“Những xác Thánh không hư nát”,

Cuốn sách “Những xác Thánh không hư nát“, có tiểu sử và hình chụp,
Có những thi thể không bị rữa nát qua thời gian dù không trải qua bất cứ sự can thiệp kỹ thuật nào. Hiện tượng có vẻ đi ngược với quy luật tự nhiên này được gọi là nhục thân bất hoại (incorruptible body).
Thánh Bernadette (Lourder, Pháp) là một ví dụ điển hình. Bà qua đời ở tuổi 35. Và 30 năm sau đó (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài.
Thánh Bernadette trong quan tài pha lê
Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài
của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của
Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn
mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên,
miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ
được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay
quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong
nhà mồ.
Vào năm 1913, Đức Giáo Hoàng Pius X phong Chân Phước cho Bernadette. Điều này
đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến
năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai
quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn.
Năm 1925, Thánh nữ Bernadette được Đức Giáo hoàng Pius XI phong Thánh. Lần thứ
ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi
người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến tận ngày
nay vẫn còn, nếu có dịp xin mời các bạn đến thăm để được tận mắt chứng kiến.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (Đấng triệu tập Thánh Công Đồng Chung Vatican II năm 1962). Ngài qua đời ngày 03/06/1963 khi Công Đồng vẫn đang diễn ra, và sau đó Đức Hồng Y Montini lên ngôi với hiệu triều Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục Thánh Công Đồng.
Thi hài của ĐTC John XXIII được đặt ngay bên dưới chân bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô để dân chúng chiêm ngắm
38 Năm sau ngày ngài băng hà, Tòa Thánh tiến hành các thủ tục tôn phong Chân
Phước cho ngài, khi mở quan tài để kiểm tra thì phát hiện xác chết của ngài
không hề mảy may hư nát và thối rữa. Thời gian sau, ngài được tôn phong Chân
Phước (Beautification) .
Hiện nay, thi hài của ĐTC Gioan XXIII đã được đưa lên đặt trong 1 quan tài bằng
pha lê bên dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô để dân chúng có thể kính
viếng và chiêm ngắm. Nét mặt ngài vẫn giữ nguyên sức sống và cơ thể không hề bị
tẩm ướp bằng bất cứ loại hóa chất nào. Hầm mộ cũ trước đây nơi đặt quan tài của
ngài bây giờ đã được thế chỗ bằng quan tài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Thi hài Đức Thánh Cha John XXIII
THÁNH JOHANNES MARIA VIANNEY – Pfarrer von Ars ( Cha Xứ thành Ars)
Thánh „Cha xứ thành  Ars“ sinh ngày 8.5. 1786 tại làng bên cạnh thành phố Lyon. Ngài sông vào thời gian cách mang Pháp. Ngài đã đón nhận buổi rước lễ vỡ lòng tại tư gia Cha mẹ là một tiệm đã bị đóng cửa. Ban đầu Ngài đã làm việc phụ giúp Cha mẹ trong nông trại. Ngài bắt đầu vào chủng viện để học ra linh mục khi 19 tuổi. Mặc dù không phải là không có khả năng, nhưng luôn luôn bị khó khăn, thất bại trong đường
học vấn. Mặc dù thế Ngài vấn được thụ phong Linh mục, vì lòng rất ngoan đạo
(1815).
Cha Xứ thành Ars sống đời sống rất khó nghèo. Ngài đã biến Giáo xứ bê bối thành một giáo xứ đạo đức. Ngài đã giải tội, giảng dạy, chăm sóc các linh hồn ngày và đêm. Dân chúng vô kể đã dến tìm Ngài để xin cố vấn và giúp đỡ.
Mặc dù Ngài rất kính trọng thiên chức Linh mục, nhưng vẫn cảm thấy không khó
vượt qua được nhiều cám giỗ, nếu hội đồng giáo xứ không yêu cầu, Ngài đã vào
dòng kín. Ngài mất vào ngày 4.8.1859 và được an táng tại thành Ars.
Đức giáo hoàng Pius XI đã phong thánh và tuyên bố Ngài là Thánh quan thầy của
các Linh Mục.
Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê] (1506-1552) được chôn cất tại
một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta
khai quật mộ ngài để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di
hài 400 năm tuổi của ngài vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại thành Goa (Ấn Độ).
Di hài Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê]
Di hài Thánh Vincent de Paul [Vinhsơn Phaolô]
Katharina Labouré
1947 Bà đã được phong thánh. Thân xác của bà không hề hư hỏng và đang nghỉ ngơi trong lồng kính tại nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra ở Rue du Bac , Paris. Bà chết ngày 31.12.1876.
Katharina sinh ngày 2.5.1806 tại Fain les Moutiers, trong một làng nhỏ thuộc Burgund, cách thành phố Dijon 60 km. Sr. Katharina là người con thứ 8 trong tổng số 10 anh chị em. Sau khi bà mẹ mất lúc 12 tuổi, Sr. đã đảm trách nông trại.
Dấu hiệu Chúa gọi từ từ tỏ ra, 1830 Katharina đã gia nhập nữ chủng viện Vinh-Sơn (Vinzentinerinnen) , 140 đường Rue du Bac ở Paris lúc 24 tuổi. Tại đây Sr. có nhiều kinh nghiệm về cõi siêu hình, thiêng liêng huyền bí. Từ khi còn nhỏ, Sr. đã chọn Đức Trinh nữ  Maria làm mẹ, giờ đây chính Đức mẹ đã hiện ra với Sr.
Nhà Nguyện nơi Đức mẹ đã hiện ra với Sr. Katharina, bên tay trái là xác Sr. Katharina. Trong đêm18 rạng 19.7.1830 Sr. đã đối thoại với Đức Mẹ hơn 2 tiếng đồng hồ: „Con hãy đến chân của bàn thờ“ và Đức Mẹ đã giải thích về ý nghĩa của cầu nguyện và Thánh  lễ Misa.
Ngày 17.9 cùng năm đó, vào lúc 17 giờ 30, là giờ suy niệm chung ở trong nhà
nguyện, Đức Mẹ Maria đã tín nhiệm giao cho mệnh lệnh loan tin cho thế giới. Đó
là một huy hiệu với dòng chữ: “Lạy Mẹ Maria, vô nhiễm nguyên tội, xin cầu
xin và che chở chúng con“.
Di hài Thánh Catherine Laboure (1806-1876)
Nữ thánh Klara của thành phố Assisi

Bà Thánh thành Assisi, sinh năm 1194. Khấn trọn đời lúc 18 tuổi. Lập dòng Klarissinen khó nghèo,và khiêm nhường. Sau này Mẹ và em gái của bà cung vào tu tại đây. Ngay khi còn sinh tiền nhà dòng của bà đã được phát triển khắp mọi nơi trong và ngoài nước ý. Bà mất ngày 11.8.1253. Thân xác vẫn còn tồn tại yên nghỉ tại nhà thờ của thành Assisi.
Nữ Á Thánh Anna Maria Taigi
Sinh Ngày 29.5.1769 tai Siena (Italy)
Mất ngày 9.6.1837 tại Rôma
Anna Maria Taigi đã được nhận ơn tiên tri của chúa 25 năm liền. Bà mẹ của 7
người con đã thị kiến thấy một vòng hào quang quanh mặt trời, trong tâm điểm
của mặt trời bà thấy được mọi chuyện quá khứ, vị lai của nhân
Trong cuộc sống của bà, bà sống cuộc đời ăn năng đền tội và chay tịnh
Anna Maria Taigi mất khi 68 tuổi tại Rôma và được Đức Giáo Hoàng Benedikt XV
phong á thánh vào ngày 30.5.1920.
Thánh Johannes Bosco (Don Bosco)
Tên thật là Giovanni Bosco, sinh ngày 16.08.1815 tại Becchi ở Piemont (Norditalien) , thụ phong Linh mục năm 1841.
Lúc sinh tiền Ngài đã thành lập nhà dòng Salêsiêng (Salesianer) 1859, chuyên chăm sóc các thanh thiếu niên bụi đời, huấn nghệ và học hỏi Lời Chúa.Ngài có ơn tiên tri, và được coi như thánh sống.
Năm 1866 xây nhà thờ Salesianer và mộ ngài cũng nằm tại đây (31.01.1888) . Hiện nay xác Ngài được bỏ vào lòng kính để mọi người có thể thăm viếng cầu nguyện.
Có rất nhiều trường hợp các Thánh khác xác không thối rữa và hư nát, ngược lại
còn bốc mùi của hương hoa hồng như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Martinô
de Porrés…nhưng không liệt kê ra ở đây vì chưa kiếm thấy tài liệu hình ảnh.
SAN GIOVANNI ROTONDOMột trong những vị thánh đương thời được coi là thi hành nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm hôm qua xác ngài lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.

Lớp sáp phủ lên mặt thánh Piô hiện tại

Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh
đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.
Hôm qua có tới 15,000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử
hành khi xác của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Xác của Cha thánh Piô được
khai quật hôm 3/3/2008 cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn
cất. Từ ngày có đến nay một nhóm chuyên gia gồm bác sĩ và chuyên ngành hóa chất
đã làm việc tận tình đễ duy trì và tái thiết xác ngài hầu giữ xác lâu dài và
bảo tồn để cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là
một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
– cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng
đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng
qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn
băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
– cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha
vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu
vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại
miền Nam Ý.

Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo

Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì “thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.”
Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mắt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silikon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Anh Nguyễn V Thập gởi

TRÍ NHỚ GIẢM SÚT PHẢI LÀM SAO?

TRÍ NHỚ GIẢM SÚT PHẢI LÀM SAO?

Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen

Đôi lúc, bạn có cảm  giác mất trí nhớ tạm thời nên chẳng biết mình đang và cần làm gì? Càng lớn  tuổi, con người càng hay quên.

Đó là lý do bạn nên quan tâm, chăm sóc cho “bộ nhớ” của mình từ bây
giờ.

Trí nhớ và hoạt động trí tuệ nói chung là chức năng thần kinh cao cấp của con
người. Ở mỗi người, trí nhớ lại có những phương thức hoạt động phù hợp với
hoàn cảnh nghề nghiệp, gia đình, vị thế xã hội của họ.

Trí nhớ ngắn hay dài hạn đều phụ thuộc vào não bộ.

Người ta phân biệt hai loại trí nhớ ngắn hạn và dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn là
khả năng lưu giữ những thông tin mới tiếp nhận trong vài giây, trước khi nó
được củng cố để giữ lại lâu dài. Trí nhớ dài hạn là quá trình lưu giữ các
thông tin tiếp nhận được và con người có thể nhớ tới chúng sau một thời gian.

Dù ngắn hay dài hạn, việc hình thành và duy trì trí nhớ đều trông cậy vào một
khu vực nằm sâu trong não bộ, gọi là vùng hippocampus. Bên cạnh nó là vùng
hạnh nhân (amygdala), tạo cảm xúc, in dấu những ký ức của mỗi người. Lớp
ngoài của võ não lưu giữ trí nhớ dài hạn ở những khu vực khác nhau nhờ những  loại hình thông tin đa dạng như ngôn ngữ, cử chỉ, cảm giác…

Để những vùng nói trên hoạt động hiệu quả, các động mạch nuôi não phải thông  suốt để não có đủ ô-xy, năng lượng, các chất dẫn truyền thần kinh không thiếu  hụt và các “khớp thần kinh” (synase) được bảo tồn.

Tuy nhiên, trong thực tế, những điều kiện đó dễ bị xâm hại do tác động của
nhiều yếu tố, khiến chúng ta sa sút trí tuệ, mất trí nhớ, bị bệnh Alzheimer,
Parkinson…

Những phương pháp cải thiện trí nhớ hiệu quả:

Kẻ thù nguy hiểm nhất của trí nhớ là stress. Trong gia đình cũng như ngoài xã
hội, mọi người đều chịu nhiều áp lực. Không ít người bị stress trầm trọng
khiến cơ thể phóng thích nhiều cortisol (hormone stress), làm tổn thương vùng  hippocampus.

Mặt khác, stress còn làm giảm, thậm chí mất tập trung. Ngoài ra, cortisol còn
thúc đẩy việc sản xuất insulin, ngăn không cho vùng hippocampus sử dụng đủ
đường huyết để não có năng lượng cho việc ghi nhớ. Hơn thế stress còn gây khó  khăn cho việc “truy cập” ký ức đã được lưu giữ.

Dưới đây là các cách giúp cải thiện trí nhớ.

1.Hóa giải stress bằng phương pháp thiền hay yoga.Đây là cách gỡ bỏ
các áp lực, làm trùng giãn tâm thần, tăng khả năng tập trung… Ngoài ra, bạn
có thể luyện tập thể lực ngoài trời như bơi lội, đi bộ, đạp xe, tập  aerobic… Hoạt động thể lực chính là biện pháp đốt cháy stress, vì chúng cho  tim tăng cung lượng máu tới não và các phủ tạng, khiến tinh thần phấn chấn,  sảng khoái.

2.Tập thể dục cho não bằng cách đọc sách, báo, lướt các trang web lành  mạnh và bổ ích. Đồng thời, bạn nên chơi các trò chơi trí tuệ như ô chữ,
cờ tướng (hoặc cờ vua), học ngoại ngữ hay chơi một loại nhạc cụ nào đó…
Cách này làm tăng lượng ô-xy tới não, thúc đẩy quá trình dịch chuyển từ bộ
nhớ ngắn hạn sang dài hạn.

3.Một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân đối, nhiều rau, trái cây, giúp
tăng cường các chất dinh dưỡng như lecithin (có trong dầu đậu nành, trứng,
lạc, mầm lúa mạch, gan), vitamin C (trong cam, chanh, rau, quả) và các
vitamin nhóm B (trong gan, thận, thịt nạc, sữa, yoghurt). Tất cả các chất này
hỗ trợ cho việc sản xuất chất dẫn truyền thần kinh acetylchline.

Các a-xít béo omega-3 như DHA được coi là “thức ăn của não”.. Chúng
có nhiều trong các loài cá biển vùng nước lạnh như cá hồi, các trích… giúp
bù đắp một lượng đáng kể chất xám của não. Chất béo trong não làm thành các
màng tế bào và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sống còn của tế bào
não. Các nơ-ron thần kinh cũng rất giàu a-xít béo omega-3 còn giúp cân bằng
xảm xúc lành mạnh và tâm trạng tích cực ở người cao tuổi. DHA cũng là thành
phần chính của các “khớp thần kinh”.

Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, các chất chống ô-xy hóa từ rau, trái
cây, các quả mọng (mâm xôi), khoai lang, cà chua, bông cải xanh, củ cải
đường, cam, nho, quả cherry, kiwi, gấc… làm giảm đáng kể nguy cơ suy giảm
trí nhớ di chứng trung hòa hoặc vô hiệu hóa các gốc tự do. Ngoài ra, các chất
chống ô-xy hóa còn cải thiện dòng chảy ô-xy qua cơ thể và não.

Với những người cao tuổi, chế độ ăn hạn chế năng lượng xem ra rất hữu ích. Họ
sẽ tránh được các nguy cơ thừa cân, béo phì, dẫn tới những bệnh mạn tính như
cao huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch… Chúng không những đe dọa khả  năng ghi nhớ mà cả sinh mạng người cao tuổi.

Não có chừng 50% nước cho nên bạn phải uống đủ nước (1.500-2.000ml mỗi ngày)  để thủy hợp (hydrate hóa) não dễ dàng. Thiếu nước hoặc mất nước nhẹ có thể  làm gia tăng hormone stress, khiến não bị tổn thương, giảm thiểu trí nhứ. Bạn  có thể uống nước sôi để nguội hoặc nước trà. Trong trà có nhiều chất tăng thư  giãn tâm thần, tăng sự lanh lợi, hoạt bát… Thế nhưng, bạn cần tránh uống  trà đặc vào buổi tối vì có thể dẫn đến mất ngủ.

Mỗi ngày, bạn nên uống một đến hay ly rượu vang đỏ. Chúng có tác dụng làm
giãn nở mạch máu. Các chất chống ô-xy hóa trong rượu còn bảo vệ tế bào não,
qua đó cải thiện trí nhớ của bạn. Tuy nhiên, không nên lạm dụng rượu vì uống
nhiều làm tăng cholesterol, nguy cơ xơ vữa động mạch và cản trở dòng máu tới
não. Các nghiên cứu của Đại học Harvard, Mỹ, đã chứng minh, người lạm dụng
rượu thường kém tập trung. Khi tham gia những thử nghiệm về nhận thức, họ kém  hơn hẳn những người uống rượu vang có chừng mực.

4.Phải tạo được giấc ngủ tốt để giúp não củng cố trí nhớ ngắn hạn
cũng như dài hạn. Nghiên cứ của Đại học Lubeck , Đức, đã cho thấy sự sáng tạo
và khả năng giải quyết vấn đề có liên quan mật thiết đến giấc ngủ đầy đủ của
mỗi người. Chứng mất ngủ hay chứng ngừng thở khi ngủ làm cho người ta mệt mỏi  nên không thể tập trung.

5.Kiểm soát tốt những căn bệnh mãn tính như cao huyết áp, đái tháo đường… cũng  là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường trí nhớ.

6.Lối sống tích cực, lạc quan, cởi mở có tác động rất lớn trong  việc giảm thiểu nguy cơ trầm cảm, nhất là đối với phụ nữ tiền mãn kinh, mãn  kinh và những người lớn tuổi. Đồng thời, cách này còn cải thiện đáng kể trí  nhớ và các hoạt động trí tuệ nói chung. 

Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen

Nguyễn Minh Tâm dịch

   

Sáu Bước Đơn Giản Để Giữ Đầu Óc Minh Mẫn

Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc
chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là
bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng
phải, giống như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.

Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc trình của chính phủ, để ý đến những dòng chữ nhỏ, chúng ta sẽ tìm thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc gìn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lão hoá.

Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ bằng chứng nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng rõ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.

Bản phúc trình không giải thích vì sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ- dementia- đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, vì mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia..Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).

Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít thì nhiều đều vướng phải tình trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn vì máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng.

Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.

1- Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi:Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho não bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10,000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít
nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer . Bạn
có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: Đi bộ,
Làm Vườn, hay Khiêu vũ.

2- Ăn thục đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp: Rau tươi, trái cây
tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids. Họ thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp của não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900 mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3.5 tuổi.

3- Hay ăn thực đơn của dân Địa Trung Hải: ăn uống hàng ngày giống thực đơn của người Ý và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.

Ăn theo kiểu dân Điạ Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48%.

Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại cho não bộ, vì thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.

4- Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút  rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.

5- Ráng duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp: Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp – lý tưởng là 115/75 – bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong não.

6- Tránh đừng để bụng phệ: Vòng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dõi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. Vì thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy trì vòng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.

Chỉ có một bộ phận nên gìn giữ cho to lớn. Đó chính là não bộ của bạn..

Nguyễn Minh Tâm dịch theo S.F Examiner

__._,_.___

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

14 thanh niên Công giáo và Tin Lành bị cáo buộc ‘thực hiện các hành động nhằm lật
đổ chính quyền’ (ảnh: thanhnienconggiao)

 

nguồn: VOA Tiếng Việt

08.01.2013

Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An hôm 8/1 đã tiến hành xét xử 14 người, trong đó có 12 người Công giáo. Họ bị chính quyền cáo buộc thực hiện các hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Một trong các luật sư tham gia bào chữa, ông Trần Thu Nam cho VOA Việt Ngữ biết
rằng vụ xử hôm 8/1 đã kết thúc phần xét hỏi và đã chuyển sang phần tranh luận.

Luật sư Nam cho biết: “‘Viện Kiểm sát đã phát biểu những lời luận tội của mình và các luật sư đã đưa ra quan điểm. Việc tranh luận tại phiên tòa chấm dứt do hết giờ. ”

Trong khi đó, báo chí trong nước đưa tin, đây là phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự ‘Hồ Đức Hòa cùng đồng phạm hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’.

Tờ báo này cũng đưa tin là có hàng trăm Công an tỉnh Nghệ An tham gia bảo vệ
phiên tòa.

Các tin tức trên các trang mạng xã hội cho biết đã xảy ra xô xát giữa người thân các bị cáo và lực lượng an ninh.

Những hình ảnh đăng trên các trang blog cho thấy người nhà của những người bị
đưa ra xét xử đứng đối mặt với các nhân viên bảo vệ bên ngoài tòa án.

Tờ báo dẫn lời cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An gọi 14 người
vừa kể là ‘đường dây tội phạm được tổ chức Tân Việt huấn luyện tại Thái Lan,
Campuchia, Philippines và Mỹ từ năm 2010’.

Luật sư Nam cũng cho biết rằng tất cả các bị cáo đều bị cáo buộc là thành viên
của tổ chức hoạt động ở hải ngoại.

Ông Nam nói: “Luật sư chúng tôi phản bác rất là nhiều. Có 4 luật sư thay
nhau đưa ra quan điểm cho rằng một số bị cáo không tham gia Đảng Việt Tân. Cái
thứ hai là không đủ cơ sở để kết tội các bị cáo đã tham gia đảng Việt Tân. Chưa
đủ chứng cứ và có một số những cái trình tự thủ tục tố tụng còn thiếu và có vi
phạm cho nên Luật sư Hà Huy Sơn thì nói rằng các bị cáo không có tội. Luật sư
Nguyễn Thị Huệ nói bị cáo Sơn không có tội. Còn quan điểm của tôi thì cho rằng là
với những cái chứng cứ trong hồ sơ thì chưa đủ kết tội các bị cáo. Nếu như cần
làm rõ hơn thì cần thiết phải trả lại hồ sơ và bổ sung tất cả các chứng cứ cần
thiết và làm rõ những cái vi phạm tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã
vi phạm.”

Được biết, các bị cáo chưa lên tiếng trong phiên xử hôm nay vì hết giờ. Phiên
xử sẽ tiếp tục vào ngày mai, 9/1.

Việt Tân chưa lên tiếng trước cáo buộc mới nhất đối với họ.

Chính quyền Hà Nội coi Việt Tân là một tổ chức khủng bố, nhưng tổ chức hoạt
động ở hải ngoại này từ trước tới nay luôn bác bỏ tố cáo đó.

Các tổ chức nhân quyền quốc tế cho rằng Việt Nam tống giam những người bày tỏ
quan điểm một cách ôn hòa, nhưng Hà Nội cho rằng chỉ những người vi phạm pháp
luật mới bị trừng phạt.

Nguồn: VOA’s interview

Quả tim đầy thương tích

Quả tim đầy thương tích
tocngan k1
WGPSG — “Một chàng trai ngạc nhiên nhìn ông lão vẽ hình trái tim, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh khác nhau. Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao cụ lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim
lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:
– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thực sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người tình cờ mà tôi gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim
này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ cho tôi bao giờ cũng
lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vào nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim  tôi. Chính điều này luôn nhắc trái tim tôi nhớ về những người mà tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi mà chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn.”
Hôm nay là lễ nhớ Mẹ Sầu Bi. Mẹ Maria của chúng ta ngoài bảy sự thương khó lúc sinh thời, bây giờ tim Mẹ còn đầy những vết lõm do chính chúng ta, đàn con của Mẹ, gây ra. Mẹ vẫn luôn hiện ra nhắc nhở nhưng chúng vẫn chưa hồi tâm hối lỗi.
Mẹ Maria có quả tim sẵn sàng chịu đau khổ theo gương Đức Kitô để mưu cầu phần rỗi cho các linh hồn. Mẹ đã thực thi Lời Chúa:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”
(Ga 12, 24).
Maria Thanh Mai gởi

9 câu hỏi rất khó và 9 câu trả lời tuyệt vời

9 câu hỏi rất khó và 9 câu trả lời tuyệt vời
VanDap

Một trí giả thích ngụy biện đến gặp Socrate nhà hiền triết xứ Hi Lạp và đặt nhiều câu hỏi khó với mục đích làm cho Ngài bối rối. Nhưng nhà hiền triết
xứ Milet có thừa khả năng để trả lời.
Sau đây là các câu hỏi:
1.  Trong các vật hiện hữu, cái gì xưa nhứt ?
Thượng Đế, vì ở thời đại nào, Ngài cũng hiện hữu.
2.  Trong các vật, vật nào đẹp nhứt ?
Vũ trụ, vì vũ trụ là công trình của Thượng Đế.
3.  Trong các vật, vật nào lớn nhứt ?
Không gian, vì nó chứa tất cả những gì sáng tạo.
4.  Trong các vật, vật gì vững bền nhứt ?
Hy vọng, vì khi con người mất hết, nó vẫn còn.
5.  Trong các vật, vật nào tốt nhứt ?
Đức hạnh, vì thiếu nó không có một việc gì tốt đẹp.
6.  Trong các vật, vật chi di chuyển mau nhứt ?
Tư tưởng, vì trong một giây nó có thể đến tận bên kia vũ trụ.
7.  Trong các vật, vật chi mạnh nhứt ?
Nhu cầu, vì nó giúp ta san bằng các khó khăn to lớn nhứt.
8. Trong các việc, việc chi dễ làm nhứt ?
Khuyên bảo.
9.  Trong các việc, việc nào khó nhứt ?
Tự biết mình.
(Sưu tầm)

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

TRẦM THIÊN THU

Năm cũ qua, năm mới tới. Chúng ta không biết năm mới sẽ ra sao, và nhiều người không biết dùng 365 ngày như thế nào.

Khi còn trẻ, Lm Marcos Gonzalez, quản xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ) đã thấy chiếc đồng hồ lớn có khắc chữ “Tempus Fugit” ở phía trên.

Lm Marcos Gonzalez cho biết: “Khi tôi hỏi mẹ tôi điều đó là chữ gì, mẹ tôi nói là THỜI GIỜ TRÔI QUA. Tôi ngạc nhiên và hỏi nghĩa là gì. Bà nói: ‘Cuộc đời ngắn ngủi, hãy dùng mỗi ngày cho tốt’. Từ đó, tôi luôn ghi nhớ”.

Lời khuyên đó là lời nhắc nhớ chúng ta mỗi khi năm mới khởi đầu. Tận dụng thời gian Chúa dành cho chúng ta phải là ưu tiên số một.

Lm James Kubicki, Dòng Tên, người phụ trách trang web ApostleshipOfPrayer.org, nói: “Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là nhận biết rằng thời gian là điều quý giá nhất mà chúng ta có, chúng ta sống trong thời gian, thế nên khi chúng ta sử dụng thời gian là chúng ta dùng điều quý giá nhất”. Chúng ta nên tự vấn: “Tôi có đang dùng thời gian đúng như Chúa muốn không?”

Lm Jay Finelli, quản xứ Thánh Linh ở Tiverton, R.I., quản lý trang iPadre.net, nói: “Khi chúng ta trẻ, chúng ta nghĩ mình còn nhiều thời gian. Nhưng thời gian như cát, nó rơi qua các kẽ ngón tay của chúng ta”.

Mặc dù kỹ thuật có thể dùng làm công cụ để học tập, truyền bá Phúc âm và giao tiếp, chúng ta cũng có thể lãng phí thời gian vào các thiết bị hiện đại. Sự thật là nếu chúng ta không nghỉ ngơi và sống cầu nguyện và cân nhắc xem điều gì Chúa muốn, chúng ta chỉ để cho ngày tháng trôi qua mà không dùng thời gian đúng Ý Chúa.

Tác giả Thánh vịnh đã cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (90:12). Chúng ta cần nhìn vào cuộc đời mình trước, nhất là đời sống tâm linh. Chúng ta đang làm gì cho cuộc đời mình để sống với Thiên Chúa và Đức Kitô? Dành thời gian cho Chúa phải là ưu tiên. Nhưng chúng ta lại thường đặ Ngài ở cuối cùng. Chúng ta thực sự nên dành thời gian cho Chúa vì chúng ta muốn dùng thời gian cho Ngài vì sự sống đời đời.

Dành thời gian cho Chúa là thế nào? Pia de Solenni viết nhận xét trên trang PiadeSolenni.com thế này: “Đó là làm cho Thánh lễ là trung tâm của đời sống. Chúng ta nên coi Thánh lễ là trung tâm điểm và là kiểu mẫu cho cuộc đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta nên coi đó như diễn biến trong Thánh lễ. Nếu chúng ta có một ngày tồi tệ hoặc một ngày hạnh phúc, chúng ta có thể coi đó là
đau buồn hoặc vinh quang trong Thánh lễ. Cuộc sống và Thánh lễ không là hai thế
giới riêng biệt”.

Lm Finelli đề nghị thêm những cách dành thời gian sống với Chúa Giêsu, chẳng hạn như đọc Kinh thánh, lần Chuỗi Mân Côi, lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, đọc sách hạnh các thánh, đọc sách đạo đức,… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tấm gương sáng về việc dùng thời gian một cách khôn ngoan, “Con Đường Nhỏ” của Chị là một triết lý sống.

Đó là cách làm mọi thứ, dù là việc nhỏ nhất, nhưng vẫn làm vì yêu mến Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta cũng sử dụng thời gian như vậy. Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nên sống vì yêu mến Thiên Chúa. Việc gì cũng trở nên có giá trị nếu làm vì yêu mến Chúa, vì Nước Trời, vì sống đức tin: Cầu nguyện, làm việc nhà, mưu sinh, học
tập, vui chơi, giải trì, nghỉ ngơi, ngủ,…

Chúng ta có thể sống trong sự thánh thiện, và chúng ta sẽ càng ngày càng nhận biết qua mỗi khoảnh khắc quý giá mà chúng ta có để dâng lên Thiên Chúa.

Lm Gonzalez cho biết: “Lúc cuối đời, nhiều người đã hối tiếc vì không cầu nguyện đủ, không dành đủ thời gian cho Chúa, không dành thời gian cho con cái, cha mẹ hoặc người thân. Đó là những điều hối tiếc vì chúng ta không dùng đúng thời gian mà Chúa dành cho mình.

Ngày hôm nay, ngay lúc này, hãy nhìn lại chính mình và cố gắng khắc phục trước khi quá muộn: Thời gian thắm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất chẳng chờ đợi ai. Thiên Chúa vẫn đang kiên trì chờ đợi chúng ta, hãy dành thời gian cho Ngài.

Bậc đáng kính Giám mục Fulton Sheen (tác giả viết nhiều sách hay) khuyên: “Không bao giờ chúng ta không có thời gian để suy niệm; người ta càng ít nghĩ về Thiên Chúa thì càng có ít thời gian cho mình. Thời gian để làm điều gì đó tùy vào cách chúng ta đánh giá. Suy nghĩ là cách xác định việc dùng thời gian; thời gian không khống chế
chúng ta suy nghĩ! Vấn đề tâm linh không bao giờ là vấn đề thời gian, mà là vấn
đề suy nghĩ. Không đòi buộc nhiều thời gian để chúng ta nên thánh, mà chỉ cần yêu mến nhiều”.

JOSEPH PRONECHEN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Đầu năm Dương lịch – 2013

Maria Thanh Mai gởi

50 năm trước: Bóng người hòa bình – ĐGH Gioan XXIII trong những ngày thế giới gần bờ vực đại chiến (2)

50 năm trước: Bóng người hòa bình – ĐGH Gioan XXIII
trong những ngày thế giới gần bờ vực đại chiến (2)

Đăng bởi lúc 2:58 Sáng 8/01/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (08.01.2013) – Sài Gòn – 20/10/1962 – Trong lúc các nghị phụ muốn
gửi đến mọi người một niềm tin để chia sẻ và hy vọng, thì ở Mỹ, Kennedy đột
ngột chấm dứt chuyện đi vận động bầu cử. Ông cảm thấy đã đến lúc phải quyết
định. Viện cớ cảm cúm, ông vội vã bay vềWashington họp với ban tham mưu trong
năm tiếng đồng hồ.

Nội bộ ban tham mưu này vẫn có một phái siêu diều hâu. Thường họ là những quân
nhân, tướng lãnh. Họ vẫn chủ trương tổng tấn côngCuba. Không những đánh vào các
hỏa tiễn, mà hủy diệt luôn mấy chục máy bay cường kích của Liên Xô đang đậu ở
những phi trườngCuba. Theo họ, cần đánh ngay, càng để lâu càng khó, vì họ tính
đến  tháng 12, Liên Xô sẽ trang bị được khoảng năm mươi đầu đạn hạt nhân
trên các hỏa tiễn ở Cuba.

Quan điểm của giới chính trị thì thận trọng hơn và có phần ưu thắng. Giới này cũng
dứt khoát đòi loại bỏ các đầu đạn hạt nhân khỏiCuba. Nhưng họ chủ trương một lộ
trình dài hơn, bớt nguy hiểm tí chút, và cũng phức tạp nữa. Họ chủ trương lúc
đầu sẽ phong tỏa và cấm vậnCuba, nếu không hiệu quả mới tính tới các biện pháp
chiến tranh. Nhân vụ phong tỏa và cấm vận gây chấn động quốc tế, sẽ mở cuộc
thương thuyết  với Liên Xô. Ðã bắt đầu có ý kiến Mỹ có thể dỡ bỏ các hỏa
tiễn mang đầu đạn hạt nhân ở Ý và Thổ Nhỉ Kỳ, đổi lấy việc Liên Xô dỡ bỏ tên
lửa ởCuba. Nhưng cũng có ý kiến cứng rắn muốn cảnh cáo Liên Xô trước rằng nếu
các tên lửa ởCubakhai hỏa, Mỹ cũng sẽ cho mưa bom hạt nhân trên lãnh thổ rộng
lớn của Liên Xô. Bất luận đánh giá ra sao về tương quan lực lượng võ trang sau
khi Liên Xô bố trí tên lửa ở Cuba, điều tất cả các khuynh hướng trong giới cầm
quyền ở Mỹ đều lo sợ là một thái độ yếu mềm, thấp cơ của Mỹ trước Liên Xô sẽ
làm suy yếu địa vị lãnh đạo của Mỹ đối với phương Tây, đặc biệt là đối với các
nước Châu Mỹ La Tinh, nơi đang có nhiều tầng lớp tả phái bất mãn muốn đi theo
con đường Cuba. Do đó, Mỹ cần phải cương quyết.

21/10/1962 – Kennedy vẫn họp cả ngày với ban tham mưu. Có một lúc ông
hỏi tướng tư lệnh bộ chỉ huy không quân chiến thuật: “Ðánh một đợt đầu có xóa
sạch hết các hỏa tiễn không?”. Trả lời: “Chỉ xóa bỏ được những hỏa tiễn mà
chúng ta biết”. Tổng thống lại hỏi: “Dự báo tổn thất nhân mạng là bao nhiêu, cả
các quân nhân lẫn dân sự?”. Trả lời: “Từ 10 đến 20 000”. Tổng thống nghiêng hẳn
về biện pháp phong tỏa và cấm vận, thay cho không kích.

Một chuyến bay U2 nữa phát hiện những máy bay oanh kích đang được lắp ráp khẩn
trương và thêm những địa điểm dàn trận tên lửa đang được xây cất ở bờ biển phía
Bắc Cuba.

Ngoài xã hội báo chí bắt đầu đánh hơi có chuyện bất thường. Họ còn dò la được là Liên Xô đã bố trí các võ khí tấn công chiến lược ởCuba. Tổng Thống Mỹ triệu tập các
chủ nhiệm của hai tờ báo lớn The New York Times và The Washington Post và yêu
cầu họ đừng nói gì nhiều về chuyện này, vì tiết lộ thì sẽ làm mất yếu tố bất
ngờ trong phản ứng của Mỹ, và khi ấy “tôi không biết người Liên Xô sẽ làm gì”.
Hai tờ báo lớn đồng ý.

Mỹ dự liệu ngày hôm sau 22/10 mới cho cuộc khủng hoảng nổ ra công khai.

22/10/1962Phiên họp Khoáng Ðại Thứ Tư của Công Ðồng. 2351 nghị
phụ tham dự. Ðức hồng y Gilroy (Sydney, Úc) chủ tọa. Công Ðồng bắt đầu đi vào
nghị trình chính thức. Và nghị trình này bắt đầu với một chủ đề nghĩ như chẳng
có tác dụng gì với chuyện hòa bình hay chiến tranh: vấn đề canh tân Phụng Vụ.
Xưa nay, những nghi lễ của Giáo Hội có ngăn cản được người đời chém giết nhau
bao giờ?

Thế nhưng đối với các tín hữu của Hội Thánh, vấn đề phụng vụ lại cực kỳ quan trọng,
quan trọng hàng đầu. Phụng vụ chính là mạch sống của đức tin. Ðó chính là cao
điểm nơi Hội Thánh gắn chặt, hòa nhập vào Chúa. Vào thời điểm thăng hoa rực rỡ,
lòng tin đã nở ra thành lời kinh, thành nghi thức phụng vụ. Vào những thời mạt
pháp (như đã từng xảy ra nhiều lúc, nhiều nơi trong lịch sử Giáo Hội) phụng vụ
vẫn có đó thì sớm hay muộn người ta sẽ tìm lại được mạch sống chân thật của đức
tin. Cộng đồng đức tin cứ bám vào phụng  vụ mà trôi nổi qua những thăng
trầm hiểm nguy của thế gian.

Vào thời Công Ðồng Vatican II họp, Phụng Vụ của Công Giáo Rôma rất đẹp, rất tôn
nghiêm, (ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều cụ già chịu ảnh hưởng sâu đậm của
nền phụng vụ này, chẳng hạn các cụ vẫn cảm thấy cái thấm thía của những giai
điệu và ca từ La Tinh bình ca, mặc dù các cụ không hiểu hết ý nghĩa). Tuy
nhiên, Phụng Vụ ấy cũng không khỏi mắc míu một số giới hạn. Có lẽ nguyên nhân
chính là từ cuộc khủng hoảng Tin Lành (thế kỷ XVI) và từ nỗ  lực của Giáo
Hội Công Giáo để khắc phục cuộc khủng hoảng ấy (giới sử gia thường gọi là Thời
Kỳ Phản Cải Cách, mà tiêu biểu là Công Ðồng Trento (1545-1563). Khi ấy Công
Giáo có nhu cầu bảo vệ sự hợp nhất bằng những kỷ luật nghiêm ngặt, trong phụng
vụ cũng như trong các lãnh vực khác. Nguyên nhân khác nữa là sự ưu thắng của
Môn Phái Kinh Viện trong thần học – và là một nền kinh viện  đã đi qua
khỏi thời kỳ đỉnh cao rồi – cũng tạo ra một thứ ngôn ngữ làm bay biến ít nhiều
những hương hoa Thánh Kinh, những lời nguyện chan chứa hồn nhiên của những thế kỷ đầu và của các Giáo Phụ. Tiếng La Tinh như ngôn ngữ bắt buộc trong phụng vụ cũng có vấn đề. Trong những thế kỷ xa xưa ở phương Tây, đối với các tầng lớp có
học, tiếng La Tinh chưa đến độ trở nên “tử ngữ” như bây giờ, nhưng đối với đại chúng bình dân thì đã là tiếng lạ, chả hiểu được. Bù lại, tiếng La Tinh có tính chính
xác, khúc chiết, góp phần đáng kể cho việc duy trì sự hợp nhất trong Công Giáo,
vào những lúc tư tưởng người ta nổi giông nổi gió, mâu thuẫn và tranh chấp nhau
quyết liệt.

Từ thuở đó, ba bốn thế kỷ đã qua. Thế giới đã biến đổi rất nhiều. Tâm trí con
người cũng tiến hóa. Ở những xã hội còn mạnh truyền thống, phụng vụ vẫn nuôi
dưỡng tinh thần đại khối tín hữu. Nhưng ở những xã hội mạnh về biến chuyển, đổi
mới, người ta cảm thấy giữa phụng vụ và đời sống có sự cách biệt. Ðồng thời
những giáo hội mới lớn mạnh ngoài phương Tây cũng đã có thời gian để nghiên cứu
chuyên sâu và nhận ra rằng có những cảm quan, những giá trị trong nền văn hóa
của riêng mình chưa tìm được sự thể hiện trong phụng vụ. Ðối với các nền văn
hóa mới trong Giáo Hội, khuôn khổ La Tinh hậu-Trento có vẻ xa lạ, khô khan….

Trong Giáo Hội vẫn có nhiều người nhận thức được những giới hạn trên đây. Từ cả trăm năm rồi, đã có phong trào nghiên cứu về nguồn Phụng Vụ. Tiền bán thế kỷ XX,
nhiều phong trào canh tân Phụng Vụ nổi lên ở Châu Âu. Kế đến, trong các miền
truyền giáo cũng có nhiều vị khai phá để đưa phụng vụ đến gần văn hóa các dân
tộc Á, Phi… Công Ðồng Vatican II là thời điểm để nhận định về các kết quả đã
đạt được. Thế là chẳng lệ thuộc gì lắm với  chuyện chính trị hay quân sự,
Công Ðồng tập trung sức lực vào vấn đề Phụng Vụ.

Sáng ngày 22/10 này, Ðức Hồng Y Larraona, Chủ Tịch Ủy Ban Trù Bị về Phụng Vụ, nói lời dẫn nhập. Ngài nói Hội Thánh phải đồng hành với thời đại của mình, cho nên
các nghi lễ cần thích ứng với nhu cầu của mọi quốc gia, dân tộc.

Liền sau đó đã có nhiều ý kiến quan trọng được phát biểu. Ða số các ý kiến đánh giá
tốt bản lược đồ dự thảo vì bản này đậm tính cách “quy Kitô”, nghĩa là làm nổi
rõ Mầu Nhiệm Cứu Ðộ trong Chúa Kitô; tín lý và lòng đạo cũng được diễn tả bằng
ngôn ngữ Thánh Kinh, đó là một lợi điểm lớn để tạo thông cảm với các Anh Em Ly
Cách. Và một hậu quả hợp lý là mở cửa cho việc xử dụng các ngôn ngữ phổ thông
trong phụng vụ, thay vì chỉ một tiếng La Tinh. Nhưng cũng từ đấy thấy lộ ra hai
khuynh hướng khác biệt trong Công Ðồng. Trước tiên là có những vị bảo thủ đã
cảm nghiệm sâu sắc cái hay, cái đẹp của Phụng Vụ như những thế kỷ cận đại đã
tạo ra, thì hầu như không muốn thay đổi một điều gì. Nói chung, các vị mục tử
giao tiếp hàng ngày với đại chúng, nghiêng về nhu cầu đổi mới; còn các vị
thường là cao niên làm việc quản trị ở giáo triều Rôma, hoặc các vị làm mục vụ
nơi những địa phương còn giàu tính cổ truyền thì thiên về hoài cổ. Hai khuynh
hướng này thường xung khắc với nhau về hai vấn đề: một là bắt buộc hay không
bắt buộc xử dụng tiếng La Tinh trong Phụng Vụ? Hai là có nên trao rộng quyền
cho hàng giám mục từng vùng miền hoặc quốc gia được đưa ra những quy định về
Phụng Vụ, hay phải để các vị ở giáo triều Rôma độc quyền quyết định mọi sự?
Những nguyên lý cũng như nhiều điểm cụ thể còn được tiếp tục thảo luận đôi khi
rất gay go trong hai tuần lễ nữa. Hội Thánh được hợp thành bởi nhiều con người,
muôn người muôn vẻ, mỗi người hay mỗi nhóm người đều có những cảm nghiệm và giá trị của mình. Tìm ra chỗ đứng chính đáng cho mọi cảm nghiệm, mọi giá trị trong lòng Hội Thánh có thể có nhiều ẩn số, có thể có hỷ nộ, tranh cãi đau đớn trước
khi tìm ra lối đi đúng hướng. Ngày nay dù đã có được Hiến Chế của Công Ðồng
Vatican II về Phụng Vụ, với nhiều kết quả phong phú đã phát sinh, có những điều
tranh cãi từ ngày đó vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai trong Giáo Hội. Ðó là thân
phận của Hội Thánh lữ hành ở thế gian.

Nhưng trong ngày Công Ðồng bàn việc phụng vụ thiêng liêng, thế gian bắt đầu cảm thấy một cơn địa chấn lớn.

Hôm nay ở Washington, Tổng Thống Kennedy đích thân điện đàm  với các tổng
thống nhiệm kỳ trước, Herbert Hoover (1929-1933), Harry Truman (1945-1953) và
Dwight Eisenhower (1953-1961) để báo cáo  với các vị về tình hình nghiêm trọng và khẩn trương. Sau đó, ông Kennedy ký quyết định chính thức thành lập Nhóm Hành Ðộng Excomm, nhóm này từ nay sẽ họp thường trực mỗi ngày suốt thời gian khủng hoảng.

5g chiều: Tổng Thống gặp các thủ lãnh lưỡng viện quốc hội để thông báo tình hình.
Hóa ra các vị dân cử lại tỏ ra cứng rắn hơn tổng thống, họ đòi oanh kích Cuba,
lập trường này có thể phản ảnh tâm lý của dân Mỹ hồi đó, nhưng ông Kennedy
cương quyết chủ trương phong tỏa và cấm vận trước.

Cũng vào lúc này, các đặc sứ cao cấp của Mỹ đến gặp các vị nguyên thủ các nước đồng
minh để thông báo tình hình. Còn ở Matxcơva, Ðại Sứ Mỹ Kohler đến gặp Thủ Tướng
Liên Xô Nikita Khushchev để chuyển giao nội dung bài diễn văn ông Kennedy sắp
đọc. Trong thư gửi Thủ Tướng Liên Xô trước khi đọc diễn văn, Kennedy viết: “Tôi
thiết tưởng trong thời đại hạt nhân ngày nay, dù Ngài, hay bất cứ ai khác,
không một người nào có tinh thần tỉnh táo lành mạnh lại có thể cố tình cố ý dìm
thế giới vào một cuộc đại chiến. Ðã thấy rõ như pha lê rằng trong cuộc chiến đó
không nước nào có thể thắng, mà chỉ có những hậu quả thảm họa cho toàn thể
giới, kể cả cho người gây chiến”.

7g tối: Tổng Thống Kennedy đọc diễn văn truyền thanh và truyền hình toàn quốc. Ông  thông báo tình hình, phê bình Thủ Tướng và Ngoại Trưởng Liên Xô đã không
nói thật, rồi tuyên bố: “Chúng ta không còn sống trong một thời mà chỉ có khai
hỏa thật sự bằng khí giới mới được kể là thách thức nền an ninh của một quốc
gia và tạo ra nguy cơ tột cùng. Võ khí hạt nhân có sức công phá lớn và hỏa tiễn
đạn đạo thì bay mau đến độ bất cứ một sự gia tăng đáng kể nào về khả năng xử
dụng, hoặc bất cứ sự thay đổi đột ngột nào về thế trận đều rất có thể phải coi
là một đe dọa thực sự cho hòa bình”.

“Nếu không cần thiết thì chúng ta không vội liều mình trả giá cho một cuộc chiến
tranh hạt nhân trên toàn thế giới, bởi dù có chiến thắng thì kết quả cũng chỉ
như mùi vị tro tàn trong miệng, nhưng chúng ta cũng không né tránh hiểm nguy
bất cứ khi nào phải đối mặt”.

Sau đó Tổng Thống Mỹ công bố các quyết định:

+Từ nay sẽ cấm vận ngặt nghèo đối với mọi trang thiết bị quân sự tấn công được
chở tới Cuba. Mọi loại tàu bè, bất luận từ nước nào hoặc cảng nào đi Cuba, nếu
phát hiện có chuyên chở các võ khí tấn công, sẽ bị đẩy lui.

+Chính sách của Hoa Kỳ là bất kỳ hỏa tiễn hạt nhân nào phóng đi từ Cuba để đánh
vào bất cứ nước nào ở Tây Bán Cầu sẽ bị coi là sự tấn công của Liên Xô vào Hoa
Kỳ, khiến cho Hoa Kỳ sẽ đáp trả toàn lực vào Liên Bang Xô Viết.

Cuối cùng ông Kennedy kêu gọi Thủ Tướng Khrushchev chấm dứt và bãi bỏ chính sách đặt hỏa tiễn Liên Xô ởCuba.

Ðang khi Kennedy  đọc diễn văn thì Không Quân Mỹ trên khắp thế giới đã được đặt
trong tình trạng báo động cấp 3 (Quân Lực Hoa Kỳ có 5 cấp báo động: cấp 5, báo
động xanh lam là tình trạng bình thường; cao nhất là cấp 1, báo động trắng, là
tình trạng cận kề chiến tranh hạt nhân. Cấp 3, báo động vàng, thì các máy bay
của không quân phải sẳn sàng ứng chiến sau 15 phút).

Bài diễn văn chưa đầy 30 phút của Kennedy đặt toàn thế giới trước nguy cơ thế chiến
thứ 3. Hiển nhiên Liên Xô không thể tuân hành lệnh cấm vận của Mỹ. Còn Mỹ đã
quyết liệt và long trọng ban hành lệnh cấm vận rồi thì cũng không thể lùi lại.
Ðụng độ giữa hai siêu cường sẽ xảy ra chỉ trong một vài ngày nữa, vì một đoàn
tàu Liên Xô đang vượt Ðại Tây Dương để sangCuba. Ðúng như Ðại Sứ Mỹ ở Liên Hợp
Quốc Adlai Stevenson tuyên bố: “Từ khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, chưa bao giờ
thế giới đến gần một cuộc chiến tranh hạt nhân như vậy”.

Nhưng vượt  ra ngoài mọi tính toán của các giới chính trị và quân sự, tình hình
hiểm nghèo này lại mở ra một cánh cửa bất ngờ để Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII
bước vào. Thật ra ngài không hề dự tính trước. Ngài cũng bất ngờ như hầu hết
mọi người trên thế giới trước cuộc khủng hoảng. Một chuỗi hoàn cảnh khiến cho
người có đức tin cảm thấy có bàn tay Thiên Chúa Quan Phòng ….

Vũ Khởi Phụng

(còn tiếp)

 

Chân Tín: Luồng gió mới – Giáo hội của con người (2)

Chân Tín: Luồng gió mới – Giáo hội của con người (2)

Đăng bởi lúc 2:35 Sáng 8/01/13

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (08.01.2013) – Sài Gòn

Giáo hội của con người

Giáo hội là Nước Trời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga,18,36). Quả quyết rõ rệt ấy của Chúa Cứu Thế có thể kể là một trong những chân lý căn bản của Giáo hội. Nó lật đổ lập trường của những kẻ muốn chỉ kể Giáo hội như một thứ màu mỡ để bón ruộng trần gian: muốn vào Giáo hội, chỉ cốt để có một uy thế chính trị, để có một đường lối cách mạng lợi hại, là chưa hiểu gì về Giáo hội; muốn vào đạo Công giáo để kiếm đất thí nghiệm cho một hệ thống, để tìm hứng cho một ngòi bút, đường sơn, phím đàn, là đã lầm đường; muốn Giáo hội phải đặt tất cả tâm lực vào việc sửa sang nhà cửa, đường sá cho con cháu loài người, xây dựng một xã hội, một trật tự vật
chất đầy đủ hơn trê mặt đất như chủ nghĩa Mác chủ trương cũng là lạc lối.

Giáo hội là Nước Trời. Nhưng có phải  vì thế mà chúng ta lại bước qua một thái cực lố lăng khác? Nước Chúa không thuộc về thế gian có phải là bắt buộc không liên lạc gì với trần gian? Giáo hội  bị buộc phải giam mình trong nhà thờ, nhà xứ, không thiết gì đến cái cảnh phức tạp, gay cấn xung quanh mình? Thái độ này cũng là một sự sai lầm nguy hại mà chính Đức Giáo hoàng Piô XII đã lên án: “Giáo hội không thể tự đóng kín bất động sau những bức tường kín của các thánh đường thoái thác khỏi sứ mệnh Thiên Chúa an bài, đã giao phó và đào luyện con người toàn diện và bởi đó luôn mãi
góp phần vào việc đặt một nền móng vững chãi cho xã hội. Sứ mệnh đó rất thiết
yếu cho Giáo hội” (Diễn văn đọc trước Hội đồng các hồng y ngày 20/2/46).

Sứ mạng đào luyện con người toàn diện ấy, Giáo hội đã thực hiện trên mọi lãnh vực, cách riêng trên lãnh vực xã hội. Để chứng minh điều đó, chúng ta chỉ đưa mắt về 70 năm qua, thì đủ thấy Giáo hội đã hoạt độngmạnh mẽ để đem lại cho con người, cách riêng cho giới lao động, một cuộc đời xứng đáng hơn.

Năm 1891, Đức Lêô XIII được gọi là “Giáo hoàng của giới lao động” đã ra bức thông điệp Rerum novarum, đề cập đến vấn đề thợ thuyền và những bổn phận của mọi người đối với giới lao động. Thông điệp này đã có tiếng dội lớn lao trên thế giới.

Qua năm 1931, để kỷ niệm tứ thập niên thông điệp Rerum novarum, Đức Piô XI ra thông điệp Quadragesino anno, nhắc lại cho thế giới biết Giáo hội có quyền và bổn phận tìm một giải pháp cho vấn đề xã hội hiện đang đe dọa thế giới. Ngài nhấn mạnh những nguyên tắc căn bản và những chỉ thị của Đức Liô XIII. Ngài lên án những chế độ tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa vô nhân đạo không đếm xỉa gì đến con người.

Năm nay, giáp 70 năm thông điệp Rerum novarum ra đời, Đức Giáo hoàng đương kim gioan XXIII cũng đã ban bố một thông điệp liên can đến đời sống kinh tế của thời đại. Cũng như các Giáo hoàng trước, Ngài nhấn mạnh sự tôn trọng nhân phẩm. Con người phải là trung tâm của nền kinh tế. Đức Giáo hoàng nói: “Con người thực sự và phải là nền tảng, cứu cánh và tác nhân của mọi tổ chức có tính cách xã hội”. Ngài còn nói tiếp: “Đảm bảo cho mọi người trong đoàn thể làm phát triển bản thân… đó là cứu cánh chính đáng của kinh tế quốcgia”. Đức Giáo hoàng không ngừng ngại lên án những chế độ kinh tế, tuy có thể tăng gia sản xuất và phân phối đồng đều, nhưng lại chà đạp nhân phẩm phá hủy tinh thần trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, nhưng lại chà đạp nhân phẩm phá hủy tinh thần trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, để biến con người thành một chiếc máy sản xuất.

Trước huấn lệnh của các Đức Giáo hoàng, cách riêng của Đức Gioan XXIII, ai còn dám trách giáo hội chỉ lo đến đời sau, không màng gì đến cuộc sống của con người trần gian. Trái lại, Giáo đã luôn cố gắng làm tròn sứ mệnh Thiên Chúa đã giao phó lá “đào luyện con người toàn diện”

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 150-11/1961

Người “Canh Gác” giữa đời thường

Người “Canh Gác” giữa đời thường

Tâm Thương

 

WGPSG — Góc nhìn xã hội

Bạn thân mến, nơi mảnh đất Sài Gòn này có biết bao người canh gác và bảo vệ. Người canh gác đứng ở một nơi trên cao để quan sát. Họ là những người lính ở các đồn biên phòng hay nơi hải đảo xa xôi. Họ là những người bảo vệ đầu đội trời chân đạp đất chứ không phải ở “vọng gác canh sương” hay “lầu son gác tía”. Họ bảo vệ cho công ty. Bảo vệ cho ngân hàng. Bảo vệ cho trường học. Bảo vệ cho bệnh viện. Bảo vệ cho siêu thị v.v… Nói tóm lại,  đó là dịch vụ người bảo vệ. Công việc của họ thấy dễ mà khó. Họ phải được huấn luyện và phải có kinh nghiệm. Họ phải quan sát tỉ mỉ từng người, từng biến cố xảy ra trong từng khoảnh khắc của một ngày sống. Công việc của họ đòi hỏi sự
nhạy bén quan sát tinh tế và tinh thần trách nhiệm cao. Họ phải hy sinh thời
gian, sức khỏe thức khuya, dậy sớm, xa nhà xa quê hương vì nhiệm vụ đã được
giao phó.

Khởi đi từ góc nhìn như thế, cha mẹ cũng đóng vai trò người canh gác cho con cái. Người mẹ phải thức trắng đêm để canh chừng người con gái vừa mới mổ ruột thừa ở bệnh viện đa khoa Sài Gòn. Người mẹ phải mất ngủ cả đêm vì con mình đang bệnh sốt cao. Người cha phải thấp thỏm lo âu vì tối nay đứa con trai của ông đi mừng sinh nhật bạn bè tới khuya không thấy về. Nói tóm lại, cha mẹ là người luôn dõi ánh mắt về con.

Góc nhìn tôn giáo

Vậy, dưới góc nhìn tôn giáo, người “Canh Gác” có gì khác và giống với người “Canh Gác” ở góc độ xã hội? Tôi nhớ lại bài đọc 2, giờ Kinh Sách, ngày 03.09.2012, ngày lễ nhớ Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả. “Người Canh Gác” là ba từ được ngài lặp lại tới bốn lần: “Hỡi con người, Ta đã đặt người làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Cần lưu ý rằng Chúa gọi kẻ Người sai đi rao giảng là người canh gác. Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa chuyện gì xảy tới. Và bất cứ ai được đặt làm người canh gác…” Thế thì đâu là những phẩm chất của một người “Canh Gác” lý tưởng như lòng Chúa ước mong?

Người “Canh Gác” biết quan sát “nhìn xa trông rộng”

Trước tiên, người Canh Gác phải có khả năng quan sát tốt và tầm nhìn xa. Điều này làm ta nghĩ tới Đức Giáo hoàng, các Hồng y, các Đức Giám mục và linh mục. Các ngài là những người “Canh Gác” của Giáo hội và của Chúa Kitô. Các ngài được đặt lên làm mục tử chăn giữ đoàn chiên. Người mục tử luôn quan sát từng con chiên một. Người mục tử để ý đến nhu cầu  của từng con chiên. Người mục tử để ý đến những gì nguy hiểm xảy đến cho đoàn chiên mình chăn dắt. Vì thế, Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả mới nói: “Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa chuyện gì xảy tới.”

Thế nhưng, thời đại hôm nay có quá nhiều bất ngờ phức tạp. Xã hội càng văn minh lại càng sa sút về đạo đức. Bởi vậy, không dễ gì bắt kịp thời cuộc. Không dễ gì lội ngược dòng. Do đó, trọng trách của những người “Canh Gác” cho Giáo hội Chúa Kitô thật nặng nề. Bởi lẽ, các ngài cũng chỉ là những con người yếu đuối. Điều này đã được Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả trải nghiệm: “Thật vậy, tôi buộc phải suy xét về các vấn đề của các Giáo hội cũng như các tu viện, nhiều lần tôi nghĩ tới nếp sống và hành vi của các cá nhân; hơn nữa, tôi còn phải giải quyết một số công việc của người
dân, phải lo lắng vì quân mandi xông vào giết chóc, phải đề phòng những con sói
đang rình rập đàn chiên đã ủy thác cho tôi… Có lúc phải bình tĩnh chịu đựng
những quân trộm cướp, nhưng cũng có lúc phải đối đầu với chúng để bảo trì đức
ái.” Thế nên, người canh gác không chỉ biết thời cuộc mà còn phải biết chính
mình. Ngoài ra, người “Canh Gác” cần có những phẩm chất nào khác hơn?

Người “Canh Gác” trách nhiệm và nhiệt tâm

Một cha sở nói với thầy xứ như thế này: “Con cố gắng chu toàn những việc bổn phận như nguyện gẫm, đi lễ, viếng Chúa, dạy giáo lý. Cố gắng làm việc với tinh thần trách nhiệm. Vậy mới làm gương cho người khác và bước đường ơn gọi của mình sẽ cảm thấy hạnh phúc.” Còn một linh mục khác nói với thầy giúp xứ như sau: “Cha luôn ưu tư làm sao thổi ngọn lửa nhiệt tình vào trong lòng mỗi người trẻ hôm nay. Nơi họ có một tinh thần dấn thân rất cao. Vì thế, làm sao để huấn luyện tốt nhằm khơi lên ngọn lửa nhiệt huyết nơi giới trẻ và những người làm tông đồ.” Tựu trung lại, người canh gác cần sự nhiệt tâm và trách nhiệm trong công việc. Trách nhiệm chỉ dừng lại ở mức độ làm cho đủ. Nhiệt tâm vượt xa mức độ đủ và vươn tới sự dấn thân.

Bạn thân mến, có bao giờ bạn đặt câu hỏi: hạnh phúc của người linh mục là gì không? Phải chăng hạnh phúc của các ngài là hạnh phúc của người khác? Hạnh phúc khi người linh mục đi thăm những gia đình nghèo. Hạnh phúc khi linh mục đem Mình Thánh Chúa cho nhiều bệnh nhân hấp hối. Hạnh phúc khi ngồi tòa giải tội lắng nghe những tiếng nói, những giọt nước mắt của nhiều hối nhân đang đau khổ. Hạnh phúc khi khám bệnh cho nhiều bệnh nhân nghèo khổ, già cả lương cũng như giáo v.v.. Và phải chăng hạnh phúc sâu xa nhất của người linh mục là được kết hiệp với Chúa qua từng Thánh lễ, từng giờ nguyện gẫm, giờ kinh phụng vụ mỗi ngày…? Hạnh phúc ấy không đơn giản đạt được. Hạnh phúc ấy đòi hỏi người linh mục có tầm nhìn, sự hy sinh, trách nhiệm và thức tỉnh với bổn phận Chúa giao phó cho các ngài. Thế nên, Thánh Cả Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả cảm thấu: “Tôi nhìn nhận là tôi có lỗi, tôi thấy mình uể oải và lơ là. Khi ở đan viện, tôi có thể vừa giữ miệng lưỡi không nói lời vô ích, vừa hầu như liên lỉ cầm trí lo việc cầu nguyện. Nhưng một khi đã ghé vai mang gánh
nặng mục vụ thì tôi bị chi phối về nhiều chuyện nên không thể dễ dàng hồi tâm
được.”

Người “Canh Gác” là đầy tớ khiêm tốn phục vụ Chúa Kitô

Cuối cùng, người canh gác là đầy tớ khiêm tốn phục vụ Chúa Kitô. Phục vụ như, vì và trong Chúa Kitô. Vì thế, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Bởi vậy, Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II thường dùng câu nói: “Tôi Gioan Phaolô II, tôi tớ của mọi tôi tớ.” Thật vậy, người đầy tớ không hơn chủ. Người đầy tớ phục vụ chủ của mình. Thế nên, Chúa Giêsu mới dạy các tông đồ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23,11).

Vậy, người “Canh Gác” của Giáo hội là người cắm mốc cuộc đời vào Chúa Kitô. Họ còn là người luôn mở lòng phục vụ tha nhân với cả tấm lòng yêu thương. Vì thế, ước mong mỗi Kitô hữu chúng ta cũng cảm thấu mình là người canh gác vốn dĩ thấp hèn yếu đuối như Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả đã thú nhận: “Vậy, tôi là ai và tôi thi hành nhiệm vụ canh gác như thế nào, nếu tôi không đứng trên núi cao là công việc
phải làm, mà vẫn còn nằm bẹp dưới thung lũng là tính yếu đuối của tôi ? Nhưng
dù tôi bất xứng, thì Đấng tạo dựng và cứu chuộc loài người vẫn có khả năng ban
cho tôi cả đời sống cao quý lẫn tài nói năng thuyết phục, bởi lẽ vì yêu mến
Người mà tôi không quản ngại nói về Người.”

Maria Thanh Mai gởi

Viết về em tôi, chàng Hiệp sỹ vừa mới đi xa

Viết về em tôi, chàng Hiệp sỹ vừa mới đi xa
WGPSG — Tháng giêng về trong cái rét cắt da cắt thịt từ đâu ập đến. Từng đoàn xe lăn lặng lẽ nối theo dòng người lầm lũi bước trong chiều mưa tiễn đưa chàng Hiệp sỹ trở về lòng đất mẹ Xã Đoài thân yêu. Phảng phất đâu đây là những nghẹn ngào, xúc động, bâng khuâng…
Như cơn gió thoảng qua, Phanxicô Xaviê Nguyễn Công Hùng, chàng Hiệp sỹ đầy nghị lực đã ra đi. Không một lời giã biệt, em lặng lẽ về bên Chúa trong phút đau thương.
Chỉ cách đây ít ngày, em còn hăng hái dẫn đoàn khuyết tật Nghị Lực Sống đón lễ Giáng sinh do Đức Cha Đệ tổ chức tại Thái Bình và hẹn mẹ sẽ về tham dự tuần chầu tại quê nhà Xã Đoài thế mà nay đã nhẹ nhàng, bình thản đi xa. Không ai có thể nghĩ rằng em ra đi vội vàng đến vậy.
Có thi sỹ nào đó từng phát biểu rằng: “Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái
tim người khác” [1]
. Những lời trên đây dường như đã phần nào họa lại hình ảnh tuyệt vời của người hiệp sỹ nhỏ bé của chúng ta.
Phanxicô Xaviê Nguyễn Công Hùng sinh ngày 26.6.1982 tại giáo xứ Chính tòa, xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Từ năm lên hai tuổi, em đã vướng vào căn bệnh bại liệt để rồi từ đó cho đến cuối đời làm bạn với chiếc xe lăn.
Thế nhưng, cuộc đời em không vì thế mà ra lầm than, tăm tối. Em như ánh lửa hồng bừng sáng, đã cháy là cháy hết mình. Em đã sống trọn vẹn đời người đẹp đẽ và ý nghĩa. Đẹp trong sự vươn lên quả cảm và ý nghĩa trong tinh thần cao thượng. Và như lời Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp chia sẻ tại thánh lễ an táng thì lẽ ra xã hội phải đứng ra trợ giúp nhưng em đã làm ngược trở lại thi ân với bao người khuyết tật, cứu
trợ để bao mảnh đời “đủ áo, no cơm” và cống hiến xây dựng xã hội này nhân văn hơn, tốt đẹp hơn.
Cũng không phải đơn giản khi các phương tiện thông tin đại chúng đồng loạt phát đi bản tin đầy thương cảm sâu sắc về sự ra đi của Hiệp sỹ Công nghệ Thông tin Nguyễn Công Hùng. Riêng cộng đồng mạng thì đi từ cảm giác bàng hoàng, xôn xao đến ngậm ngùi, hụt hẫng, nuối tiếc và cuối cùng rã rời, bâng khuâng.
Em, một giáo dân trẻ của xứ Chính toà Xã Đoài, đã trọn vẹn phó thác niềm tin vào Thiên Chúa để làm nên những điều thực sự diệu kỳ. Số phận tưởng chừng bất hạnh đó đã trở nên muối men mặn nồng ướp đời và như là một quà tặng tự trời cao để gây thêm niềm hy vọng, lạc quan nơi những thân phận tột cùng đau khổ nhất.
Ví như hạt giống âm thầm gieo vào đất mẹ thế nào thì cuộc đời chàng trai đầy nghị lực cũng đã sống và hành động như vậy. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”(Ga 12, 25).Hạt giống Công Hùng đã  chịu mục nát trong âm thầm và hy vọng để tiết xuân rạng rỡ, để rồi đây lớp lớp đàn em vươn mình trong nắng khoe tươi.
Niềm hạnh phúc trao ban đã cuốn Công Hùng dấn thân miệt mài trên con đường dấn thân vì cộng đồng. Hầu như khắp các tỉnh thành em đều đã đi qua và để lại dấu ấn đẹp đẽ. Chính em đã thay đổi cái nhìn của người đời về người khuyết tật.
Công Hùng đã không tìm cách để giữ lại “những gì tôi có, những gì tôi là” nhưng đồng cảm, sẻ chia với mọi người bất hạnh từ quê nhà xứ Nghệ nghèo khó đến vùng trung du Yên Bái; từ những thôn xóm miền tây Hà Tĩnh ra phố thị Hà thành, từ vùng tâm lũ Quảng Bình đến cả bản làng Sơn La mù tít xa xôi…
Tất cả xuất phát từ một cơ thể bại liệt hoàn toàn bất động, chỉ còn cái đầu với hai
ngón tay phải yếu đuối làm việc nhưng bù lại là một trí thông minh sắc bén, một
nghị lực tuyệt vời và một con tim Kitô hữu nồng nàn yêu thương.
Nguyễn Công Hùng vẫn luôn ưu tư lo lắng để có thể đóng góp nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Có tờ báo viết rằng em mỗi đêm chỉ ngủ chừng 3 tiếng. Ấy không phải nói quá nhưng quả thật giống như con ong chăm chỉ, Hùng vẫn miệt mài làm việc và sáng tạo để trao cho đời những giọt mật thơm ngon.
Rồi đây, đời sẽ gác lại những danh hiệu, sẽ quên đi những ánh hào quang phù vân bọt bèo bề mặt nhưng giữ lại cho Phanxicô Xaviê sự gì tinh hoa nhất. Sinh thời, người bạn trẻ Công giáo nhỏ bé này vẫn hằng tâm niệm lời của thánh Phaolô tông đồ trong thư
gửi tín hữu Philiphê: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban ơn thêm sức cho tôi”. (Pl 4,13).
Không phải điều gì khác nhưng đây mới thực sự là nguồn động viên an ủi giúp Hùng chọn lựa gương hy sinh phục vụ của Đức Kitô làm tâm điểm phấn đấu của đời mình. Chính đây mới làm nên nghị lực sống phi thường để vượt qua những đau đớn bệnh tật và khổ đau kiếp người để kiên vững, tin yêu và làm nên Hiệp sỹ Nguyễn Công Hùng của ngày hôm nay.
Khi hạt giống nghị lực của em bắt đầu nhiệm vụ cao cả trong đời mình là mang niềm tin người Kitô hữu làm chứng nhân giữa xã hội Việt Nam hôm nay thì một bóng cả, một tượng đài tinh thần bắt đầu được dựng lên trong tim triệu triệu người con đất Việt mang trong mình dòng máu Lạc Hồng không kể lương hay giáo, sang hay hèn, giàu hay nghèo, khuyết tật hay không.
Tạm biệt nhé Công Hùng, người Hiệp sỹ “của muôn thời” [2], người em họ bé bỏng.
Xin khép lại những gì còn dang dở trên bước đường hành hiệp để em bắt đầu bước vào cõi trường sinh: “Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng tựa như mây…” [3]
Thánh lễ an táng và tiễn biệt Cố Hiệp sỹ CNTT Nguyễn Công Hùng

Trong niềm tiếc thương vô hạn,  chiều ngày 3/1/2013, một thánh lễ trang trọng và đầy an ủi dành cho gia đình  người thân Hiệp sỹ Phanxicô Xaviê Nguyễn Công Hùng đã được tổ chức tại nhà  thờ Chính tòa Xã Đoài, giáo phận Vinh.
Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái  Hợp, vị lãnh đạo tinh thần của nửa triệu người Công giáo Nghệ An – Hà Tĩnh –  Quảng Bình, đã bỏ qua những công việc hết sức bộn về cuối năm để chủ tế thánh  lễ như để nói lên sự quan tâm đặc biệt dành cho người bạn trẻ này.
Đồng tế với Ngài còn có Cha Phêrô Nguyễn Văn Viên, Tổng đại diện giáo phận, Cha G.B Nguyễn Khắc Bá, Giám đốc Đại Chủng viện Vinh Thanh, Cha Phêrô Nguyễn Văn Hương, Chánh Văn phòng TGM.
Gần 20 linh mục, đông đảo quý thầy, quý sơ, quan khách chính quyền, đại diện các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thiện nguyện, các cơ quan thông tấn – báo chí – truyền hình, thân quyến, ân nhân, thân hữu và bà con gần xa đã không quản ngại đường sá xa xôi và thời tiết khắc nghiệt để tiễn biệt người hiệp sỹ trở về lòng đất mẹ Xã Đoài thân yêu.
Hiệp thông chia buồn với tang quyến lúc này còn có điện phân ưu từ Nguyên TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, giám mục Thái Bình; Đức Cha Đặng Đức Ngân, giám mục Lạng Sơn và rất nhiều linh mục, tu sỹ, giáo dân và bè bạn khắp mọi miền đất nước.
Trong bài chia sẻ thấm đẫm niềm xúc động của mình, Đức Cha Phaolô chủ tế đã khắc hoạ hình ảnh đáng khâm phục của người hiệp sỹ. Cuộc đời em là “dấu nối” trọn vẹn giữa đạo với đời và là chứng nhân sống động của Tin Mừng trong xã hội hôm nay.
Vị chủ chăn giáo phận cũng gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình tang quyến
và cầu mong linh hồn Phanxicô Xaviê sớm đi vào giao ước tình yêu tuyệt đối để chung hưởng niềm vui bất tận của Nước Trời.
Sau thánh lễ, linh mục Phanxicô Xaviê Võ Thanh Tâm, quản hạt Xã Đoài đã cử hành nghi thức tiễn biệt người con yêu quý của giáo xứ Chính tòa. Thi hài Hiệp sỹ Nguyễn Công Hùng được an nghỉ tại nghĩa trang giáo họ Xã Đoài.
Chú thích:
[1] Trích lời Sukhomlinskij, thầy giáo người Nga.
[2] Trích lời Tiến sỹ Lê Thống Nhất trong bài thơ khi nhận được tin Hiệp sỹ Nguyễn Công Hùng ra đi.
[3] Trích bài hát “Như một lời chia tay” của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.
Maria Thanh Mai gởi