Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!

Nguyễn Hiến Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công trình to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã trung thực khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rõ ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ hiểu.

Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?

Đọc hồi ký “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình. Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi ký ông đã rất khiêm nhượng :

“… Chép hồi ký về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.

Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-1990 và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.

Tôi đã ghi tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lý tính con người, nó bị tình cảm sai khiến, lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”

Ở trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy. Những công trình của ông, là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.

Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dã dã“ bị suy vi và trường học đã dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.

Nguyễn Ngu Ý trong ‘Sống và Viết“ đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:

“Trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như anh; bốn mươi bốn quyển đã in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi :

– Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?

Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả lời được.

Cứ xét lối làm việc thì anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống, lối cư xử thì lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính tình có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc của nhà Nho. Sách anh viết và dịch thì có những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương thiện thì anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A phòng Cung phú, Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã Hạc, về Địa lý (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo Ảnh, nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.

Cho nên bảo anh là cổ thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, thì anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”

Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách trình bày trong sáng, đơn giản nhưng không qua loa, người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và ý hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến thức cần thiết cho đời sống.

Nhưng, tôi không thích ông ở ý hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng về miền Bắc. Trong hồi ký ông viết :

“Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội : xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ (societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”

Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến chống thực dân lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.

Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đã từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải…

Nhưng, sau khi đã sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong cuốn hồi ký đã giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xã hội Việt Nam. Phần viết trong hồi ký ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Võ Thắng Tiết là có, còn bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…

Trong Tự Điển Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :

“Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như :

1- Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

2- Ngôn ngữ học : Để Hiểu Văn Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.

3- Triết Học : Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị (1958), Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel (1971).. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.

4- Sử Học : Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn, 1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử ký Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.

5- Gương Danh nhân : gồm có một số tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu (1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971).. là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.

6- Giáo Dục : trình bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam. Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ (1968), Sống 24 Giờ (1956)

7- Tự luyện đức trí : Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xã hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ý Cao Tình Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.

8- Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Hòa Bình (1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

9- Dịch thuật : Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.

10- Du Ký : gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xã hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành (trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975)..”

Thật là một công trình văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông, như Bình Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.

Năm 1981, ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bản in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất lớn. Bản in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa, xã hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Trước 1975, ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đã đọc những cuốn sách viết về đời sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đã đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống đối gay gắt.

Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có hòa bình và sẽ có chính phủ ba thành phần.

Nhưng, khi đã sống với Cộng sản, ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong thời kỳ đó. Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xã hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..

Đọc Hồi ký Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một người đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ưu đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.

Đọc những đoạn văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co, không dám chấp nhận cái sai sót của mình. Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy, không có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.

Hãy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên :

“Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy..” (trang 109)

Hay : ”Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam.Trước ngày 30 – 4 -1975, miền Nam rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau mà!..” (trang 115)

Hoặc : ” làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..” (trang 119-120)

Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký. Viết hồi ký có phải là ghi lại trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc đó, trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà còn nói : “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”

Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lãnh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, còn một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi ký, ông tỏ lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một trí thức đúng nghĩa trí thức …

Tu Cam Tran

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-07-14

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.

AFP

Nghe bài này

Tầng lớp nông dân Việt Nam hiện đang bị mất đất, bị bóc lột trong chính một chế độ mệnh danh là đấu tranh cho giai cấp công nông. Một giai cấp mới đã được hình thành sau khi cuộc cách mạng cộng sản thành công.

Cờ đỏ búa và liềm

Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân, xưa cũ gần 100 năm. Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày trong những năm đầu tiên của cuộc cách mạng Nga năm 1917.  Những người dân cày vốn ít học, không thể hiểu những triết lý phức tạp về kinh tế chính trị của các ông Karl Marx, Engel,…khi thấy cái liềm gặt thiết thân của cuộc đời họ, bèn đứng lên đi theo đảng Bolsevik lúc ấy ở Nga, và những đảng cộng sản sau này trên khắp thế giới.

Về nguyên tắc, các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, nếu không xuất thân từ hai giai cấp công nhân và nông dân, thì cũng là đại diện cho họ, đấu tranh cho quyền lợi của họ. Đặc biệt trong tình hình cụ thể của xã hội Việt Nam, với đại đa số dân chúng là nông dân thì hình ảnh cái liềm trên lá cờ đảng càng có giá trị lớn lao, ngay từ khi đảng cộng sản Đông Dương mới thành lập hồi năm 1930 cho đến nay.

“Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân…Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày”

Bên cạnh biểu tượng lưỡi liềm, các đảng cộng sản cũng đề ra các khẩu hiệu dễ hiểu rất dân túy để cổ vũ tầng lớp nông dân. Năm 1930 được biết đến cuộc nổi dậy của nông dân tại Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu nổi tiếng, Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, tức là tiêu diệt hết những giai cấp khác ngòai nông dân; hay sau đó là Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản tiến hành cuộc chiến tranh giai cấp cho Đảng, với hy vọng có được ruộng đất để mà sử dụng cái liềm vàng đẹp đẽ trên lá cờ đỏ màu máu cách mạng.

Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản với hy vọng có được ruộng đất

Với một đảng chính trị có tổ chức chặt chẽ, cùng với sự hậu thuẫn của hàng triệu nông dân, những người cộng sản đã nắm chính quyền, nắm một cách độc tôn. Và ở Việt Nam, họ đã thực hiện lời hứa với những người dân cày bằng cuộc cải cách ruộng đất diễn ra sau năm 1954. Trong trận chiến giai cấp này, các khái niệm trừu tượng của kinh tế chính trị Marxism đã biến thành các con số phần trăm trong dân chúng là địa chủ ở mỗi làng để cách mạng tiêu diệt. Nhiều người đã chết dù không có một tấc đất nào trong tay. Người địa chủ nổi tiếng ở miền Bắc là bà Nguyễn Thị Năm, người ủng hộ tiền tài nhân lực cho đảng của ông Hồ Chí Minh, nằm trong những người bị xử bắn đầu tiên.

Những người chết rồi cũng bị quên đi trước những khó khăn vất vả của đời thường, của hợp tác xã nông nghiệp, và của các tập đòan sản xuất tại miền Nam sau ngày đất nước được thống nhất. Tất cả mọi người dường như đã trở thành chung một giai cấp công nông, dường như cuộc đấu tranh giai cấp đã thành tựu.

Giai cấp cộng sản và những đặc quyền

Nhưng giai cấp đã không mất đi. Milovan Djilas, nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam Tư, đã viết vào năm 1957 rằng: Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền.

“Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền”

Nếu đặc quyền của giai cấp mới vào những năm chiến tranh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa chỉ là vài cân thịt ngon ở cửa hàng Tôn Đản, hay vài thước vải đẹp cung cấp theo tiêu chuẩn, thì từ năm 1986 trở đi, năm mà đảng cộng sản quyết định kết hôn ý thức hệ công nông của mình với kinh tế thị trường tự do, nó đã trở nên trù phú hơn. Bây giờ là nhà xưởng sản xuất công nghiệp để thu lợi trên sự bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân theo lý thuết của Karl Marx, và đất đai.

Milovan Djilas viết tiếp, Dù về mặt pháp lý tài sản là của xã hội, của quốc gia, nhưng trên thực tế chỉ có một nhóm nhỏ kiểm sóat và thu lợi từ đấy.

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân...

Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân…Files photos

Tài sản quan trọng nhất đối với đại đa số dân chúng Việt Nam chính là đất đai, và nay nó thuộc sỡ hữu tòan dân, tức là do cái nhóm nhỏ cộng sản cầm quyền kiểm sóat.

Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng không được hô hào nữa. Hàng đòan nông dân mất đất đi khiếu nại, thưa kiện từ Nam ra Bắc, vì đất đai của họ bị tịch thu, dưới danh nghĩa dùng cho các dự án phát triển kinh tế xã hội của những công ty, mà trên thực tế nhiều đảng viên cộng sản, hoặc những người có quan hệ chặt chẽ với bộ máy quyền lực của đảng, nắm giữ. Các cuộc biểu tình này thường xuyên bị chính quyền cộng sản của giai cấp công nông Việt Nam dẹp đi. Chưa có thống kê nào về số lượng các cuộc biểu tình đòi đất hàng năm, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, có thể nêu nhiều vụ xảy ra liên tiếp, vụ nông dân lõa thể giữ đất ở Cần Thơ, vụ Văn Giang, vụ Dương Nội, rồi đỉnh cao là vụ Đòan Văn Vươn ở Hải Phòng nơi mà súng đã nổ thay cho luật pháp. Và trong khi những dòng chữ này đến với quý độc giả thì hàng trăm nông dân làng Trịnh Nguyễn, Từ Sơn Bắc Ninh đang dầm mưa giải nắng giữ đất.

Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu,

“Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản

Milovan Djilas”

“Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đâu vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu tòan dân!”

Lời phát biểu của ông Lê Hiếu Đằng như một bức tranh tổng kết những gì những người cộng sản đã hứa hẹn khi họ còn hàn vi ngày xưa đến khi họ trở thành giai cấp mới ngày nay.

Còn những người nông dân đã tự nguyện đứng dưới lá cờ của giai cấp công nông thì nghĩa gì?

Bà Ngô Thị Đức, một nông dân ở làng Trịnh Nguyễn, có 47 tuổi đảng và bị đảng của bà khai trừ vì bà đấu tranh cho quyền lợi của những người nông dân, nói với chúng tôi,

“Tôi nhiều năm phấn đấu để vào đảng, nay họ làm sai, tôi thấy cũng chả cần. Sợ mất dân hơn là mất Đảng. Phần mình mình phải lo, ai mà lo tới mình thì mình đã toi rồi.”

Có phần chắc là bà Ngô Thị Đức và những người nông dân làng Trịnh Nguyễn không biết Milovan Djilas là ai, chỉ biết rằng… “họ” tức những người cộng sản cầm quyền đã làm sai. Họ đã trở thành một giai cấp mới, cũng bóc lột như trong những cuốn sách lý thuyết cộng sản mà đảng cộng sản phát cho các đảng viên của mình.

Điều khá mỉa mai, là khi những người nông dân Trịnh Nguyễn giữ đất chống giai cấp mới, họ vẫn trương cờ đỏ búa liềm, và khi Đòan Văn Vươn nghe lời tuyên án vẫn nói lời cảm ơn đảng cộng sản, đảng của một giai cấp mới.

Có lẽ để kết thúc, chúng tôi mượn lời cựu phó chủ tịch đảng cộng sản Nam Tư, Milovan Djilas, “Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản.”

Cách dùng cây Nha đam

Cách dùng cây Nha đam

image

Nha đam có nhiều vi chất tốt cho sức khỏe nhưng sử dụng không đúng cách sẽ gây ra những hậu quả không ngờ.

Nha đam (lô hội), tên khoa học Aloe vera, A. barbadensis, A. vulgaris là một chi gồm nhiều loài khác nhau, nguồn gốc từBắc Phi. Những dòng chữ tượng hình và những hình vẽ còn lưu lại trên những bức tường ở những đền đài Ai Cập cho thấy cây nha đam đã được biết đến và sử dụng cách đây hơn 3.000 năm. Ngày nay con người đã chứng minh và khẳng định được vai trò của cây nha đam trong lĩnh vực dược phẩm, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm.

image

Một số nhà khoa học lớn tại Hoa Kỳ và Nhật Bản đã tiến hành nghiên cứu chính thức trên thực nghiệm và lâm sàng trong nhiều năm đã chứng minh được hiệu quả của nha đam đối với sức khoẻ con người là rất lớn.

Kim cổ, Đông Tây đều khen

Theo y học cổ truyền, nha đam có vị đắng, tính hàn, tác dụng sát trùng, thanh nhiệt, thông tiện, làm mát gan. Dùng để chữa các chứng rối loạn tiêu hoá, ăn uống không tiêu, làm thuốc nhuận trường (với liều thấp 0,05 – 0,1g dạng nhựa khô màu đen), tẩy xổ (0,15 – 2g), trẻ con bị cam tích, táo bón. Nha đam còn có tác dụng thông mật, nhuận gan, kiện tỳ vị, chữa viêm loét dạ dày.

image

Còn theo y học hiện đại, thống kê các kết quả nghiên cứu cho thấy nha đam có các lợi ích như sau:

image

Ức chế đau, dạng gel thoa vào các vùng bị thương sẽ giúp giảm viêm, giảm đau. Chống viêm và giải dị ứng, nhờ chất glycoprotein giúp loại trừ bradykinin là chất trung gian gây đau và viêm, nha đam còn ức chế các phản ứng histamine và giúp giải dị ứng nhanh chóng. Làm lành vết thương và tẩy sạch các tế bào sừng trên da. Kháng khuẩn và kháng nấm. Giúp tái sinh tế bào, loại bỏ tế bào già và giúp tái sinh các mô mới. Kích thích tiêu hoá và nhuận tràng, chống viêm ruột, táo bón, nhờ nha đam chứa nhiều loại men tiêu hoá và nhóm hoạt chất emodin và aloin có tác dụng nhuận trường. Tăng cường giải độc cơ thể, nhờ tăng cường chuyển hoá tại gan, thận giúp loại trừ độc tố tế bào, khi uống nha đam liều thấp, có thể sẽ bị xổ nhẹ, nhờ đó giúp tẩy hết những vi khuẩn độc trong ruột. Đại học Oklahoma (Mỹ) đã ứng dụng nha đam trong nha khoa, và chế dạng kem đánh răng, dịch chiết nha đam giúp ngừa chảy máu chân răng và viêm nướu, chống sâu răng và làm răng chắc khoẻ.

image

Nhờ chứa nhiều chất bổ dưỡng cung cấp năng lượng cho tế bào, mà các thực phẩm chức năng bào chế từ nhựa nha đam dạng uống còn chữa được chứng mất ngủ, trầm cảm, viêm đại tràng, tiêu hoá kém, tuần hoàn kém, bệnh viêm khớp… Nha đam được dùng làm mỹ phẩm nhờ hai thành phần chính là lignin và polysaccharide thấm sâu vào biểu bì, tẩy sạch các vi khuẩn và chất dầu bịt lỗ chân lông. Nhờ các chất dinh dưỡng có trong nha đam giúp tái sinh tế bào, làm lành vết thương, chữa mụn nám. Nha đam đã được chế thành các loại kem giữ ẩm bù nước cho da, kem dưỡng da, lột da, chống nắng, bảo vệ da và kem mátxa toàn thân. Dạng gel bôi da còn được ứng dụng trong ngoại khoa để làm lành vết mổ và phòng chống nhiễm xạ.

Ngộ độc nếu sử dụng không đúng

image

Nha đam có nhiều loài, mỗi loài có sinh trưởng riêng và tuỳ theo thổ nhưỡng, khí hậu, vùng đất mà hàm lượng và thời kỳ thu hái có khác nhau, trong đó tốt nhất vẫn là A. vera và A. barbadensis, cây cho chất lượng tốt nhất vẫn là từ 2 – 3 năm tuổi.

Điều cần biết là nhựa cây nha đam nguyên chất là một chất độc, khi để ra ngoài không khí chất nhựa này dễ bị oxy hoá làm mất đi một phần hoạt tính, do đó cần có quy trình chiết xuất đúng đắn để ổn định hoạt chất.

Chất độc tố trong nha đam tuy không gây chết người nhưng có thể làm người ăn phải bị tiêu chảy, phụ nữ mang thai có thể sinh quái thai.

Tiêu hoá một lượng lớn nha đam có thể gây co thắt bụng, nôn mửa, tiêu chảy, bên cạnh đó nó còn bài tiết qua nước tiểu làm cho nước tiểu có màu như máu.

Phụ nữ đang cho con bú dùng cẩn thận vì trẻ có thể bị ngộ độc khi bú mẹ.

Nếu dùng trong thời gian dài (3 – 6 tháng dạng đã chế thành viên) có thể có hiện tượng tích luỹ gây rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy.

Người bị bệnh trĩ, viêm ruột không nên dùng vì anthraquinon trong nhựa nha đam gây sung huyết.

Người hay lạnh, hư hàn, tiêu chảy, huyết áp thấp cũng không dùng. Tốt nhất nên tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi sử dụng để đảm bảo an toàn.

image

Dùng lâu dài với liều lượng thấp không có hại. Không nên bôi trực tiếp lên da vì dễ bị kích ứng gây đỏ da và viêm loét. Đối với phụ nữ có da dễ nhạy cảm, trước khi sử dụng cần phải test trước để tránh làm sưng tấy và nhiễm trùng vùng da bị dị ứng.

Những hoạt chất có trong nha đam

image

– Polysaccharid: cellulose, glucose, rhamnose, aldopentose, galactose, xylose, arabinose và acemannan, chính chất này có tác dụng kháng virút và giúp tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể.

– Prostaglandin và các axít béo chưa bão hoà như axít gama linolenic, nhóm chất này có tác dụng tiêu sưng, giải dị ứng và làm lành vết thương, mau lên da non.

– Nhiều men tiêu hoá giúp ăn ngon và làm thuốc bổ.

– Nhiều axít amin (gồm tối thiểu 23 loại), vitamin (B1, B5, B6, B12, C, A, E), khoáng tố vi lượng (Ca, P, Cu, Fe, Mn, Mg, Na, K).

– Nhóm anthraglycoside có khả năng chống oxy hoá tế bào, nhuận trường, giải độc, chống táo bón gồm aloin, barbaloin, emodin, aloe-emodin, ester của axít cinnamic, axít hysophanic.

DS Lê Kim Phụng

Từ Lê Khôi và Nguyễn Kim Bằng gởi

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 13/07/13

VRNs (13.07.2013) – Sài Gòn – Đã 2.000 năm qua kể từ khi Chúa Giêsu về trời mà Ngài vẫn chưa trở lại. Nhiều người thắc mắc tại sao Ngài “trễ hẹn” lâu như vậy. Trong cuốn “Why I Am Not a Christian” (Tại Sao Tôi Không Là Kitô hữu – New York: Touchstone, 1957), tác giả vô thần Bertrand Russell đã kết án Chúa Giêsu không giữ lời hứa “trở lại” (*). Có lẽ nào Russell nói đúng, và Chúa Giêsu không giữ lời hứa?

Tông đồ Phêrô tiên báo có những người nhạo báng như Russell về việc “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành!” (2 Pr 3:4).

Có thể Russell và những người nhạo báng khác đáng lẽ phải xét kỹ lời của Thánh Phêrô, cũng như điều Chúa Giêsu đã nói về thời gian Ngài trở lại, và các sự kiện xảy ra trước. Chúa Giêsu nói rằng, dù không ai biết chính xác thời gian Ngài trở lại, nhưng có những “gợi ý” cho chúng ta biết thời cuối cùng đã gần, và phải luôn tỉnh thức (x. Mt 25:13).

Ngoài ra, các Tiên tri thời Cựu ước và các môn đệ của Chúa Giêsu cũng cho biết về cảnh tượng thế giới như thế nào trước giờ trở lại của Chúa Giêsu Kitô. Hãy nhìn vào vài “gợi ý” này trong trình thuật Mt 24:3-14 để biết thời gian Chúa Giêsu tái lâm:

– Động đất.

– Nạn đói.

– Chiến tranh.

– Dịch tễ.

– Bắt bớ các tín hữu.

– Phúc Âm được loan truyền khắp thế giới.

Động đất, nạn đói, dịch tễ, và chiến tranh đã và đang xảy ra xuyên suốt lịch sử nhân loại, nhưng Chúa Giêsu nói rằng sẽ có mức gia tăng đáng kể của các sự kiện này trước khi Ngài trở lại (x. Mt 24:3-51). Việc bách hại các tín hữu bắt đầu từ các Tông đồ và càng ngày càng gia tăng tới nay. Ngày nay các Kitô hữu đã và đang bị bách hại vì Đức Tin nhiều hơn trước đây. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những cuộc bách hại như vậy sẽ tiếp diễn cho tới khi Ngài trở lại, khi Tin Mừng được loan truyền khắp thế giới.

Theo Chúa Giêsu, khi các sự kiện này xảy ra trên khắp thế giới, chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì Ngài sẽ mau trở lại cứu độ chúng ta (x. Lc 21:28; Tt 2:13). Mặc dù các học giả Kinh Thánh không đồng ý về mọi chi tiết về việc Chúa Giêsu tái lâm, nhiều người vẫn tin rằng thời gian mà Chúa Giêsu nói tới đang đến rất gần. Chúng ta phải sẵn sàng mong chờ niềm hy vọng được chúc phúc và vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang của Đấng Cứu Độ Giêsu Kitô.

Tại sao Chúa Giêsu chậm trễ thực hiện lời hứa?

Thánh Phêrô giải thích lý do “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (2 Pr 3:8-10). Quả thật, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:14).

Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu chịu thử thách và bách hại. Họ muốn Chúa Giêsu đến sớm hơn. Tuy nhiên, Thánh Phêrô bảo họ rằng ưu tiên số một của Thiên Chúa là loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô đến tận cùng thế giới, đến với càng nhiều người càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ GodResources.org)

Một Tấm Gương Sáng Cho Thế Hệ Sau

Một Tấm Gương Sáng Cho Thế Hệ Sau

Tưởng Năng Tiến

bánh mì

Sứ mệnh cao cả của nhà báo là kiếm tìm sự thật. Sự thật ấy phải được phản ánh đạt tính chân thật, tức là “đúng hiện thực khách quan”. Và sự thật ấy phải được soi dọi bằng lương tâm chức nghiệp. Tôi nhớ người Nga có một câu ngạn ngữ vô cùng chí lí: “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật đã là sự giả dối!”

Ngọc Niên, Tổng Biên Tập trang Nhà Báo & Công Luận – Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam

——

Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua một bài viết (Người đàn bà tặng hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng) của nhà báo Hoàng Thùy, trên trang Tin Nhanh Việt Nam:

“Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ.

Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.

Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng.

Bà Hồ cho biết, thân sinh ra bà là cụ Hoàng Đạo Phương và Nguyễn Thị Lợi cũng như thân sinh của chồng bà, cụ Trịnh Phúc Lợi, đều là những nhà Nho yêu nước, từng tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Tất cả đều đỗ đạt mà không ai làm quan. Cụ Phương khi gần 80 tuổi đã gọi các con lại nói rằng: “Ta đã già mà chưa làm trọn việc nước, sau này con nào có điều kiện giúp nước thì hãy làm thay ta”.

“Lời căn dặn của cha tôi luôn khắc ghi trong lòng. Và khi có điều kiện là tôi giúp nước ngay mà không hề suy nghĩ”, bà Hồ tâm sự.

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về.

Bà Hồ nhớ, vào một buổi tối cuối tháng 8 năm 1945, ông Nguyễn Lương Bằng đến nhà bảo vợ chồng bà thu xếp một phòng đón cán bộ cách mạng đến ở. Ông bà dọn một phòng tầng 3 tươm tất để đón khách. Tuy nhiên, người khách mới đến lại dọn xuống tầng 2 để ở cùng mọi người cho tiện.

“Ấn tượng đầu tiên của tôi về người khách mới là sự giản dị. Ông cụ hơi gầy, vầng trán cao, râu dài, tóc bạc. Cụ mặc áo nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su hiệu con hổ trắng, tay cầm can. Để đảm bảo bí mật, chúng tôi nói với gia nhân rằng họ là người nhà ở dưới quê lên chơi và tất cả đều không được lên tầng 2 làm phiền”, bà Hồ nhớ lại.

33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”.

Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói: “Cháu vẫn có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!”

trinhvanbo

Ông bà Trịnh Văn Bô. Ảnh: Xuân Ba

Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … mất nhà. Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùyy đã không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này mới được công luận biết đến qua một tác phẩm mới (Bên Thắng Cuộc) của một nhà báo khác, Huy Đức:

“Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.

Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298).

Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ.

Trong suốt từ 24-8 cho đến ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh hiếm khi ra khỏi nhà 48 Hàng Ngang. Mỗi buổi sáng, cứ sau khi ông tập thể dục xong, bà Trịnh Văn Bô lại đích thân mang thức ăn sáng lên. Bà nhớ, có lần Hồ Chí Minh đã giữ bà lại và hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi mà có được gia tài lớn thế này?”. Năm ấy bà 31 tuổi, dù có 4 đứa con nhưng vẫn còn xinh đẹp. Hồ Chí Minh ở lại đây cho đến ngày 27-9-1945. Mỗi khi ra khỏi nhà, Hồ Chí Minh thường xuống tầng dưới vấn an bà mẹ ông Trịnh Văn Bô và gọi bà là mẹ nuôi. Ở 48 Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã ngồi viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tiếp các sĩ quan OSS như Archimedes Patti và Allison Thomas. Quần áo mà các lãnh đạo Việt Minh bận trong ngày lễ Độc lập, đều do gia đình ông bà cung cấp. Các ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp thì mặc đồ của ông Trịnh Văn Bô còn áo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì may bằng vải Phúc Lợi.

Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó.

Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.

Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.

Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí danh là Lê Tùng,  đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.”

“Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương đã bị đẽo gọt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí  – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.

T.N.T

(*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang” của Ngọc Niên, trên trang Nhà Báo & Công Luận, hôm 28 tháng 12 năm 2012.

NHỮNG NGƯỜI SAMARIA THỜI ĐẠI

NHỮNG NGƯỜI SAMARIA THỜI ĐẠI

Anmai, CSsR

Lời Chúa : một số người mang tâm trạng rằng “biết rồi ! Khổ lắm nói mãi !”.

Vâng ! Đúng là biết rồi khổ lắm nói mãi ! Nhưng nếu để tâm lắng đọng tâm hồn lại ta sẽ thấy Tin Mừng vẫn mới, mới mỗi ngày, mới mỗi giờ, mới mỗi phút, mới mỗi giây trong thực tại của cuộc sống.

Câu chuyện Chúa Giêsu đáp lời cho người thông luật trong trang Tin Mừng theo Thánh Luca chương 10, 25-37 thật hay. Câu chuyện đó vẫn mới, vẫn mới trong cuộc đời và câu chuyện đó vẫn chất vấn lòng, chất vấn lương tâm của chúng ta.

Thích thú, thấm thía và tâm đắc với câu chuyện mà người ta thường gọi là người Samaria nhân hậu này.

Thật khó để chia sẻ chứ không phải đơn giản. Đâu phải mình muốn nói gì thì nói bởi lẽ ngôn hành bất nhất và đôi khi suy nghĩ chưa tới nên cũng chẳng dám nói. Hôm nay, đụng chạm tới những gì rất thật trong đời thường nên chia sẻ.

Câu chuyện mà tôi thấy, tôi gặp, tôi chứng kiến ngày mỗi ngày đó là ngay cạnh bên tôi. Có nhiều người không phải là bị cướp như nạn nhân kia trong tin Mừng Luca. Họ cũng chẳng phải là những người đi từ Giêrusalem về Giêrikhô như nạn nhân kia. Họ là ai ? Xin thưa, họ là những người trở về từ khắp mọi miền của đất nước, thậm chí từ những vùng truyền giáo xa xăm ở ngoài nước trở về. Họ là những người dành cả cuộc đời dài để phục vụ anh chị em đồng loại, phục vụ anh chị em dân tộc thiểu số, phục vụ đồn điền, phục vụ những em học sinh … nay không phải bị cướp mà bị giới hạn của sức khỏe, của tinh thần nên cần băng bó, chữa lành, trợ giúp khi tuổi về chiều.

Họ là những người như thế, giờ đây đôi tay không còn vững để tự đưa cơm vào miệng nữa mà phải có bàn tay ai đó tay đỡ tay nâng. Có người giờ đây không còn khả năng ăn bằng miệng nữa mà phải cho thức ăn vào ống để đưa vào bao tử để sống những chuỗi ngày còn lại. Có người nằm đó sống đời sống thực vật gần hai chục năm trời … Họ nằm đó bất động hay đi lại một cách hết sức khó khăn thậm chí vệ sinh cá nhân cũng buông tay cho người khác giúp.

Bỗng dưng giữa những con người tàn hơi yếu sức đó lại có những người “samari” tự đâu Thiên Chúa gửi đến. Trong niềm tin, tôi tin là như vậy. Họ chẳng có họ hàng máu mủ gì với những tu sĩ linh mục thừa sai già yếu cả. Ấy vậy mà họ đã hy sinh sức khỏe, thời gian và nhất là cả tấm lòng để phục vụ những người đó.

Có những đêm về và nhất là những ngày này, thầy già nằm cạnh phòng thở gấp, thở vội, thở khó và những cơn ho kéo dài mệt mỏi nhưng những người đó vẫn sát bên với thầy. Có lẽ chẳng ai để ý và cũng chẳng ai muốn để ý đến đâu đó ở góc phòng của tu viện lại là những con người nằm đó tàn hơi yếu lực. Ở những căn phòng ấy, những người “samari” đâu đó đi ngang qua thấy thương và ở lại. Không chỉ đi công việc và hứa sẽ quay lại thanh toán nhưng họ ở lại, ở lại cho đến cuối cuộc đời.

Có những người “samari” thời đại quá nhân hậu. Nhân hậu đến mức ngoài sức tưởng tượng của ta. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân, họ để lại ở nhà cả vợ, cả con của họ để ở bên những người mà chẳng có họ hàng máu mủ gì với họ cả. Có về nhà chăng cũng chỉ là thăm vội người thân một tí rồi lại trở về chăm sóc người già lão bệnh tật. Có người chẳng dám rời cha “của mình” nửa bước vì sợ người khác chăm sóc không cẩn thận. Hay là chỉ cần cha già ho mạnh một tí là chạy cuống cuồng lên và cái miệng cứ oai oái lên làm như không ai lo cho cha già vậy. Cũng vì thương cha già nên đôi khi cáu gắt với những người chung quanh. Cũng dễ hiểu vì người “samari” đó đã hết lòng với cha già đau yếu.

Chuyện những người Samaria thời đại mà tôi gặp thường ngày không chỉ ở gần tôi nhưng còn ở nhiều nơi trong nhiều nẻo đường của cuộc sống.

Những người Samari nhân hậu đó tôi bắt gặp trong các bệnh viện như Phạm Ngọc Thạch, Ung Bướu, 115 và nhiều bệnh viện nữa.

Ở viện Phạm Ngọc Thạch, có nồi súp từ thiện cho những con người nghèo khổ đau bệnh. Trong đó cũng có nhóm người cứ chiều đến là tự nguyện đến tắm rửa, lau chùi cho những bệnh nhân vô gia cư và cũng không còn người thân cận. Ở trung tâm ung bướu thì có nồi súp ngày nào cũng được nấu lên để chia sẻ bữa no bữa đói cho những người nghèo … ở bệnh viện 115 cũng vậy, vẫn thấy những phần cơm, phần cháo chờ sẵn để chia cho những người nghèo cần đến.

Những người Samaria thời đại vẫn hiện diện và sống với những bà lão neo đơn tuổi giả cô quạnh ở nhà dưỡng lão Bình Lợi, Tân Thông, Phước Tỉnh … hay cưu mang người bệnh như Nhà Cỏ, Cầu Dừa … mà tôi có dịp thăm viếng …

Nhiều và nhiều người Samari khác ngày đêm chung chia với những người nghèo và bất hạnh. Họ không nói và họ chỉ làm và làm thôi.

Những người Samari này phải chăng là những người thực thụ đi tìm Nước Thiên Chúa, đi tìm sự sống đời đời một cách thiết thực nhất trong đời sống phục vụ yêu thương của họ.

Xin cho góp một lời cảm ơn những anh chị em Samaria thời đại mà tôi có một lần quen biết, nhờ cậy và đặc biệt là những anh chị em Samaria thời đại đang ngày đêm chăm sóc những anh em đau yếu bệnh tật tàn hơi của chúng tôi.

Cảm ơn anh chị em rất nhiều bởi lẽ không có sự hiện diện, sự trợ giúp của anh chị em thì chúng tôi và chính bản thân tôi cũng không làm được gì.

Chuyện người Samari hôm nay ta nghe, ta đọc có phần nào thức tỉnh lòng ta hay không ? Hay là cứ nghe cho có nghe, cứ đọc như cứ đọc như một cái máy vậy ?

Cõi lòng, hành động của chúng ta như thế nào chỉ mình Chúa biết mà thôi.

Ta có mặc lấy lòng của người Samaria hay là ta sống theo kiểu của thầy tư tế hay thầy Lêvi vẫn là lời mời gọi tự do Chúa mời chúng ta.

Anmai, CSsR

Hậu trường báo chí xã hội chủ nghĩa

Hậu trường báo chí xã hội chủ nghĩa

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-07-13

000_Hkg7508717-305.jpg

Một sạp báo ở Hà Nội hôm 26 tháng 6 năm 2012.

AFP

Ngày báo chí Việt Nam năm nay có hàng trăm giải thưởng trao cho các nhà báo được xem là xuất sắc trong số hàng chục ngàn nhà báo các tỉnh thành, địa phương khắp nuớc. Mặc Lâm tìm hiểu thêm hiện trạng báo chí Việt Nam qua nhà thơ và cũng là nhà báo Vi Thùy Linh để biết thêm những gì thật sự đang xảy ra phía sau hậu trường của nền báo chí xã hội chủ nghĩa.

Gần 2 vạn nhà báo

Nhà báo Vi Thùy Linh cho biết nhận xét của chị về giải thưởng lần này qua cái nhìn tỉnh táo của một người yêu nghề và có hệ lụy với nó gần hai mươi qua, chị cho biết:

Vi Thùy Linh: Tôi đã tham gia làng báo 17 năm. Bằng những quan sát của mình, tôi  nhận thấy rằng thực ra ở đâu cũng vậy thôi, tinh hoa luôn thuộc vào số ít, tinh hoa không thể là một đám đông được. Tôi thích tinh hoa trong bối cảnh của sự thi đua hăng say, sự yêu nghề. Độ lệch giữa tinh hoa và đối tượng không tinh hoa phải ít thôi, khả dĩ để cho ta hy vọng.

Tôi đã từng viết thẳng và nói thẳng: có nhiều bài phát biểu viết trước khi sự kiện được diễn ra thì bao giờ cũng có cụm từ “thành công tốt đẹp”. Thực tế không phải lúc nào cũng thành công tốt đẹp và tôi thấy có 3 điều như thế này:

Thứ nhất là về khoa học. Chúng ta có quá nhiều các giáo sư, tiến sĩ là những nhà nghiên cứu có công trình khoa học và giảng dạy. Đấy là những định nghĩa khái lược nhất nhưng nền khoa học của  chúng ta lại rất thấp. Chỉ riêng hình ảnh này thôi đã gắn đến bao nhiêu đời nay rồi. Bà con vẫn còn phải cắm tay, cắm chân trong bùn lạnh để cấy lúa. Hằng nghìn năm nay vẫn không  thay đổi được hình ảnh ấy. Tôi chỉ ví dụ một điều đó thôi. Bao nhiêu đời nay rồi, ở Việt Nam có bao nhiêu nhà khoa học, bao nhiêu giáo sư tiến sĩ không nghĩ được cái gì đó để thay đổi. Người nông dân quá vất vả mà đây là một đất nước nông nghiệp.

Thứ hai: có quá nhiều các danh hiệu nghệ sĩ. Tôi đi dự lễ trao danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở Nhà hát lớn vào ngày 19 tháng 5 năm 2012, đông kinh khủng, hàng mấy trăm nghệ sĩ được phong”ưu tú” và hàng trăm người được phong “nhân dân”. Vậy mà nền nghệ thuật Việt Nam thì vẫn còn rất thấp trên bản đồ thế giới. Đặc biệt  điện ảnh là ngành tôi rất tâm huyết thì nó gần như bị bỏ rơi. Giờ chỉ còn phim thị trường. Dòng phim chính thống và phim nghệ thuật đại diện Việt Nam mang ra thi quốc tế, như là một hộ chiếu văn hóa của Việt Nam thì đã bị bỏ mặc rồi.

“Nền báo chí phải nói là đông kinh khủng. Hội nhà báo hiện nay đã có 17 ngàn nhà báo có thẻ hành nghề của bộ Báo chí và Tuyên truyền  và 1.900 nhà báo được cấp thẻ hôi viên của hội nhà văn VN.
-Vi Thùy Linh”

Cuối cùng là báo chí. Nền báo chí phải nói là đông kinh khủng. Hội Nhà văn là một hội rất khó vào. Trong lịch sử tồn tại 56 năm của hội vẫn chưa có được 1.000 hội viên. Một năm trong 500 đơn xin phép thì chỉ có hơn 20 người được vào. Hội nhà báo hiện nay đã có 17 ngàn nhà báo có thẻ hành nghể của bộ Báo chí và Tuyên truyền  và 1.900 nhà báo được cấp thẻ hôi viên của hội nhà văn Việt Nam.

Như vậy là gần 2 vạn nhà báo và chưa kể số lượng các lực lương khác tham gia viết báo và số lượng các đầu báo của mỗi một ngành, một cơ quan, một tổ chức. Đến mức tôi cảm thấy khái niệm nhà báo không oai như hồi trước nữa, nhiều quá, nhàm quá. Trong cái bối cảnh đông như vậy, tôi lại không thấy trăm hoa đua nở mà lại bị tình trạng hỗn tạp phong trào và số lượng bài vở hàng chợ đã trở thành phổ biến. Nhiều tờ báo, nhất là những báo mạng, trở thành những trang để giải quyết cho giới show biz rất rẻ tiền, giật gân, thấp kém về cả từ lẫn tít và trình độ đưa tin nhưng mà vẫn tồn tại.

Mặc Lâm: Người ta thuờng cho rằng báo chí Việt Nam không thể vượt qua rào cản kiểm duyệt của nhiều cơ quan trong đó có chính bản thân nhà báo, họ phải tự kiểm duyệt mình trước khi giao số phận bài viết cho Tổng biên tập quyết định. Chị chia sẻ sự thật này ra sao?

Vi Thùy Linh: Có quá nhiều người viết nhưng có quá ít người tâm huyết  thì việc đầu tiên không phải tại chính thể hay sự chỉ đạo của đảng hay của ban Tuyên giáo trung ương. Tôi nghĩ không phải lý do như vậy mà chính trong nội tại của những người cầm bút. Anh cứ viết hay đi cái đã nhưng anh có viết hay được đâu! Việc anh không viết hay, anh không lăn lộn vào nghề, trước hết là ở chính anh chứ không phải tại ai khác. Tất nhiên cũng có một số các yếu tố, ví dụ như tôi đã nói ở trên.

Anh biết rồi, để viết những phóng sự hay là người ta phải chấp nhận những nguy hiểm –nào là đóng vai để lọt vào sào huyệt của những giới xã hội đen hay là đường dây ma túy hoặc là đường dây mua bán gái … Tất cả những cái đấy đều nguy hiểm. Họ đều phải kỳ công, mà giờ người ta không muốn kỳ công, người ta muốn nhanh.

_MG_1652-250.jpg

Một sạp báo ở Saigon. RFA photo

Mặc Lâm: Nếu vậy thì còn đâu ngọn lửa yêu nghề thôi thúc một nhà báo có các bài viết làm dậy làn sóng sư luận xã hội…Theo chị nguyên nhân nguội lạnh bắt đầu từ đâu?

Vi Thùy Linh: Bọn chúng tôi là 8X đời đầu hay 8X đời sau và 9X thì gần như không còn những người lửa nghề nữa vì nó có những nguyên nhân sau đây. Ngay những ngày đầu vào trường báo chí không phải là do yêu nghề, như tôi đã viết trong bài đã đăng “Khi nào có làn sóng phóng viên tài năng”. Họ vào là do tài cắm, vào do quan hệ, vào do tính đường khi ra trường xin việc, vào do mode thời thượng, vào do ý nghĩ “ừ làm báo cũng ninh nhỉ,  bây giờ giới show biz nó sôi động như thế mình vào thì thiếu gì chuyện để đưa  tin cho nó nhanh”. Tức là họ ngộ nhận về nghề- dễ dàng làm việc và nhanh nổi tiếng; Được vui vì đi dự cái này cái kia trong giới show biz.

Hiện nay ở Việt Nam báo chí cũng đang là ngành thời thượng vì sự bùng nổ của truyền thông, thông tin cao. Ở một mặt nào đó thì hào quang của nghề phóng viên mặc dầu không còn “oai oách” như thời xưa nhưng ở Việt Nam số lượng người háo danh ngày càng đông và đông đến mức bệnh hoạn cho nên bằng mọi giá không cần giữ danh dự, người ta sẵn sàng làm mọi thứ để được nổi tiếng.

Thiếu lương tâm nghề nghiệp

Mặc Lâm: Chị nhắc đến sự ham nổi tiếng làm tôi chợt nghĩ đến những cái tít rất gây hấn, nếu không muốn nói chính xác là quái dị…phải chăng giật một cái tít như thế cũng nằm trong mục đích muốn nổi tiếng của một thành phần nhà báo nào đó?

Vi Thùy Linh: Những cái tít ở trên báo nó man rợ quá. Chẳng hạn tôi đọc cái vụ giết người của  thằng Lê Văn Luyện, “thằng ấy” không thể gọi là con người được mà phải gọi là thú cần phải loại ra khỏi đời sống của cánh rừng chứ không phải là đời sống của loài người. Tôi là một trong những người rất phẫn nộ mà máy móc theo luật khi chưa đủ 18 thì không thể tử hình.

Loại đấy thì tiếc nuối gì mà không loại bỏ ra khỏi xã hội loài người mà bảo vì thiếu vài tháng cho nên nó qua được khung tử hình. Rất nhiều báo phản ánh nó chứ không phải là không nhưng phản ánh theo cái hướng  khai thác con người đó để thấy nó hoang lạc, khoái cảm, khoái chí khi miêu tả chi tiết của một thằng bệnh hoạn, man rợ vì lấy mạng sống của cả một gia đình ở Bắc Giang.

Tôi thấy cái đấy không phải tại ai chỉ huy, chỉ đạo cả mà do lương tâm và trình độ làm nghề rất thấp cũng như sự quản lý của các tổng biên tập của các tờ báo mạng đăng những cái bài mà dập những cái tít man rợ, khoái trá. Anh biết rồi, người ta có những video đen, xã hội đen, băng đen đọc những bài báo như thế với những hàng tít như thế và hàng triệu, hàng trăm người đọc. Trong những người đọc ấy có bao nhiêu người bản lĩnh, có đủ tri thức để không bị lôi kéo khi đọc những bài miêu tả rùng rợn như bị kích thích, như là cổ súy cho những việc đó. Còn lại là những số phận con người.

Mặc Lâm: Không lẽ chẳng còn một nhà báo có lương tâm nào sống sót trong cái mớ bòng bong báo chí ấy hay sao?

“Do lương tâm và trình độ làm nghề rất thấp cũng như sự quản lý của các tổng biên tập của các tờ báo mạng đăng những cái bài mà dập những cái tít man rợ, khoái trá.
-Vi Thùy Linh”

Vi Thùy Linh: Có, tôi thấy như anh Đỗ Doãn Hoàng đã chịu khó đi lên Mường Nhé, Mường Tè… rồi những vùng sâu, vùng xa để viết về những đứa bé ăn mặc mong manh đi học. Cơm không đủ ăn (cơm bây giờ vẫn còn đựng trong túi nylon, buổi trưa có mùi, moi ra ăn cơm không), trèo đèo lội suối. Bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu những người có trách nhiệm vẫn còn nghèo đã huy động nhau cùng giúp đỡ.

Những bài báo mang tính xây dựng xã hội như thế về những thân phận, những người bị oan sai, bị tù oan, bị chèn ép thậm chí là bị mổ nhầm, thậm chí bị cắt nhầm quả thận…những đối tượng ấy đều được phản ánh cả. Thế nhưng trong một cái guồng ăn xổi, chụp giật làm tôi thấy buồn vì giờ thì những chuyện giật gân lá cải gần như bằng với chính thống mặc dầu không ai tôn vinh nó cả nhưng nó đang nhiều đến mức độ nếu tính theo thói quen ở Việt Nam thì đa số hơn thiểu số. Cái đa số này đang gần như trở thành dòng chủ lưu rẻ tiền. Nó trở thành chủ lưu vì nó không bị tiểu trừng, không bị lên án và nó cứ hoành hành như thế.

Mặc Lâm: Bên cạnh những mảng xã hội tôi thấy báo chí rất thiếu thông tin về hoạt động chính trị của người dân, đặc biệt báo chí tỏ ra dị ứng với các cuộc biểu tình chống Trung Qúôc hay dân oan các tỉnh thành…

Vi Thùy Linh: Đúng là có hiện tượng ấy. Trong luật pháp Việt Nam thì được biểu tình nhưng những người biểu tình yêu nước, biểu tình lành mạn không có ném đất đá, không bạo động gì cả; Biểu tình đi qua đại sứ quán Trung quốc ở Hà Nội ở đường Hoàng Diệu thì công an Việt Nam cũng  ra chặn, không muốn điều đấy. Cũng có những bà con mất hết đất đai đi thất thểu tôi đã nhìn thấy khi đi qua vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Họ cầm băng rôn, biểu ngữ, ngồi thất thểu trong nắng nôi mệt mỏi. Tất nhiên là họ không bao giờ được vào bên trong cả, chỉ ngồi ở vườn hoa đối diện. Những hình ảnh đó hay thông tin đó thì ít khi được đưa trên báo chí. Chính những hình ảnh đó làm tôi suy nghĩ, thấy thương vì họ chính là dân đen theo đúng nghĩa như ngày xưa các cụ vẫn nói là “ phận áo ngắn”. Những người lao đông thì tội thật, khổ thật.

Mặc Lâm: Trước khi từ giã thính giả chị có kết luận gì trong buổi nói chuyện hôm nay, thưa chị?

Vi Thùy Linh: Đây là câu kết của tôi. Viện Báo chí tuyên truyền là nơi tôi được học từ năm 1997-2001. Tôi học ở phân viện và là lò đào tạo báo chí lớn nhất Việt Nam và chuyên nghiệp nhất hơn 50 năm rồi. Mỗi năm ra trường hơn 200 cử nhân, gần như không  ai bị trượt. Đã làm luận văn thì được 9,10, mà đã thi tốt nghiệp thì hầu như đều qua hết. Thầy cô không nỡ cho em nào trượt cả.

Tuy nhiên 200 em sinh viên ấy ra trường thì bản thân từ khi tốt nghiệp đã có sự giả dối rồi. Chúng ta không  có những  phần mềm để đọc, dò những luận văn ăn cắp. Có rất nhiều luận văn được viết bằng sự xào xáo của nhiều trường đại học khác chứ không riêng gì báo chí. Đi học thì có những em sinh viên tôi được biết vì chính những em đó nhờ tôi viết bài để các em mang về nộp cho đủ vì khi đi thực tập nhiệm vụ của em phải có 10 bài nhưng giờ chỉ mới có 5. Nhuận bút thì của chị nhưng chị cho em đứng tên!

Giả dối từ lúc đi thực tập. Gỉả dối từ luận văn xào xáo. Những cử nhân ấy đúng là những cử nhân giấy; Ra trường thì làm sao đủ bản lĩnh và tri thức để tác nghiệp?

Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà thơ, nhà báo Vi Thùy Linh về buổi nói chuyện hôm nay.

12 Tông Đồ

12 Tông Đồ

 

12 Tông Đồ được Chúa Giêsu chọn để sai đi rao giảng Phúc âm cho người Do Thái và các dân tộc khác.

  1. 1. Thánh Phêrô (Simon) – Anh ông Anrê. Ðược Chúa gọi là “Peter”, nghĩa là “Ðá”. Người sự lòng tin và cậy.
    Sự chết: Ðóng thập giá đầu xuống đất (trái ngược Chúa Giêsu) vào năm 66 A.D.
  2. 2. Thánh Anrê – Em ông Phêrô. Người sức mạnh.
    Sự chết: Trói đến chết vào năm 74 A.D.
  3. 3. Thánh Giacôbê – Con ông Dêbêđê và anh của Gioan. Người sự xét đoán.
    Sự chết: chém đầu tại Giêrusalem vào năm 44 A.D.
  4. 4. Thánh Gioan – Em ông Giacôbê và con ông Dêbêđê. Người lòng yêu. Hóa sách Phúc Âm theo Thánh Gioan.
    Sự chết: Bị đày đến Isle of Patmos vào năm 96 A.D.
  5. 5. Thánh Simon – Người nhiệt thành. Người sự lòng sốt sắng.
    Sự chết: Ðóng thập giá tại Presta vào năm 74 A.D.
  6. 6. Thánh Batôlômêô – Là Natanien, người Cana xứ Galilê, được Philípphê mời đến gặp Giêsu. Người sự tưởng tượng.
    Sự chết: Bị đánh, đóng thập giá, và chém đầu theo lịnh của Vua và năm 52 A.D.
  7. 7. Thánh Tôma – Người thống minh. Ðược gọi là “Tôma Hồ Nghi”.
    Sự chết: Ðâm bằng thương tại Corehandal, East Indies vào năm 52 A.D.
  8. 8. Thánh Giacôbê – Con ông Anphê. Người Giai cấp.
    Sự chết: Ném xuống núi nhỏ và đánh cho chết vào năm 60 A.D.
  9. 9. Thánh Philípphê – Ở Bétsaiđa vùng Galilê. Người quyền lực.
    Sự chết: Ðóng thập giá tại Heirapole Phryga vào năm 52 A.D.

10. Thánh Giuđa(ê) – Em ông Giacôbe và con ông Anphê. Người trong sạch.
Sự chết: Bị múi tên bắn vào năm 72 A.D.

11. Ông Giuđa Ítcariốt – Con ông Simon Ítcariốt. Người phản bội Chúa. Người sự sống.
Sự chết: Thắt cổ từ tử vào năm 33 A.D., sau khi Chúa Giêsu bị bắt.

12. Thánh Matthêu – Người thu thuế. Người ý chí.
Sự chết: Bị ám sát vào năm 60 A.D.

Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐC Phaolô Nguyễn Thái Hợp nói: “Cần có một sự thay đổi triệt để vì vận mệnh của đất nước”

ĐC Phaolô Nguyễn Thái Hợp nói: “Cần có một sự thay đổi triệt để vì vận mệnh của đất nước”


Nam Kha

7/10/2013
GP VINH (AsiaNews) – Là những giám mục, và là người Việt Nam, thì “sứ vụ của chúng tôi” là đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

Sự phát triển phải thông qua việc “thay đổi não trạng”, hủy bỏ vai trò trung tâm của “hệ tư tưởng Marxist” và đồng lòng “trở về với nền văn hóa truyền thống”. Đây là những gì mà Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin AsiaNews. Đức Cha Hợp hiện là Giám Mục chính tòa Giáo phận Vinh, ngài là một người ủng hộ mạnh mẽ chiến dịch sửa đổi hiến pháp (được thúc đẩy thông qua các kiến nghị thư và thu thập chữ ký) theo hướng nhằm kết thúc chế độ độc tài, đảng cộng sản.

Đức Cha cũng đang là Chủ tịch Ủy ban Giám mục về Công lý và Hòa bình, ngài khẳng định rằng sự thống nhất ý chí là điều liên kết hàng giáo sĩ Việt Nam với phong trào của các nhà trí thức đang đòi sự thay đổi, bởi vì “đó là trách nhiệm của tất cả những ai đang nghĩ về vận mệnh của dân tộc.” Ngài cho rằng, mục tiêu này chỉ có thể đạt được thông qua “một nền giáo dục hướng đến giới trẻ, cách riêng là giới sinh viên”, họ được coi là “nhà kiến tạo” của sự phát triển đích thực, không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế, mà còn liên quan đến “xã hội, chính trị và tôn giáo”.

Năm nay 68 tuổi, là một tu sĩ Dòng Đa Minh, hồi năm năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã bổ nhiệm ngài làm giám mục Giáo Phận Vinh. Ngài nói, Việt Nam đang trong “một hoàn cảnh lịch sử khó khăn”, đặc trưng bởi “vấn đề liên quan với Trung Quốc” và việc độc lập trong quá khứ cùng các cuộc xung đột ở Biển Đông. Từ thập niên 80 nó đã tạo thành “một mối đe dọa” cho sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia đã có những tiến bộ to lớn “trong lĩnh vực kinh tế”, nhưng lĩnh vực “xã hội, chính trị và tôn giáo” thì không được như thế. Đức Cha Hợp nói thêm, “Hiện nay, sự thay đổi này đang xuất hiện rõ nét những hạn chế. Và đó là lý do tại sao cần có một sự thay đổi triệt để vì vận mệnh của đất nước”. Ngài cho biết, tất cả các vị giám mục đã “đồng thuận về quan điểm này.”

Giáo Phận Vinh là một lãnh thổ đặc biệt nằm ở miền bắc Việt Nam, nơi đặc trưng xẩy ra các cuộc xung đột giữa giáo dân với chính quyền và thường dẫn đến việc chính quyền mở ra các cuộc đàn áp, bắt giữ, xét xử và kết án tù. Tuy nhiên, số lượng tín hữu ở đây đang phát triển: hơn 500.000 người Công Giáo trong tổng số 6 triệu dân (số liệu năm 2010) với một địa giới chia thành 179 giáo xứ.

Đức Cha Hợp nói: “Chúng tôi đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng đức tin thì kiên vững. Chúng tôi cũng có nhiều ơn gọi, để mọi người trẻ của chúng tôi hôm nay không chỉ có mặt ở Vinh mà còn trong các giáo phận khác nhau và trong nhiều cộng đoàn trên khắp đất nước”.

Đối tượng của công cuộc phúc âm hóa “có cả ánh sáng và bóng tối”, bởi vì thật sự “người Công Giáo vững mạnh” nhưng vẫn còn những sự hạn chế dai dẳng, do đó “chúng tôi không thể rao giảng Lời Chúa một cách dễ dàng như ở các quốc gia khác”. Các cuộc xung đột giữa người Công Giáo và người cộng sản “là rất kiên quyết” … “Và ngay cả hôm nay, những vụ xung đột vẫn tiếp diễn, việc đối thoại đã không được kiên trì mà đáng ra nó phải nên như thế”.

Ngài nói về việc Giáo Hội Việt Nam thiếu thốn phương tiện truyền thông hiệu quả (“chúng tôi không có đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí…”), nhưng “sự xuất hiện của internet đã mang lại những sự thay đổi, cho nên mỗi giáo phận và mỗi cộng đoàn đã có trang web riêng của mình”. Vì vậy, hơn bao giờ hết, giờ là lúc ưu tiên thực hiện “đào tạo nhân sự” cho những người “có năng lực” chứ không phải chỉ “đủ điều kiện” giống như trong quá khứ. “Cả hai việc này liên quan đến công cuộc phúc âm hóa và sự phát triển xã hội. Chúng tôi muốn hình thành – nhất là cho giới trẻ, sinh viên – một cái nhìn về tương lai và để làm việc, để đóng góp cách cụ thể và hiệu quả vào sự phát triển của xã hội Việt Nam”.

Hôm nay, Đức Cha Hợp đang chuẩn bị cho chuyến đi Nam Mỹ – nơi mà ngài từng giảng dạy trong nhiều năm – để tham dự Đại hội Giới trẻ Thế giới (World Youth Day), được cử hành tại Rio de Janeiro vào cuối tháng Bảy. Ngài khẳng định “sẽ có một phái đoàn nhỏ từ Việt Nam”, “không lớn vì Việt Nam đang cảm nhận sự khủng hoảng kinh tế đang bắt đầu. Nhưng đây sẽ là một cơ hội để được gặp Đức Thánh Cha Phanxicô cùng các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới, và tôi cũng gặp lại những người bạn cũ ở Brazil và Peru”.

Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp sinh ra tại Làng Anh, Nghệ An vào ngày 2 tháng 2 năm 1945. Ngài theo học tại Trung tâm Nghiên cứu Dominica và Đại học Văn Khoa Sài Gòn, nơi ngài nhận bằng Triết học Phương đông (1970). Ngài đến Thụy Sĩ để nghiên cứu luận án tiến sĩ triết học tại Đại học Fribourg (1978), và sau đó là tiến sĩ thần học luân lý tại Khoa Thần Học ở São Paolo (Brazil). Ngài được thụ phong linh mục ngày 8 tháng 8 năm 1972. Sau khi chịu chức thì dạy tại phân khoa thần học ở Lima (Peru) hồi thập niên 1980, và tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinas ở Roma (1997-2003). Từ năm 2000, ngài dạy một khóa học về luân lý và học thuyết xã hội của Giáo Hội tại Trung tâm Nghiên cứu Dominica và các học viện tôn giáo khác nhau, kể cả đại học ở Sài Gòn.

Nam Kha

Cuộc sống trụy lạc của ông Gaddafi qua lời kể của cựu nô lệ tình dục

12/07/2013
(TNO) Tờ New York Post (Mỹ) vừa đăng tải hồi tưởng của một cựu nô lệ tình dục của Muammar Gaddafi kể lại chi tiết đời sống hoang dâm vô độ của cố lãnh đạo Libya này.
Vào một buổi sáng cuối tuần trong tháng 4.2004, một bé gái Libya 15 tuổi tên Soraya được trao một vinh dự cao quý trong cuộc đời mình – đó là cô được chọn để trao bó hoa cho Đại tá Muammar Gaddafi khi nhà lãnh đạo này đến thăm trường học của cô.

Cố lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi – Ảnh: Reuters

“Bạn không thể tưởng tượng được niềm sung sướng mà tôi cảm thấy đâu. Được gặp ông Gaddafi ngoài đời… Tôi đã biết gương mặt của ông ta từ hồi tôi mới sinh”, tờ New York Post (Mỹ) dẫn lời Soraya kể lại.
“Tim tôi đập với tốc độ hàng trăm km/phút”, Soraya hồi tưởng.
Soraya khi đó là một cô gái Hồi giáo ngoan ngoãn, chưa bao giờ nếm một giọt rượu, rít một hơi thuốc lá hay hôn một đứa con trai nào.
“Lần gặp mặt diễn ra rất nhanh. Tôi chìa bó hoa ra, rồi cầm tay ông ấy và hôn nó khi tôi quỳ xuống… Cảm giác giống như tôi đang ở trên mây vậy”, Soraya kể.
Sau đó, ông Gaddafi đã xoa đầu cô.
Trong giây phút ấy, cố lãnh đạo Libya thực sự đã coi Soraya là một cô gái đặc biệt, và rồi ngay sau đó cô đã phải thất vọng hoàn toàn.
Những gì diễn ra cho Soraya đã được Annick Cojean, một nữ nhà báo kỳ cựu của Pháp, miêu tả lại trong quyển sách mới gây chấn động mang tên “Hậu cung của Gaddafi: Câu chuyện của một cô gái trẻ và sự lạm dụng quyền lực tại Libya”.
Sau khi cuộc cách mạng tại Libya kết thúc hồi năm 2011 với đoạn kết là cái chết của ông Gaddafi, Soraya đã dành nhiều ngày thuật lại kỷ niệm cay đắng của cuộc đời mình cho Cojean.
Sau ngày mà Soraya tặng hoa cho Gaddafi, ba thành viên trong đội cận vệ toàn nữ của ông này đã đến nhà Soraya để canh chừng cô.
Cái xoa đầu hóa ra lại là chỉ đạo mật của Gaddafi ngầm cho biết: Ta chấm con bé này.
Được biết, cận vệ nữ của ông Gaddafi phát hiện ra Soraya tại tiệm làm đẹp của mẹ cô, vốn là một tiệm cao cấp mà nhiều tình nhân của ông Gaddafi thường lui tới.
Safia, vợ của nhà lãnh đạo quá cố, từng thuê mẹ của Soraya làm tóc và trang điểm ngay tại biệt thự của mình.
Cha của Soraya là một thành viên thuộc cơ quan tin tức quốc tế của Libya.
Vì thế, khi cận vệ của Gaddafi xuất hiện và nói rằng nhà lãnh đạo muốn gặp Soraya trong vòng một hoặc hai tiếng, mẹ cô đã chần chừ.

Gaddafi và đội cận vệ toàn nữ của mình – Ảnh: AFP

Nhưng thực tế là bà đâu có quyền từ chối. Soraya được áp giải vào một chiếc xe thể thao với hai chiếc xe khác hộ tống và được lái như bay đến một tiền đồn ở vùng xa xôi hẻo lánh.
Khi đến nơi, Soraya gặp một cô gái khác, vốn cũng là một bạn cùng lớp của cô, đang ở đó và trông rất lo lắng.
Soraya sau đó được bảo đi vào một căn lều lớn, nơi cô trông thấy Gaddafi đang ngồi xem tivi trên một cái ghế trường kỷ dài, tay liên tục bấm chuyển kênh.
Nhà lãnh đạo Libya không hỏi han, cũng không nhận ra Soraya; thay vào đó, ông ta ra lệnh cho cận vệ “sửa soạn cho con bé” rồi đi ra ngoài.
Soraya nhanh chóng được đo đạc quần áo, thử máu, tỉa tót và được cho mặc một bộ đồ lót đầy khêu gợi, những thứ hoàn toàn xa lại đối với cô.
Sau đó, các cận vệ bảo cô rằng sau khi cô “đón tiếp” lãnh đạo Gaddafi xong (họ gọi ông này là “Papa Muammar”) thì cô có thể về nhà.
Soraya được dẫn đến phòng của ông Gaddafi bởi một cận vệ nữ tên là Mabrouka, người sau đó đã bỏ Soraya lại trong phòng rồi nhanh chóng lui ra ngoài.
Và trên giường là Papa Muammar, hoàn toàn không mặc gì trên người.
“Tôi đã không hiểu gì hết. Tôi quá bối rối”, Soraya nhớ lại về lần đầu tiên cô bị ông Gaddafi hãm hiếp. Từ đó trở đi, cô trở thành nô lệ tình dục cho Đại tá Gaddafi, theo New York Post.
Đội cận vệ toàn nữ
Đối với nhiều người Libya sống dưới thời ông Gaddafi, nhà lãnh đạo này là một người bênh vực cho nữ quyền.
Đội quân cận vệ toàn nữ của ông Gaddafi cho thấy sự tôn trọng của ông này đối với phụ nữ, tin tưởng họ đến độ giao cho họ bảo vệ an ninh cho chính mình.
Không có bất kỳ lãnh tụ nào ở Trung Đông vào thời đó dám nghĩ đến điều như vậy.
Ông này còn là tác giả của quyển “Sách Xanh Lá”, trong đó ông tán thành quyền bình đẳng của phụ nữ.
Ông Gaddafi cũng đã nhận được nhiều lời khen khi tranh cãi với các nước phương Tây về sự thiếu sót của họ trong lĩnh vực này.
“Muammar Gaddafi là người đã mở ra cơ hội cho chúng tôi tiến lên”, một thành viên trong nhóm cận vệ nữ của ông này nói với AP vào năm 2011.
“Đó là lý do vì sao chúng tôi bám víu lấy ông ấy, là lý do vì sao chúng tôi yêu mến ông ấy. Ông ấy cho phụ nữ chúng tôi quyền tự do gia nhập lực lượng cảnh sát, làm nghề kỹ sư, phi công, thẩm phán… bất cứ nghề gì”, cô này nói.
Tuy nhiên, sự thật là phần lớn các thành viên thuộc đội nữ vệ binh của ông Gaddafi cũng là nô lệ tình dục cho ông này.

Ba thành viên xinh đẹp thuộc đội cận vệ nữ của ông Gaddafi – Ảnh: www.libyaherald.com

Cố lãnh đạo Libya còn lùng tìm nô lệ tình dục mới tại các tiệc cưới, trường học và hội nghị.
Ông này có một căn hộ bí mật nằm trong khu ký túc xá của Đại học Tripoli (Libya), nơi ông bắt cóc và hãm hiếp sinh viên.
Ông thậm chí còn bị cho là đã liên tục dụ dỗ vợ và bạn gái của các quan chức nhà nước và các nhà ngoại giao.
Gaddafi thường xuyên dùng Viagra và có nhu cầu phải quan hệ ít nhất… bốn lần/ngày với bốn người khác nhau.
Ngoài ra, còn có những phụ nữ ngoại quốc không cưỡng lại được sự cám dỗ từ quyền lực và của cải của ông Gaddafi cũng tình nguyện hiến dâng cho ông này, theo New York Post.
“Tôi luôn ngạc nhiên khi thấy những phụ nữ xa lạ vào phòng ông ta. Những cô này ăn mặc sang trọng với bóp hàng hiệu trên tay tiến vào phòng, rồi trở ra với son môi bị nhòe và tóc rối bù”, Soraya hồi tưởng.
Nghiện rượu và ma túy
Soraya cũng tiết lộ rằng ông Gaddafi thường ăn tỏi vào buổi sáng, tu rượu Johnnie Walker Black như uống nước lã và hút ma túy. Tín ngưỡng duy nhất của ông này là ma thuật.
“Ông ta không đeo bất cứ bùa chú gì, nhưng luôn thoa một loại thuốc mỡ lên người và mang một cái khăn nhỏ màu đỏ trên tay”, Soraya cho hay.
Gaddafi giam giữ Soraya cùng các cô gái khác trong một tầng hầm không cửa sổ, ẩm thấp và tối tăm.
Ông này còn buộc tất cả các cô gái phải coi phim đen để học cách thỏa mãn cho ông ta, theo Soraya.
Soraya cho biết cô mất hết khái niệm về thời gian và không biết gì về thế giới bên ngoài.
Vào ngày 23.8.2011, Tripoli thất thủ và gần hai tháng sau, ông Gaddafi bị một phiến quân bắn chết.

Hình ảnh được kênh Arabiya phát đi cho thấy cảnh ông Gaddafi trước khi chết – Ảnh: AFP

Trong cung điện của nhà lãnh đạo Libya, người ta tìm thấy rất nhiều phim sex, một sở thú nhỏ, hình bằng kích cỡ người thật của nam diễn viên nổi tiếng của Mỹ Jake Gyllenhaal, một bộ sưu tập ảnh đề tặng Condoleezza Rice, cựu Ngoại trưởng Mỹ với dòng chữ “Người phụ nữ châu Phi da màu đáng yêu của tôi” và một hệ thống đường hầm và boong ke, nơi Soraya và rất nhiều cô gái khác bị giam giữ.
Sau khi cuộc cách mạng tại Libya kết thúc, rất nhiều đàn ông và phụ nữ Libya cũng đã đồng ý kể lại cho nữ nhà báo Cojean khoảng thời gian họ bị bắt cóc, tra tấn và cưỡng hiếp.
Ngày nay, Soraya sống một mình và ẩn danh tại Tripoli.
Cô không có bạn và hút ba gói thuốc/ngày, thường ngồi nhìn ra cửa sổ và tự hỏi liệu thế giới có bao giờ biết được những gì đã xảy ra cho cô và những người khác.
“Tôi không hề tưởng tượng ra tất cả những chuyện này. Chị tin tôi mà, đúng không?”, cô nói với Cojean.
Hoàng Uy