Một nhân chứng lịch sử nữa ra đi

Lữ Giang
10/17/2013
Hôm 11.10.2013, ông Cao Xuân Vỹ, một nhân chứng lịch sử của VNCH đã qua đời tại tư gia ở Orange County, California, hưởng thọ 93 tuổi.

Trước khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh và trong khi ông Diệm cầm quyền, có rất nhiều nhân vật nổi tiếng đã tham gia chính quyền của ông Điệm hay Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Chúng tôi xin kể tên một số nhân vật cốt cán:

Trong chính quyền: Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đỗ, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thông, Trần Trung Dung, Bùi Văn Thinh, Phạm Xuân Thái, Trần Hữu Phương, Trần Chánh Thành, Nguyễn Hữu Châu, Lương Trọng Tường, Nguyễn Dương Đôn, Trần Ngọc Liễn, Phạm Duy Khiêm, Hồ Thông Minh, Bùi Kiện Tín, Huỳnh Văn Nhiệm, v.v.

Trong ban lãnh đạo Đảng Cần Lao có trụ sở ở số 23 đường Phùng Khắc Khoan, Quận 1, Sài Gòn: Trần Văn Trai, Phạm Văn Nhu, Lý Trung Dung, Trần Kim Tuyến, Võ Như Nguyện, Lương Như Ủy, Lê Văn Đồng, Thái Mạnh Tiến, Huỳnh Văn Lang, Bùi Kiện Thành, Cao Xuân Vỹ, Đỗ La Lam, v.v.

Nhưng sau khi ông Điệm và ông Nhu bị giết, người ta chỉ thấy còn một người duy nhất tự nhận mình là đảng viên Đảng Cần Lao, tiếp tục công khai đứng ra tuyên dương không mệt mỏi những công trạng mà ông Diệm đã làm cho đất nước nhưng bị Mỹ giết vì không đồng ý để cho Mỹ đem quân vào miền Nam Việt Nam, người đó là ông Cao Xuân Vỹ. Vậy ông Cao Xuân Vỹ là ai?

VÀI NÉT VỀ ÔNG CAO XUÂN VỸ

Ông Cao Xuân Vỹ sinh ngày 1.2.1920 tại làng Thịnh Mỹ, xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông thuộc dòng dõi của ông Cao Xuân Dục (1843 – 1923) vốn là Thượng Thư Bộ Học (1905) dưới thời vua Thành Thái và Cơ Mật Viện Đại Thần – Phụ Chính Đại Thần dưới thời vua Duy Tân. Theo gia phả, ông Cao Xuân Dục sinh ông Cao Xuân Tiếu, ông Tiếu sinh ông Cao Xuân Tảo và ông Tảo sinh ông Cao Xuân Vỹ.

Lúc nhỏ ông Vỹ học trung học tại Nghệ An và đại học tại Hà Nội, nhưng học chưa xong thì năm 1945 Việt Minh cướp chính quyền, ông phải nghỉ học. Năm 1946, khi thương lượng với Pháp bất thành, ngày 18.12.1946 Việt Minh ra lệnh tản cư, rút khỏi thành phố Hà Nội. Ông Cao Xuân Vỹ đã cùng với 36 trí thức, sinh viên và thanh niên tản cư về Liên Khu IV gồm các tỉnh Thanh Hòa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Vỹ cho biết những người cùng đi với ông lúc đó có các ông Trần Chánh Thành, Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, Nguyễn Duy Quang, Phan Huy Xương (anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán), Tôn Thất Trạch v.v…

Đầu năm 1953, theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông, Việt Minh bắt đầu thi hành chế độ giảm tô và cải cách ruộng đất, nhiều địa chủ và trí thức bị giết nên ông và nhiều người phải tìm cách trốn khỏi Liên Khu IV. Nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành, ông trốn qua Phú Nhạc, Phát Diệm, nơi có khu an toàn của người Công Giáo. Từ đó ông ra Hà Nội và gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát… là những người đã từng hoạt động chung với ông thời 1945.

Cuối năm 1953 ông vào Sài Gòn gặp lại ông Trần Chánh Thành. Lúc đó ông Thành đang tập sự hành nghề luật sư với Luật Sư Trương Đình Du, làm tờ báo Xã Hội với ông Ngô Đình Nhu và tham gia Phong Trào Đoàn Kết Quốc Gia vì Hòa Bình do ông Nhu thành lập. Ông Thành đã giới thiệu ông với ông Nhu.

Ngày 16.6.1954 Quốc Trưởng Bảo Đại ký Sắc Lệnh cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng thay ông Bửu Lộc. Ngày 25.6.1954 ông Diệm về nước chấp chánh. Ngày 6.7.1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và ngày 7.7.1954 bắt đầu nhận chức.

Tháng 8 năm 1954, Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng được chính thức thành lập. Ông Cao Xuân Vỹ gia nhập tổ chức này. Ban lãnh đạo Đảng có 5 phòng. Ông Vỹ tham gia vào Phòng 4 đặc trách về kinh tài. Phòng 4 có 5 người là các ông Huỳnh Văn Lang, Bùi Kiện Thành, Cao Xuân Vỹ và Đỗ La Lam.

Trước năm 1945, ông Cao Xuân Vỹ có dự một khóa huấn luyện về thể dục và thể thao ở Phan Thiết do Tổng Cục Thể Dục, Thể Thao và Thanh Niên tổ chức. Đây là tổ chức thuộc quyền điều hành của Thiếu Tá Maurice Ducoroy, Tổng Ủy Viên Thể Thao và Thanh Niên tại Đông Dương của Pháp. Do đó, năm 1958 ông Diệm đã cử ông Vỹ đi làm Tổng Giám Đốc Thanh Niên và Thể Thao trực thuộc Bộ Lao Động và Thanh Niên do ông Nguyễn Tăng Nguyên làm Tổng Trưởng. Khi ông Nhu thành lập Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa, ông Nhu làm Thủ Lãnh, còn ông Cao Xuân Vỹ làm Phó Thủ Lãnh kiêm Trưởng Đoàn. Trong thực tế, việc tổ chức và điều hành Thanh Niên Cộng Hòa đều do ông Vỹ.

MỘT NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ

Thời ông Ngô Đình Diệm cầm quyền, tôi còn là một sinh viên nên không biết được chính xác những chuyện gì đã thật sự xảy ra bên trong chính quyền. Nhưng phương pháp luật học và kinh nghiệm trong ngành luật đã chỉ cho tôi cách thức truy tầm và đánh giá các tài liệu lịch sử.

Bộ “
Foreign Relations of the United States” (FRUS) do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lần lượt ấn hành gồm mấy chục cuốn, công bố hầu hết các văn kiện liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam từ 1945 đến 1967 là những tài liệu chính đã giúp chúng ta nắm vững chính sách từng giai đoạn của Hoa Kỳ và các sự việc đã xảy ra. Hàng chục ngàn trang tài liệu được giải mã tiếp theo đã giúp làm sáng tỏ hơn nhiều bí ấn của lịch sử.

Căn cứ vào các tài liệu này, chúng tôi bắt đầu phỏng vấn các nhân chứng xem những điều mô tả trong sử liệu có thật sự đúng như vậy không, những chuyện gì sử liệu chưa nói hết hay nói không đúng, v.v. Ông Cao Xuân Vỹ là một trong những người giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu các biến cố dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Ròng rã trong 15 năm, tôi phải lui tới gặp ông nhiều lần để làm sáng tỏ một số vấn đề. Có những vấn đề ông không nắm vững, ông đã giới thiệu các nhân chứng khác cho tôi phỏng vấn.

Từ việc ông Điệm được Bảo Đại đưa về chấp chánh, đến việc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ quyết định Pháp phải rời khỏi miền Nam, truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp, thành lập một chế độ độc đảng như Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Đài Loan ở miền Nam Việt Nam để chống Cộng Sản… đến việc giết ông Diệm để đổ quân vào miền Nam, đều được đem ra thảo luận. Rất nhiều sự kiện do sử liệu tiết lộ hoàn hoán khác với những gì thường được viết trên báo chí hay sách vở.

Có hai câu chuyện do ông Vỹ tiết lộ đã gây nhiều tranh luận, đó là việc ông Ngô Đình Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy và việc ông Ngô Đình Diệm rời khỏi Dinh Gia Long tối 1.11.1963. Chúng tôi xin nói qua hai vấn đề này.

CHUYỆN ÔNG NHU GẶP PHẠM HÙNG

Chuyện ông Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng tại Bình Tuy được Tướng Trần Văn Đôn viết trong cuốn “
Việt Nam nhân chứng” xuất bản năm 1989. Nhưng Tướng Đôn viết sai cả ngày tháng lẫn sự kiện vì ông chỉ “nghe nói”. Chuyện này được ông Cao Xuân Vỹ kể lại cho ông Minh Võ nghe trong cuộc phỏng vấn ngày 14.6.2012 khi đầu óc ông không còn minh mẫn vì tuổi già.

Cuối năm 1962, Hà Nội được tin Mỹ sẽ can thiệp quân sự vào Việt Nam nên tìm cách thỏa hiệp với chính phủ Ngô Đình Diệm để ngăn chận sự can thiệp này. Diễn biến của cuộc vận động này đã được nói rất rõ trong cuốn “
The War of The Vanquished” của Mieczyslaw Maneli và cuốn “A Death in November. The Struggle for Indochina” của bà Ellen J. Hammer, nhất là trong phúc trình ngày 26.9.1963 của CIA. Căn cứ vào các tài liệu đó, chúng tôi có phỏng vấn ông Cao Xuân Vỹ về việc ông tháp tùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy. Câu chuyện ông kể lại không gióng những gì đang được nhóm Giao Điểm lưu truyền.

Chính ông Mieczyslaw Maneli, Trưởng Đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến là người làm trung gian giữa hai bên. Người đứng ra thúc đẩy chuyện này là Tổng Thống De Gaule qua Đại Sứ Lalouette của Pháp ở Sài Gòn. Nhưng ông Nhu biết rõ âm mưu của Hà Nội, nên cuối cùng ông nói rằng “
Người Mỹ là người duy nhất trên trái đất dám giúp Nam Việt Nam” (The Americam are the only people on the earth who dare to help South Vietnam) và ông từ chối đề nghị của Tổng Thống De Gaule.

Đại Sứ Lalouette rất thất vọng khi nghe tin này. Vì đoán chắc Mỹ sắp loại bỏ ông Diệm và ông Nhu, ông đã nói với ông Maneli:

Nếu ông ta (ông Nhu) không từ bỏ những ảo ảnh này, ông ta sẽ mất. Đó là một sai lầm thê thảm.”

(If he does not rid himself of these illusions, he will be lost. It is a tragic mistake.)

Đại Sứ Lalouette đã tiên đoán rất chính xác. Ông Ngô Đình Nhu vì không còn con đường nào khác là bám theo Mỹ nhưng lại muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia nên đã bị giết.

CHUYỆN RỜI KHỎI DINH GIA LONG

Ông Vỹ kể lại khi cuộc giao tranh bắt đầu, ông Nhu khuyên ông Diệm nên rời khỏi Dinh Gia Long một thời gian, nhưng ông Diệm nói: “
Tổng Thống không có đi trốn”. Bổng ông Cabot Lodge gọi đến nói với ông Diệm rằng ông lo cho sự an toàn của Tổng Thống và nói nếu ông có thể làm gì xin cứ gọi ông. Ông Diệm liền trả lời: “Tôi đang cố gắng tái lập trật tự”.

Sau khi nói chuyện với ông Cabot Lodge, ông Diệm cho gọi ông Nhu vào và bảo:
“Đi thì đi!”

Chuyện xẩy ra quá bất ngờ nên ông Cao Xuân Vỹ trở tay không kịp. Ông liền gọi điện thoại cho Trung Tá Nguyễn Hữu Phước, Phó Đô Trưởng Nội An, bảo đem đến Tòa Đô Chánh ngay một chiếc xe. Trung Tá Phước tưởng ông Vỹ cần xe chờ đồ nên cho Đại Úy Trang Khánh Hưng lái một chiếc xe fourgonnette đến. Ông Vỹ bảo tắt máy xe rồi cùng Đại Úy Hưng đẩy băng qua đường Pasteur, vào cửa bên hông của Dinh Gia Long để tránh sự chú ý của các binh sĩ trong dinh.

Ông Diệm bảo ông già Ẩn lên lấy chiếc cặp cho ông. Khi đi ra xe, ông Diệm còn lầu bầu:
“ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”. Không ngờ lời nói đó đã trở thành một lời tiên tri!

Ông Vỹ bàn với Trung Tá Phước về nơi đầu tiên ông Diệm và ông Nhu sẽ đến là Trung Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên Quận 5 (khu Đại Thế Giới cũ) ở Chợ Lớn. Trung Tá Phước liền báo tin cho ông Vũ Tiến Tuân, Đô Trưởng Sài Gòn biết. Nhưng ông Tuân thấy ông Diệm không thể ở lâu nơi đó được nên gọi ông Mã Tuyên, Phó Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hoà Quận 5 và đề nghị cho ông Diệm và ông Nhu tạm ở nhà ông Mã Tuyên. Ông Tuyên đồng ý ngay.

Đại Úy Thọ cho biết: Tổng Thống Diệm, ông Nhu, Đại Úy Bằng, ông Cao Xuân Vỹ và anh ta chui ra khỏi hầm. Theo sau còn có Đại Úy Lê Châu Lộc và Đại Úy Lê Công Hoàn. Tất cả đi ra mặt tiền đường Gia Long. Một chiếc xe “deux cheveaux” loại fourgonnette đã đậu sẵn. Đại Úy Thọ lên ngồi ghế cạnh tài xế. Ông Cao Xuân Vỹ mở cửa sau. Tổng Thống Diệm lên xe trước, ngồi xuống sàn phía bên tài xế, ông Nhu lên sau và ngồi xuống sàn phía bên Đại Úy Thọ.

Ông Cao Xuân Vỹ cho biết vì thấy xe không có ghế ngồi, ông đã vội chạy vào Dinh lấy cái nệm, nhưng khi ông trở ra thì xe đã chạy mất rồi. Lúc đó là khoảng 7 giờ 30 tối. Như vậy trên xe chỉ có 4 người: Ông Diệm, ông Nhu, tài xế và Đại Úy Thọ.

Xe ra ngả đường Pasteur, nhưng vì đường Pasteur một chiều không thể chạy ngược xuống đường Lê Lợi được, nên những người đi theo sau xe phải đẩy xe ngang qua đường Pasteur để vào Toà Đô Chánh bằng cửa bên hông, rồi từ đó tài xế lái xe ra cửa trước ở đường Lê Thánh Tôn và quẹo vào đường Nguyễn Huệ phía trước rạp Cinéma Rex, sau đó quẹo phải vào đường Lê Lợi. Xe chạy về phía đường Trần Hưng Đạo, đến đường Đồng Khánh rồi vào Trung Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên Quận 5, nơi đang đặt bộ tư lệnh tiền phương của Trung Tá Phước. Theo sau xe Tổng Thống là một chiếc xe Dodge 4×4, chở các dụng cụ truyền tin để Thổng Thông có thể liên lạc với những nơi khác.

Câu chuyện còn dài, chúng tôi sẽ kể vào một dịp khác.

NGUYỆN VỌNG CHƯA THÀNH

Ông Vỹ cho biết sau khi ông Diệm bị giết, Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh bắt ông và những người khác có liên hệ đến chế độ Ngô Đình Diêm. Ông bị tra tấn rất dã man, nhưng họ không hỏi gì về những công việc đã làm, mà chỉ hỏi tiền bạc đang được cất giữ ở đâu. Họ cho ông biết muốn được thả ra phải nộp 20 triệu. Ông không có tiền nộp nên bị giam đến năm 1967, khi cuộc bạo loạn của Phật Giáo bị dẹp tan, ông và nhiều người khác mới được thả. Hầu hết những người khác cũng bị như ông, ngoại trừ những người chạy tiến như Nguyễn Cao Thăng, Bùi Kiện Tín, v.v.

Ra hải ngoại, ông Vỹ lập Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại và làm Chủ Tịch cho đến ngày ông qua đời. Năm nào vào đầu tháng 11, ông cũng tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các chiến sĩ quốc gia vị quốc vong thân.

Mặc dầu là “cận thần” của nhà Ngô, ông Cao Xuân Vỹ đồng ý với chúng tôi rằng bây giờ những tài liệu lịch sử đã được công bố hết rồi nên những chiến dịch chống Ngô hay bênh Ngô đều trở thành vô nghĩa. Công việc bây giờ là phải làm sáng tỏ lịch sử: Tìm hiểu xem người Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chề độ Ngô Đình Diệm như thế nào để rút kinh nghiệm lịch sử. Ông mong tôi xuất bản một tập sách viết theo đường lối đó. Nhưng rất tiếc tập sách chưa ra mắt thì ông đã ra đi.

“Chân thật nghĩ là chân thật, phi chân biết là phi chân, cứ tư duy một cách đứng đắn, người như thế mau đạt đến chân thật.”

Xin dùng lời kinh Pháp Cú này để tiễn đưa ông.

Ngày 17.10.2013

BÀI HỌC KIÊN NHẪN

BÀI HỌC KIÊN NHẪN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

(Xh 17, 8-13; 2 Tm 3, 14; 4,2; Lc 18, 1-8)

Ta vẫn thường nghe nói : Vạn sự khởi đầu nan. Câu nói như muốn nói lên rằng  muôn việc khởi đầu đều khó khăn. Dĩ nhiên, bất cứ việc gì, cái khó khăn là ở buổi đầu, công việc còn mới lạ, chưa quen, chưa có kinh nghiệm giải quyết. Làm lâu ngày thì quen dần, nhờ rút tỉa kinh nghiệm mà trở nên tài giỏi, lúc đó thấy công việc như là dễ dàng.

Và, thường, kèm theo câu nói đó, người ta thường “chua” vào một câu cho vui nữa đó là : “gian nan bắt đầu nản”. Câu nói này cũng ngụ ý rằng khi con người gặp những chuyện khó khăn trong cuộc đời, nếu không cố gắng và không nhẫn nại thì người ta sẽ buông xuôi.

Thực tế cuộc sống là như thế với những chuyện khó khăn nhưng trong thực tế cũng không phủ nhận được chuyện thành công nếu như chịu thương, chịu khó và kiên nhẫn. Kiên nhẫn sẽ có những thành quả hết sức tốt đẹp mà ít ai có thể ngờ tới.

Ở Trung Hoa, dân gian ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện nhà sư Đường Tam Tạng hành trình qua Tây Trúc thỉnh kinh, mong đem về phổ biến tại quê nhà. Bộ sách Tây Du ký đã khéo léo diễn tả cuộc hành trình thỉnh kinh này, để được coi là Đệ nhất kỳ thư trong Tứ Đại thư của văn học Tàu. Tuy có thêm thắt nhiều chi tiết có vẻ hoang đường, nhưng bộ sách trên đã chứng minh được cái giá trị của việc kiên tâm bền chí trong đời : Đường Tăng đã chiến thắng đủ loại quỷ sứ ma vương, cũng như với chính những đồng minh nội thù, qua một chuỗi ngày dài đằng đẵng, để kết cục đem về được bộ Kinh Phật quý giá.

Trong lịch sử cứu độ dĩ nhiên đã có vô số những mẫu gương cũng như những bài học về sự kiên nhẫn, về sự bền đỗ.

Bài đọc trong sách Xuất Hành hôm nay phần nào gợi cho chúng ta bài học của kiên nhẫn. Sách Xuất Hành kể lại câu chuyện quân Amalếch đến đánh Israel tại Rơphiđim. Để đối phó với trận chiến, ông Môsê bảo ông Giôsuê: “Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh Amalếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.”

Môsê đã bảo như thế và ông Giô suê đã làm như vậy. Ông giao chiến với Amalếch, còn các ông Môsê, Aharon và Khua thì lên đỉnh đồi.  Buồn cười một chuyện là khi nào ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì Amalếch thắng thế. Không thể nào giơ tay lên mãi vì mỏi và rồi người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông Aharon và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.

Nhờ kiên nhẫn như thế ông Giôsuê đã dùng lưỡi gươm đánh bại Amalếch và dân của ông ta.

Sau trận chiến, Đức Chúa dặn ông Môsê: “Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi Amalếch, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa.”

Để ghi dấu kỷ niệm này ông Môsê dựng một bàn thờ và đặt tên là: “Đức Chúa, cờ trận của tôi.” và ông nói: “Bởi vì một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của Đức Chúa, nên có chiến tranh giữa Đức Chúa Amalếch từ đời nọ đến đời kia.”

Câu chuyện kể lại hết sức hấp dẫn. Nếu như chúng ta ở đó, chứng kiến cuộc chiến đó thì chúng ta sẽ nực cười bởi vì khi Môsê giơ tay lên thì dân Israel thắng còn bỏ tay xuống thì thua. Kiên trì lắm mới đỡ tay của Môsê. Khó có ai mà đỡ nỗi khi phải đỡ như thế trong suốt trận chiến. Nhưng vì muốn đánh thắng địch quân nên phải kiên nhẫn và kiên nhẫn.

Câu chuyện kiên nhẫn trong trận chiến đó ngày hôm nay ta đọc lại, ta thấy vẫn là bài học hay cho sự kiên nhẫn trong cuộc đời. Lắm lúc ta nhận ra vì thiếu kiên nhẫn mà ta lại vụt mất điều này điều kia trong cuộc sống.

Giản đơn như con tằm kéo nhện giăng tơ. Không phải ngày một ngày hai mà nó giăng được tơ nhưng thật là lâu và đúng ngày đúng buổi nó mới nhả tơ ra để người ta có sợi để mà kéo. Để được tấm vải đẹp, con nhện đã lao nhọc và phải mất thời gian.

Trong tâm tình đó, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ kiên trì và nhẫn nại. Kiên trì và nhẫn nại mà Chúa Giêsu dạy không phải là giơ tay lên như Môsê để chiến thắng quân địch hay là kiên nhẫn để chờ con nhện giăng tơ kéo sợi. Kiên nhẫn Chúa Giêsu dạy các môn đệ đó là kiên nhẫn cầu nguyện, kiên nhẫn kết hợp mật thiết đời mình với Chúa.

Thời gian chờ đợi đó cũng là lúc ta phải học hỏi cho biết đầy đủ ý muốn của Chúa. Thánh Phaolô muốn ta lưu tâm thật nhiều tới việc kiên tâm bền đỗ này, khi ngài đưa ra hình ảnh một cuộc chạy đua thể thao : rất nhiều kẻ tham dự, nhưng chỉ có một người được thưởng ở đích tới. Một số lớn đã nản chí bỏ cuộc giữa đường, khiến cho cố gắng mình hóa thành vô ích. Chỉ những ai kiên nhẫn và cố gắng thì mới có thể chạy về cùng đích như trong các cuộc đua như chũng ta vẫn thấy diễn ra trong những cuộc thi đấu.

Điều căn cốt để thành công ở đây là biết nhẫn nại chờ Chúa. Từ khó khăn nhỏ cho tới những thử thách lớn, ta phải biết tin tưởng ở việc Chúa quan phòng chở che. Sống trong tâm tình này, lòng ta sẽ kiên vững và thật bình an.

Tiên vàn là ta phải học kiên trì trong lời cầu nguyện. Mẫu gương người đàn bà xứ Canaan bền lòng xin Chúa chữa con bà, dẫu Chúa đã thử thách bà cách lạ thường qua những lời nói thật nặng nề, vẫn luôn là bài học và lời mời gọi chúng ta biết nhẫn nại với Chúa. Đường lối, suy nghĩ, cách nhìn của Chúa không như đường lối, suy nghĩ, cách nhìn của con người.

Nhiều lần nhiều lúc khi gặp những cơn khốn khó trong cuộc sống, ta mong mỏi được Chúa làm phép lạ để cứu chữa hỗ trợ ta, nhưng thường thì Chúa muốn chính chúng ta trở nên những phép lạ sống động cho Chúa trước mặt người đời. Phép lạ của lòng tin, mến và cậy trông nơi quyền phép và sự quan phòng của Chúa. Ngày nhóm Pharisiêu và Sađusê đòi Chúa làm dấu lạ bởi trời để họ tin Ngài, Chúa đã quở trách và bảo họ : “Phép lạ Giona đã đủ cho các ngươi !”

Thực ra, việc ta kiên trì với Chúa chẳng thấm vào đâu so với việc Chúa kiên nhẫn với ta. Chúa liên tục tha thứ để chờ đợi và hy vọng ta hối cải sửa mình. Chúa cho ta đủ hoàn cảnh và ân huệ để ta nhận ra bàn tay yêu thương chăm sóc của Chúa, cũng như thêm sức đủ cho ta để ra đủ sức đi theo đường lối Ngài chỉ vẽ. Tất cả chỉ là tùy ở ta ! Qua các dụ ngôn như “Cây vả không trái” hoặc “Cỏ lùng” đủ cho ta thấy lòng từ bi, nhân hậu và nhẫn nại của Ngài như thế nào !

Hành trình đi tìm Chúa của các nhà đạo sĩ xưa kia cũng là bài học cho chúng ta suy nghĩ, học hỏi. Bài học nhẫn nại của những nhà đạo sĩ ngày xưa đi tìm Hài Nhi Giêsu cũng là hay nhưng chưa đủ, ta còn cần phải kiên trì giữ Chúa trong lòng ta cho đến cùng. Mẹ Maria đã để lại cho chúng ta mẫu gương thật tuyệt vời và cũng là lời nhắc nhở cũng như khích lệ lớn nhất cho ta : Mẹ đã kiên nhẫn để Chúa thử thách trong suốt cuộc đời trần gian; đặc biệt Mẹ đã phó thác tin tưởng trọn vẹn nơi bàn tay Chúa, dẫu không hề hiểu được con đường của Chúa sẽ ra sao. Sự kiên trì ấy được kết tinh nơi lời tán tụng khen lao từ miệng thánh nữ Isave : “Phúc cho Bà vì Bà luôn vững tin vào những điều Chúa phán hứa”.

Với ta, muốn được trở nên những người con thật của Chúa, để có được một cuộc sống đạo thực sự trưởng thành, hãy đến học với Mẹ Maria, Mẹ sẽ không để ta phải thất vọng.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

TINH THẦN TRUYỀN GIÁO


TINH THẦN TRUYỀN GIÁO

“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.

Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người.  Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ.  Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan.  Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?

Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp.  Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.

1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn.  Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”.  Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào.  Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó.  Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp!  Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo.  Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.

Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch.  Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo.  Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo.  Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa.  Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội.  Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.

2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây.  Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình.  Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.

Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng.  Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?

Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.

Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn.  Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu.  Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.

Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy.  Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.

Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người.  Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.

Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.

ĐGM Vũ Duy Thống

From: ngocnga_12

MỘT NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN: SỰ CẦU NGUYỆN

MỘT NỀN TẢNG CỦA ĐỨC TIN: SỰ CẦU NGUYỆN

Tác giả: Lm Nguyễn Văn Nghĩa

Sau khi lên các phương kế để dụ Tư Mã ý vào hang động Thượng Phương, Khổng Minh đã sai quân sĩ bịt kín cửa hang rồi dùng hoả công để tiêu diệt viên tướng tài của nước Nguỵ. Đang nắm chắc kết quả, một kết quả có thể xoay đổi tình hình thế sự thời tam quốc phân tranh lúc bấy giờ, hầu đưa nhà Thục thống nhất đất nước, thì bỗng một cơn mưa bất chợt đổ xuống dập tắt đòn hoả công của Khổng Minh và cứu sống Tư mã Ý. Khi ấy Khổng Minh đã than rằng: “Mưu sự tại nhân. Thành sự tại thiên”. Hai từ “trời định” mà dân gian thường dùng nói lên quan niệm về ý định của trời xanh đã chi phối cuộc nhân sinh một cách nào đó.

Niềm tin Kitô giáo cũng có cái nhìn về thiên mệnh nhưng hoàn toàn không theo kiểu thụ động, yếm thế. Chúng ta tin nhận thánh ý của Thiên Chúa, nhưng sự tin nhận này không loại bỏ vai trò của sự tự do mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Thiên Chúa không phải là một vị thần chuyên chế quyết định mọi chuyện thành bại hay được thua của con người. Cách riêng những sự tốt xấu theo chiều kích luân lý thì đều có sự tham gia của sự tự do của chính con người. Giáo lý Công giáo dạy rằng chỉ có hành vi nhân linh nghĩa là những hành vi bao hàm sự hiểu biết và tự do thì mới có giá trị luân lý. Tuy nhiên để đạt được những điều tốt đẹp, Kitô hữu tin rằng phải cần đến ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự thiện hảo. Chúa Kitô đề cập đến chân lý này qua hình ảnh cây nho, cành nho và Người đã khẳng định: “Không có Thầy anh em chăng làm gì được”(Ga 15,5).

Sách Xuất hành tường thuật cuộc chiến giữa quân Israel và quân Amalếch. Trong khi tướng Giosuê đem quân đi giao chiến thì Môsê lên núi cầu nguyện. “Khi nào ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì Amalếch thắng thế” (Xh 17,11). Dữ kiện này muốn nói rằng sự thắng thua của dân Israel là do bởi Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thế nhất thiết cần phải gắn bó với Thiên Chúa, đặc biệt bằng sự cầu nguyện.

“Luật của cầu nguyện là luật của niềm tin” (lex orandi, lex credendi). Câu ngạn ngữ trên đã nói lên mối tương quan mật thiết giữa niềm tin với việc cầu nguyện, cầu nguyện riêng tư hay cầu nguyện công khai chính chính qua các cử hành Phụng Vụ. Dĩ nhiên nếu hiểu văn phong dụ ngôn thì chúng ta sẽ nhận ra ý nghĩa chính của câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “ông quan toà chẳng sợ Thiên Chúa mà phải chào thua sự lì lợm của một bà goá”(x.Lc 18,1-8). Ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn đã được thánh sử Luca nói ngay đầu đoạn tin mừng đó là “để dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” và cái lý do được nêu lên ở câu cuối đó là lòng tin.

Một vấn nạn: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”(Lc 18,8). Câu than thở của Chúa Kitô khiến chúng ta phải giật mình và cảnh tỉnh. Khi nhân loại ngày càng văn minh tiến bộ, khi nên công công nghệ ngày càng tinh xảo và tân kỳ, thì dường như sự tự cao tự đại đang ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Dù nhiều người với cái thói kiêu căng cho rằng ‘bàn tay ta làm nên tất cả…” đã từng “trắng mắt ra” khi đối diện với những nghịch cảnh vượt quá sức mình, thế nhưng vẫn còn đó những hình thái ngông nghênh cao ngạo bằng sự độc tôn, độc đoán, độc quyền, chuyên chế… Những hình thức tự tôn vinh, thần thánh hoá bản thân hay tập thể của mình lên hàng muôn năm hay bất diệt vẫn còn nhan nhãn đó đây. Một khi sự tự tin đã biến thành sự tự tôn thì lòng tin vào Đấng Tối cao sẽ suy giảm và rồi sẽ biến mất. Khi con người đã không còn tin vào Đấng Tối cao thì chắc chắn sẽ làm được sự gì tốt đẹp đúng nghĩa. Như thế, lòng tin hay đức tin, nói theo ngôn ngữ Kitô giáo, chính là nền tảng của mọi thành quả tốt đẹp mà con người đạt được.

Kitô giáo luôn khẳng định rằng tin là đón nhận Thánh ý Thiên Chúa và dấn thân hết mình để sống theo thánh Ý đã lãnh nhận. Hai mẫu gương lớn của lòng tin thường được giáo hội nói đến đó là Tổ phụ Abraham và Mẹ Maria. Đang là người sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật thế mà Abraham đã can đảm vâng nghe lời Thiên Chúa mời gọi lên đường đi đến nơi chưa từng biết. Nếu nơi ấy là nơi thiếu cỏ hay thiếu nước thì việc chăn nuôi sẽ phá sản. Tuổi đã cao, người phối ngẫu đã qua thời sinh nở thế mà Abraham vẫn vâng lệnh Thiên Chúa để hiến tế người con trai duy nhất, kẻ sẽ nối dõi tông đường, người sẽ giúp ông tránh được sự bất hiếu với tổ tiên. Khi đón nhận và “xin vâng” như lời sứ thần truyền thì Mẹ Maria đã chấp nhận sự hiểu lầm của người bạn đời, Giuse và chấp nhận cả cái án hình bị ném đá theo luật bấy giờ.

Làm sao có thể đón nhận và thực thi Thánh ý Chúa nếu chúng ta không gặp gỡ và lắng nghe Người phán dạy? Và làm sao chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa nếu không chuyên chăm cầu nguyện? Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, gặp gỡ Thiên Chúa, kết hiệp với Người, lắng nghe Người phán dạy để rồi can đảm thực thi. Cầu nguyện là cách thế biểu lộ niềm tin và cũng là phương thế củng cố niềm tin. Vì chúng ta tin nên chúng ta cầu nguyện. Nhờ chúng ta cầu nguyện nên niềm tin của chúng ta được củng cố.

Ai có thể tự hào rằng mình đã vững vàng trong đức tin? Ai có thể tự nhận rằng mình sẵn sàng hy sinh mạng sống để thực thi giới luật yêu thương Chúa Kitô truyền dạy? Ngoại trừ các thánh nhân, có thể nói chúng ta, từ người giáo dân hèn mọn đến vị mục tử trọng chức, thảy đều non kém đức tin, chưa dám xả thân, hiến mình để sống yêu thương đến cùng. Chính vì thế việc chuyên chăm cầu nguyện là điều như tất yếu. Tuy nhiên cần khẳng định rằng cầu nguyện không phải là để bắt Chúa thực hiện ý muốn của chúng ta, nhưng là để chúng ta biết cách thực thi thánh ý Chúa, nghĩa là để sống đức tin. Và xin đừng quên đức tin chính là chìa khoá dẫn chúng ta đến sự sống đời đời.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Ví dụ

Ví dụ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Có nhiều cách ví dụ, nhưng người ta chỉ ví dụ điều tốt chứ chẳng ai ví dụ điều xui xẻo. Ví dụ cũng là dạng “nếu”, dạng “giả sử”, kiểu ước mơ, tất nhiên có thể hiện thực hoặc có thể không.

Nhưng có một ví dụ rất thực tế, và chắc chắn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào: Chết. Chắc hẳn nhiều người cho là xui, vì ví dụ như vậy là dại dột và ngu hết sức. Nhưng thực ra không dại đâu, mà lại là khôn ngoan đấy! Không ai muốn nói đến sự chết, nhưng không ai thoát. Chắc chắn “chết” là điều thực tế. Chết là vấn đề rất thật, thật hơn cả sự thật. Dù đó là “chuyện xui xẻo” thì cũng cứ ví dụ xem sao: “Nếu chỉ còn một ngày để sống…”.

Lá xanh hay lá vàng có thể “rụng” bất kỳ lúc nào, dù gió to hay gió thoảng; trái xanh hay trái chín cũng có thể được (hay “bị”) người ta “hái” bất cứ lúc nào, dù sáng sớm, buổi trưa hoặc chiều tối, cũng có thể lúc đêm khuya.

Bạn sẽ phản ứng thế nào và sẽ làm gì? Bạn có bao giờ nghĩ như vậy? Chết lúc nào tốt, lúc nào xấu? Giờ nào thì chết “hên” và lúc nào thì chết “xui”? Ai có thể cưỡng lại Tử thần? Sao biết 9 giờ sáng là giờ hên mà không chết, lại chết vào 6 giờ tối? Sinh sản cũng vậy, biết thời điểm nào đó “hên” và thuận tiện mà sao không sinh lúc đó? Muốn có được không? Giờ nào tốt và giờ nào xấu? Ai biết chắc? Xui hay hên là do mình. Chẳng ai biết mình chết lúc nào và chết cách nào. Khi sắp chết mới biết mình… sắp chết. Cũng có thể lúc đó là muộn rồi!

Quả thật, “nếu chỉ còn một ngày để sống…” là một giả-thuyết-thực-tế, một cái “nếu” rất thật, thật đến nỗi điều đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, thậm chí là ngay bây giờ, dù bạn mới vài tuổi, ngoài đôi mươi, tứ tuần, trung niên, thất tuần, bát tuần, hoặc xấp xỉ… trăm tuổi!

Tình cờ nghe ca khúc “Nếu Chỉ Còn Một Ngày Để Sống” (*) của NS Hoài An (1929-2012), trong chương trình Paris By Night 95, tôi thực sự xúc cảm cái “đẹp” (đúng nghĩa ĐẸP) trong ca khúc đó về phương diện tích cực. Vâng, ca từ của ca khúc này đầy tính nhân bản, nguyên văn như sau:

Nếu chỉ còn một ngày để sống, người đưa tôi về đến quê nhà, để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ… mơ tiếng mẹ cha. Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi một khúc kinh cầu, người tôi thương êm ấm môi cười, cho con tôi bước đời yên vui.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta trả ơn cuộc đời, làm sao ta đền đáp bao người, nâng ta lên qua bước đời chênh vênh? Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta chuộc hết lỗi lầm, làm sao ta thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông?

Cho tôi như bóng mây, lang thang qua cõi này, cho tôi được ngắm sao trên trời giữa hương đồng cỏ nội. Cho tôi như khúc ca, bay đi xa rất xa, cho tôi được cám ơn cuộc đời, cám ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người bằng những lời ca.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành? Buồn vì ai, ta làm ai buồn, xin bao dung tha thứ vì nhau. Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp, phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an?

Với cảm nhận của riêng tôi, giai điệu đẹp và ca từ cũng đẹp. Có thể NS Hoài An viết theo cảm nhận đời thường, nhưng cái “nếu” của ông rất gần với Công giáo. Vâng, nếu chỉ còn một ngày để sống. Vậy thì sao?

Cách đặt vấn đề quá thực tế. Cái “nếu” này rất ý nghĩa và quan trọng biết bao – dù bạn là ai, ở bất kỳ cương vị nào, dù bạn có hay không có niềm tin tôn giáo! Tôi chợt nhớ tới thánh “nhí” Saviô. Một lần nọ, khi đang giờ chơi tại Khánh Lễ Viện của Thánh Lm Don Bosco, cậu Saviô được hỏi: “Nếu chỉ còn một giờ nữa con chết, con sẽ làm gì?”. Cậu bé Saviô đáp ngay: “Con vẫn tiếp tục chơi”.

Câu trả lời thật tuyệt vời, vì đó là thi hành Ý Chúa trong hiện tại. Giờ nào việc nấy. Dù là việc đọc sách thiêng liêng hay đọc kinh, cầu nguyện, làm từ thiện,… nếu không “đúng lúc” thì cũng vô nghĩa. Điều đó cho thấy “nhiệm vụ hiện tại” rất quan trọng qua cách thể hiện đức tin.

Vậy đó, con người quá yếu đuối, quá nhỏ bé, dù “có là gì” thì cũng chẳng là gì cả! Tôi chỉ nói ra cảm nhận riêng mà tôi khả dĩ chân nhận, tất nhiên không tránh khỏi tính chủ quan. Tôi biết tôi chỉ là con-số-không-to-lớn (a big zero), một “số không” lớn nhất trong những “số không” khác. Đó là một thực-tế-thật, dù rất có thể chính tôi cũng không muốn… chấp nhận!

Theo tôi, dù là ai thì trước tiên vẫn phải là con người, mà là con người thì không chỉ phải giữ luật sống của một con người bình thường mà còn phải “lưu ý” rằng cuối cùng mình cũng phải… chết, chẳng chóng thì chày, dù bệnh hay khỏe mạnh! Đó là một thực tế vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Có sợ chết tới mức nào thì cũng không ai thoát chết!

Người giàu sang, có danh vọng, có địa vị hoặc chức tước, người giàu hay nghèo, người lớn hay nhỏ, nam hay nữ, người giỏi hay dốt, người tài năng hay bình thường, người có niềm tin tôn giáo hay không có niềm tin tôn giáo, người xấu hay đẹp, người cao hay thấp,… cuối cùng rồi ai cũng hoàn toàn giống nhau: “Tay trắng vẫn hoàn trắng tay”. Nhắm mắt xuôi tay là… “chấm hết”. Vua Thánh Louis đã làm gương là “để hai tay ra ngoài chiếc quan tài” cho người ta thấy một thực-tế-thật. Nhưng có lẽ người ta chỉ nghe cho biết, đọc cho vui, thấy để mà… thấy. Thế thôi!

Ai cũng biết vậy, thế mà người ta vẫn cứ tranh giành nhau, chi li từng chút – cả vật chất lẫn tinh thần! Thua một chút là cảm thấy “khó chịu”. Mà thua một chút thì có sao? Hơn nhau một chút thì được lợi gì? Phải chăng đó chỉ là ảo tưởng? Quả thật, “cái Tôi” của chúng ta rất LỚN, do đó mà Pascal xác định: “Cái TÔI là đáng ghét”. Nhưng mấy ai dám ghét mình? Chúa Giêsu nói “từ bỏ mình” theo nghĩa đen chứ chẳng cần bóng gió chi cả (x. Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Khó lắm! Vì khó nên mới phải cố gắng và tập “chết” từng ngày…

Con người rất dễ ảo tưởng, càng “lớn” càng dễ ảo tưởng, càng dễ độc đoán, càng muốn “chứng tỏ mình”, càng dễ áp chế và bóc lột người khác. Nhưng người ta vẫn cho đó là áp dụng theo Luật Chúa, theo Phúc Âm, là làm nhiệm vụ, là sống khiêm nhường, chứ không ai muốn nhận mình là kiêu ngạo hoặc có “máu” Pharisêu!

Ai cũng một lần trút hơi thở cuối cùng, giã biệt trần gian để hóa thành cát bụi – rồi trở về với Chúa hưởng phúc trường sinh, hoặc làm tôi mọi cho Luxiphe đời đời kiếp kiếp. Cái chết giống nhau, nhưng hình thức có khác nhau theo “thói đời”.

Người giàu cũng chết, tiền của và vàng bạc không cứu nổi họ. Người giàu chết trên đống vàng, họ chết “sướng” chứ không chết “khổ” như người nghèo, quan tài là loại mắc tiền nhất, đám tang thật lớn, những vòng hoa tươi đủ sắc màu, không đủ chỗ đặt vòng hoa, cờ giăng rợp trời, cáo phó khắp nơi, người vào kẻ ra nườm nượp, khách toàn những “ông kia, bà nọ”, khói nghi ngút tỏa ra từ những nén nhang thơm loại mắc tiền, khoản phúng điếu tính hàng trăm triệu, kèn trống rộn ràng, thậm chí còn có cả chương trình ca múa nhạc cho thiên hạ thưởng thức; nếu người giàu là người có đạo thì gia đình tổ chức lễ đồng tế, tiệc tùng linh đình, không ai khóc, ai cũng hớn hở bắt tay nhau,… Người giàu vừa chết “sướng” vừa chết “công khai”.

Ngược lại, người nghèo chết âm thầm, chết trong đau khổ, chết vì không có tiền chạy chữa, chết hèn hạ, chết tủi nhục, chết đau đớn, chết thê thảm, chẳng ai thèm chú ý, không ai phúng điếu, vắng hơn Chùa Bà Đanh, bát nhang lạnh tanh, quan tài rẻ nhìn như chiếc thùng gỗ, đúng là… đám ma!

Người giàu được nhiều người tới phúng viếng, nghĩa là được nhiều người cầu nguyện cho, họ còn có nhiều tiền để xin lễ – tiền riêng và tiền phúng điếu. Còn người nghèo không ai phúng viếng thì có ai thương mà cầu nguyện? Lấy tiền đâu mà xin lễ?

Nếu xét theo “tầm nhìn” của phàm nhân, chắc chắn người giàu vào Thiên đàng mau hơn người nghèo. Thật hạnh phúc và an ủi thay là Thiên Chúa không xét theo kiểu của loài người, Ngài chỉ xét theo “công” và “tội”. Trong dụ ngôn “Người Giàu và Ladarô Nghèo Khổ” (Lc 16:19-31), Tổ phụ Ápraham đã nói rõ với người giàu: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16:25-26). Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh, chí công, chắc chắn Ngài sẽ đòi công lý cho người nghèo!

R.I.P. – Requiescat in Pace.

Lạy Chúa, vì Cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu, vì Bửu Huyết Chúa Giêsu đã đổ ra, và vì Châu Lệ Đức Mẹ đã chảy ra, xin Chúa thương xót và tha thứ cho các linh hồn được an nghỉ ngàn thu trong tình thương vô biên và lòng thương xót hải hà của Chúa. Nguyện xin Chúa cũng tha thứ và cho chúng con chắc chắn sẽ được an nghỉ trong Chúa muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Chuẩn bị Tháng Cầu Hồn – 2013

(*) Thưởng thức ca khúc này tại http://www.youtube.com/watch?v=b5YjDgNwib4

Cầu thay nguyện giúp

Cầu thay nguyện giúp (Lc 18)

Tác giả: Thiên Phúc


Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 300 đồng nhé”.

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.


Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”

***

Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.

Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.

Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

***

Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.

Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.

Thiên Phúc “Như Thầy đã yêu” năm C

‘Khủng hoảng chính trị ở Mỹ dẫn tới các hệ quả nhiều mặt’

‘Khủng hoảng chính trị ở Mỹ dẫn tới các hệ quả nhiều mặt’

Các rào cản được dỡ bỏ tại Đài tưởng niệm Martin Luther King Jr. sau khi chính phủ Mỹ mở cửa lại, ngày 17/10/2013.

Các rào cản được dỡ bỏ tại Đài tưởng niệm Martin Luther King Jr. sau khi chính phủ Mỹ mở cửa lại, ngày 17/10/2013.

18.10.2013

Chi tiết thỏa thuận về nợ công

-Mở lại và cấp ngân khoản cho chính phủ cho đến ngày 15 tháng 1, 2014.
-Nâng mức trần nợ lên cho đến ngày 7 tháng 2, 2014.
-Ðòi hỏi chính phủ xác nhận điều kiện của những người được hưởng trợ cấp chính phủ theo Bộ luật chăm sóc sức khỏe với giá phải chăng.
-Thành lập ủy ban thương lượng để khai triển kế hoạch ngân sách dài hạn.
-Cung cấp tiền lương trả chậm cho công nhân viên liên bang bị cho nghỉ việc trong thời gian chính phủ đóng cửa.

Nhiều người thở phào nhẹ nhõm sau khi Quốc hội Mỹ đạt được thỏa thuận vào phút cuối để chấm dứt tình trạng bế tắc tài chính. Nhưng điều đó cũng không thể xóa bỏ cái giá mà nước Mỹ phải trả. Cơ quan xếp hạng tín dụng Standard and Poor’s ước tính rằng việc chính phủ Mỹ đóng cửa một phần trong 16 ngày đã khiến nền kinh tế thiệt hại 24 tỷ đôla và làm cho tỷ lệ tăng trưởng GDP trong quý 4 giảm đi hơn 0,5%. Nhưng tân khôi nguyên giải Nobel Kinh tế, giáo sư Robert Shiller của Đại học Yale, nói với đài VOA rằng thiệt hại vượt quá những mất mát về mặt vật chất.

Hàng trăm nghìn nhân viên chính phủ liên bang hôm qua đã trở lại làm việc. Trong khi đó, các nhà đầu tư từng đặt cược Quốc hội không để cho nước Mỹ vỡ nợ đã thu lời. Và các nhà kinh doanh bị ảnh hưởng bởi vụ đóng cửa chính phủ, chào đón khách hàng trở lại.

Nhưng khôi nguyên giải Nobel Kinh tế Robert Shiller nói rằng thật khó để định lượng cuộc khủng hoảng do các chính trị gia ở Washington tạo ra đã làm tổn hại lòng tin của cộng đồng quốc tế.

“Rõ ràng danh tiếng của chúng ta là một điều rất quan trọng. Thật là có đôi chút khó chịu khi thấy điều đó hiện bị đe dọa như thế”.

Theo ông Shiller, điều đáng ngại hơn là tác động của tình trạng rối loạn hoạt động ở Washington đối với tầng lớp trung lưu. Đơn cử là việc chính phủ không thể thông qua một chương trình tạo thêm việc làm.

Standard and Poor’s ước tính việc chính phủ Mỹ đóng cửa một phần trong 16 ngày đã khiến nền kinh tế thiệt hại 24 tỷ đôla và làm tỷ lệ tăng trưởng GDP trong quý 4 giảm đi hơn 0,5%.

Ông đề nghị các biện pháp để giảm bớt khoảng cách giàu nghèo đang gia tăng nhanh chóng. Các nghiên cứu gần đây của Đại học California cho thấy thu nhập của số 1% người giàu nhất nước Mỹ đã tăng hơn 31% kể từ năm 2009, trong khi thu nhập của số 99% còn lại chỉ tăng chưa đầy 1%.

“Chúng ta phải đạt được một sự đồng thuận nào đó. Chúng ta phải xác định một mức độ bất bình đẳng tệ hơn hiện nay và tuyên bố rằng đó là giới hạn. Chúng ta sẽ không để cho tình trạng bất bình đẳng vượt qua mức đó và chúng ta sẽ làm thế nào để ngăn chặn. Vâng, cần phải áp dụng một hình thức thuế khóa nào đó đối với người giàu”.

Đó là một đề nghị gây tranh cãi và có phần chắc sẽ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các thành viên bảo thủ trong Quốc hội.

Tân khôi nguyên giải Nobel Kinh tế, giáo sư Robert Shiller của Đại học Yale.

Ông Shiller nói rằng sự khác biệt về ý thức hệ đã gây ra vụ đóng cửa sẽ ngày càng xói mòn lòng tin vào nền kinh tế Mỹ, và có thể sẽ nhanh chóng làm cho đồng đôla không còn là đồng tiền dự trữ an toàn của thế giới.

Vị thế mạnh của đồng đôla hiện nay đồng nghĩa với việc đồng tiền này được các chính phủ nước này dự trữ với số lượng lớn nhằm phục vụ cho thương mại và trao đổi ngoại tệ. Ngoài ra, vị thế đó khiến đồng đôla hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài và cho phép Mỹ vay nợ với chi phí thấp.

Nga và Trung Quốc đề nghị thay thế đồng đôla bằng điều mà họ gọi là ‘quỹ dự trữ siêu đẳng’ gồm nhiều loại chỉ tệ.

“Hoa Kỳ đang có rủi ro đánh mất vị thế đó, ngay cả trong trường hợp vụ bế tắc tài chánh không tiếp diễn. Đồng euro đang ngày càng trở thành một đồng tiền quan trọng. Các quốc gia trên thế giới không còn xem việc dự trữ đồng đôla là mục tiêu chính của họ nữa”.

Nga và Trung Quốc đã đề nghị thay thế đồng đôla bằng điều mà họ gọi là ‘quỹ dự trữ siêu đẳng’ gồm nhiều loại chỉ tệ. Các chuyên gia nói rằng các đề nghị đó có thể nhận được sự ủng hộ, nếu các nhà lập pháp Mỹ lại đưa đất nước vào một cuộc khủng hoảng tài chính khác sau 3 tháng nữa.

KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Suy niệm Tin Mừng Luca (18, 1-8)

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Có chí thì nên

Một nhát rìu chặt vào thân cây cổ thụ to lớn chỉ tạo ra một vết chém cạn cợt không hề hấn gì, nhưng nhiều nhát rìu nối tiếp nhau liên tục trong thời gian dài sẽ đốn ngã bất cứ cây cổ thụ cao lớn nào.

Một dòng nước nhỏ rò rỉ từ bên ngoài vào lòng thuyền xem ra không có gì đáng ngại, nhưng nếu cứ để cho dòng nước ấy rò rỉ liên tục suốt ngày thì có thể làm đắm cả một con thuyền lớn.

Những hạt mưa mềm mại rơi xuống suốt một giờ chưa thể làm được gì lớn lao, nhưng nếu mưa cứ kiên trì rơi xuống những rặng núi đá vôi suốt hàng triệu năm thì có thể làm nên những kỳ tích vĩ đại. Đó là trường hợp đã xảy ra tại Phong Nha – Kẻ Bàng, khi nước mưa xói mòn những rặng núi đá vôi và đã tạo nên hơn 300 hang động tuyệt vời, đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh.

Những minh họa trên đây chứng tỏ rằng những cố gắng của chúng ta, dù rất nhỏ bé, nhưng nếu được kiên trì thực hiện, chắc chắn sẽ đem lại thành quả như lòng ước mong.

Như thế, kiên trì là bí quyết chắc chắn để đạt tới thành công trong mọi lĩnh vực. Vì thế nên người ta thường nói: “có chí thì nên” hoặc: “cố công mài sắt, có ngày nên kim.”

Kiên trì cầu nguyện, chắc sẽ được nhận lời

Trong lĩnh vực tâm linh cũng thế, nếu chúng ta biết kiên trì cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta nhẫn nại cầu xin.

Để dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện không sờn lòng nản chí, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:

Một ông quan toà ngang ngược, chẳng kính sợ Thiên Chúa, coi thường mọi người. Gần nơi ông ở có một bà góa tứ cố vô thân đang gặp nỗi oan khiên nên chạy đến nhờ ông ta xét xử, mà lần nào cũng bị khước từ. Tuy nhiên, vì bà góa cứ kêu nài mãi, nên cuối cùng ông quan tòa nghĩ lại: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”

Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Ngài đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Ngài sao? Lẽ nào Ngài bắt họ chờ đợi mãi sao?” (Lc 18, 2-7)

Thiên Chúa ban điều tốt lành hơn ta mong đợi

Thế thì tại sao có những khi chúng ta kêu xin nhiều lần mà chẳng được Chúa nhận lời?

Trường hợp nầy cũng như khi đứa bé gào khóc đòi mẹ cho tiền mua kem, mua bánh nhưng mẹ kiên quyết không cho vì những món nầy không tốt cho sức khỏe của con. Thay vì bánh kẹo, mẹ cho con những lọ thuốc bổ, những hộp sữa không đường, tuy chẳng làm cho con khoái khẩu, nhưng rất cần thiết cho sức khỏe của con.

Cũng thế, đôi khi Thiên Chúa không ban cho ta những điều ta xin, nhưng Ngài lại ban những ơn cần thiết hơn là điều ta mong đợi.

Không cho cá nhưng lại cho chiếc cần câu

Có những người cha khôn ngoan, không muốn con mình trở thành kẻ ăn xin lười biếng, “nằm há miệng chờ sung rụng vào mồm,” mà muốn tạo cơ hội cho con cái trưởng thành, nên khi đứa con xin con cá, ông không cho cá mà lại cho chiếc cần câu. Thế là nhờ sở hữu chiếc cần câu, đứa con có được hàng trăm con cá mà chẳng phải ngửa tay xin ăn từng bữa, từng ngày.

Ý tưởng nầy đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:

“Tôi xin sức mạnh…

Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để được mạnh mẽ.

Tôi xin khôn ngoan…

Và Ngài đã cho tôi những vấn đề để giải quyết (nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan).

Tôi xin tiền của…

Và Ngài đã cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc (nhờ đó tôi trở nên giàu có).

Tôi xin được “bay”…

Và Ngài đã cho tôi những trở ngại phải vượt qua (nhờ đó tôi được “bay cao”).

Tôi xin tình yêu…

Và Ngài đã gởi đến những người gặp khó khăn cần được cứu giúp (nhờ đó tim tôi đầy ắp lòng thương xót)…

Tuy không nhận được những gì tôi xin…

Nhưng tôi nhận được tất cả những thứ tôi cần.” (Khuyết danh)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con vững tin vào Chúa mà liên lỉ nài xin những điều chính đáng. Một khi đã kiên trì khấn nguyện, cho dù chúng con không đạt được điều mình xin thì ít ra cũng đạt được những thứ chúng con cần.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Nhật 29 thường niên

Luca 18, 1-8

1 Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.2 Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì.3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì,5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
6 Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó!7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Tổng thống Mỹ ban bố đạo luật cho phép nâng trần nợ công và mở cửa các công sở

Tổng thống Mỹ ban bố đạo luật cho phép nâng trần nợ công và mở cửa các công sở

Tổng thống Mỹ Barack Obama trong cuộc họp tại Nhà Trắng, Washington, 08/10/2013

Tổng thống Mỹ Barack Obama trong cuộc họp tại Nhà Trắng, Washington, 08/10/2013

DR

RFI

Cuộc khủng hoảng chính trị – ngân sách tại Mỹ tạm thời chấm dứt. Vào tối khuya hôm qua, 16/10/2013, sau khi Thượng viện thông qua, đến lượt Hạ viện Hoa Kỳ, với 285 phiếu thuận và 144 phiếu chống, đã chấp nhận đạo luật cho phép nâng trần mức nợ công và các công sở chính quyền Liên bang mở cửa trở lại ngay lập tức. Tuy nhiên, quyết định này chỉ có hiệu lực đến đầu năm tới, bởi vì theo đạo luật này, một tiểu ban sẽ được thành lập để soạn thảo một ngân sách cho thời gian còn lại của năm 2014.

Tổng thống Barack Obama đã ký sắc lệnh ban hành ngay lập tức đạo luật này và cho rằng giờ đây, các nghị sĩ cần phải chinh phục lại lòng tin của người dân.

Sau đây là nhận định của thông tín viên Anne-Marie Capomaccio từ Washington :

« Khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài nhiều tuần lễ, theo cơ quan thẩm định tài chính quốc tế Standard & Poor’s, thiệt hại lên đến 24 tỷ đô la, còn thỏa thuận đạt được tại Quốc hội lưỡng viện thì có nội dung chính là định ra khuôn khổ các cuộc thương lượng trong những tuần tới.

Có thể nói, bản tổng kết cuộc khủng hoảng không hề sáng sủa gì đối với các nghị sĩ Quốc hội lưỡng viện Mỹ.

Bị thua thiệt nhiều nhất trong trận chiến chính trị này là các nghị sĩ của đảng Cộng Hòa, như Chủ tịch Hạ viện John Boehner, thuộc đảng Cộng Hòa, đã thừa nhận. Đảng này bị chia rẽ nặng nề và trong thời gian tới sẽ tính sổ với nhau, thế nhưng, các nghị sĩ thuộc đảng cực hữu Tea Party can thiệp vào nhiều lĩnh vực.

Trung Quốc đàn áp biểu tình tại Chiết Giang

Trung Quốc đàn áp biểu tình tại Chiết Giang

Biểu tình trong tỉnh Dư Diêu, Trung Quốc

Biểu tình trong tỉnh Dư Diêu, Trung Quốc

16.10.2013

Nhà chức trách Trung Quốc đã tiến hành một cuộc trấn áp tại một thành phố miền đông sau khi xảy ra nhiều cuộc biểu tình bạo động phản đối chính quyền địa phương trong việc phòng chống một trận bão mới đây.

Trong vụ xáo trộn mới nhất  tại Dư Diêu, một cuộc biểu tình do hằng ngàn cư dân thực hiện đã leo thang thành một cuộc bạo loạn hôm thứ Ba. Đây là cuộc biểu tình đông thứ nhì tại thành phố này kể từ thứ Sáu tuần trước.

Một video về cuộc biểu tình hôm thứ Sáu do hãng Reuters có được, cho thấy các cư dân Dư Diêu bao vây một xe của Ninh Ba TV, một đài truyền hình địa phương.

Nhiều người tố cáo đài truyền hình này là không đếm xỉa tới sự tàn phá do trận bão Phi Đặc, gây ra gây lũ lụt cho vùng duyên hải tỉnh Chiết Giang hôm mùng 7-10.

Một số người trút giận bằng cách ném nhiều đồ vật vào một xe của  đài truyền hình làm hỏng cửa kính xe.

Những người phản đối khác nói rằng đài truyền hình Ninh Ba không tường thuật về nỗi cơ cực của cư dân bị kẹt vì không có điện nước trong nhiều ngày.

Một người biểu tình phản đối nói :

“Thiệt hại nghiêm trọng ở bên kia. Họ chỉ nói về những nơi có điều kiện tốt, họ không nói về những nơi tệ hại. Các nhà báo của họ chỉ tới thâu hình những nơi thật tốt.”

Khi cảnh sát chống bạo loạn tới để giải tán người biểu tình, đám đông quay sang tấn công họ. Một số  người  tìm cách lật tung xe cảnh sát.

Đài truyền hình Ninh Ba đã bác bỏ những cáo buộc của người biểu tình.

Sự tức giận đã bùng ra thành một cuộc biểu tình khác hôm thứ Ba, những người bạo loạn ném đá vào cảnh sát, lật tung nhiều chiếc xe và làm hư hại một tòa nhà chính phủ.

Hằng trăm cảnh sát đã được triển khai để ứng phó, thực hiện nhiều vụ bắt giữ, và lập lại yên tĩnh vào thứ Tư.