Tàu cá Quảng Ngãi ‘bị TQ đập phá’

Tàu cá Quảng Ngãi ‘bị TQ đập phá’

Thứ năm, 5 tháng 12, 2013

Thuyền trưởng Nguyễn Văn Lâm nói số máy móc bị phá hủy có trị giá hơn 70 triệu đồng

Thuyền trưởng một tàu cá Quảng Ngãi nói tàu của ông bị Trung Quốc ‘đập phá’ khi cập đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa để nhờ cấp cứu cho thuyền viên gặp nạn.

BBC đã liên lạc Bộ chỉ huy biên phòng tỉnh Quảng Ngãi và được cơ quan này xác nhận là “có nghe báo cáo về việc này”.

Báo điện tử Dân Việt trong tin đăng ngày 5/12 cho biết tàu cá mang số hiệu Qng – 92046 của thuyền trưởng Nguyễn Văn Lâm khi đánh bắt tại quần đảo Hoàng Sa hôm 1/12 thì gặp trục trặc do lưới cá bị dính vào chân vịt.

Ông Nguyễn Văn Xiện, một ngư dân trên tàu, trong lúc tìm cách gỡ lưới đã bị chân vịt cứa vào cổ, khiến cho bị mất nhiều máu và bất tỉnh, báo này cho biết thêm.

Ông Lâm sau đó đã liên lạc và được Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực 2 (có trụ sở tại Đà Nẵng) hướng dẫn cho tàu chạy vào đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, theo Dân Việt.

‘Căn cứ quân sự Trung Quốc’

Tuy nhiên, khi vừa cập đảo Phú Lâm lúc 3 giờ sáng ngày 2/12, tàu của ông này đã bị phía Trung Quốc khống chế và phá hủy các máy móc vô tuyến với lý do “đây là căn cứ quân sự Trung Quốc”, ông Lâm được Dân Việt dẫn lời nói.

Sau khi đập phá xong số máy móc với tổng trị giá hơn 70 triệu đồng, phía Trung Quốc mới bắt đầu chữa trị vết thương cho ông Xiện, ông Lâm cho biết.

Trả lời BBC ngày 5/12, Bộ chỉ huy biên phòng tỉnh Quảng Ngãi xác nhận đã nghe ông Lâm báo cáo về việc bị phía Trung Quốc đập phá thiết bị trên tàu và đang “làm việc với chủ thuyền để xác minh thêm”.

Cơ quan này xác nhận tàu của ông Lâm đã bị “một số thiệt hại” khi về đến Quảng Ngãi ngày 3/12, tuy nhiên cũng cho biết ngoài trường hợp ông Xiện ra, không có thuyền viên nào khác trên tàu bị thương.

Một số báo trong nước như Tiền Phong, Tuổi Trẻ cũng đưa tin về vụ việc, nhưng không đề cập gì đến chi tiết tàu của ông Lâm bị đập phá.

Các báo trong nước nói ông Xiện hiện đang được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi, trong khi biên phòng tỉnh Quảng Ngãi nói với BBC tình trạng sức khỏe của ông này đã “tạm ổn”.

Đảo Phú Lâm hiện đang là nơi Trung Quốc đặt trụ sở hành chính của thành phố Tam Sa và trụ sở Bộ chỉ huy lực lượng quân đồn trú của nước này tại quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.

Các hành động trên đã bị Việt Nam phản đối.

Đảo này cũng được trang bị một sân bay có thể đón cả các máy bay thương mại cỡ lớn và các máy bay quân sự.

Liên tục các vụ tấn công

 

Đảo Phú Lâm là nơi Trung Quốc đặt trụ sở hành chính của thành phố Tam Sa

Trong năm qua đã có nhiều vụ ngư dân Việt Nam bị tấn công khi đang hoạt động đánh bắt trên biển, chủ yếu ở vùng biển Hoàng Sa.

Ngày 9/7, hai tàu cá của ngư dân huyện đảo Lý Sơn đã bị tàu hải giám Trung Quốc tấn công và thu giữ tài sản khi đang đánh bắt gần khu vực đảo Phú Lâm.

Mỹ ‘không công nhận vùng phòng không’

Mỹ ‘không công nhận vùng phòng không’

Thứ năm, 5 tháng 12, 2013

BBC

Bà Marie Harf

Mỹ từng yêu cầu Trung Quốc hủy thiết lập ADIZ

Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ nói Washington yêu cầu Bắc Kinh không thực hiện vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mới thiết lập.

Bà Marie Harf có họp báo với giới phóng viên nước ngoài hôm thứ Tư 4/12 tại Washington DC sau khi Phó Tổng thống Joe Biden tới Trung Quốc.

Bà Harf lặp lại lập trường của Hoa Kỳ, rằng nước này “không công nhận vùng nhận dạng phòng không mà Trung Quốc mới thông báo thiết lập”.

Nữ phát ngôn viên này nói danh sách yêu cầu mà phía Trung Quốc đưa ra đối với các máy bay nước ngoài khi vào khu vực ADIZ là “không phù hợp với thực tế hàng không quốc tế”.

Bà Harf cũng tuyên bố hành động của Trung Quốc “là hành động có tính khiêu khích cao” và có khả năng góp phần gây ra những tính toán sai lầm và sự cố trong khu vực.

Mỹ yêu cầu Trung Quốc hủy các yêu cầu thủ tục cũng như các đòi hỏi đã đưa ra.

Trong các cuộc đối thoại với lãnh đạo Trung Quốc, Phó Tổng thống Joe Biden cũng đã đề cập ‘thẳng thắn’ tới chủ đề ADIZ.

Phát biểu sau cuộc hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ông Biden nói vùng phòng không của Trung Quốc đã gây quan ngại ở châu Á.

Tuy nhiên, báo chí Trung Quốc khi tường thuật về phát biểu của Phó phát ngôn viên Mỹ cho rằng Mỹ đã “giảm giọng điệu”.

Tờ China Daily nói thay vì đòi hỏi hủy ADIZ như trước, bà Harf chỉ nói Mỹ yêu cầu không thực hiện nó.

 

Michael Võ làm thị trưởng gốc Việt đầu tiên ở Fountain Valley

Michael Võ làm thị trưởng gốc Việt đầu tiên ở Fountain Valley

December 03, 2013

Linh Nguyễn/Người Việt


FOUNTAIN VALLEY, California (NV)
Phó Thị Trưởng Michael Võ vừa tuyên thệ nhậm chức thị trưởng thành phố Fountain Valley lúc 6 giờ chiều Thứ Hai, trước một số đông quan khách và rất đông cư dân và đồng hương người Việt vui mừng tham dự.

Như vậy, ông Michael Võ là thị trưởng gốc Việt đầu tiên của thành phố này.



Ông Michael Võ (trái), đứng cạnh vợ, tuyên thệ nhậm chức thị trưởng Fountain Valley. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Tân Thị Trưởng Michael Võ ngỏ lời cám ơn cư dân, các thành viên Hội Ðồng Thành Phố, cựu Thị Trưởng Larry Crandall, dân cử và song thân của ông hiện diện tại buổi lễ.

“Tôi rất hãnh diện là một nghị viên không sanh ra tại Hoa Kỳ, nhưng được các đồng viện tín nhiệm bầu vào chức vụ thị trưởng,” ông Michael Võ nói với phóng viên nhật báo Người Việt.

“Sau cùng tôi muốn cám ơn cha mẹ tôi, các con tôi và Catherine, người vợ từng chịu đựng và hỗ trợ tôi suốt 22 năm. Tôi sẽ lạc đường nếu không có em,” ông nói.

Khi ông vừa dứt lời thì mọi người đứng lên vỗ tay.

Sau đó là phần chúc mừng của các vị dân cử trong vùng, như ba vị dân cử tiểu bang là Thượng Nghị Sĩ Lou Correa, Dân Biểu Travis Allen, Dân Biểu Alan Mansoor, và ba vị dân cử của Westminster là Thị Trưởng Trí Tạ, Nghị Viên Sergio Contreras và Nghị Viên Diana Carey, cùng một số thân hữu của vị tân thị trưởng.

Trước đó, cư dân Mỹ và Việt đến ngồi chật phòng họp của Hội Ðồng Thành Phố để chờ đợi giây phút lịch sử của Phó Thị Trưởng Michael Võ và của Fountain Valley, một thành phố 60,000 dân, hiện được coi là “ngoại ô” của Little Saigon.

Ông cũng cho biết “không hẳn cứ là nghị viên thì sẽ tự động trở thành thị trưởng.”

“Sau ba năm làm việc với chức vụ nghị viên và phó thị trưởng, các thành viên của Hội Ðồng Thành Phố nhận xét khả năng và chính kiến của tôi phù hợp với quyền lợi của thành phố nên họ quyết định bầu cho tôi,” vị thị trưởng gốc Việt giải thích.

Ông cho biết có cơ hội tham dự bỏ phiếu trong những dự án lớn của thành phố và cũng từ đó mà ông tạo được sự tín nhiệm của đồng viện.

“Chẳng hạn như công ty xe Huyndai đầu tư $200 triệu để xây cơ sở ở Fountain Valley làm trụ sở chính tại Hoa Kỳ. Hãng Yakult của Nhật chọn thành phố này là cơ sở đầu tiên ở Bắc Mỹ để sản xuất yogurt. Khu gia cư Civic Center Development với 88 căn nhà mới xây đã bán hết,” ông nói thêm.



Ðông đảo cư dân Fountain Valley đến chia vui cùng tân thị trưởng. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Ông nhấn mạnh lý do phục vụ là đặt quyền lợi của thành phố và cư dân lên hàng đầu. Vì thế, những dự án để phát triển kinh tế hay công việc làm, ông đều quan tâm đến.

Ông nói: “Tôi có thể nói thêm những thành quả cho thành phố là bằng chứng hùng hồn nhất cho sự phục vụ của tôi. Khách sạn Ayres với 125 phòng sẽ hoàn tất trong tháng này. Bệnh viện Orange Coast Memorial mới mua thêm hai tòa nhà để phát triển cơ sở và tạo thêm 500 công việc toàn thời gian mà họ sẽ mướn thêm nhân viên.”

“Tôi muốn cho người bản xứ thấy rằng chúng ta không phải chỉ phục vụ riêng cộng đồng người Mỹ gốc Việt mà chúng ta còn không bỏ lỡ cơ hội đóng góp vào cộng đồng dòng chính,” ông Michael Võ nói tiếp. “Tôi muốn tạo một gương sáng cho thế hệ trẻ mai sau.”

Khác với các thành phố khác, chức thị trưởng ở Fountain Valley không do cử tri trực tiếp bầu, mà do các thành viên Hội Ðồng Thành Phố chọn.

Thị Trưởng Michael Võ tranh cử nghị viên Fountain Valley lần đầu năm 2010, với nhiệm kỳ bốn năm. Khi đắc cử, ông từ chối không nhận tiền lương và tặng toàn bộ số tiền ấy cho các tổ chức bất vụ lợi.

Ông là chủ nhân Little Saigon Traffic School tại Westminster từ năm 1989, và là chuyên viên bán bảo hiểm cho hãng AGLA và nhận nhiều giải thưởng xuất sắc từ năm 2006. Ông có chương trình phát thanh “Lưu Thông An Toàn và Bảo Hiểm Giá Trị Của Ðời Sống” trên làn sóng 1480 AM của đài Little Saigon Radio gần hai thập niên qua để phục vụ nhu cầu của đồng hương tại Little Saigon.

Ông Michael Võ và vợ luôn có mặt trong những sinh hoạt xã hội và từ thiện trong cộng đồng.

–-
Liên lạc tác giả: LinhNguyen@nguoi-viet.com

Nạn cò vé và buôn lậu ở các ga tàu hỏa phía Bắc

Nạn cò vé và buôn lậu ở các ga tàu hỏa phía Bắc

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2013-12-04

Ga Hà Nội về đêm

Ga Hà Nội về đêm

RFA

Nghe bài này

Vài năm trở lại đây, nạn cò vé, móc nối tuồn vé ra ngoài chợ đen và ém vé để đến giờ cao điểm lại bung ra thị trường, khiến cho thị trường vé tàu hỏa ở các ga phía Bắc, đặc biệt là ga Hà Nội và Lào Cai ngày càng trở nên lộn xộn, đắt đỏ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sự di chuyển của những người lao động nghèo và lao động có mức thu nhập thấp, không những thế, nguồn thu của ngành đường sắt cũng thiệt hại đáng kể.

Phương tiện vận chuyển hàng cấm và ma túy tốt nhất

Một người yêu cầu giấu tên, là cựu nhân viên kiểm soát đường sắt Bắc Nam, còn gọi là kiểm sát viên, chia sẻ với chúng tôi rằng thời gian ông tại chức là một kinh nghiệm buồn, mọi hoạt động của ngành đường sắt đều cho thấy ba tính chất cơ bản. Đó là sự lỏng lẻo trong quản lý; Sự toa rập giữa nhân viên trong ngành với nhau và giữa nhân viên trong ngành với ma cô bên ngoài để buôn lậu; Mức độ tham nhũng trong ngành quá cao, vượt ngoài tầm kiểm soát.

Để dẫn chứng cho các luận điểm về tính tiêu cực của ngành đường sắt mà mình vừa nêu, cựu nhân viên này nói rằng vấn đề ém vé để tuồn ra chợ đen, mà chợ đen ở đây có thể là người thân trong gia đình của các nhân viên đường sắt hoặc những ma cô có máu mặt ở các ga tàu hỏa vẫn luôn là vấn nạn nhức nhối nhưng dường như ngành đường sắt vẫn chưa giải quyết được, và nếu có giải quyết cũng chỉ đóng vai trò lấy hình thức để đạt chỉ tiêu. Chính vì cách giải quyết không triệt để, rất hình thức này lâu ngày đã giúp cho thành phần cò vé và những nhân viên tay trong tay ngoài trở nên tinh ranh, khôn khéo.

“Đó là sự lỏng lẻo trong quản lý; Sự toa rập giữa nhân viên trong ngành với nhau và giữa nhân viên trong ngành với ma cô bên ngoài để buôn lậu; Mức độ tham nhũng trong ngành quá cao, vượt ngoài tầm kiểm soát”

Họ móc một đường dây khép kín mà ở đó mọi quyền lợi chằn chéo, liên đới với nhau, khó có thể theo dõi được chứ đừng nói gì đến kiểm soát. Và cũng theo ông này, vấn đề buôn lậu trong ngành đường sắt đã trở thành cơm bữa, không tài nào kiểm soát được nữa. Hầu như mọi nhân viên đường sắt, không ít thì nhiều, thấp nhất cũng có vài lần buôn lậu. Hàng hóa buôn lậu thì đa dạng, phức tạp. Vì lẽ, kiểm sát viên đường sắt có một đặc quyền, họ đóng vai trò vừa là nhân viên phục vụ hành khách lại vừa là người quản lý an ninh trên chuyến tàu.

Vé bán chợ đen

Vé bán chợ đen (Files photos)

Chính vì thế, họ được giữ một số bí mật trong hoạt động ngành và họ có đặc quyền trên chuyến tàu. Một khi tàu đã chuyển bánh, mọi sự kiểm soát từ bên ngoài xem như hoàn toàn không thể diễn ra được. Chính vì thế, hàng lậu luôn luôn có mặt trên các chuyến tàu Bắc – Nam, đặc biệt là ở các sân ga phía Bắc, hàng lậu được ngụy trang dưới nhiều hình thức và được chuyển lên tàu ở dạng xách tay, hành lý của nhân viên đường sắt.

Ông này nói thêm rằng không có con đường nào buôn hàng quốc cấm nào tốt hơn đường tàu hỏa và đường hàng không. Bởi không thể có bất kỳ một đội an ninh nào có thể chặn đứng máy bay đang bay hoặc chặn đứng đoàn tàu đang chạy để kiểm soát, cộng với tính đặc quyền về quản lý an ninh của hai ngành này, chỉ cần làm việc tốt ở hai đầu ga, hàng lọt được qua hai cửa này là xem như phi vụ thành công. Chính vì thế, những phi vụ buôn hàng quốc cấm, buôn ma túy lớn nhất thường chọn ngành hàng không và ngành đường sắt để di chuyển.

“Vấn đề buôn lậu trong ngành đường sắt đã trở thành cơm bữa, không tài nào kiểm soát được nữa. Hầu như mọi nhân viên đường sắt, không ít thì nhiều, thấp nhất cũng có vài lần buôn lậu”

Nếu như vấn nạn buôn lậu trong ngành đường sắt làm tổn hại đến an ninh, văn hóa và sức khỏe quốc gia thì việc ém vé, cò cuốc vé ở chợ đen lại làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, khiến cho người có thu nhập thấp không có cơ hội để đi tàu hỏa và đồng thời nó tạo ra một nhóm ngành nghề sống dựa trên sự ma mãnh, bóc lột người nghèo,đó là các ma cô cò vé chợ đen.

Ga Lào Cai

Ga Lào Cai. RFA

Vé chợ đen lấn sân

Một hành khách tên Mai chia sẻ: “Người lao động thì đi vé ngồi cứng hoặc ngồi mềm, hoặc khoan 6, còn khoan 4 thì đắt, dành cho du lịch. Hoặc từ Hà Nội lên lúc 6h sáng là tàu chợ, vé rẻ hơn và ít người đi. Còn tàu nhanh thì thường khách du lịch đi du lịch nhiều, nói chung cơ hội của mình thì ít!”

Ông Mai nói thêm rằng để mua được vé từ Hà Nội đi Lào Cai, tuy vẫn có nạn cò cuốc nhưng không chộn rộn, hầm hố như cò vé ở ga Lào Cai. Mua một tấm vé đi từ Lào Cai về Hà Nội vào những ngày cuối tuần hoặc dịp lễ Tết là vô cùng khó khăn. Vì nếu không chọn tàu hỏa, những hành khách nhát gan, dễ bị say xe sẽ rất khó khăn trong việc chọn phương tiện xe khách đi từ Lào Cai về Hà Nội, con đường khúc khuỷu, hiểm trở và nhỏ, hẹp, kẹp bên sườn núi luôn là cơn ác mộng của rất nhiều hành khách. Nắm được tâm lý này, cò vé ở ga Lào Cai tha hồ hét giá.

Hơn nữa, phần đông hành khách đi lẻ vào dịp cuối tuần là những nhân viên, công nhân làm việc ở các công ty, họ chọn cuối tuần đi du lịch Sapa vào chiều thứ Sáu để xả stress, hoặc  về Sapa để thăm gia đình đến Chủ nhật thì quay về Hà Nội để tiếp tục làm việc. Bởi không đăng ký tour nên đi từ Sapa trở về Lào Cai nên phải đứng xếp hàng mua vé ở ga Lào Cai, lúc này phòng vé giở trò lỗi kết nối mạng, cả một đoàn rồng rắn đứng đợi vé, nhân viên bán vé thì ung dung ngồi nói chuyện, thi thoảng lại nói vọng ra là “rớt mạng, đợi chút nữa”. Đồng thời, lúc này những cò vé sẽ chen chúc vào đoàn người đang xếp hàng để gạ bán vé với giá gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Mọi hoạt động gạ gẫm diễn ra công khai và ngang nhiên.

‘Hành động bán vé của người cò vé tại ga Lào Cai cho thấy có sự thông đồng rất ăn nhịp giữa nhân viên bán vé và cò vé. Nghĩa là nhân viên bán vé sẽ ém vé, không bán cho khách, để cò vé thả sức đi gạ bán, khi gạ được khách thì vào gặp nhân viên bán vé để xuất vé, bán cho khách với giá cắt cổ’

Một hành khách khác tên Thiện, nói rằng anh đang làm thuê ở Hà Nội, mỗi cuối tháng đối với anh là cả một sự khó khăn bởi việc mua vé làm anh vất vả rất nhiều, nếu không lo xếp hàng sớm, phải mua vé chợ đen với giá từ bảy trăm rưỡi ngàn đồng đến một triệu hai trăm ngàn đồng. Trong khi đó, nếu mua giá chính thức, chỗ ngồi tốt cũng chỉ tốn từ bốn trăm đến sáu trăm ngàn đồng. Trong trường hợp chọn giường nằm thì tốn chừng bảy trăm ngàn đồng là hết mức. Nhưng vì cò vé lộng hành quá. Mà họ là ai? Họ là những người tay ngoài của các nhân viên bán vé. Có lần anh đặt mua vé toa giường nằm, anh đăng ký hạng vé nhưng không được. Liền sau đó, có người vào khều tay gọi anh ra ngoài gạ bán với giá gấp rưỡi lần. Bí quá, anh phải mua, người đó lại dắt anh vào phòng vé và ngang nhiên lấy vé anh đăng ký bán lại ngay cho anh với giá chợ đen.

Anh Thiện nói thêm rằng hành động bán vé của người cò vé tại ga Lào Cai cho thấy có sự thông đồng rất ăn nhịp giữa nhân viên bán vé và cò vé. Nghĩa là nhân viên bán vé sẽ ém vé, không bán cho khách, để cò vé thả sức đi gạ bán, khi gạ được khách thì vào gặp nhân viên bán vé để xuất vé, bán cho khách với giá cắt cổ. Kiểu làm việc này năm ăn năm thua. Nếu bán được vé thì cả cò vé và nhân viên bán vé đều kiếm được tiền lãi, nếu bán không được vé thì những tấm vé bị ém lại sẽ được hủy, coi như vé ế. Thảo nào ngành đường sắt hằng năm luôn luôn báo cáo thua lỗ, lượng khách không đều, mặc dù vé tàu luôn khan hiếm với khách!

Vừa để nạn cò vé tung hoành, vừa để lớp nhân viên bên dưới tiếp tay với buôn lậu, vừa bùng phát nạn tham nhũng, cửa quyền… Tất cả những vấn nạn này đều mang đến hậu quả là người có thu nhập thấp phải khổ sở khi đi tàu hỏa và tàu hỏa giống một con vật luôn gầm ghè đe dọa đời sống bằng thứ nọc băng hoại mà nó mang chứa và dịch chuyển từ Bắc chí Nam.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

ĐỨC MARIA SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Một ngày đẹp trời kia, ở cái vườn nọ có cái tên là Ê-đen có hai vợ chồng đang sống trong an bình hạnh phúc bỗng dưng hóa trần truồng …

Không gian, thời gian, con người và sự kiện đó nhiều người biết đến qua câu chuyện ghi lại trong sách Sáng Thế.

Thiên Chúa là vị Thiên Chúa tuyệt hảo. Thiên Chúa tạo dựng trời đất, muôn vật muôn loài và Ngài đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Hơn thế nữa, nét đẹp của tấm lòng Thiên Chúa đó là :

Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,

ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,

cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,

đặt muôn loài muôn sự dưới chân:

Nào chiên bò đủ loại,

nào thú vật ngoài đồng,

nào chim trời cá biển,

mọi loài ngang dọc khắp trùng dương. (Tv 8, 6-9)

Nhưng, hỡi ôi, hai ông bà nguyên tổ đã không đủ tỉnh thức đủ để nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Hai ông bà đã khước từ, đã đánh đổ tình thương đó. Và, ngay lúc ông bà phạm tội, tình yêu Thiên Chúa vẫn dẫy tràn trên cuộc đời của hai ông bà. Ta bắt gặp tình thương đó ở sách Sáng Thế, chương 3, 14.15 : Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”

Dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương đó sẽ là dân riêng của Ngài và sẽ chiến thắng con rắn dữ xưa, chiến thắng kẻ thù mưu ma chước quỷ xưa trong vườn Địa Đàng. Dòng giống Thiên Chúa tuyển chọn ấy có tên là Israel.

Qua dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Israel là một dân sống bằng hy vọng bởi vì họ đã ra đời, đã dựng nước, đã sống dựa trên một lời hứa của Thiên Chúa làm nền tảng. Lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham được nhiều lần lặp lại bằng cách này hay cách khác với các con cháu của ông : “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc hùng mạnh, sẽ ban cho ngươi một miền đất phì nhiêu làm quê hương, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và con cháu ngươi, và qua ngươi, Ta chúc phúc cho các dân tộc khác. Ta sẽ là Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân riêng của Ta”.

Lời hứa mà Thiên Chúa hứa với Abraham đã được long trọng lặp lại nhiều thế kỷ sau với vua Đavít qua miệng Ngôn sứ Nathan. Ngôn sứ nói rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện từ dòng dõi nhà vua một người con; người con này sẽ là vị Cứu Tinh, Người sẽ tái lập vương quốc Đavít và sẽ trị vì mãi mãi.

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, lịch sử của dân tộc Israel cũng vậy. Ta thấy có những thời Israel cực thịnh nhưng cũng có những lúc cực suy và có những lúc rơi vào hoàn cảnh bi đát gần như tuyệt vọng. Trong nỗi thất vọng nhưng có một niềm hy vọng vẫn lóe lên trong cuộc đời của họ. Niềm hy vọng của Israel như là sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt qua dòng lịch sử. Họ luôn luôn quay về với Lời Hứa của Chúa để tìm lẽ sống cho mình, nhất là những khi cùng đường tuyệt vọng. Và Chúa luôn luôn tỏ ra rất trung thành với lời hứa, có điều là lắm khi đường lối của Người theo rất lạ lùng, khó hiểu.

Sống dưới ách nô lệ của Ai Cập, dân Do Thái vẫn ngóng trông, vẫn mong đợi ngày giải phóng suốt mấy trăm năm. Thế rồi Thiên Chúa đã sai Môsê đến làm vị cứu tinh của họ.

Vừa bước chân ra khỏi Ai Cập, dân Do Thái lại ngóng chờ được vào chỗ định cư, nơi có sữa và mật chảy thành suối như lời hứa.

Niềm hy vọng của dân Do Thái không dừng lại ở đất hứa. Khi vừa đặt chân đến đất hứa rồi, họ vẫn chưa hết chờ mong vì vẫn chưa được như lòng sở nguyện. Sau những thế kỷ lập quốc khá hùng mạnh, đến lúc họ lại bị nước mất nhà tan và bị bắt đi lưu đầy ở Babylon, năm 586 trước công nguyên. Nơi chốn lưu đày họ lại mong lại chờ, và Chúa  đã sai vua Kyrô nuớc Ba Tư đưa họ về quê cha đất tổ và tái thiết lại Đền Thờ. Đền thờ cuối cùng bị phá huỷ là vào năm 70 thời tướng Lamã Titus. Dân Israel lại rơi vào ách thống trị của đế quốc Rôma. Và họ lại chờ mong một vị cứu tinh mới.

Nhìn lại niềm hy vọng của Do Thái, ta thấy niềm hy vọng của họ chỉ gói ghém, chỉ hạn hẹp, chỉ được giới hạn ở cái nhìn của phàm tục, của vật chất, của hư danh dẫu rằng quá nhiều lần cũng như quá nhiều ngôn sứ nhiều lần dạy họ phải mở rộng cái nhìn vật chất hẹp hòi đó. Các ngôn sứ đã hướng họ nhìn và trông mong Đấng Cứu Độ trần gian chứ không phải đấng đến để làm cho họ được vinh quang với cái vẻ bên ngoài.

Thiên Chúa cũng đã thử thách dân Do Thái nhiều lần và nhiều cách. Có lúc niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian bừng lên mạnh mẹ nhưng rồi cũng có những người chán nản thất tín bất trung. Nhiều đại họa đến với dân và làm cho dân nản chí nản lòng.

Trong số những người Do Thái chờ đợi trong niềm tin, hy vọng trong niềm cậy trông đó nổi lên khuôn mặt hết sức dễ thương đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.

Maria (Miryam), một tên rất phổ biến, giống như tên Mai, Lan, Cúc, Trúc trong giới phụ nữ Việt Nam ta. Giả như Maria sinh ra ở Việt Nam, Maria sẽ mang một cái tên hết sức gần gụi Trần Thị …, Đặng Thị … Đơn giản là như thế. Về quê quán, Đức Maria là người làng Nazareth (Lc 1, 26), một làng rất tầm thường như về sau ông Nathanael một môn đệ Đức Giêsu đã nhận xét: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1, 46).

Mẹ đã đến thế gian, Mẹ đã đi vào trần gian, Mẹ được sinh hạ bởi tình yêu, bởi huyết nhục của GioaKim và Anna.

Cũng như bao nhiêu người nữ khác nói riêng và như bao nhiêu người Do Thái, Mẹ Maria cũng trông chờ Đấng Cứu Độ trần gian đến. Giản đơn, qua lịch sử, ta thấy Đức Trinh Nữ Maria là ai: là một thiếu nữ Do thái, hết lòng mong đợi ơn cứu chuộc dân tộc của mình. Ngày ngày, Maria lên Đền Thờ cầu nguyện và nghe Lời Chúa. Maria đã sống niềm hy vọng vào Đấng Cứu Độ trần gian từ độ còn xuân. Maria luôn luôn nghiền ngẫm Thánh Kinh để rồi Maria nhớ lại lời Chúa đã dùng ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavít xưa.

Và rồi, cũng bỗng đến ngày kia, giờ kia, không phải là cái giờ đại họa đến cho con người khi ông bà nguyên tổ phạm tội mà đến cái giờ con người được hưởng hồng phúc, được hưởng ơn cứu độ. Giờ ấy chính là giờ sứ thần truyền tin cho Maria.

Hoàn toàn bất ngờ, hoàn toàn không hiểu, hoàn toàn ngạc nhiên. Chẳng bao giờ Maria nghĩ đến lời ngôn sứ ngày xưa lại rơi vào cuộc đời của mình. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình có thể sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi?

Thế nhưng, bình tĩnh để nghe sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Maria đã khiêm nhường thưa lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

Niềm hy vọng của Maria được nung nấu, được nuôi dưỡng trong tâm tình tỉnh thức, chờ đợi và đặc biệt nhất đó là hoàn toàn khiêm hạ để đón Ơn Cứu Độ trần gian đến trong đời của Mẹ. Nếu như Mẹ không tỉnh thức, không suy niệm lời Chúa, không hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thiên Chúa, cho Thánh Ý Thiên Chúa thì Đấng Cứu Độ trần gian sẽ không đến với Mẹ.

Với tâm tình đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.

Ta bắt gặp Đức Maria đã sống hết sức mạnh mẽ niềm hy vọng chờ mong ơn cứu độ của dân tộc mình. Hơn thế nữa, Mẹ đã trở thành dụng cụ đặc biệt Chúa dùng để thực hiện ý định cứu độ vì Mẹ là một tâm hồn nghèo khó, khiêm nhường, tuyệt đối tin tưởng và gắn bó trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Sống Mùa Vọng, Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ khao khát chờ mong Chúa đến cứu độ chúng ta.

Ta chờ ai, mong ai, đón ai đến trong cuộc đời của ta ?

Bài học của dân Do Thái ngày xưa dẫu là xưa nhưng vẫn là bài học còn rất mới và rất tốt cho mỗi người chúng ta. Đôi khi, ta cũng lầm đường lạc lối là hy vọng, chờ mong, đạt được những cái gì hạn hẹp trong cái đợi, cái mong của vật chất, của hạ giới chứ không về thượng giới, về Ơn Cứu Độ.

Nếu chúng ta cứ lầm lũi chờ đợi vật chất, danh vọng, quyền lực, lợi lộc trần gian ta sẽ đánh mất cái cảm thức của chờ đợi Đấng Cứu Thế. Và với tâm tình đó, ta sẽ không khiêm hạ đủ như Mẹ Maria để đón Đấng Cứu Độ trần gian vào đời mình như bao nhiêu người đã đánh mất Ơn Cứu Độ.

Ta hãy thức tỉnh và đặc biệt hơn cả là hãy noi gương Đức Maria: ý thức mình là kẻ nghèo khó khiêm nhu, sống phó thác vào Chúa. Và cũng cần lắm là noi gương của Mẹ sẵn sàng để cho Chúa sử dụng vào công cuộc cứu độ của Người đang thực hiện cho bản thân chúng ta và cho toàn thế giới.

Anmai, CSsR

Một tòa án LHQ kêu gọi trả tự do cho LS Lê Quốc Quân

Một tòa án LHQ kêu gọi trả tự do cho LS Lê Quốc Quân

Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án Hà Nội ngày 02/10/2013 ( Ảnh do VNTTX cung cấp).

Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án Hà Nội ngày 02/10/2013 ( Ảnh do VNTTX cung cấp).

REUTERS/Doan Tan/VNA/Handout via Reuters

Thanh Phương

Một tòa án về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc vừa lên án Việt Nam về việc giam giữ luật sư Lê Quốc Quân, một blogger và nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam, xem đây là một sự vi phạm quyền tự do ngôn luận và quyền được xét xử công bằng của ông.

Nhóm Làm việc về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, một tòa án được thành lập trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, trong phiên họp lần thứ 67, từ ngày 26 đến 30/08/2013, đưa ra phán quyết rằng Lê Quốc Quân đã trở thành mục tiêu tấn công ( của chính quyền ) do những hoạt động đấu tranh cho nhân quyền và viết blog.

Phán quyết này được Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc công bố ngày 12/11/2013.

Nhóm Làm việc kêu gọi chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho luật sư Lê Quốc Quân hoặc để cho một tòa án độc lập xét lại bản án. Nhóm còn đề nghị Việt Nam phải bồi thường thiệt hại cho ông Lê Quốc Quân về thời gian mà ông bị giam giữ tùy tiện như vậy.

Phán quyết của toà án Liên Hiệp Quốc là nhằm trả lời kiến nghị hồi tháng Ba của tổ chức Media Legal Defence Initiative, phối hợp với nhiều tổ chức nhân quyền khác, như Phóng viên không biên giới, Luật sư không biên giới….

Trong thông cáo đề ngày 29/11/2013, tư vấn pháp lý cao cấp của tổ chức Media Legal Defence Initiative, Nani Jansen, cho rằng, do các tòa phúc thẩm của Việt Nam không được độc lập, cho nên, cách duy nhất để Việt Nam tuân thủ phán quyết của Nhóm Làm việc về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc là trả tự do ngay lập tức cho ông Lê Quốc Quân.

Ngày 20/11, Liên hiệp các Luật sư đoàn của Pháp cũng đã ra thông cáo cho biết trong cuộc họp toàn thể vào ngày 15/11 đã nhất trí thông qua kiến nghị đòi trả tự do ngay lập tức cho luật sư Lê Quốc Quân.

Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt vào ngày 27/12/2012 do bị cáo buộc tội trốn thuế. Trong phiên xử ngày 02/10/2013, ông Lê Quốc Quân đã bị kết án 30 tháng tù giam và bị phạt tiền 1,2 tỷ đồng. Ông Quân đã kháng án lên tòa phúc thẩm.

World Bank: Kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại nhiều rủi ro

World Bank: Kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại nhiều rủi ro

03.12.2013

Một báo cáo mới của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”>) dự đoán GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khiêm tốn ở mức 5,5% vào năm 2015 và ổn định kinh tế vĩ mô sẽ được hồi phục cơ bản.

Báo cáo Điểm lại tình hình kinh tế Việt Nam công bố hôm 2/12 cũng cho rằng triển vọng kinh tế vĩ mô trung hạn vẫn tiếp tục có những điều kiện thuận lợi trong cán cân thanh toán.

Tuy nhiên, báo cáo của World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”>, đã điểm ra một số rủi ro chính bao gồm dự trữ ngoại tệ thấp; cầu của khu vực kinh tế tư nhân rất mong manh; nguy cơ không giữ vững được kỷ cương tài khóa và tiền tệ; tiến bộ trong các cải cách cơ cấu chậm chạp; và việc mất niềm tin vào ngành ngân hàng.

Ông Sandeep Mahajan, kinh tế gia trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định rằng với sự gia tăng áp lực lên nguồn ngân sách, chính phủ Việt Nam đang đứng trước một số lựa chọn chính sách quan trọng, trong khi cố gẵng cân bằng hai mục tiêu kép là tăng trưởng nhanh hơn và ổn định kinh tế vĩ mô.

Báo cáo cũng đề cập tới 3 chủ đề đặc biệt, đó là thuận lợi hóa thương mại, năng lực cạnh tranh và tăng trưởng tại Việt Nam; tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và nghèo đói và bất bình đẳng tại Việt Nam.

Báo cáo cho biết xuất khẩu vẫn duy trì mạnh trong những năm gần đây mặc dù môi trường bên ngoài không thuận lợi, tuy nhiên xuất khẩu vẫn chủ yếu là hàng giá trị thấp.

Phúc trình của World Bank by Vid-Saver\\\0022 “”> cũng nói rằng tham nhũng từ lâu đã được coi là vấn đề nghiêm trọng, làm suy yếu sức tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.

Báo cáo cũng ghi nhận phúc lợi của hầu hết người Việt Nam đã tăng đáng kể trong giai đoạn 2010-2012, ngay cả khi tăng trưởng bị chậm hơn các năm trước.

Nguồn: World Bank, Thanh Nien, VNA

Cảnh sát Thái truy nã hai người Việt

Cảnh sát Thái truy nã hai người Việt

Thứ tư, 4 tháng 12, 2013

Máy rút tiền tự động (ảnh minh họa)

Nhà chức trách ở đảo Phuket của Thái Lan đã ra lệnh truy nã hai người Việt bị tình nghi ăn trộm 1,6 triệu baht (50.000 đôla Mỹ) từ máy rút tiền tự động.

Lệnh này đã được tòa án tỉnh Phuket chuẩn thuận, theo lời Đại tá cảnh sát Sermpan Sirikong nói với báo Bangkok Post hôm thứ Ba 3/12.

Hai người Việt có tên viết tiếng Anh không dấu là Nguyen Thanh Quang và Tran Dang Hoa, 27 tuổi. Họ bị buộc tội trộm cắp.

Cảnh sát cho hay hai người này bị phát hiện đạp xe đạp vòng quanh thành phố, mang theo máy hàn điện.

Được biết lần đầu tiên hai người Việt này bị nghi dùng máy hàn để cắt máy rút tiền tự động (ATM) của ngân hàng TMB là vào đầu tháng 11, tại khu vực Thalang ở Phuket, một nơi nghỉ mát nổi tiếng của Thái Lan.

Tuy nhiên lần đó họ đã không thành công.

Ngày 7/11, hai người này bị cho là đã “ra tay” lần nữa tại máy ATM của ngân hàng Siam Commercial Bank by Vid-Saver\\\0022 “”> tại bến tàu Boat Lagoon và lấy đi 1,6 triệu baht tiền mặt.

Tuy nhiên, cảnh sát Thái cho là hai người Việt này đã rời khỏi Thái Lan.

Từ khi công dân Việt Nam sang Thái Lan không cần visa, con số người Việt ở vương quốc này tăng mạnh, đa phần là đi du lịch.

Tuy nhiên, con số tội phạm người Việt, chủ yếu các tội ăn cắp, ở Thái Lan cũng tăng theo.

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

VỌNG MÙA HỒNG ÂN

Lịch phụng vụ một lần nữa dẫn đưa chúng ta trở lại cuộc hành trình vào thuở ban đầu, khi mà mọi người đang mong chờ Vị Cứu Tinh.  Hành trình bắt đầu đồng nghĩa với hành trình nhìn lại chính mình. Lắm khi ta tự hỏi sao cứ phải bắt đầu khi mà ta đã đi quá xa so với điểm bắt đầu ấy?  Phải, vì ta đã đi quá xa nên bây giờ cần nhìn lại và trở về để tìm lại đường hướng thuở ban đầu và để biết ta đang đi đúng hay sai.  Thành thử ra, có thể nói rằng mùa vọng là mùa của hồng ân.

Bất cứ ai biết nhìn lại mình thì sẽ cảm được mùa hồng ân này.  Nhìn lại để thấy mình rõ hơn.  Nhìn lại để biết mình đang ở đâu trong cuộc đời này.  Nhìn lại để xem thử cuộc sống của mình có thật sự khao khát Chúa không?  Nhìn lại để thấy cuộc đời mình cần Vị Vua Cứu Thế đến cỡ nào.  Quả thật, cuộc đời ta tựa hồ như con thuyền trôi nổi trên đại dương trần thế.  Lắm khi nó đi ngang qua vùng trời bình yên của đại dương.  Nhưng cũng lắm khi con thuyền ấy bị bão táp, phong ba… Sau mỗi lần như thế, con thuyền hư hao, cần được sửa chữa để tiếp tục hành trình cuộc đời.  Vì thế, mùa vọng mời gọi con thuyền đời ta nên nghỉ ngơi và tự duyệt xét lại chính mình và thấy được những sai sót, những lỗ hổng của con thuyền nhằm có đủ sức bước đi trong một năm Phụng Vụ mới.

Mùa hồng ân càng có ý nghĩa khi ta không chỉ biết nhìn lại mà còn hành động.  Biết được những chỗ hư hao của con thuyền là một chuyện, nhưng ta có muốn sửa nó không lại là chuyện khác.  Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta hãy sửa lối cho thẳng để Người đi (Mt 3,3).  “Sửa lối” là động từ diễn tả hành động, nghĩa là không phải chỉ ngồi đó tự đấm ngực, khóc lóc, kêu than, mà hãy tự đứng dậy, đảm đương những sai sót của mình và khắc phục nó.  Thuyền đời của mỗi người cần được sửa chữa cụ thể, rõ ràng thì mới có thể có đủ nghị lực, lòng can đảm và sẵn sàng đối mặt với bão táp ở tương lai.

Mùa hồng ân còn mời gọi mọi người hãy để Chúa làm trung tâm đời mình.  Tư thế của một người mong chờ Chúa đến là tư thế của hy vọng, của sự giải thoát.  Người sống trong niềm mong chờ luôn khắc khoải mau đến thời điểm mong chờ.  Lúc đó, mọi mong chờ sẽ vỡ òa trong cõi lòng sâu thẳm nơi lòng người hy vọng.  Thế nên, người chờ mong Chúa đến cũng luôn sống trong niềm hy vọng ấy và trong bất cứ mọi hành động của đời thường đều hướng về Chúa.

Xin hãy để Vị Cứu Tinh làm cầu nối giữa ta với Chúa Cha trong những giờ phút nhìn lại mình.  Xin hãy để Đấng Thiên Sai dẫn ta đến hành động đích thực trong việc sửa sai.  Xin hãy mang Chúa về lại trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Quốc Đạt, S.J.

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

Somalia, Bắc Triều Tiên, Afghanistan đứng đầu các nước tham nhũng

Somalia, Bắc Triều Tiên, Afghanistan đứng đầu các nước tham nhũng

Henry Ridgwell

03.12.2013

LONDON —

Các nước tham nhũng nhất thế giới:

-Somalia
-Bắc Triều Tiên
-Afghanistan
-Sudan
-Nam Sudan
-Libya

Nguồn: Minh bạch Quốc tế

Somalia là nước tham nhũng nhất trên thế giới, theo chỉ số mới nhất được đưa ra bởi tổ chức theo dõi tham nhũng có trụ sở tại Berlin, tổ chức Minh Bạch Quốc Tế. Tổ chức này đã thực hiện thăm dò trên hàng ngàn người tại 177 quốc gia về nhận thức của họ về tham nhũng. Kết quả cho thấy có sự tiến triển mạnh mẽ ở vài quốc gia châu Phi, thế nhưng mức độ hối lộ rất cao và sự lạm dụng quyền lực lại đang diễn ra ở những nước đang có xung đột như Syria và Afghanistan. Thông tín viên Henry Ridgwell tường thuật cho VOA từ London.

Somalia, Afghanishtan và Bắc Triều Tiên, mỗi nước chỉ được 8/100 điểm trong bảng chỉ số nhận thức tham nhũng 2013 của tổ chức Minh bạch Quốc tế, trong đó 100 điểm là hoàn toàn không có tham nhũng.

Bản báo cáo được công bố hôm thứ Ba, chỉ một ngày sau khi các nhà lập pháp ở Mogadishu bỏ phiếu để lật đổ chính quyền Somalia, sau một cuộc đấu đá kịch liệt vì các cáo buộc về nạn bè phái và gia đình trị. Chính quyền Somalia hiện đang chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy của những phiến quân Hồi giáo al-Shabab.

Những quốc gia biểu hiện tệ nhất thường là những nước đang xảy ra xung đột, ông Robert Barrington, giám đốc điều hành của tổ chức Minh bạch Quốc tế cho biết.

“Nếu bạn nhìn vào những chính phủ có chỉ số minh bạch thấp, đặc biệt, bạn sẽ thấy là họ hoàn toàn thiếu tinh thần trách nhiệm. Các cơ chế của đất nước đó đang tan rã. Và chính vì vậy mà công dân phải gánh chịu đau khổ.”

Syria, với một cuộc nội chiến kéo dài, đã trượt xuống rất nhiều trong bảng chỉ số tham nhũng và được xếp thứ 10 tính từ dưới lên. Iraq, cũng đang đối diện với bạo lực, cũng đứng trong số 10 nước tệ nhất. Tương tự như vậy là Afghanistan.

Ukraina xếp hạng 144 trong bảng chỉ số, tệ nhất trong khu vực bao gồm châu Âu, Nga và phần lớn các nước thuộc Xô Viết cũ. Trong những ngày gần đây, những người biểu tình chống chính phủ đã xuống đường để đòi tổ chức một cuộc bầu cử mới.

Ông Robert Barrington của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế:

“Ở nhiều quốc gia, hầu hết các quốc gia, điều bạn hy vọng khi đến sở cảnh sát là họ sẽ là đồng minh của bạn để chống lại tội phạm. Thế nhưng ở nhiều nước, bạn thực sự cảm thấy họ là kẻ thù của bạn trong cuộc chiến chống tội phạm. Bản thân họ chính là tội phạm.”

Tuy nhiên, cũng có những câu chuyện tích cực. Ông Barrington cho biết.

“Rwanda là một trường hợp đặc biệt thú vị bởi vì trước đây nước này thể hiện rất kém trong nhiều năm liền, nhưng đã có sự nỗ lực của chính phủ chống lại tham nhũng, bây giờ là lúc gặt hái kết quả.”

Chỉ một thập niên trước, Liberia đã bị tàn phá bởi cuộc nội chiến. Hiện nay kinh tế nước này đang lên, với mức tăng trường GDP hơn 10% trong năm 2012. Liberia đứng thứ 83 trong số 177 nước trong bảng xếp hạng nhận thức tham nhũng của tổ chức Minh bạch Quốc tế. Điều đó rất tốt so với nhiều nước châu Phi, tuy nhiên nhiều nhà phân tích cho rằng tham nhũng vẫn còn níu chân quốc gia này.

Ðó là tiếng của bà Robtel Pailey khi bà đọc cuốn sách thiếu nhi mà bà viết về tham nhũng, có tiêu đề là “Gbagba”, hay là “Thủ đoạn gian trá”. Bà là một thủ thư quốc gia và là học giả của trường đại học London về chuyên ngành Ðông phương và châu Phi. Bà cho rằng thế hệ trẻ cần phải nhận thức được vấn đề.

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Chân dung nhà truyền giáo Phanxicô Xavie

Trầm Thiên Thu

12/3/2013

Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.

Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.

Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus -= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.

Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.

Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.

Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.

Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông nói hết với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mình, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.

Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ Ngài và thấy thi hài Ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài Ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài Ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của Ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.

Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới Nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).

Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

( BÀI GIÁO LÝ 23 VỀ KINH TIN KÍNH CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính nói về Cái Chết của Chúng Ta và chúng ta phải chuẩn bị thế nào.

* * *

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em và chúc mừng vì anh chị em vì can đảm ở quảng trường này trong sự lạnh lẽo.  Tôi khen ngợi anh chị em rất nhiều.

Tôi muốn kết thúc loạt bài giáo lý về “Kinh Tin Kính”, được ban hành trong Năm Đức Tin, bế mạc Chúa Nhật tuần trước.  Trong bài giáo lý này và những bài giáo lý tiếp theo tôi muốn nói về chủ đề sự sống lại của thân xác, theo hai khía cạnh như được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, tức là sự chết và sống lại của chúng ta trong Đức Chúa Giêsu Kitô.  Hôm nay tôi sẽ suy niệm về khía cạnh thứ nhất, “sự chết trong Đức Kitô.”

1. Thường trong chúng ta, có một cách nhìn sai lầm về cái chết.  Tất cả chúng ta đều quan tâm đến cái chết, và nó chất vấn chúng ta một cách sâu xa, đặc biệt là khi nó chạm đến gần chúng ta, hoặc khi nó chạm đến những trẻ em, những người không thể tự vệ, một cách mà đối với chúng ta là “xấu xa”.  Tôi luôn luôn tự hỏi: tại sao trẻ em phải chịu đau khổ?  Tại sao trẻ em phải chết?  Nếu cái chết được hiểu là chấm dứt tất cả mọi sự, thì nó thật đáng sợ, khủng khiếp, và biến thành một đe mối dọa phá vỡ mọi mơ ước, mọi quan điểm, mọi liên hệ và làm gián đoạn mọi con đường.  Điều này xảy ra khi chúng ta coi cuộc sống của như như một khoảng thời gian bị giới hạn giữa hai thái cực: sinh và tử, khi chúng ta không tin vào một chân trời vượt trên cuộc sống hiện tại; và khi chúng ta sống như thể không có Thiên Chúa.  Quan niệm này về cái chết là điều điển hình của tư tưởng vô thần, là tư tưởng giải thích cuộc đời như việc chúng ta hiện diện trên thế gian là một sự tình cờ, và đang đi về phía hư vô.  Nhưng cũng có một chủ nghĩa vô thần thực tiễn, đó là một lối sống chỉ vì tư lợi và chỉ sống cho những điều trần tục.  Nếu chúng ta để cho cái nhìn sai lầm về cái chết này bắt giữ, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là che giấu cái chết, chối từ nó, hoặc tầm thường hoá nó, ngõ hầu nó không làm cho chúng ta sợ hãi.

2. Tuy nhiên, trước giải pháp sai lầm này, “quả tim” con ngưởi – lòng ước ao sự vô tận của nó, mà mỗi ngưởi chúng ta đều có, lòng khao khát cõi vỉnh hằng của nó, cũng ở trong mỗi ngưởi chúng ta – nổi loạn.  Như thế, ý nghĩa Kitô giáo của cái chết là gì?  Nếu chúng ta nhìn vào những giây phút đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi chúng ta bị mất một người thân yêu – cha mẹ, một người anh em, một người chị em, vợ, chồng, một đứa con, một người bạn – chúng ta nhận ra rằng, ngay cả trong thảm trạng của sự mất mát, ngay cả khi bị tan nát bởi việc bị chia cách, một xác tín nảy sinh trong trái tim rằng tất cả mọi sự không thể nào là hết, rằng những điều tốt đã được cho đi và nhận được không phải là vô ích. Có một trực giác mãnh liệt trong chúng ta bảo chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc với cái chết.

Việc khao khát sự sống này đã tìm thấy câu trả lời thực tế và đáng tin cậy của nó trong sự Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.  Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không những chỉ cung cấp cho chúng ta sự chắc chắn về đời sống sau khi chết, mà còn soi sáng những mầu nhiệm về cái chết của mỗi người chúng ta.  Nếu chúng ta sống kết hợp với Chúa Giêsu, trung thành với Người, chúng ta sẽ có thể đối diện với việc đi qua của cái chết với niềm hy vọng và sự thanh nhàn.  Thật vậy, Hội Thánh cầu nguyện: “Nếu sự chắc chắn rằng mình phải chết làm anh chị em buồn phiền, thì anh chị em được an ủi bởi lời hứa về trường sinh”.  Đây là một lời cầu nguyện rất đẹp của Hội Thánh!  Một người có khuynh hướng chết theo cách mà người ấy sống.  Nếu cuộc đời của tôi là một cuộc hành trình với Chúa, một con đường tín thác vào lòng thương xót vô hạn của Người, tôi sẽ được chuẩn bị để chấp nhận giây phút cuối cùng của cuộc đời dưới thế như sự phó thác dứt khoát và tin tưởng vào đôi bàn tay đón chào, trong khi chờ đợi để chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người tận mặt.  Đây là điều đẹp nhất có thể xảy ra cho chúng ta: chiêm ngưỡng tận mặt Thánh Nhan xinh đẹp của Chúa, để nhìn thấy Người như Người là, xinh đẹp, đầy ánh sáng, tràn đầy tình yêu, đầy dịu dàng.  Chúng ta đi đến cùng đích này: nhìn thấy Chúa.

3. Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu được lời mời gọi của Chúa Giêsu là luôn luôn sẵn sàng, tỉnh thức, vì biết rằng cuộc đời dưới thế này được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho đời sau, là đời sống với Cha trên trời.  Và vì thế, có một cách chắc chắn: chuẩn bị tốt cho cái chết, bằng cách gần gũi Chúa Giêsu.  Đó là sự an toàn:  Tôi chuẩn bị mình cho cái chết bằng cách ở gần Chúa Giêsu.  Anh chị em đang gần Chúa Giêsu như thế nào?  Bằng cầu nguyện, các Bí Tích và cũng qua việc thực thi bác ái.  Chúng ta hãy nhớ rằng Người hiện diện trong những người yếu đuối và thiếu thốn nhất.  Chính Người đã đồng hóa Mình với họ, trong dụ ngôn thời danh về Phán Xét Chung, khi Người nói: “Vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát, các con đã cho Ta uống, là một người lạ, các con đã tiếp đón Ta, trần truồng, các con đã cho Ta mặc, đau ốm, và các con đến thăm Ta, ở tù, các con đã đến với Ta…. Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những anh em này của Ta, là các con đã làm cho Ta” (Mt 25:35-36,40 ).  Vì vậy, một cách an toàn là để phục hồi ý nghĩa của việc bác ái Kitô giáo và chia sẻ huynh đệ là chăm sóc những vết thương về thể chất và tinh thần của những người lân cận của chúng ta.  Sự đoàn kết trong việc cảm thông đau khổ và truyền hy vọng là tiền đề và điều kiện để thừa kế Vương Quốc được chuẩn bị cho chúng ta.  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Hãy suy nghĩ về điều này: những người thực hành lòng thương xót không sợ chết!  Anh chị em có đồng ý không?  Chúng ta cùng nhau lập lại câu này để không quên nó được không?  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Và tại sao họ lại không sợ chết?  Tại vì họ nhìn vào nó trong những vết thương của anh chị em, và khắc phục nó với tình yêu của Đức Chúa Giêsu Kitô.

Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng, quê hương hồng phúc của chúng ta, nơi mà chúng ta đang hướng về, với lòng khao khát được sống muôn đời với Cha chúng ta, với Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và các Thánh.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn