanh bóng, mệt mỏi, kiệt quệ, nhưng vẫn còn đó dáng dấp của một hoa khôi ngày nào. Nét mặt dịu hiền mỉm cười đưa mắt chào mọi người, vẻ nhẫn nại chịu đựng chấp nhận số phận.

Những người đến thăm an ủi chia sẻ với em về sự đau buồn mất mát vì chồng em vừa được Chúa gọi về cách đây hơn một tuần, nay đến lượt em, sức sống cũng tính bằng giờ chứ không bằng ngày bằng tháng nữa. Ai cũng cố nói chuyện bình thường tránh gợi lại vết thương lòng mà em đang phải đối diện chịu đựng. Trước một sự việc mà từ gia đình, bạn bè, họ  hàng, làng xóm, ai cũng rõ như ban ngày, tôi và mọi người ai nấy đều gượng cườiđể giữ cho nước mắt chỉ trực chờ trào ra trên khóe…

Tôi nhớ ngày xưa vợ chồng em cùng học một trường, quen nhau từ những ngày còn ở cấp một, cứ như hình với bóng, tốt nghiệp cấp 3 cả hai lại cùng học một ngành Công Nghệ Thông Tin. Thế rồi ra  trường, được sự đồng ý của hai bên gia đình, môn đăng hộ đối, tuy khá giả nhưnglại hiếm hoi, cả hai người đều là con một. Quí tử sánh duyên cùng ái nữ, trai tài gặp gái sắc bởi em từng là hoa khôi của Giáo Xứ đã dự thi hoa hậu của báo Tiền Phong tổ chức năm nào, chồng em thuộc loại con nhà giàu điển trai học
giỏi.

Vậy đó, cả đôi nên gia thất trong cuộc sống sung túc phú quý mà biết bao người mơ ước. Cha mẹ hai bên vun đắp, ra trường vợ chồng em được làm việc trong một môi trường hết sức thuận lợi. Hơn nữa, các em còn được ở riêng trong một cơ ngơi đồ sộ. Nhìn thấy rõ ràng em được tất cả, em có tất cả, thượng đế ưu đãi vợ chồng em thật
nhiều, một cuộc sống hoàn hảo và vượt bậc về mọi mặt…

Em sanh con đầu lòng là một bé trai kháu khỉnh, vậy là thỏa nỗi mong đợi có con nối dõi của gia đình nội ngoại. Cha mẹ hai bên, họ hàng, bạn bè chúc mừng càng khiến em thêm phần hạnh phúc.

Không ngờ, quả thật không ngờ, tất cả niềm hạnh phúc ấy đã vượt khỏi tầm tay của vợ chồng em một cách thật lãng nhách.

Trong thời gian em sanh con ở cữ, chồng em liên tiếp có những thành công trong công việc, anh bị các bạn rủ rê tiệc tùng cùng đối tác. Vì nể bạn bè, lại không có vợ nhắc nhở, anh đi “tăng một” rồi lại “tăng hai”, đến “tăng ba” thì cả đêm cũng không về nhà. Việc gì xảy ra ai cũng đoán được, anh qua đường với gái làng chơi. Chỉ một lần duy nhất, nhưng khốn nạn thay, cô gái ấy nhiễm HIV. Anh vô tình đem mầm bệnh trong mình mà không hề hay biết.

Một thời gian sau, khi thấy có những triệu chứng bất thường, anh đi xét nghiệm, phát hiện ra mình đã nhiễm căn bệnh chết người. Đau đớn nhất là người vợ hiền vô tội của anh cũng bị vạ lây, anh làm hại đời người anh yêu quý. Con virus quái ác đã làm sụp đổ biết bao gia đình, trong đó có gia đình em. Hạnh phúc vuột khỏi tầm tay thật nhanh chóng, tưởng chừng như một cơn ác mộng.

Những ngày mới phát hiện bệnh, tội nghiệp em vật vã khóc lóc đòi tự tử làm chồng em càng ân hận vì đã yếu lòng sa ngã. Mọi người xúm lại, hai bên cha mẹ và bạn bè đều an ủi, khích lệ: con của hai đứa còn quá bé, nó rất cần tình yêu và hơi ấm của cha mẹ, các con phải cố gắng sống để lo cho nó bằng tất cả những gì có thể bù đắp được, để chuẩn bị thật tốt cho tương lai của nó, để mai này nó có thể bước đi vững vàng khi trên đường đời vắng bóng cha mẹ…

Vợ chồng em hiểu ra rằng số phận đã an bài, mấy năm trời sau đó, các em đã chiến đấu bằng sự can đảm phi thường đến tuyệt vời. Cả hai đã sẵn sàng ra đi trong tình yêu của Chúa và mọi người thân thương.

Bà mẹ chồng bảo với chúng tôi: “Xin các chị an ủi em nó để nó vui chịu những sự khó Chúa gửi. Tôi biết nó vẫn không an tâm về thằng bé…” Tôi nghĩ không phải chỉ an ủi riêng em, mà còn cần phải nâng đỡ cả bốn bậc sinh thành, vì không gì có thể bù đắp được nỗi đau tột cùng này khi họ nhìn đứa cháu mồ côi kia.

Thấy có người đến thăm, chúng tôi xin phép ra về, mọi người nắm chặt bàn tay bé nhỏ gầy guộc của em, nhìn ánh mắt đầy nghị lực, tôi nghĩ chắc còn lâu lắm…

Vậy mà chỉ mới hai ngày sau đó em đã ra đi trong sự yêu thương của mọi người. Xin Chúa cho linh hồn Maria và Gioan Baotixita được sớm về hưởng nhan Thánh Chúa.

Vợ chồng em đã ra đi, để lại một bài học đắt giá cho mọi người về một cuộc sống đầy những cám dỗ và cay nghiệt, cùng với nỗi ân hận day dứt phải trả vì điều mình đã làm.

Xin Chúa gìn giữ và che chở mỗi người chúng con, để giữa những cạm bẫy và thử thách gặp trong đời thường, chúng con có đủ nghị lực, có cái nhìn sáng suốt để biết tránh xa những nỗi nguy hiểm làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình và đưa chúng con tới chỗ diệt vong, gây đau khổ tan nát tấm lòng nơi những người thân yêu của chúng con. Amen…

THANH ANH NHÀN

trích EPHATA 547

 

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

CUỘC ĐỜI GIOAN BOSCO, VỊ THÁNH ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT CHO CÁC EM THIẾU-NHI

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (Toronto, Canda)

chuyển-ngữ từ bài viết của Benoît Fidelin trong tạp-chí Pèlerin Magazine.

No. 5495, 25 Mars 1988.

Cậu bé vùng Piémont đã trở nên linh-mục của các trẻ em bị bỏ rơi. Ngài tạ thế cách đây hơn 100 năm (nguyên-bản là 100 năm, viết năm 1988, kỷ-niệm giỗ 100 năm vị thánh qua đời). Đời Ngài là cả một tình thương trải rộng bao-la do Tin Mừng Đức
Kitô thúc đẩy, và noi gương Ngài, hàng ngàn người đã và đang dấn thân phục-vụ
giới trẻ, tại Pháp cũng như trên toàn thế-giới.

Đó là GIOAN, con của gia-đình Bosco, cậu bé có nụ cười trong sáng, vầng trán bướng-bỉnh, đôi mắt đen nhánh, tóc rối bù như lông chiên. Thuở mới lớn lên, ngày ngày Gioan Bosco dắt đàn bò đi vào các vùng núi đồi miền Piémont, nước Ý. Cậu tập cuốc đất, phát cỏ, sử-dụng liềm, mác, và tập vắt sữa bò. Từ thuở đó cậu đã hiểu thế nào là đói khát và đã từng chứng-kiến cảnh chết-chóc ly-biệt.

Nạn đói hoành-hành năm 1817, lúc Gioan vừa mới lên hai tuổi, khi sương giá mùa xuân và những cơn hạn-hán khủng-khiếp tàn phá tất cả mùa màng. Nông-dân phải giết gia-súc để ăn thịt. Người ta gặp thấy trong các mương rãnh, xác những kẽ hành-khất chết đói, miệng còn ngậm
cỏ…

Và cả cái chết nữa, như cha cậu đã ngã qụy xuống vì chứng sưng phổi vào một buổi chiều tháng năm rất đẹp trời nhưng cũng thật buồn thảm.

Mẹ cậu, bà Ma-ga-ri-ta, mới 29 tuổi đã góa chồng. Nhưng bà sống thắt lưng buộc bụng, vỡ đất làm rẫy, nuôi dạy con cái cách dịu-dàng mà nghiêm nhặt. Bà ở trong ngôi nhà gạch tồi-tàn vừa là chỗ ở, vừa làm kho lẫm, vừa làm chuồng bò. Hai bao bắp để trong bếp và hai con bò cái nằm sau liếp vách ngăn. Phòng ngủ ngay dưới mái nhà và nệm lót bằng lá bắp. Nhưng chính ở đó, ngay trong cảnh nghèo nàn trơ-trụi ấy, cuộc đời bé Gioan Bosco đã bừng sáng lên.

Chỉ một giấc mơ bình-thường đã khiến cậu tin rằng trọn cuộc đời mình được Chúa Giêsu Kitô mời gọi để chăm lo cho các trẻ em bị ruồng bỏ. Năm lên 9, bé Gioan mơ thấy mình đứng giữa một đám trẻ bụi đời ngổ-ngáo. Chúng chửi thề, văng tục, và Gioan đã trả đũa lại bằng những cú đấm ngoạn-mục. Nhưng một người với diện-mạo sáng ngời đã gọi tên Gioan và bảo: “Con phải chinh-phục chúng, không phải bằng tay chân như thế, mà là bằng khổ đau và lòng yêu mến”. Gioan hỏi: “Ngài là ai mà đòi con phải làm những việc không thể nào làm nổi như vậy?”; và người lạ mặt đã trả
lời: “Ta là Con của Bà mà mẹ con vẫn dạy con cầu nguyện với Bà mỗi ngày
ba lần”.
Cũng trong giấc mơ đó, Ðức Trinh-Nữ Maria đã hiện ra với cậu.
Bằng những hình-ảnh khác, Người loan báo cho cậu cũng một sứ-mạng ấy: chăm
sóc các trẻ em bị bỏ rơi.

 

Thế là bắt đầu cuộc phiêu-lưu! Từ lúc còn rất nhỏ, Gioan đã nói rằng cậu ao-ước trở thành linh-mục. Trong thời-gian đợi chờ, cậu tụ-tập bạn-bè ở ngoài đồng để diễn-thuyết, làm hề và biểu-diễn cả ảo-thuật nữa. Nhưng lúc nào cũng thế, trước khi tới màn cuối, “ông bầu” lại lôi cỗ tràng hạt trong túi ra, qùy xuống và mời cả đám trẻ cùng cầu-nguyện.

Gioan say mê đọc sách và nuôi chim. Ngồi dưới bóng cây im mát, cậu ngấu-nghiến đọc những cuốn sách mượn được của một vị linh-mục ở một xứ đạo hẻo-lánh. Rồi trèo lên cây, cậu gỡ tổ chim và bắt những con sáo nhỏ, đem về nuôi trong lồng làm bằng cành cây dương-liễu, rồi dạy chúng hót. Chuyện học-hành ư? Chỉ khi nào ngoài đồng ruộng hết bóng người thì cậu mới  tới trường. Cậu không chịu học-hành đến độ đã gây-gổ với người anh cả và đã phải bỏ nhà đến làm việc tại một làng kế bên. Sau bao năm lao-động ròng-rã, cuối cùng mới gặp được dịp may: một vị linh-mục già thấy cậu thông-minh thì yêu mến, nhận nuôi và dạy cho cậu học tiếng La-tinh. Sau khi Cha qua đời, được mẹ giúp đỡ và cũng được nhiều ân-nhân tiếp tay, cậu theo học tại trường trung-học ở tỉnh bên. Hằng ngày đi bộ mười cây số, bất kể mưa gió hay nóng bức bụi-bặm. Tất cả chỉ để làm linh-mục! Gioan sẽ không bao giờ quên điều ấy. Và rồi sau sáu năm học ở chủng-viện, năm 1941, cậu đã trở thành linh-mục DON BOSCO!

Người ta mau chóng trao cho Ngài những công việc của một linh-mục tuyên-úy. Nhưng Ngài chỉ muốn một điều là các trẻ em. Thời-kỳ ấy là thời-kỳ cách-mạng kỹ-nghệ, thành-phố Turin là nơi hấp-dẫn đã lôi kéo hàng ngàn người di-dân đến kiếm sống. Các thanh, thiếu-niên làm việc ngắn hạn ở các xưởng đóng tàu, rổi lang-thang thất-thểu dọc bờ sông Pô, không một đồng xu dính túi. Những em khác vào tù. Don Bosco đi gặp họ tất cả, và Ngài được sự giúp đỡ của Cha Don Cafasso, vị linh-mục của “giới bần cùng”. Ngài dám trèo lên các xe bò chở tử-tội để an-ủi họ suốt lộ-trình cho đến pháp-trường.

Ngài lôi kéo được Don Bosco đi vào trại giam; ở  đó vị linh-mục trẻ tuổi người vùng Piémont buồn rầu đảo mắt nhìn cảnh tù đày, cái nhìn đó cũng ngăn đe mấy cậu bé đang chen-chúc trong các xà-lim hôi-hám, chúng tiều-tụy đi vì nạn chí rận, ăn toàn bánh mì đen và uống nước lã. Thật vô cùng khủng-khiếp! Don Bosco bàng-hoàng kinh-hãi, Ngài gào lên trong cổ họng:  Quá nhiều thanh-niên bị nhốt ở đây, bởi chẳng có ai săn-sóc đến họ. Tôi phải giúp-đỡ, dạy-dỗ họ. Tôi muốn cứu giúp những kẻ bất hạnh này”. Và Ngài sẽ làm như Ngài đã nói thế!

Ít lâu sau, có một lần kia khi Ngài chuẩn-bị  dâng thánh-lễ tại nhà thờ Thánh Phan-xi-cô Át-si-gi-ô, Chúa đã dẫn đến cho Ngàimột cậu bé tên là Ba-tô-lô-mê-ô Ga-ren-li, em mới từ xa đến thành-phố này kiếm sống. Đầu cạo trọc-lóc, áo dính đầy vết vôi. Don Bosco qùy xuống và dạy em cầu nguyện. Sau đó Ga-ren-li trở lại, dẫn theo năm đứa, mười đứa, rồi tới một trăm đứa, bạn bè của nó, đứa nào cũng bị Don Bosco chinh-phục bằng tình yêu thương Ngài dành cho chúng. Ngài giảng dạy về Thiên-Chúa cách cụ-thể, nhờ những sự-kiện hấp-dẫn và những chi-tiết lý-thú làm chúng say mê.

Họ quấn-quýt và không rời bỏ nhau nữa. Trong các nhà nguyện cũ, trên những bãi đất trống vùng ngoại-ô, và trong các vựa lúa, các em kéo đến ngày một đông hơn để nghe Ngài giảng, để được Ngài dạy-dỗ huấn-luyện nên người và nên con cái Chúa.

 

Vì lo-lắng cho tương-lai các em, Don Bosco mở các xưởng dạy nghề. Ngài nghĩ ra việc ký giao-kèo lao-động để kiếm việc cho các em, trước khi lao mình vào việc viết lách và xuất-bản, nhằm mục-đích giáo-dục và phát-triển đức tin Công-Giáo nơi các em. Công-trình lớn mạnh. Nhờ có các ân-nhân tài-trợ nên Ngài đã xây-dựng được nhiều nhà cho các em. Don Bosco đặt trọn niềm tin nơi Chúa Quan-Phòng.

Chẳng bao lâu, một “Tổ Ấm” hình-thành với 15, 20, rồi 600 em nội-trú. Vì không muốn cho tương-lai các em quá tồi-tệ, Cha Don Bosco cho dựng thêm nhà cửa, mở một lớp học tối, rồi mời các linh-mục và những người thiện-nguyện đến dạy cho các em. Họ làm việc trong nhà bếp, trong phòng mặc áo lễ ở gian bên của cung thánh. Trên hết mọi sự, họ rất mực yêu thương nhau, vì sư-phạm của Cha Gioan là Sư-Phạm Của Tình Thương. Lý-thuyết mà làm gì? Ngài không mong xây-dựng một “kiểu” giáo-dục lỗng-lẫy. Ngài nói: “Hệ-thống giáo-dục của tôi ư? Chính tôi, tôi cũng chẳng biết nữa.”…”Tôi chỉ có công này, là tiến về phía trước theo sự dẫn-dắt của Chúa, rồi tùy hoàn-cảnh mà xử-trí”.

Quả thế, Ngài chủ-trương một đường lối sư-phạm “ngay tại chỗ”, đặt tin-tưởng vào bản-chất của con người đã được Thiên-Chúa cứu-độ và tin vào sự hiện-diện hữu-hiệu của nhà giáo-dục. Don Bosco ước-đoán được những nỗi cùng khổ và âu-lo của từng em một. Ngài biết rằng tuổi thanh thiếu-niên là tuổi đầy-dẫy những nghi-ngờ, những phiền-muộn, tuổi của phẫn-nộ và thất vọng. Thế là Ngài đến với chúng, nói một câu khôi-hài, kiên-trì mời gọi chúng đối-thoại, cũng như vui-vẻ, thành-thực, cởi mở thoải-mái, một sự thoải mái tự-nhiên không hề bó-buộc vẫn là đặc-điểm nổi bật nhất trong tình yêu giáo-dục của Ngài. Ngài đã sống câu châm-ngôn sau đây, dựa theo lời thánh
Phao-lô: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” (Un saint triste est un triste saint).

Và Ngài đã nên thánh. Ngài được phong thánh năm 1934, sau khi sống
một cuộc đời luôn luôn bận-bịu lo-lắng cho các em thiếu-nhi và sáng lập ra
tu-hội Sa-lê-giêng để tôn-kính thánh Phan-xi-cô Sa-lê-gi-ô. Cũng như vị thánh
này, Ngài đã tìm được sức sống cho đời mình qua tình yêu thương con người và
qua Tin Mừng của Đức Kitô, ở đó Ngài khám phá ra dung-mạo một Thiên-Chúa có thể chia sẻ mọi yếu-hèn của chúng ta.

Ngay cả đến cuối đời, sau khi được Ðức Thánh Cha tiếp-kiến, trong các cuộc hành-trình khắp năm châu bốn bể để kiếm tiền in những tác-phẩm Ngài viết, Ngài cũng rất gần-gũi các trẻ em vất-vưởng của mình. Lúc nhắm mắt lìa đời, rạng sáng ngày 31 tháng giêng năm 1888, Ngài nói với các tu-sĩ Sa-lê-giêng đang săn-sóc Ngài rằng:

“Hãy làm tốt cho mọi người,

đừng gây điều xấu cho ai cả!

Hãy nói với các bạn trẻ của Cha rằng:

Cha đợi họ trên Thiên-Đàng!

Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (chuyển-ngữ)

nguồn: conggiaovietnam.net

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

6 bức ảnh về tình yêu thương được “like” nhiều nhất tuần qua

 

Những bức ảnh chia sẻ những câu chuyện xúc động trong cuộc sống, hay đơn giản chỉ là một cảm nhận về con người, tình yêu thương… đã khiến hàng ngàn trái tim thổn thức.

“Cảm ơn những người làm cha đã vất vả nuôi chúng con khôn lớn. Cảm ơn Cha
Mẹ vì tất cả mọi thứ”.

“Đây là một đám cưới rất đặc biệt vì cô dâu và chú rễ bị khiếm thị và chỉ
có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nhau bằng con tim. Dành tặng 1 like chúc mừng
anh chị trăm năm hạnh phúc nhé”. Tình yêu của cặp vợ chồng khiếm thị được
cộng đồng mạng cảm phục, và hàng nghìn lời chúc hạnh phúc được gửi tới cặp đôi
này.

“Vượt lên số phận” là lời đề tựa cho bức tranh. Cảm phục trước nghị lực phi thường của người đàn ông tàn tật vượt lên số phận, thành viên mạng facebook đã dành tới hơn 15,000 lượt like cho bức ảnh này.

9,453 lượt like dành cho bức ảnh sau 5 giờ đăng tải. Với lời chú thích “Cuộc sống còn cần hơn nữa tình yêu thương” là thông điệp bức tranh gửi đến mọi người.

Bức hình đi kèm với bài thơ “Lời mẹ yêu” khiến hàng ngàn thành viên mạng xúc động và đồng cảm.

“Cha không hoàn hảo, nhưng cha luôn yêu thương con theo cách hoàn hảo nhất”. Bức tranh nói về tình cảm cha con khiến hơn 5,000 trái tim thổn thức.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi