Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

 

Trọng Nghĩa

RFI

Năm ngày sau khi bản Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam được Quốc hội thông qua, vào hôm nay, 03/12/2013, tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế Human Rights Watch, trụ sở tại New York, đã cho rằng Việt Nam đã thất bại trong việc đáp ứng các nguyện vọng thay đổi và cải cách của người dân. Theo HRW, đây là một cơ hội bị bỏ lỡ về việc cải thiện nhân quyền, và Việt Nam, trong tư cách là một thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã không tuân thủ cam kết của mình.

Trong một bản thông cáo báo chí, Human Rights Watch đã nhắc lại rằng khi quá trình sửa đổi bắt đầu được khởi động vào ngày 02/01/2013, chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã kêu gọi quần chúng góp ý cho việc điều chỉnh Hiến pháp. Hàng trăm hàng ngàn người đã trả lời, thể hiện một sự tham gia chưa từng thấy của người dân vào một tiến trình cải cách pháp lý tại Việt Nam.

Theo HRW, nhiều ý kiến ​​đã phê phán Đảng Cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam, với một số lượng lớn lời kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng và tổ chức những cuộc bầu cử đích thực theo định kỳ. Vào ngày 22/11 vừa qua, Human Rights Watch đã gửi thư đến Quốc hội Việt Nam để hối thúc định chế này chấp nhận các đề nghị sửa đổi để phát huy và bảo vệ các quyền căn bản.

Tuy nhiên, theo nhận định của ông Brad Adams, giám đốc khu vực châu Á của Human Rights Watch : « Cho dù các đề nghị sửa đổi đã được tranh luận sôi nổi, phe cứng rắn đã thắng thế và Hiến pháp mới đã siết chặt quyền của đảng cầm quyền ». Ông Adams đã tỏ ý rất tiếc trước sự kiện : « Thay vì đáp ứng nguyện vọng của số đông và các cam kết quốc tế về nhân quyền, Việt Nam tiếp tục là một Nhà nước độc đảng với một Hiến pháp cho phép chính quyền hạn chế các quyền cơ bản dựa trên các căn cứ mơ hồ, mỗi khi mà điều đó phù hợp với họ ».

Trong thông cáo của mình, Human Rights Watch còn kêu gọi các nhà tài trợ và các đối tác phát triển của gia tăng nỗ lực để yêu cầu chính quyền Việt Nam cải cách hiến pháp và hệ thống pháp lý để bảo vệ các quyền cơ bản của người dân, chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận và lập hội.

Tôi trung không thờ hai chủ.

Tôi trung không thờ hai chủ.

“Tôi trung không thờ hai chủ” lời cuối cùng phát ra từ miệng thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của thày, một người tôi trung, đã suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý Tin Mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc “hãy vào hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời”. (Mt. 25,21).

Phanxicô Nguyễn Cần còn có tên Nguyễn Tiên tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại làng Sơn Miệng, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốn xa con nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: “Nếu mẹ không bằng lòng con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác”. Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý, cho cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.

Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thày giảng, được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám mục, gọi là Đức Thày Liêu). Cha Liêu đã nhận xét về thày Cần: “Thày giúp tôi học tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi khó khăn, hiểm nguy, thiếu thốn. Thày rất nhiệt tâm trong việc tông đồ”.

Ngày 19.4.1836, cha Liêu nhờ thày đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thày đến xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính dấu ảnh tượng vào túi xách của thày để có chứng cớ cụ thể. Thày bị giải về huyện Thanh Oai và bị tống giam vào ngục.

Trước công đường, quan nói thày đừng tin vào các đạo trưởng, và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thày trả lời : “Thưa quan, tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa dối ai bao giờ, còn mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà”. Sau đó quan dùng nhiều lời khiếm nhã phê bình về đạo, thày bình tĩnh giải thích lại rồi trình bày về 10 điều răn Thiên Chúa và sáu điều răn Hội Thánh, thày kết thúc bằng một lời tự nguyện, tự phát rất cảm động. Mọi người ở đó đều cản phục. Quan tuyên bố kết thúc phiên tòa, đưa thày về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên : “Anh này nói cũng có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ còn dễ hiểu hơn bản “thập điều” của nhà vua nữa”.

Một dạ sắt son.

Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách cứu mạng cho thày Cần. Cha cho người đem tiền theo thân mẫu thày lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thày Cần an ủi mẹ: “Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ”.

Có nhiều người tỏ lòng thương hại thày Cần. Quan khuyên thày bước qua Thập Giá, thày cương quyết từ chối. lính khiêng thày đặt lên tượng ảnh Chúa, thày ôm chặt lấy chân và la lên: “Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu”. Một số giáo dân đã bỏ đạo nói: “Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà còn làm thủ lãnh Giáo Hội”. Người khác lừa dối: “Cha Liêu nhắn thày cứ bước qua Thánh Giá, rồi sẽ về liệu sau”. Họ còn đe dọa: “Nếu thày không nghe, quan sẽ làm khổ cả làng đó”. Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ý chi sắt đá của vị chứng nhân đức Kitô.

Thày quả quyết : “Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh tôi làm như vậy. Còn với dân chúng, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà tôi xúc phạm đến Chúa”.

Nhiều người ngoại giáo nói với nhau: “Giá như đạo mình bị cấm, chắc ta đã bước qua ảnh tượng trăm lần… Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ”. Thấy không thể lay chuyển được người tôi chung của Chúa Kitô, quan cho giải thày Cần lên Hà Nội. Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười tháng từ ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực hình đổ trên người thày : cổ mang gông, tay mang xiềng xích, chân bị cùm… nhà tù thì nồng nặc mùi hôi hám, vì tù nhân phóng uế tại chỗ, lính canh đánh đập thày mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong một lá thư gửi cha Liêu, thày viết : “Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi, nhà giam đã chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ mãng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc nào cũng ồn ào làm con khó cầu nguyện quá”.

Tông đồ trong trại giam

Thế nhưng, thày không chán nản, mà coi đó là môi trường Chúa gởi đến. Thày kiên nhẫn giúp được hai tù nhân hối cải, dạy giáo lý và rửa tội được vài người, chúng ta hãy đọc một đọan thư thày viết từ trạigiam ở Hà Nội :

“Con báo để cha an tâm. Ở đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan hay dân và các bạn tù đều kính trọng gọi con bằng thày, có người còn tặng con danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững chí. Con hay bàn luận với họ và biết nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết khuyyên bảo họ sao bây giờ. Có một ông Chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con khi ra tù sẽ theo đạo và sống theo những điều con giảng… Thưa cha, con thấy người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ sở để được giầu sang hoặc danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại, chịu những sự khó qua mau này, để được vinh quang đời đời”.

Viên cai ngục Hà Nội thấy tác phong của thày Cần, dự đoán : “Ông này chỉ bằng nắm tay mà nghị lực phi thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở lên Thành Hoàng của làng chứ chẳng chơi”. Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thày Cần bị bệnh nặng, một linh mục giả làm thày lang vào giải tội, cho thày được rước lễ và xức dầu. Nhưng sau đó thày được bình phục ngay.

Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan Tổng trấn khuyên thày nhắm mắt bước qua Thập Giá. Thày nói: “Mắt thì nhắm được, chứ lòng trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”. Quan lại cho xếp chéo hai khúc gỗ và nói: “Đây không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ bước qua đi sẽ thoát chết”. Nhưng thày không làm vì biết đó là dấu hiệu chối đạo.

Và thiên thu vĩnh phúc.

Một tuần sau, thày Phanxicô Cần bị điệu ra pháp trường cửa ô Cầu Giấy. Năm viên quan cưỡi voi đi trước, 10 cai đội cưỡi ngựa theo sau, rồi đến 300 lính vũ lâm, mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một người cầm tấm thẻ ghi bản án: “Can phạm theo đạo Gia Tô, không chịu bước qua Thập Giá, án xử giải”. Dân chúng hôm đó, đi xem rất đông.

Tại pháp trường, khoanh dây thừng đã quấn quanh cổ, thày Cần vẫn bình tĩnh cám ơn mọi người, nói với họ về cái hết theo đức tin Công Giáo, về hạnh phúc đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa. viên quan cố thuyết phục lần chót: “Anh có thể cứu mạng mình. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn, bản án của anh còn có thể rút lại được, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự. Nhưng thày trả lời : “Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ an mà thi hành”. Quan ra lệnh, tức khắc quân lính kéo mạnh hai đầu dây, người môn đệ Chúa Kitô gục dầu tắt thở, lãnh cành vạn tuế tử đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.

Thi hài vị tử đạo được an táng tại Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn Miêng. Đức Lêo XIII suy tôn thày Nguyễn Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lời tiên đoán vô tình của viên cai ngục đã trở thành hiện thực. Ngày nay, thánh Phanxicô Nguyễn Cần không những là “Thành Hoàng” của làng Sơn Miêng, mà hơn thế, là Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam và được cả Giáo Hội hoàn cầu ngưỡng mộ.

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE
MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

Trích EPHATA 588

Ra khơi để truyền giáo

Năm 1914, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, Jean phải đầu quân tham chiến, đến năm 1918 được thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh và từ chối mọi đề nghị hôn nhân. Năm 1920, Jean từ bỏ mọi vướng mắc thế sự, dâng hiến cuộc đời tại Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris ( Missionnaires Étrangères de Paris – MEP ) để nối gót các Thừa Sai đã ra đi vì Chúa. Năm 1925, ông thụ phong Linh Mục. Năm 1926, khi có tên trên danh sách 8 vị Thừa Sai được cử đi các nước Viễn Đông: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Lào, Linh Mục Cassaigne đã chọn Việt Nam, đất nước thân yêu của Giám Mục Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) để dừng chân.

Theo tài liệu của bác sĩ Gerard Chapuis, một người Pháp gốc Việt ngày 5.5.1926, tàu cập bến Sàigòn, cha Cassaigne được dưa về Cái Mơn học tiếng Việt, chọn tên tiếng Việt là Gioan Sanh. Sau đó, ông được Giám Mục Địa Phận Sàigòn Dumortier cử đến vùng rừng núi Di Linh, noi có nhiều người K’Ho. Lúc này bệnh phong đang hoành hành nơi đây. Một lần, cha Gioan đi tìm thăm bệnh nhân, gặp rất nhiều người bệnh nặng, thân xác héo tàn; từ đó ông quyết tâm dựng một mái nhà để chăm sóc những người bất hạnh này. Ông kêu gọi các bệnh nhân từ trong rừng đến đây cùng chung sống. Với sự hỗ trợ của nhiều người quen, ông mở được một nhà phát thuốc, băng bó, chữa trị cho các bệnh nhân. Lần ấy, ông cũng bị bệnh sốt rét rừng hành hạ, phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng.

Ngày trở lại Di Linh, công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Ông kể lại rằng, ngày đầu mới băng vết thương cho người cùi, vì chưa quen nên ông đã suýt ói mửa. Ông đã chạy vội vào lùm cây bên cạnh, nói là đi đại tiện. Ói xong lau mặt, ông trở ra tiếp tục băng bó. Làm như vậy để cho người cùi bớt tủi hổ vì thấy mình dơ bẩn. Ông rất mực thương yêu bệnh nhân, người giàu có hay nghèo đều đối xử như nhau, không quở mắng hay nặng lời với bất cứ bệnh nhân nào.

Một hôm vào dịp Tết, có hai anh say rượu đánh nhau, ông đến can, nhưng bị một anh xô té. Ông đứng dậy, cười tươi vỗ vai anh ta không chút giận hờn. Sợ rằng các Nữ Tu biết sẽ quở trách anh ta, ông đã giữ kín chuyện này. Sau này, có người kể lại cho một Nữ Tu. Sơ đã hỏi ông và ông trả lời: “Đâu có gì đáng trách với người bệnh hoạn tật nguyền. Con đừng để ý nữa. Cha muốn vậy. Tội cho cả cha lẫn họ.”

Lần khác, một bệnh nhân bị một Nữ Tu quở trách nặng lời vì đã phạm lỗi. Cha Cassaigne nghe thấy, liền lên tiếng trách sơ trước mặt bệnh nhân. Sau đó ông đi tìm xin lỗi sơ và nói: “Hôm qua cha trách con, cốt ý để cho bệnh nhân đừng tủi, mặc dầu con đã làm phải. Cha đến xin con đừng buồn. Chúng ta không thể làm Chúa Giêsu buồn thì cũng đừng làm cho người cùi buồn. Vì họ là con Chúa, là hình ảnh Chúa Cứu Thế đau khổ trên thập giá”. Ba Nữ Tu người Việt tận tụy, trở thành cánh tay đắc lực giúp ông điều hành làng phong là các sơ Céleste Joséphine và Angélique. Cha Cassaigne hay nói với các Nữ Tu: “Cha là người Pháp, nhưng có trái tim Việt Nam”.

Ngày 24.12.1945, cha Cassaigne đột ngột được tin Tòa Thánh Roma bổ nhiệm ông làm Giám Mục Giáo Phận Sàigòn nên đành phải từ biệt những con người bệnh tật và mảnh đất ông yêu thương nhất. Thế rồi, như một định mệnh, ngày 26.3.1943. Ông đọc phiếu kết quả xét nghiệm xác nhận ông bị nhiễm vi trùng Hansen ( bệnh phong ). Ông cười nói: “Đây là quà mừng lễ quan thầy của tôi”. Ông nói với những người đang lo lắng ở xung quanh: “Không phải bị mà là được về Di Linh với đoàn con ! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.

Sau khi gửi thư cho Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Tổng Quyền Hội Thừa Sai Paris xin từ chức trở về Di Linh, đến năm 1954, cha Cassaigne được toại nguyện “hồi hương” về Di Linh. Năm 1970, các bệnh cũ của ông trở nặng, sốt rét, cột sống bị gặm nhấm và đau dạ dày. Cuối tháng 10 năm 1971, xương dùi của ông bị gãy và ông không rời khỏi giường được nữa. Nhiều người muốn đưa ông về Pháp chữa trị, nhưng ông đã từ chối: “Tôi là người Pháp nhưng trái tim tôi là của người Việt Nam. Tôi muốn sống trong đau khổ và chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”. Cha Cassaigne qua đời vào ngày 30 tháng 10 năm 1973. Ông được an táng cạnh Nhà Thờ, gần tháp chuông, giữa đàn con đáng thương của mình, đúng theo nguyện vọng sâu xa của ông.

Trong quyển sách “Lạc Quan Trên Miền Thượng” viết về cha Cassaigne, cha Giuse Phùng Thanh Quang đã kể lại chi tiết cuộc đời và công việc phục vụ của ông. Trong phần kết, cha Giuse đã viết: “Những ai được may mắn sống gần gũi với Đức Cha đều thường được dịp nghe Ngài nói: “Đời tôi chỉ có 3 ước nguyện: Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa và vì người anh em – Tôi ao ước được đau khổ như vậy lâu dài, suốt đời và được vững long chịu đựng – Tôi ao ước được an nghỉ giữa bầy con cái phong cùi của tôi”.

Bác sĩ Gérard Chapuis cho biết thêm: từ năm 1972, ở cuối Nhà Thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Người ta thấy có bức tượng một Giám Mục tay trái cầm Thánh Giá, tay phải ôm ngang vai một người cùi, dưới chân trái có một em bé khỏe mạnh, cả 3 đầu ngước mắt lên trời cao. Dưới bệ tượng có ghi: Đức Cha Gioan Cassaigne. Ngày nay, bức tượng không còn nữa, nhưng trên bức tường ngoài hiên của Nhà Thờ, có gắn nhiều bảng ghi: “Tạ ơn Đức Giám Mục Gioan Sanh”. Điều đó chứng tỏ Gioan Cassaigne Sanh vẫn còn sống mãi trong long người Việt. Nếu một hòn đảo xa xôi ngàn trùng như Molokai đã hãnh diện vì có cha Damien Tông Đồ Người Hủi thì Giáo Dân nước Việt lại càng hãnh diện hơn vì có một Đức Cha Gioan Sanh phong cùi, tôi tớ của người hủi.

Trên thực tế, từ ngày 11.4.1929, làng phong được chính thức công nhận và được trợ cấp. Ngay từ những ngày đầu, số người bị bệnh phong tập trưng đã lên đến 21 người. Đến thàng 4 năm 1931, làng có một nhà nguyện nhỏ làm nơi cầu nguyện và Thánh Lễ đầu tiên được cử hành ngày 15.3.1936. Sang năm sau, làng được dời lên đồi ( chỗ hiện nay ) có kỹ sư người Pháp vẽ kiểu cho cả Nhà Thờ và tháp chuông. Ngày 22.5.1952, nhằm lễ Thăng Thiên, khánh thành làng phong mới.

TRẦN TRUNG SÁNG, báo KIẾN THỨC NGÀY NAY

NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

2 Mcb 7, 1.20-27.29; Rm 8, 31b-39; Lc 19, 23-26

Chẳng ai can đảm để chết cho người mình yêu cả. Nói lý thuyết thì rất hay nhưng trong thực tế lại khác, đó là điều giằng co nhất trong đời của con người, bởi lẽ con người ai cũng mong muốn giữ gìn, bảo tồn cái thân xác của mình. Nói như thế nhưng vẫn có những người can đảm bước ra pháp trường để đón nhận cái chết một cách vui vẻ. Tại sao ? Bởi vì những người đó đã tin vào Đấng đã sinh ra mình, làm chủ cuộc đời mình.

Trang sách Macabê khá quen thuộc mà chúng ta nghe, chúng ta thấy kể câu chuyện về một gia đình của bà mẹ và bảy đứa con khá quen thuộc. Chỉ vì cưỡng lại luật của vua Antiôkhô là phải ăn thịt heo mà trong luật Môsê cấm nên họ đã phải bị xử. Lần lượt từng người con của bà mẹ này đã phải chịu án tử. Con bà chịu án tử quả là điều ta đáng khâm phục nhưng cũng không quên được lòng quả cảm của người mẹ.

Bà là người ta đáng phải khâm phục. Nhìn bảy đứa con chết trong một ngày nhưng bà vẫn tin tưởng, chịu đựng vì bà trông cậy và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Bà còn nhắn nhủ các con như thế này : “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”

Bà còn khuyên các con của mình rất chân thành, tha thiết : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”

Đỉnh điểm niềm tin của gia đình này là bà đã chết theo cùng các con của mình để tuyên xưng niềm tin, niềm hy vọng và niềm trông cậy vào Thiên Chúa.

Niềm tin vào Thiên Chúa khởi đi từ Cựu Ước điển hình như mẹ con nhà Macabê mà hôm nay chúng ta nghe lại, mường tượng lại. Niềm tin vào Thiên Chúa đó không dừng lại ở Cựu Ước hay gia đình nhà Macabê mà qua Tân Ước và trải dài cho đến ngày hôm nay.

Các môn đệ là những người đầu tiên nghe và tin theo Chúa. Các ngài đã đổ máu đào mình ra để minh chứng niềm tin của mình vào Thầy Chí Thánh Giêsu. Đặc biệt, chúng ta còn nhớ hình ảnh của Stêphanô – vị tử đạo tiên khởi – đã đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin. Dòng máu tử đạo đổ ra và đã lan tràn không chỉ gói gọi ở Giê rusalem mà đến tận cùng trái đất.

Hạt giống đức tin cũng đã được gieo trên quê hương đất nước hình chữ S thân thương này. Dĩ nhiên cũng đi theo con đường của Tin Mừng là khi Tin Mừng được loan báo thì có người này người kia không đón nhận. Không chỉ không đón nhận mà còn chống đối, mà còn cấm cách, mà còn ngăn cản những ai đi gieo hạt giống ấy.

Khi hạt giống Đức Tin đã chọn cánh đồng Truyền Giáo Việt Nam “làm quê hương thứ hai rồi”, thì dĩ nhiên không còn gì có thể cản ngăn đồng lúa Việt Nam trổ bông thơm ngát. Tuy nhiên lịch sử Giáo Hội bao giờ cũng được viết bằng những dòng mực đẫm máu của các Anh Hùng Tử Ðạo. Các ngài đã sống cao thượng và biết hy sinh tính mạng vì Ðức Tin, thật xứng đáng để Thánh Vịnh (125,6-7) ngợi ca:

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng.

Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo

Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.

Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1644. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa.

Những hình phạt mà các Thánh Tử Đạo phải chịu là :

– Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

– Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

– Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

– Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

– Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

– Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

Giai đoạn lịch sử thời 117 thánh Tử Đạo Việt Nam kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi 1745 (thánh Phanxicô Federich Tế và Matthêu Liciniana Đậu) đến vị cuối cùng 1862 (thánh Phêrô Đa), qua các triều đại vua Lê – chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).

Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt nam thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua tử đạo như các bậc tiền nhân thì chúng ta có thể chấp nhận tử đạo trong đời sống thường nhật của chúng ta bằng cách sống lời mời gọi của Chúa qua trang Tin mừng hôm nay : “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

Máu Tử Đạo của các thánh tại Việt Nam mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại niềm tin của mình. Lời đáp trả niềm tin này không phải chỉ một lần là xong nhưng là lời mời và lời đáp trong từng giây từng phút của cuộc đời. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, ta có can đảm dám bênh vực, hay ta sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa để đến phụng thờ Chúa qua các bí tích ta chọn điều gì?

Ước gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thần Chúa, chúng ta đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

LHQ: Nhiều nạn nhân bão lụt Philippines vẫn chưa có lương thực

LHQ: Nhiều nạn nhân bão lụt Philippines vẫn chưa có lương thực

Cư dân tranh nhau phẩm vật cứu trợ từ trực thăng Seahawk của hải quân Mỹ tại San Jose, Philippines, ngày 18/11/2013.

Cư dân tranh nhau phẩm vật cứu trợ từ trực thăng Seahawk của hải quân Mỹ tại San Jose, Philippines, ngày 18/11/2013.

Simone Orendain

19.11.2013

MANILA — Tại Philippines, Chương trình Thực phẩm Thế giới cho biết một phần tư số người cần gấp lương thực tại miền trung bị bão tàn phá vẫn chưa nhận được hàng cứu trợ, 11 ngày sau khi bão Haiyan ập vào, chính phủ cho biết khoảng 5.000 người hoặc thiệt mạng hoặc mất tích. Từ Manila, thông tín viên Simone Orendain của đài VOA gởi về bài tường thuật sau đây.

Các giới chức Philippines và những tổ chức cứu trợ quốc tế đã chật vật đối phó với thách thức trong việc đưa lương thực tới những vùng hẻo lánh và bị cô lập.

Hôm nay, Giám đốc Chương trình Thực phẩm Thế giới Ertharin Cousin cho biết cho đến nay các cơ quan cứu trợ đã phân phát các gói vật dụng khẩn cấp cho 1 triệu 900 ngàn người không có thức ăn kể từ khi Siêu bão Haiyan ập vào hôm 8 tháng 11. Nhưng hiện vẫn còn khoảng 600.000 người không có gì để ăn trong 11 ngày qua.

Bà Cousin cho báo chí ở Manila biết rằng vì Philippines là một quần đảo nên hàng cứu trợ khó tới được tận tay tất cả mọi người. Bà nói rằng nhân viên cứu trợ đang dùng máy bay trực thăng, phi cơ, tàu thuyền và xe tải để đưa hàng cứu trợ tới nơi lâm nạn.

“Đây là một nỗ lực cứu trợ mà vì có quá nhiều các cộng đồng hẻo lánh cho nên việc đưa phẩm vật cứu trợ tới mọi cộng đồng là một thách thức vô cùng to lớn.”

Bên cạnh yếu tố địa dư, vấn đề đường sá và phi trường bị hư hại cũng gây trở ngại rất nhiều cho các nỗ lực cứu trợ. Các tổ chức của chính phủ và các cơ quan từ thiện đã phải đối mặt với tình trạng mất điện, mất thông tin liên lạc và đường sá bị hư hỏng trong nhiều ngày.

Những vấn đề này đã được giải quyết một phần tại đa số các tỉnh bị ảnh hưởng, nhưng một số tỉnh khác vẫn còn bị mất điện và sóng điện thoại di động vẫn còn yếu ớt.

Các binh sĩ Mỹ và Philippines đã mang lương thực tới nơi bằng cách đáp máy bay trực thăng xuống những khu vực bị cô lập và tự tay phân phát lương thực cho người dân.

Bà Cousin cho biết một số người đề nghị gia tăng việc thả dù lương thực xuống vùng lâm nạn. Nhưng bà nói rằng phương pháp đó không mấy hiệu quả.

“Chúng tôi biết rằng việc thả lương thực xuống từ máy bay là một việc gây ấn tượng trước ống kính thu hình, nhưng những người thật sự cần lương thực nhất sẽ không nhận được. Đó là các em bé, đó là những phụ nữ, đó là những người già, đó là những người tàn tật.”

Bà Cousin cũng nhấn mạnh rằng Chương trình Lương thực Thế giới không thể tự mình hoàn tất các công việc này. Bà cho biết cơ quan của bà đang làm việc với chính phủ và các tổ chức từ thiện quốc tế; và khi có thêm những tổ chức này tới được các khu vực bị ảnh hưởng nặng, sự giúp đỡ sẽ tới được với nhiều người hơn.

Hạt muối và triết lý cuộc sống

Hạt muối và triết lý cuộc sống

Ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, và những khó khăn đó giống như thìa muối này, nhưng mỗi người lại hoà tan nó theo một cách khác nhau.

Một chàng trai trẻ đến xin học một ông giáo già. Anh ta lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế việc học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn.

Một lần khi chàng ta than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, người thầy im lặng lắng nghe rồi đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ.

– Con cho thìa muối này vào cốc nước và uống thử đi.

Lập tức chàng trai làm theo rồi uống thử.

– Cốc nước mặn chát thầy ạ – chàng trai trả lời.
Người thầy lại dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước. Bây giờ con hãy nếm thử nước trong hồ đi.

– Nước trong hồ vẫn vậy thôi, thưa thầy.

Nó chẳng hề mặn lên chút nào. Chàng trai nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử. Người thầy chậm rãi nói:

“Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, và những khó khăn đó giống như thìa muối này, nhưng mỗi người lại hoà tan nó theo một cách khác nhau.
Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc nước, họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học được điều gì có ích cả”.

S.T.

Khoan Dung

Khoan Dung


Truyện xưa kể lại rằng, một buổi tối một vị thiền sư già đi dạo trong thiền viện, chợt trông thấy một chiếc ghế dựng sát chân tường nơi góc khuất. Đoán ngay ra đã có chú tiểu nghịch ngợm nào đó làm trái quy định vượt tường trốn ra ngoài chơi, nhưng vị thiền sư không nói với ai, mà lặng lẽ đi đến, bỏ chiếc ghế ra rồi quỳ xuống đúng chỗ đó.

Một lúc sau, quả đúng có một chú tiểu trèo tường vào. Khi đặt chân xuống, chú tiểu mới kinh ngạc khi phát hiện ra dưới đó không phải là chiếc ghế mà là vai thầy mình, vì quá hoảng sợ nên không nói được gì, đứng im chờ nhận được những lời trách cứ và cả hình phạt nặng nề. Không ngờ vị thiền sư lại chỉ ôn tồn nói :“Đêm khuya sương lạnh, con mau vào thay áo đi”. Sự khoan dung của vị thiền sư già đã khiến chú tiểu suốt đời không quên được bài học đó.

Người xưa dạy: Rộng lớn nhất thế giới là đại dương, rộng lớn hơn cả đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người.

Sự khoan dung, nếu được dùng đúng chỗ và đúng lúc thì còn có tác dụng mạnh mẽ hơn sự trừng phạt, bởi nó tác động rất mạnh đến nhận thức mỗi con người. .

Thậm chí, khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình, giải thoát mình khỏi những sự giận dữ, căm tức, hận thù, tranh chấp… nhờ đó mà cân bằng được cuộc sống của mình.

From: thunhannct & Thụ Mai

 

Cậu bé mồ côi ăn ốc bươu vàng thay cơm

Cậu bé mồ côi ăn ốc bươu vàng thay cơm

(Dân trí)- Loại ốc bươu vàng người ta thường bắt để vứt đi hoặc mang về cho gà, vịt ăn. Nhưng với ông bà Lim và đứa cháu nhỏ mồ côi, lâu nay đó lại là nguồn thức ăn chính trong các bữa cơm gia đình.

Về thôn Tăng Cấu, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì, Hà Nội hỏi ông Lim “ốc” ai cũng biết. Sở dĩ ông có biệt danh ấy là bởi ngày nào cũng vậy, không kể trời nắng hay trời mưa, người ta đều thấy ông lăn lộn khắp các ao hồ hay đồng ruộng để bắt ốc bươu vàng về ăn. Những hôm bắt được nhiều, ông còn kiếm được chút ít tiền nhờ việc mang bán lại cho những nhà chăn nuôi gia cầm ở quanh đó.

Ông Lim và đứa cháu nhỏ ngày ngày lặn lội ở các cánh đồng bắt ốc bươu vàng.

Ông Lim và đứa cháu nhỏ ngày ngày lặn lội ở các cánh đồng bắt ốc bươu vàng.

Cuộc sống của vợ chồng ông bà Lim vào hệ “khổ nhất vùng” bởi cả hai người con trai đều qua đời, một vì bệnh não, một vì tai nạn lao động. Nhớ lại quãng thời gian đó, ông Lim vẫn không khỏi rùng mình, sợ hãi: “Năm 2008, con trai út của tôi là Phùng Văn Vinh qua đời vì bệnh não. Đến tháng 06/2009, con trai thứ của tôi là Phùng Văn Hưng cũng qua đời vì tai nạn lao động khi đang đi làm thuê ở Hà Nội. Vợ nó ở nhà quanh năm chỉ bám vào đồng ruộng nên chẳng có đồng nào lo ma chay cho chồng nên tôi đã đứng lên vay lãi của người ta mấy chục triệu đến nay chưa trả được”.

Bố mất vì tai nạn, mẹ bỏ đi để lại cậu bé Việt ở với ông bà nội trong cảnh nghèo túng.

Bố mất vì tai nạn, mẹ bỏ đi để lại cậu bé Việt ở với ông bà nội trong cảnh nghèo túng.

Con mất, cả hai ông bà vẫn chưa hết bàng hoàng thì cô con dâu lại bỏ đi không lâu sau đó để lại đứa cháu nhỏ lúc đó đang học lớp mẫu giáo lớn. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra, cậu bé Việt suốt ngày hỏi ông sao mẹ đi đâu không thấy về khiến “hai cái thân già” chỉ biết im lặng mà gạt nước mắt.

Ông Lim còn cho biết thêm những hôm trời mưa to, cháu hay giật mình không ngủ được, lại ôm ông mà gặng hỏi: “Bao giờ mẹ sẽ về” khiến ông nghẹn cứng lưỡi không trả lời được. Bố thằng bé không còn, nay mẹ lại bỏ đi nốt, thành ra suốt ngày chỉ có một mình cháu lầm lũi nhìn đến tội.

Ngoài giờ đi học, Việt thường ra đồng bắt ốc cùng với ông.

Ngoài giờ đi học, Việt thường ra đồng bắt ốc cùng với ông.

Em thường lấy mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc để lấy ruột chế món ăn với cơm.

Em thường lấy mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc để lấy ruột chế món ăn với cơm.

Cuộc sống vất vả, khó khăn là thế, bà nội của Việt là Chu Thị Hoạch (65 tuổi) lại đổ bệnh nên nằm liệt giường bao nhiêu năm nay, không đi lại được. Ở lưng của bà còn nổi lên một khối u lớn khiến những cơn đau nhứt cứ liên miên không ngớt .

Vợ bệnh, cháu thơ, bản thân ông Lim không còn cách nào khác để duy trì cuộc sống nên hàng ngày phải lăn lộn ở khắp các cánh đồng để mò ốc thay thức ăn. Thứ ốc mềm mềm, nhơn nhớt ban đầu thằng bé Việt cũng “kinh lắm” nhưng lâu dần thành quen nên ăn với cơm một cách ngon lành. Vừa dùng một mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc, em vừa toe toét cười khoe: “Ốc của ông đi bắt được ăn cũng ngon lắm cô ạ. Cháu có thể ăn cả ngày được mà không chán ạ”.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Thương bà nội nhưng Việt còn quá nhỏ không thể làm được gì ngoài việc ngồi quạt cho bà khi trời nóng.

Nghe thằng bé nói, ông Lim dường như “xấu hổ” nên quay mặt vào phía trong. Đôi mắt già nua, nhăn nheo bắt đầu hoe đỏ và cái ánh nhìn tồi tội của một người ông không thể lo được đủ đầy cái ăn cho cháu. Bản thân ông cũng muốn lắm có được miếng thịt, miếng cá cho Việt nhưng không có tiền mua nên ông đành chịu, phải bắt ốc ăn qua ngày. Ngay cả bà Hoạch, ốm đau liên miên nhưng cũng không có gì ngoài bữa cơm độn ốc bao năm nay.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Thương Việt, bản thân ông Lim chỉ biết cố gắng chăm chỉ đi bắt ốc kiếm cái ăn và chút tiền bán được để mua sách vở cho cháu.

Hiện tại cậu bé Việt đã làm học sinh lớp 4 trường Tiểu học Đồng Thái với sức học khá và đặc biệt em rất ngoan. Ngoài những buổi đến trường, em vẫn thường theo ông đi bắt ốc ở các cánh đồng nên gần như lúc nào người ta cũng nhìn thấy cậu bé với bộ dạng lấm lem, áo quần sộc xệch và rách bẩn. Ấy thế nhưng khi được hỏi, Việt vui lắm, em khoe: “Cháu đi cầm xô cho ông, có lúc cũng bắt được cả ốc nữa để ông được về nhà sớm chứ nhiều hôm tối mò rồi ông vẫn còn chưa về nhà”.

Nỗi lo đứa cháu thơ thất học luôn thường trực trong suy nghĩ của ông Lim khiến ông sợ hãi.

Nỗi lo đứa cháu thơ thất học luôn thường trực trong suy nghĩ của ông Lim khiến ông sợ hãi.

Lời nói thật thà của đứa cháu nhỏ khiến ông Lim không cầm lòng được, lấy tay quệt ngang dòng nước mắt. Nhìn cháu, ông lại ngước lên bàn thờ nhìn di ảnh đứa con xấu số mà bật khóc: “Tôi già rồi, cũng không mong ước điều gì cả, chỉ mong sao lo được cho Việt ăn học thành người để cháu đỡ thiệt thòi. Thằng bé mất bố rồi, mẹ cũng bỏ nó đi mất, rồi sẽ đến lúc tôi và bà nó về với đất, không biết lúc đó cháu sẽ ra sao nữa?

Hạ viện Mỹ thông qua dự luật để sửa đổi đạo luật y tế

Hạ viện Mỹ thông qua dự luật để sửa đổi đạo luật y tế

Dân biểu Raul Labrador (thứ 2 từ trái) và các thành viên của Hạ viện rời Điện Capitol sau khi bỏ phiếu về dự luật mới, 15/11/2013

Dân biểu Raul Labrador (thứ 2 từ trái) và các thành viên của Hạ viện rời Điện Capitol sau khi bỏ phiếu về dự luật mới, 15/11/2013

16.11.2013

Hạ viện Mỹ đã thông qua một dự luật để làm yếu đi một bộ phận then chốt của đạo luật mới về chăm sóc sức khỏe, với sự hậu thuẫn của phe đa số thuộc đảng Cộng hòa cùng với một số thành viên trong đảng Dân chủ của Tổng thống Barack Obama.

Hôm qua, 39 dân biểu thuộc đảng Dân chủ đã ngã về phía Cộng hòa để bỏ phiếu tán thành dự luật nhằm cho phép các công ty bảo hiểm sức khỏe bán những chương trình bảo hiểm không thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của luật Obamacare.

Hiện chưa rõ Thượng viện sẽ quyết định như thế nào về dự luật này và Tòa Bạch Ốc cho biết ông Obama sẽ phủ quyết nếu dự luật được Quốc hội thông qua.

Tòa Bạch Ốc đang phải đối mặt với sự chỉ trích kịch liệt của hàng triệu người bị mất bảo hiểm vào ngày 1 tháng 1 tới đây vì luật Obamacare, mặc dù ông Obama đã hứa hẹn với cử tri là họ có thể giữ chương trình bảo hiểm của họ nếu họ muốn.

Hôm qua, ông Obama đã thảo luận với các viên giám đốc của các công ty bảo hiểm trong một cuộc họp mà Tòa Bạch Ốc gọi là một “phiên họp động não” (brainstorming session).

Bạn đã biết ăn mỳ gói đúng cách?

Bạn đã biết ăn mỳ gói đúng cách?

Bởi Nhật Hoa (Tổng hợp) | Webphunu.net

Tuy nhiên, việc tiêu thụ quá nhiều mỳ tôm và chế biến mỳ tôm không đúng cách cũng sẽ mang đến những tác hại không nhỏ đối với người tiêu dùng.

Thực tế trong mỳ ăn liền không có chất bảo quản nhưng để thuận tiện cho việc bảo quản, mỳ ăn liền phải qua dầu rán. Trong dầu có chất BHT (chất ổn định chống lên men thực phẩm), là chất gây ung thư, có thể dẫn đến bệnh gan, nhiễm sắc thể dị thường, hoặc làm suy giảm chức năng sinh sản.

Các gói gia vị trong mỳ ăn liền đều có chất chống oxy hoá. Ăn nhiều sẽ ảnh hưởng xấu đến gan. Không chỉ vậy, hàm lượng muối (Natri) trong đó tương đối cao, khiến cơ thể bị giữ nước, huyết áp tăng, tạo gánh nặng cho hệ tim mạch và thận.

Bạn đã biết ăn mỳ gói đúng cách 1

Tuy thơm ngon, tiện dụng nhưng mỳ tôm cũng chứa rất nhiều nguy cơ đối với sức khỏe.

Đặc biệt trong chất liệu làm bát/cốc của các loại mỳ tiện dụng có Polystyrene nhằm tránh tình trạng bị biến hình khi gặp nước nóng. Một nhà khoa học Nhật Bản đã nghiên cứu phát hiện ra, hàm lượng chất Polystyrene có thể gây nguy hiểm cho mỗi kg thể trọng cơ thể trong 1 ngày là 0,001mg. Tuy nhiên, hàm lượng này trong 1 bát/cốc mỳ ăn liền có thể lên tới 0,015mg.

Theo nghiên cứu đã chứng minh, các gói gia vị trong mỳ ăn liền phải qua nhiệt độ cao để tiệt khuẩn, đóng gói chân không, nên các loại vitamin nhóm B, chất sắt… có trong thịt, hay vitamin C, vitamin A… có trong rau thực tế đã bị nhiệt làm cho biến mất. Những gì bạn nạp vào cơ thể chỉ là năng lượng. Một cốc mỳ có năng lượng là 350 calo, thì một bát mỳ cỡ lớn có thêm các gói gia vị sẽ có nhiệt lượng lên tới 500-600 calo.

Tác hại của mì ăn liền

Gây nóng trong người: Độ giòn của mì ăn liền là do được chiên dầu ở nhiệt độ cao, những người thích mì ăn liền khi ăn xong thường cảm thấy khô miệng, háo nước. Nếu ăn thường xuyên sẽ dẫn tới tình trạng nóng trong người, vì thế không nên ăn nhiều mì ăn liền.

– Không tốt cho dạ dày: Nếu bạn ăn mì ăn liền xuyên có thể sẽ gây rối loạn chức năng dạ dày, làm xuất hiện các triệu chứng như đầy hơi, đau dạ dày…

– Thiếu chất dinh dưỡng: Thành phần chủ yếu của mì ăn liền là bột mì và chất béo, nước sốt và không chứa đủ 7 chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Nếu ăn mì ăn liền suốt thời gian dài có thể dẫn đến thiếu hụt các chất dinh dưỡng, từ đó kéo theo một loạt bệnh như chóng mặt, mệt mỏi, tim đập nhanh, hôn mê…

– Béo phì: Mì ăn liền đã chiên qua dầu, hàm lượng vitamin B trong đó bị phá hủy hoàn toàn, về cơ bản mì ăn liền có thể không cung cấp đủ lượng calo cần thiết cho cơ thể hoạt động. Vậy nên, nhiều người có xu hướng ăn nhiều gói mì ăn liên cùng lúc hoặc ngoài ăn mì ăn liền còn ăn thêm những thứ khác nữa. Hậu quả là bạn đã nạp quá nhiều carbohydrate và chất béo vào cơ thể. Tình trạng này kéo dài sẽ gây béo phì và gia tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan tới béo phì như tim mạch, tiêu đường, cholesterol cao…

– Lão hóa sớm: Dầu trong mì ăn liền cũng có thể có chất chống oxy hóa, nhưng nó chỉ có thể làm chậm oxy hóa, trì hoãn thời gian hỏng chứ không thể ngăn chặn hoàn toàn tình trạng mốc hỏng.

Gây ung thư: trong mì ăn liền thường có các chất phụ gia như phosphate, chất chống oxy hóa, chất bảo quản… Do lưu trữ quá lâu, ảnh hưởng môi trường nên các chất này cũng sẽ từ từ biến chất, nếu tích tụ lâu trong cơ thể sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt có thể dẫn đến ung thư.

Không tốt cho gan: Trong một môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, những hộp mì ăn liền bằng nhựa khi được ngâm trong nước nóng ở nhiệt độ trên 65 độ C, chất độc hại của nó sẽ ngấm vào thực phẩm, từ đó gây hại cho gan, thận, thần kinh….

Ăn mỳ thế nào mới đúng cách

Thường thì chúng ta sử dụng mỳ gói trong các trường hợp như bận việc cần ăn nhanh, ăn mì trong những lúc cần tiết kiệm chi phí trong thời gian đói kém… Chúng ta nấu mì bằng cách là cho mỳ vào nước sôi, cho gia vị, mì tôm đầy đủ vào nồi rồi đun khoảng 3 phút là đem ra ăn.

Tuy nhiên cách chế biến đó lại là sai cách, cách làm đó gây hại cho sức khỏe của bạn. Vì trong gia vị của mỳ tôm chủ yếu là bột ngọt, thế nên khi đun sôi bột ngọt sẽ biến dạng cấu trúc phân tử của bột ngọt biến chúng thành chất độc. Thứ nữa là sợi mỳ ăn liên được phủ bởi một lớp sáp và cơ thể chúng ta phải mất đến 4 đến 5 ngày mới tiêu hóa hết phần sáp này.

Sau đây là cách chế biến mỳ ăn liền đúng cách. Các bạn chú ý và cố gắng làm đúng nhé:

– Luộc mì trong nồi nước sôi

– Khi mì đã chín đủ, lấy hết mì ra và đổ bỏ nước sôi

– Nấu nồi nước sôi mới, bỏ mì vào trở lại nồi nước sôi, tắt lửa

Bạn đã biết ăn mỳ gói đúng cách

Dù ăn theo cách nào bạn cũng nên luộc mỳ trước khi chế biến.

– Sau khi tắt lửa, nước còn đang nóng, bỏ bột nêm vào. Còn nếu bạn muốn ăn mì khô thì lấy mì ra và trộn với bột nêm.