Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Nguyễn Long Thao

11/2/2013

NEW YORK – Tòa Thánh Vatican sẽ tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến trên toàn thế giới về một số vấn đề nhạy cảm như: thuốc ngừa thai, vấn đề vợ chồng ly dị, hôn nhân đồng tính. Mục đích của cuộc thăm dò dư luận là để cung cấp dữ liệu cho cuộc họp quan trọng về gia đình mà Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ triệu tập vào năm 2014.

Cơ quan thông tấn The National Catholic Reporter, một cơ quan truyền thông độc lập có trụ sở tại Hoa Kỳ, đã công bố tin này vào ngày thứ Năm 31 tháng 10 năm 2013. Đồng thời bà Helen Osman, phát ngôn nhân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tại Washington đã xác nhận tin về cuộc thăm dò dư luận của Tòa Thánh với hãng thông tấn AP (The Associated Press). Hội đồng Giám Mục Anh đã công bố bản thăm dò dư luận này trên mạng lưới điện tử để giáo dân trả lời

Theo tin, đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri sẽ là điều hợp viên cho cuộc thăm dò dư luận này. Bảng câu hỏi để thăm dò dư luận đã được Tòa Thánh gửi tới các Hội Đồng Giám Mục vào trung tuần tháng 10 năm 2013. Theo yêu cầu của Tòa Thánh, bản câu hỏi cần được phổ biến rộng rãi tới từng giáo hạt, giáo xứ trong địa phận để thu thập ý kiến của giáo dân càng nhiều càng tốt.

Bản thăm dò có tất cả 39 câu hỏi,trong số này có những câu như:

Hôn nhân đồng tính có được chấp nhận trong đất nước của qúy vị không?

Các Linh mục đã cung ứng mục vụ thế nào cho các cặp đồng tính?

Giáo Hội qúy vị đã đáp ứng thế nào khi cặp hôn nhân đồng tính muốn được học hỏi tôn giáo hay muốn cho con cái được rước lễ ?.

Bản phỏng vấn cũng hỏi vấn đề lòng thương xót Chúa đã được tuyên bố như thế nào đối với các cặp vợ chồng ly dị hay tái hôn?

Vấn đề cung ứng mục vụ cho các cặp không kết hôn nhưng sống chung với nhau như thế nào?

Bản điều tra cũng hỏi người tín hữu xem có tin vào giáo huấn của Giáo Hội trong vấn đề ngừa thai nhân tạo?

Kết quả cuộc thăm dò dư luận sẽ là khung sườn cho nghị trình cuộc họp của các vị Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục trên toàn thế giới họp tại Roma vào năm 2014 để bàn về vấn đề gia đình.

Giới quan sát tại Vatican bình luận rằng, cuộc thăm dò dư luận lần này của Tòa Thánh có tính cách mạng, vô tiền khoáng hậu, vì từ trước các chính sách đưa ra đều từ trên xuống dưới, nhưng lần này, chính sách mục vụ gia đình của Tòa Thánh Vatican đã có căn bản từ dưới lên trên.

Nguyễn Long Thao

NGƯỢC DÒNG…

NGƯỢC DÒNG…

Hoa viên vng ngt bun tênh,
Bâng khuâng nh
bước lênh đênh ni bun,
Ng
ược dòng d vãng l tuôn,
Nh
sao là nh tiếng chuông Đc Bà,
Bây gi
mi tht xót xa,
Sài Gòn hoa l
ngc ngà nay đâu,
Duy Tân trút lá me s
u,
Công tr
ường quyn khói chìm sâu gót hài,
L
i xưa đng mi ưu hoài,
Lung linh s
i nng loay hoay góc đường,
Cà phê gi
t đng ngát hương,
Riêng ta th
n thc su vương bn mùa….!!!!!

Liverpool.2/11/2013.
Song Nh
ư.

MỒNG TƠI,

MỒNG TƠI,

Em về đếm lá mồng tơi,
Đếm luôn cả hột cho vơi nỗi sầu,
Người đi biền biệt giang đầu,
Con đò lắc lẻo nông sâu khó dò,
Hoa cau thiếu sợi trầu bò,
Duyên mình lạnh ngắt buồn xo cả ngày,
Con chim sáo sậu vừa bay,
Cánh cò nghiệt ngả đắng cay một mình,
Lia thia quen chậu chung tình,
Cho bông lẻ bạn xinh xinh lối vào,
Nghề nông vất vả biết bao,
Phận nghèo chẳng dám trèo cao làm gì…

Liverpool.29/10/2013.
Song Như.

Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam, Thuốc Dân Tộc Đến Dược Thảo

Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam, Thuốc Dân Tộc Đến Dược Thảo

TS.Mai Thanh Truyết

The Ebers Papyrus (ca. 1550 BCE) from Ancient Egypt has a prescription

for Cannabis sativa (marijuana) applied topically for inflammation.

Những danh từ dùng cho tựa đề của bài viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và thời gian.

Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v… đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đãm nhận.

Các loại cây lá và rễ được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nấm lá khô, một muỗng bột rễ cây…thay vì một chỉ …, ba ly… như ở thuốc Bắc.

Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “xắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần.

Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã được bào chế sẳn cũng như được “nhà nước” công bố công dụng của từng loại cây, lá, hay cũ… dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng, cho dù có hiệu nghiệm hay không.

Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được “thống nhất”, chắc ai cũng còn nhớ cây xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi khám bịnh ở phòng y tế phường hay xã, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do một anh bộ đội vượt Trường sơn kể như sau: “nếu vợ chồng không có con trong một thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi “ăn nằm” với nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau đó ngay!”

 

Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể hiện “tính khoa học” còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông y sĩ ở đây, nói chung đều mang (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai là Bác sĩ Đông y (Oriental Doctor – OD) hay Tiến sĩ Đông Y (Ph.D of Oriental Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam; tất cả được chế biến có tính cách hoàn chỉnh hơn dược thuốc Bắc và thuốc Nam, gần giống như các loại thuốc của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc tể v.v…

Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng thuốc dược thảo. Danh từ “thuốc” dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ, thân, lá, củ, hột… mà không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di hại về sau như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold) cho đến các hóa chất dung để trị liệu theo Tây y nữa.

Nguồn gốc và định nghĩa dược thảo

Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem như là một phương cách trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các loại cây hay hóa chất ly trích từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.

Datura stramonium is a highly effective treatment for asthma symptoms when smoked, because it contains atropine, which acts as an antispasmodic in the lungs. However, datura is also an extremely powerful hallucinogen and overdoses of the tropane alkaloids in it can result in hospitalization or death.

 

Nguồn gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals) để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.

 

©2007 Publications International, Ltd. There is a large palate of herbs

and herbal remedies that you can use to treat everyday medical conditions.

Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).

Ngành dược thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có “tham vọng” chữa trị toàn cơ thể con người, và “khuyến khích” cơ thể tự “hoàn chỉnh” hay điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản ứng hổ tương để chữa trị toàn thể con người.

Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện có khoảng 34% người Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.

 

Vấn đề an toàn của dược thảo

Có một khái niệm hết sức thông thường và tự nhiên của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ (herbal) là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn hơn các loại thuốc bằng hóa chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện đại bào chế. Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người Hoa kỳ và dĩ nhiện, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại vẫn thường dùng các loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh.

Đối với dược thảo, các nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn của thuốc đặc chế. FDA cũng không đói hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhản hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc nghiên cứu nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.

Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã đưộc quảng cáo rầm rộ trong cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai…là có khả năng trị bá bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với các yếu tố làm chống đông máu có sẳn trong máu của con người.

Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại thuốc thực vật trên được ghi trong nhản hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu nghiệm của thuốc. Nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhản hiệu trên hòan tòan không ghi rõ vế cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!

Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) giống như các loại thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc, cùng một nhản hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của hoa v.v.. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc, đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân.

Do đó, mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an tòan. Theo khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.

Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên, những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng khi dùng nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê trên nhản thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê toa.

Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành phần cùng cân lượng của những chất hoá học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất) theo từng trường phái dược thảo khác nhau.

Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị bịnh về tim, bịnh viêm yết hầu (angina), cao áp huyết, hay chứng đau mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy).

Thêm nữa, các dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot flashes) là các loại cỏ và rể của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một thời gian.

Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?

Hiệu năng của dược thảo

Đối với ngành y dược khoa, một thuốc mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đọan như vừa kể trên, điều đó không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an tòan của thuốc, mà còn đi xa hơn nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an tòan hơn (safer), và hiệu nghiệm hơn khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có cùng một mục đích trị liệu.

Nhưng đối với dược thảo, hòan tòan không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cảm tính (intuition) nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể xảy ra.

Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số nhà y dược học là:

1- Một số dược thảo được xem như là một loại thức ăn bổ túc (food additive) như các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người tiêu dùng.

2- Ủy ban An tòan Y khoa (Committee on Safety of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo vơí bác sĩ về các loại dược thảo đang dùng trước khi được giải phẩu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc xử dụng trong và sau khi giải phẩu.

 

3- Còn Viện Quốc gia Những Nhà Sưu tầm Dược thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần phải theo dõi từ ba đến năm năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được bào chế trước khi tung ra thị trường.

Vì những lý do trên cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người xử dụng dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.

Cũng cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức khoẻ tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang xử dụng, cuộc sống thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khoẻ gia đình. Và sau một thời gian trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.

Sau cùng, Viện Sức khoẻ Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for Complementary & Alternative Medicine).

Thay lời kết

Ngày hôm nay, ngoài những bửa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về vật chất lẫn tâm sinh lý nhứt là đối vời những người lớn tuổi. Do đó, xử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đóan bịnh và cho thưốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho việc trị liệu.

Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn tòan độc lập, và hòan tòan tùy thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.

Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình.. .chúng ta hàng ngày nghe ra rả những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều bịnh khác nhau, cũng như trị “bá bịnh”. Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo, những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác nhau. Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni, thuốc cây lô hội v.v.. .

Thậm chí, có những nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14, 26 v.v.. .để trị bách bịnh hay bá bịnh.

*

Sữa ong chúa Supreme Royal Jelly mới

*

Công Dụng: Sữa ong chúa Supreme Royal Jelly mới trị nám, da nhăn nheo, da bị mụn, da đồi mồi, yếu sinh sinh lý (nam lẫn nữ), cơ thể suy nhược, triệu chứng khó chịu thời kỳ mãn kinh, giúp tăng cường sự dẻo dai (thể thao).

Cách Dùng: Mỗi ngày uống 1 viên.

 

Giã sử như sữa ong chúa có tính chất trị bá bịnh đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng chứa sữa (?) của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ “sữa” như thế nào, nhưng qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!

(Ghi chú: Sau khi bài viết được tung ra trên các Diễn đàn và báo chí vào năm 2009, một “Ông Bác sĩ “vật lý trị liệu” chuyên trị dược thảo quảng cáo trên các Đài phát thanh địa phương ở Bolsa, đã giải thích tuy gọi là sữa ong chúa nhưng thực sự là dung dịch do các ong thợ mang về để nuôi ong chúa…Như vậy từ trước đến giờ sao không giải thích cho bà con biết, mà để đến bây giờ mới đính chính? Rồi các “bác sĩ chuyên trị” sữa ong chúa thi nhau giải thích trên đài ra rã hàng ngày. Thậm chí có Ông MD tốt nghiệp ở Hoa Kỳ còn thêm tên khoa học của “sữa ong chúa” để bán dược phẩm do…chính Ông ta chế ra…)

Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng mà không có một phản ứng nào cả. Cộng thêm một số đồng bào vì dễ tin và nhẹ dạ cho nên vô hình chung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên. Thiết nghĩ, ngày hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn phận dân sự (civic duty) của chính mình để cho những cung cách làm ăn không đứng đắn tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản ứng phụ khi dùng hoá chất không đúng cách (có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài thập niên xử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng tức khắc. Khẩn mong Quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.

Sau cùng người viết khẩn thiết yêu cầu các bác sĩ y khoa cũng như những nhà bào chế tây y lên tiếng nói góp phần làm sạch cộng đồng trước những âm mưu, hay quảng cáo bất chính kể trên.

Mong lắm thay!

TS.Mai Thanh Truyết

 

Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Năm nay tôi đã gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đã có thể chúc thọ được rồi. Tôi đã chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị  để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều gì đó về cuộc đời này.

Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở ký túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong phòng kêu ốm và ở lại. Người đó là S, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nhìn S đang nằm quay mặt vào tường và hoàn toàn tin rằng S đã lấy cắp chỉ vàng của tôi. Tôi đề nghị mọi người trong phòng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.

Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của S, chúng tôi đều tin S đã giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng của tôi. Chúng tôi đã báo cáo sự việc với nhà trường. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự thì S có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù S cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đã tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là S.

Một tuần sau, chúng tôi phát hiện S mang một tải mì sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi S lấy tiền đâu mà mua mì sợi. S không nói gì mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đã không xét tốt nghiệp cho S mặc dù học lực của S rất khá, với lý do đã có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của mình. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có S không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương S sinh sống đề nghị địa phương theo dõi và giáo dục S. Khi nào địa phương chứng nhận S đã hối cải và tiến bộ thì nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của S.

Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có S là không ai biết rõ ràng ở đâu và làm gì. Nhà trường cho biết, S cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.

Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng còn nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt H đã trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xã hội biết đến.

Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: “Anh P thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đã lấy của anh cách đây mấy chục năm. Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính”. Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không ký tên. Tôi không còn nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của S. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến S với một nỗi xót thương. Ngày ấy, S là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố S mất sớm. Mẹ S phải tần tảo nuôi năm anh chị em S ăn học. Có lẽ vì thế mà trong một phút không làm chủ được mình, S đã trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ thì có lẽ chúng tôi không đẩy S vào tình cảnh như ngày ấy. Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm lòng tôi. Ngày ngày tôi đợi S đến tìm. Tôi sẽ nói với S là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi S vì lòng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là S mà là H. Tôi reo lên: “Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này”. Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt H trầm tư khác thường. Tôi kéo H vào nhà và nói ngay: “Mình vừa nhận được thư thằng S. Cậu có biết nó viết gì không? Nó hứa trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi”. Khi tôi nói xong, H bước đến bên tôi và nói: “Anh P, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đã ăn cắp chỉ vàng của anh”. Nói xong, H như đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, H đã kể cho tôi nghe tất cả sự thật. Vì cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, H đã tìm cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, H rất ăn năn và luôn tìm kiếm S để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê S mặc dù biết S không còn sinh sống ở quê đã lâu. Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về S: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của mình, S đã phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. S đã xin đi khai hoang ở một huyện miền núi. Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường tìm đến nơi S đang sinh sống. Ở đó S sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dãy đồi. S trồng trọt và mở một trang trại chăn bò lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.


Tôi và H quyết định ngủ lại một đêm với S. H xin S cho H được kể sự thật cho vợ con S nghe để họ thanh thản và hãnh diện về chồng, về cha mình và H muốn được tạ lỗi với vợ con S. Nhưng S gạt đi và nói:

“Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp”.

Trước khi chia tay nhau, H cầm tay S khóc và nói:

“Mình có tội với cậu. Cậu đã tha tội cho mình. Nhưng mình muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời mình đã mang nợ với cậu. Hãy nói mình phải trả nợ cậu như thế nào”.

S mỉm cười và nói:

“Ông đã trả hết nợ rồi”.

Khi tôi và H còn chưa hiểu ý thì S nói:

“Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đã trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ gì về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính mình”.

Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người S. Tôi hiểu ra một điều gì đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.

Cũng trong cái đêm thức với S tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, S vẫn đi quay mì sợi thuê để mua mì sợi cứu đói cho gia đình. Chúng tôi đã không hiểu được bạn bè mình. Chúng tôi đã làm cho một con người như S nếu không có nghị lực, không có lòng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.

Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời. Kính chúc các anh, các chị mạnh khỏe, an khang và thịnh vượng.

Thân ái,

Đ. V. P

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

‘Cậu Thủy’ và ‘Cậu Hồ’

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ 'cậu Thủy' tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Ngân hàng Chính sách Xã hội cũng đã nhờ ‘cậu Thủy’ tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ.

Nguyễn Hưng Quốc

31.10.2013

Hằng ngày, tôi vẫn vào các tờ báo mạng ở trong nước, từ lề phải đến lề trái, để đọc tin. Có điều, hầu như chưa bao giờ tôi mở các bản tin về những chuyện như “tâm linh” hay “ngoại cảm”. Với tôi, chúng đều thuộc loại nhảm nhí, không đáng mất thì giờ: vô ích, hơn nữa, còn có thể gây cảm giác bức bối khó chịu: vô duyên. Vậy mà, tình cờ, sáng nay, một người bạn lại hỏi tôi về “Cậu Thủy”. Tôi ngơ ngác, không biết gì cả. Anh mới kể vắn tắt về các “thành tích” của “cậu”. Thấy thú vị, về nhà, tôi vào internet để… làm quen với “cậu”.

“Cậu” tên thật là Nguyễn Văn Thúy, quê ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh, sinh năm 1959, năm nay 54 tuổi. Trước, “cậu” làm công an; sau, không biết vì lý do gì, “cậu” về làm dân. Quen thói cũ, làm dân, “cậu” cũng không chịu sống một cách lương thiện: Cậu tàng trữ vũ khí quân dụng và lừa đảo hết người này đến người khác. “Cậu” và vợ “cậu” bị bắt và ở tù hơn 10 năm. Được thả về, mấy năm sau, “cậu” bỗng nổi tiếng là một nhà ngoại cảm xuất sắc và càng ngày càng giàu.

Cái giàu của “cậu” có thể nhìn thấy ngay ở ngôi nhà “cậu” ở: Nhà ba tầng, xây theo kiểu biệt thự, trên nóc có hai con rồng chầu; trước cổng, có hai bức tượng sư tử bằng đá trắng lớn sừng sững rất uy nghi. Trong nhà, nghe nói, các vật dụng đều thuộc loại đắt tiền.

Tiền ấy từ đâu ra?

Trước hết là từ khách hàng của cậu, những người muốn tìm hài cốt hoặc mồ mả của thân nhân. Suốt mấy chục năm chiến tranh, số người chết mà không tìm thấy xác hoặc xác bị vùi vội vã đâu đó trong rừng hoặc trên đồng hoang khá nhiều. Sau chiến tranh, một số người bị tù hoặc bị cải tạo chết và bị lấp dối giá đâu đó dưới lớp đất nông cũng không ít. Thân nhân những kẻ bất hạnh ấy không ngừng tìm kiếm. Cách tìm kiếm được báo chí trong nước quảng cáo nhiều nhất là nhờ các nhà ngoại cảm, trong đó, có “Cậu Thủy”.

Nghe nói khách hàng của “cậu” đông đến độ, lúc nào cũng nườm nượp; nhiều người, muốn gặp cậu, phải ăn chực nằm chờ trước nhà “cậu” cả đến mấy ngày trời. Khi gặp, “cậu” yêu cầu ghi tên người chết muốn tìm để “cậu” gọi âm binh tìm kiếm hoặc nhờ “Mẫu” chỉ giúp.  Sau khi đã được “âm binh” báo cáo, “cậu” cho thuê xe chở gia đình khách hàng đi tìm mộ. Toàn bộ chi phí xe cộ và tài xế cho chuyến đi, khách hàng phải trả, khoảng năm bảy chục triệu. Cuối cùng, sau khi tìm được mộ thân nhân rồi, khách lại phải “hậu tạ” cho “cậu” một số tiền nữa. Nói chung, theo dư luận, muốn đến gặp “cậu”, người ta phải chuẩn bị ít nhất là 150 triệu đồng!

Thứ hai, một số cơ quan nhà nước cũng nhờ “cậu”, trong đó, được đề cập đến nhiều nhất là Ngân hàng Chính sách Xã hội. Cơ quan này đã nhờ “cậu Thủy” tìm kiếm hài cốt và mồ mả của các liệt sĩ. Dĩ nhiên là “cậu” làm được ngay. Tổng cộng, “cậu” tìm được 105 bộ hài cốt; mỗi bộ, được trả 75 triệu đồng; như vậy, “cậu” bỏ túi cả thảy được 7.9 tỉ đồng (khoảng gần 400.000 đô la). Các hài cốt được “cậu” tìm, sau đó, được mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ các tỉnh một cách long trọng để mọi người thấy rõ là đảng và chính phủ không hề quên ơn những người con đã hy sinh thân mình cho… cách mạng!

Nhưng mới đây, một số nhà báo, sau nhiều năm âm thầm điều tra, đã tiết lộ một sự thật khủng khiếp: những cái gọi là hài cốt ấy chỉ là xương heo hay xương bò mà “cậu” Thủy đã thuê người chôn sẵn. Chưa hết. “Cậu” còn khôn ngoan chôn theo một số bình tông (“bidon”, bình đựng nước) có khắc tên nguệch ngoạc cũng như một số đôi dép cao su. Có điều phần lớn các bình tông cũng như dép cao su ấy còn khá mới. Nhưng không sao. Ngân hàng Chính sách Xã hội vẫn nhắm mắt trả tiền cho “cậu”. Miễn là có cái xương nào đó mang về cải táng trong Nghĩa trang liệt sĩ để thân nhân của họ an tâm và đồng bào khắp nơi đến thắp nhang kính vái!

Trước những sự thật được vạch trần không thể chối cãi được đó, ngày 28 tháng 10 vừa qua, công an đã đến còng tay “cậu Thủy”. Những ngày sau đó, báo chí khắp nơi nhao nhao chửi bới “cậu” là nhà ngoại cảm dỏm (ý là có những “nhà ngoại cảm” thật?).

Riêng tôi, đọc, tôi lại thấy thương “cậu”. Đương nhiên là “cậu” có lỗi, trước hết và chủ yếu là có lỗi với thân nhân những người đã chết. Những người ấy chắc phải thương bố/mẹ/chồng/vợ/con của mình lắm nên trong bao nhiêu năm không ngừng tìm kiếm; đến khi cầm được bộ xương heo/bò ngỡ là hài cốt của người thân, hẳn họ mừng rỡ vô cùng. Đến lúc nhận ra được sự thật, không biết họ sẽ đau đớn đến độ nào? Nhưng dù vậy, tôi vẫn thương “Cậu Thủy” vì, nghĩ cho cùng, tội của “cậu” cũng chả có gì đặc biệt.
Ở Việt Nam, trong thế kỷ 20 vừa qua, có một “nhà ngoại cảm” khác lừa dối nhiều người và nhận được nhiều tiền thưởng bất chính hơn “cậu Thủy” nhiều: Đó là “Cậu Hồ”.

“Cậu Hồ” cũng có tài sai khiến rất nhiều âm binh. “Cậu” cũng có “Mẫu” chỉ vẽ từng đường đi nước bước. “Cậu” cũng đem nhiều xương heo, xương bò, xương chó… ra lừa dân chúng để mọi người tin đó là thánh tích hay xá lợi của các bậc thần linh rồi sì sụp cúi lạy. “Cậu Thủy” chỉ làm 105 bộ hài cốt liệt sĩ giả; “cậu Hồ” chế tạo không những hài cốt liệt sĩ giả mà cả hài cốt quốc tổ giả và thần thánh giả; không những chỉ quy tập trong các nghĩa trang mà còn dựng sừng sững trong các cung điện, lâu đài, dinh này phủ nọ hết sức lộng lẫy và nguy nga. Nhiều bộ xương đến bây giờ vẫn còn ngọ nguậy và phóng uế tùm lum. “Cậu Thủy” chỉ lừa được một dùm người trong có sáu năm; “Cậu Hồ” thì lừa được cả thiên hạ trong gần một thế kỷ.

“Cậu” nào cũng dỏm. Nhưng nghĩ cho cùng, so với “cậu Hồ”, “cậu Thủy” chỉ là một thằng nhóc khôn lỏi. Có gì mà phải làm ầm ĩ chứ? Thôi, tha cho “cậu” ấy đi mấy bạn công an ạ.
Đồng môn và đồng chí với nhau cả mà.

Một học sinh Trung Quốc nhảy lầu chết « theo lệnh » của thầy giáo

Một học sinh Trung Quốc nhảy lầu chết « theo lệnh » của thầy giáo

Trò chơi tập làm bộ đội, tại khuôn viên Đông Dương, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc (Ảnh chụp 25/10/2013)

Trò chơi tập làm bộ đội, tại khuôn viên Đông Dương, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc (Ảnh chụp 25/10/2013)

REUTERS

Thụy My

RFI

Đài phát thanh quốc gia Trung Quốc (CNR) hôm nay 31/10/2013 loan tin, một học sinh Trung Quốc 10 tuổi đã tử vong khi nhảy từ tầng lầu thứ 30 xuống đất, sau khi bị thầy giáo ra lệnh phải viết bản tự kiểm, nếu không thì phải nhảy từ trên lầu xuống.

Em học sinh này bị thầy giáo ra lệnh phải viết một bản tự kiểm gồm 1.000 từ vì đã nói chuyện trong lớp. Phóng sự của Đài phát thanh quốc gia Trung Quốc trích lời thân nhân và hàng xóm của học sinh trên cho biết, cậu bé nhiều lần không hoàn thành nổi bản tự kiểm, và thầy giáo bèn nói, thế thì chỉ còn cách nhảy từ trên tòa nhà xuống.

Cũng theo CNR, người ta tìm thấy mảnh giấy trong một cuốn sách giáo khoa của em học sinh, viết nguệch ngoạc mấy chữ : « Thầy ơi, con không viết nổi. Con đã do dự nhiều lần khi cố gắng nhảy từ trên lầu xuống ».

Sau cái chết bi thảm của cậu bé, các thành viên trong gia đình đã giương biểu ngữ bên ngoài ngôi trường tại thành phố Thành Đô mang dòng chữ : « Thầy giáo đã buộc con chúng tôi phải nhảy lầu » – theo các tấm ảnh được đưa lên internet hôm nay.

Một viên chức có trách nhiệm của khu Cẩm Giang, nơi xảy ra thảm kịch nói là công an đang tiến hành điều tra, và không cho biết thêm chi tiết. Trên tài khoản tiểu blog, nhà trường viết rằng em học sinh trên và nhiều bạn học đã được lệnh viết bản phản tỉnh về thái độ của mình, sau khi gây trở ngại cho một cuộc thi hùng biện trong trường. Trường cam đoan là cậu bé chết « do tai nạn ».

Hệ thống giáo dục Trung Quốc có tiếng là kỷ luật nghiêm khắc. Truyền thống Trung Hoa buộc phải tuyệt đối tôn trọng bề trên, và học sinh phải luôn ngoan ngoãn vâng lời thầy cô.

Các buổi tự kiểm đã để lại dấu ấn sâu đậm cho xã hội Trung Quốc trong những năm tháng đen tối dưới chế độ Mao Trạch Đông, và mới đây lại được nêu cao nhân chiến dịch chống tham nhũng đang được tiến hành.

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN VI

Phan Sinh Trần.

Một trong những cách ca ngợi Chúa mà nhiều người biết đến, đó là Đọc chuỗi kinh “Lòng thương xót Chúa”. Đây cũng có thể là cách ca ngợi Chuá mà bạn yêu thích phải không ? Cảm được sự hy sinh vô bờ bến của Chúa qua kinh “ Lòng Thương xót” là cách ta dùng để bày tỏ lòng cảm ơn , tôn vinh và thần phục Ngài.

Thú thật với bạn là phải trải qua một thời gian thì tôi mới được Chúa cho cảm thấy say mê, thích thú khi đọc kinh này mỗi ngày lúc ba giờ chiều. Lúc đầu tôi chỉ đọc một cách khá miễn cưỡng , tôi ép mình đọc kinh Lòng thương xót vì đó là ước muốn của Chúa khi Ngài nói với Thánh nữ Faustina: “Vào lúc 3 giờ chiều, con hãy khẩn nài Lòng Thương Xót của Cha, đặc biệt cho các tội nhân; chớ gì con hãy dùng một giây lát ngắn ngủi để dìm mình trong cuộc Thương Khó, nhất là với nỗi đớn đau chịu ruồng rẫy trong cơn hấp hối của Cha.”

Tôi vốn không quen đọc kinh lập đi lập lại, nhưng mà qua ngày tháng, khi đọc Lòng thương xót Chúa, thì sự dậy dỗ của Chúa lại khác, trong mỗi câu kinh Chúa mở mắt cho tôi 3 điều :

  1. 1. Chúa đau đớn như thế nào .

Trong mối câu kinh “ Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê su” , Chúa cho thấy từng sự đau đớn khác nhau của Chúa, nào là, sự thờ ơ của tôi trước tình yêu tha thiết của Chúa đã là một bẽ bàng, rồi đến cảnh tội nhân sống trong đam mê, và sầm sập , ào ào lao vào đường chết làm cho Đức Chúa Giê Su đau đớn vô cùng khi mà những hy sinh trên thập giá của Chúa đang thành ra vô ích cho vô số người, nào là phá thai tràn lan làm Chúa đau đớn cùng với hàng trăm triệu nạn nhân thai nhi , Tội ấu dâm tran lan làm Chúa đau đớn tột độ, … Từ sự cảm thông với hy sinh của Chúa ta sẽ biết ơn và yêu mến Ngài them nhiều biết bao nhiêu !

  1. 2. Ta hoàn toàn có thể cậy dựa vào lòng Ngài.

Trong mỗi câu kinh “ Xin Cha thương xót …” thì lòng ta bừng lên một niềm trông cậy mãnh liệt vì như Chúa Giê Su hứa, khi ta cậy vào máu khổ nạn Chúa, thì máu này có đủ sức để rửa xóa bất kỳ tội lỗi nào trên thế gian này, dù tội đó lớn đến mức nào, dù tội đó di hại tới bao nhiêu đời. Khi ta dâng cuộc hy sinh khổ nạn của Chúa Giê Su lên Chúa Cha và nài xin tha thứ thì Cha đã sắn lòng mà tha thứ hết. Không tin thác và phấn khởi sao được phải không bạn ?

  1. 3. Cảm thông và cầu nguyện cho mình và anh em khác.

Chúa thay cho mình một tấm lòng biết chạnh thương và muốn cùng chia xẻ với các Anh Em thân thuộc đang phải trải qua các gian nan, bệnh tât , khổ sở vì bị áp chế , bị nghèo đói, bị vu khống, bị bỏ tù oan … Với các tội nhân thì lòng ta ăn năn thay cho họ , lòng ta xót xa cầu thay cho Anh Em.

Kết quả là khi đọc “Lòng thương xót “ với hết linh hồn, trong tín thác và yêu kính Chúa Giê Su, Chúa Cha, thì đã có quá nhiều sự tha thứ và chứa lành xảy ra mà nhiều bạn cũng đã biết, mục kích , đã có kinh nghiệm. Về phần nhóm của chúng tôi thì mới đây đã được Chúa ban một ơn đặc biệt này,

Khi đó là vào một ngày thứ bẩy, gia đình Anh X đi câu cá tại Quintana gần FreePort Texas. Cửa biển Quitana là một vấn nạn cho dân câu cá nghiệp dư, nước rất cạn chỉ tới ngang hông , nhưng xoáy thành các hố sâu rất nguy hiểm, lâu lâu có một dòng nước ngầm, nằm dưới các đợt sóng đánh từ bên hông, nó kéo rút mọi thứ ra biển . Mặt nước rất cạn là một bẫy ngầm quá nguy hiểm cho bất kỳ người nào mới đến Quintana. Chỉ mới vào dịp lễ Memorial, cách đây năm tháng, đã có một gia đình năm người khi đang câu cá đã bị nước cuốn trôi tới giờ vẫn không tìm ra xác.

Anh X bị nạn tại bãi này, một giòng triều ngầm đã cuốn Anh X ra biển khi anh đang cố gắng cứu một người khác và có khả năng không tìm thấy xác Anh X. Anh Em trẻ trong nhóm Thánh linh đã kéo tới an ủi Chị X và muốn đi tìm xác anh X ngoài biển. Điều tốt là, trước đó mấy tuần, Chúa đã sắp xếp cho một Anh nọ tạm gọi là anh Y vào tham gia trong Nhóm Thánh Linh Giáo Xứ , anh Y có tàu đi chơi, tàu lớn, máy 500 mã lực, có thể cưỡi trên sóng biển, anh Y đã tận tình dùng tàu cùng với gia đình và bạn bè đi tìm anh X. Chúng tôi đã tìm trên bờ ngày hôm trước , hôm sau thì Anh X lái tàu đi lùng hết các bãi, các cửa biển, từ sáng cho đến ba giờ, chúng tôi đã không tìm thấy một dấu hiệu, dấu vết nào. Trước đó, Coast Guard, lực lượng phòng duyên đã cho máy bay đi tìm trong một chu vi 27 dặm, kéo dài 48 tiếng đồng hồ mà không có kết quả.

Đến ba giờ chiều thì tất cả Anh Em trên tàu quì xuống và cùng đọc kinh Lòng thương xót Chúa, Tối cũng biết rằng, không phải chỉ có chúng tôi, từ xa trên bờ và tận các vùng xa hơn nữa như Florida, Victoria Texas, có các Cha Tri, Cha Phi, Các Sơ và Anh Chị Em Cầu Nguyện online cùng hiệp thông và cầu xin Lòng thương xót Chúa ..

Khi chúng tôi đọc kinh xong, thì quẹo tàu lên bờ và tiếp tục bàn kế hoạch tìm kiếm, còn đang nói với nhau thì đã có một tàu khác đến báo xác Anh X đã nổi lên, cách chỗ chúng tôi đang đứng độ vài trăm mét. Đó là sự hiêu nghiệm của việc kêu cầu “ Lòng thương xót Chúa”. Sự chu đáo của Chúa không chỉ ở đó, trong suốt 15 năm trường, Chúa đã biến đổi anh X từ một người thò ơ với Chúa , trở thành một người thật là tuyệt vời về đạo hạnh và tin yêu để Anh X có thể sẵn sàng cho ngày về nhà Cha. Suốt 15 năm trường , Anh chỉ có một ước ao là làm chứng cho Chúa về ơn đổi mới mà Chúa Thánh Linh có thể ban cho bất kỳ ai tin vào Ngài, nhất là trong mấy tháng cuối , anh có dịp cầu nguyện mỗi ngày hai tiếng đồng hồ, cho từng thành viên trong Nhóm Thánh linh chúng tôi, Anh dặn dò , nhắn nhủ từng Anh Em ở xa Nhóm, hơn nữa Anh là một người chồng, người Cha lý tưởng không thể nào tốt hơn, hết lòng lo từng chút, chu đáo cho vợ, cho con.. Cho đến giây phút cuối đời, anh vẫn đang hy sinh cứu người.

Cảm tạ Chúa kính yêu, trong biến cố của Anh X làm cho chúng tôi thấy sức mạnh của “ Lòng thương xót Chúa”.

Xin 1 đan cử những ơn khác từ “ Lòng thương xót Chúa”. Cháu tôi làm nghề nail , nó lại bị bịnh viêm xoang mũi từ năm cháu 17 tuổi , xương mặt ở gần mũi vị nhiễm trùng chảy mũ, và đã mổ một lần để nạo xương ở các vụng bị viêm nhiễm, tuy nhiên, tình trạng chỉ đỡ được hơn một năm , rồi cháu lại bị như cũ, càng tiếp xúc với hóa chất trong tiệm nail và hít thở khí độc thì vùng mắt , mũi cháu càng sung đỏ phù lên và rất là khổ sở vì nước mắt, nước mũi chảy đêm ngày. Bệnh làm nhức đầu đến mức không ngủ nghỉ và không thở được. Tình trạng ngày một tê hơn và không có giải pháp y khoa nào có thể làm cho dứt bênh, đến giờ là 23 năm trường cháu bị bệnh hành hạ. Thấy cảnh đó tôi không thể nào cầm lòng và cầu nguyện kinh “ Lòng thương xót “ cho cháu. Cầu cho cháu được một tháng thì tôi thấy lòng bình an và chuyển sang cầu nguyện cho người khác. Tháng 3 năm nay , trong một dịp tang lễ , tôi có dịp gặp lại Cháu ở Canada , khi tôi hỏi về bệnh tình thì cháu mới sực nhớ và nhận ra là Chúa đã chữa cho cháu khỏi hẳn từ mấy tháng trời nay rồi mà không để ý . Lòng thương xót tuyệt vời của Chúa đã chữa lành cho cháu! Còn hơn thế nữa , theo như lời của chau làm chứng thì Chúa còn chữa lành các mối liên hệ và các bệnh về tâm linh cho Cháu này nữa.

Tới đây sẽ có Bạn dặt câu hỏi là Làm sao để đọc kinh Lòng thương xót hoài mà không nhàm chán và máy móc ?

Sự khác biệt là chúng ta đã không chỉ đọc với sự mệt mỏi, u buồn nhưng với lòng tràn đầy trông cậy và biết ơn Chúa.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong lòng líu lo thưa với Chúa Cha , Cha ơi một hy sinh thân mình của con Cha là đủ cho Cha tha hết và thương đến người Anh Em mà con đang cầu nguyện.

Sự khác biệt là chúng ta đọc trong tinh thần sốt sắng hứng khởi của Chúa Thánh Linh .

Bạn ơi , chiến thuật của mỗi Nhóm, mối Tĩnh Tâm Thánh Linh khi phải đối phó với ma quỉ , bệnh tật, tội lỗi là , ta hãy Ca Ngợi Chúa qua kinh “ Lòng Thương Xót Chúa” lúc 3 giờ chiều mỗi ngày. Bạn đang cầu nguyện đặc biệt cho ai , thì có ngày tôi biết cách chắc rằng bạn sẽ có dịp viết ra đây lời làm chứng vể ơn phước qua Lòng thương xót của Người.

Mình sẽ không thể bỏ qua một ngày mà khong đọc kinh Lòng thương xót của Chúa vì lời hứa sau đây của Chúa Giê Su kính yêu:

… Cha nhắc cho con nhớ rằng mỗi khi nghe đồng hồ điểm 3 giờ chiều, con hãy dìm mình hoàn toàn trong Lòng Thương Xót Cha, thờ lạy và tôn vinh; con hãy kêu nài sự toàn năng của Lòng Thương Xót Cha cho toàn thế giới, và nhất là cho các tội nhân đáng thương; vì vào giờ phút ấy, lượng Lòng Thương Xót được mở toang ra cho mọi linh hồn. Trong giờ này, con xin được mọi sự cho chính con và những linh hồn mà con cầu nguyện cho; đó là giờ của ân sủng cho toàn thế giới” ( Nhật ký Thánh Faustina, bài 1572)

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Có phải công chức nhiều làm túi tiền quốc gia eo hẹp?

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2013-10-31

cong-chuc-305

Đợt thi tuyển công chức trực tuyến đầu tiên do Bộ Nội Vụ tổ chức hồi tháng 1 năm 2013.

Courtesy TPO

Cùng với ngân sách Chính phủ gặp nhiều khó khăn, cân đối thu chi căng thẳng, dù kiến nghị giảm lương 100.000 đồng đối với mỗi cán bộ công chức đã bị Thủ tướng bác bỏ, song ít nhiều những động thái này cho thấy túi tiền quốc gia đang nhiều eo hẹp, trong đó, nhân tố gánh nặng công chức khiến nhiều người lo lắng.

Dư 30% số công chức

Với nhận định của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cách đây không lâu: “có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”, đã ít nhiều cho thấy thực trạng cồng kềnh và trì trệ của giới công chức Việt Nam. Nếu đối chiếu con số này với một phân tích khác của nguyên Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam rằng: “cứ hình dung nếu ngân sách thu 100 đồng…có 65% chi cho thường xuyên, trong số này khoảng một nửa là chi lương cho công chức, viên chức”, thì mới thấy một lượng ngân sách nhà nước đã bị lãng phí ra sao.

Hãy khoan bàn tới các con số cụ thể của từng bộ ngành hay các cấp tỉnh thành, tính đến hết năm 2012, Việt Nam có trên 2,2 triệu công chức viên. Theo khái niệm của Luật cán bộ, họ là các đối tượng thuộc cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị hay xã hội làm việc trên khắp 63 tỉnh thành Việt Nam.

” Bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.
-TS Vũ Ngọc Xuân”

Vẫn biết mọi so sánh là khập khiễng, nhưng thử làm một phép tính: Hoa Kỳ có trên 310 triệu dân, số công viên chức quản lý khoảng 2,2 triệu người, trong khi Việt Nam có dân số chưa bằng 1/3 nhưng số công viên chức cũng xấp xỉ, chưa kể xét về địa lý Việt Nam lại nhỏ chưa bằng 1/10 Hoa Kỳ… Những con số biết nói này cho thấy Việt Nam đang gặp một trở ngại lớn về hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức… phải chăng túi tiền quốc gia eo hẹp vì lượng công chức quá đông, quá nhiều? Câu hỏi này của dư luận hẳn không phải là không có cơ sở.

Giải thích về hiện tượng trên, T.S Vũ Ngọc Xuân, giảng viên chính khoa Kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho chúng tôi biết:

“Về mặt thể chế Việt Nam có mô hình giống với Trung Quốc, công chức viên chức mang tính chất là gắn bó suốt cuộc đời. Cho nên thu nhập của công chức ở Việt Nam thấp, một mặt là do cơ chế của Việt Nam là kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa. Về yếu tố con người, để sa thải người lao động thì luật pháp không cho phép mặc dù có một số trường hợp nhưng rất khó để vận dụng. Vì thế, bây giờ người ta nói nhiều đến chuyện tinh giản biên chế, nhưng sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc sửa luật, nghị định rồi thông tư, điều này rất là khó.”

cong-chuc-1-250

Công chức làm việc trong một cơ quan hành chính công ở Đà Nẵng, ảnh minh họa chụp trước đây. Courtesy LĐ.

Vấn đề mà T.S Vũ Ngọc Xuân phân tích chính do cơ chế và luật định của “định hướng xã hội chủ nghĩa” là những rào cản khiến việc sa thải công chức tại Việt Nam không dễ dàng… chưa kể những chuyện chưa nói ra ai cũng biết là một lượng lớn thành phần này lại nằm ở những vị trí được xem là “dễ chấm mút,” là con ông cháu cha hay có các mối quan hệ chằng chịt với giới lãnh đạo… vì thế không phải ngẫu nhiên mà bản thân Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng từng thừa nhận “chạy này, chạy kia… khâu nào cũng có.”

Để có góc nhìn của người trong cuộc, chúng tôi trao đổi với ông Trương Văn Quảng, một cán bộ phụ trách nhân sự ở một bộ tại Hà Nội, ông cho biết còn rất nhiều bất cập không chỉ ở khâu cuối sa thải, mà bắt nguồn ngay từ khâu đầu vào tuyển dụng công chức ở Việt Nam:

“Khi tuyển dụng những người mới vào làm thì năng lực còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm… nhưng do mối quan hệ cấp trên cấp dưới, do chạy chọt hay nể nang nhau nhưng cứ tuyển người vào làm, nên hiệu quả công việc trong quá trình triển khai thực tế gặp rất nhiều khó khăn, nên không đáp ứng được nhu cầu công việc. Có bức xúc trong vấn đề tuyển dụng cán bộ ngay từ khâu đầu vào.

Đáng lẽ giải quyết công việc nhanh gọn nhưng do cơ chế, chính sách văn bản chồng chéo, thủ tục hành chính cồng kềnh, số lượng người ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều, điều đó làm cản trở công việc.”

Làm ít, thưởng nhiều

Không chỉ những đối tượng được cho là “ngồi chơi xơi nước hơi bị nhiều” mà điểm đáng chú ý là khi có chế độ khen thưởng, tăng lương hay nhận hưởng các quyền lợi thì thường những cán bộ công chức này lại đứng đầu danh sách xét duyệt, ông Quảng cho biết tiếp:

” Vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ.
-Ô. Trương Văn Quảng”

“Khi họ đã làm việc thì vấn đề tăng lương hay sắp xếp tổ chức công việc gặp nhiều khó khăn bởi do những quan hệ cấp trên cấp dưới, nể nang đâm ra không đi thẳng vào năng lực cán bộ, đây là thực trạng trong bộ máy hành chính sự nghiệp của các bộ ngành hay thành phố hay các cơ sở của các tỉnh.”

Ngoài ra, ông Quảng còn cho biết thêm rằng, bởi nhiều khi trình độ của người quản lý có hạn, họ cần nhận vào tổ chức mình những thành phần “tay chân” để coi như có những người hậu thuẫn anh em, luôn đứng ra ủng hộ mỗi khi bầu cử, bỏ phiếu… Nghiễm nhiên thành phần đó là những kẻ ngồi chơi xơi nước, đi muộn về sớm, ăn cắp giờ công, đến nơi làm việc chỉ để lên mạng mua sắm, facebook, hết giờ về đi nhậu… phải chăng vì thế Việt Nam nghèo nhưng tỉ lệ người dùng internet thuộc diện cao nhất trên thế giới? và Việt Nam cũng trở thành quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới 2,6 tỉ lít bia mỗi năm?

Nếu nhìn vào gốc gác vấn đề, những đối tượng cán bộ công chức là những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước là tiền thuế của dân. Quay lại chuyện 30% công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” nghĩa rằng chúng ta đang có chừng hơn 700.000 cán bộ dôi dư, nhân với con số trung bình 2 triệu đồng/ tháng, nghĩa là, mỗi năm Việt Nam lãng phí khoảng 17.000 tỷ đồng để chi trả cho bộ máy công chức nhà nước.

Số tiền này được chắt chiu từ mồ hôi công sức của những người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, của những người công nhân vất vả trong các xưởng may nóng nực…họ đóng thuế để cho những công chức ngồi hưởng thụ trong các phòng điều hòa mát lạnh. Phải chăng nỗi nhức nhối cho vấn đề bội chi ngân sách hay túi tiền quốc gia eo hẹp mà Quốc hội đang đau đầu đã có lời giải đáp?

Hẳn câu hỏi mà quý vị đang đặt ra là làm sao để loại bỏ những thành phần “ăn cơm chúa múa tối ngày”này! Chắc chắn không dễ dàng, bởi họ đã có một hệ thống dày đặc những văn bản pháp lý đứng ra bảo vệ, họ có một lớp quan hệ thần thế đứng ra bao bọc. Chỉ khi nào cái tâm của nhà quản lý, của các cấp lãnh đạo thực sự nghĩ đến lợi ích chung của toàn xã hội thì việc chọn lọc và loại bỏ những đối tượng trên mới có thể trở thành sự thật…

Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

Một tay chơi môtô nhận giải thưởng Mẹ Têrêsa vì đã giải phóng các binh lính trẻ em

chuacuuthe.com

VRNs (31.10.2013) – Sài Gòn – Sam Childers, một tay chơi môtô kì cự, đã cống hiến hơn 13 năm qua để giải cứu những binh lính nô lệ trẻ em tại phía Bắc Uganda và Nam Sudan thuộc Châu Phi. Ông vừa được Quỹ Harmony trao Giải thưởng Quốc tế Tưởng nhớ Mẹ Têrêsa năm 2013 trong lĩnh vực công bằng xã hội. Sam Childers là người bản địa vùng Pennsylvania, Hoa Kỳ, ông đã từng có thời kỳ nghiện ngập, bạo lực và từ bỏ Kitô giáo

Trao đổi với hãng AsiaNews, ông nói rằng, giải thưởng này thuộc về hàng ngàn trẻ em trong cuộc chiến tranh Sudan, và ở nhiều nơi khác trên thế giới, họ phải sống hàng ngày trong nỗi sợ hãi thường trực và bị đe dọa do các cuộc tấn công.

Lễ trao giải đã diễn ra hôm 27 tháng 10 tại The Leela, Mumbai. Ông Childers nói rằng, “Tôi không bao giờ đặt ra giới hạn về những gì mình có thể làm cho cuộc đời một đứa trẻ. Tôi không thể chấp nhận hoặc tin rằng những đứa trẻ có tai, có mũi, có tay và chân sẽ phải chịu cảnh tật nguyền [trong chiến tranh]“.

Sơ Prema, Bề Trên Dòng Thừa Sai Bác Ái (dòng mà Mẹ Têrêsa đã sáng lập), cũng gửi một điện thư chúc mừng người chiến thắng giải thưởng.

Ông Childers nói, “Chân Phước Têrêsa là một phụ nữ tuyệt vời, và tôi ngưỡng mộ lòng dũng cảm của mẹ. Mặc dù mẹ gặp nhiều khó khăn về mọi phương diện, mẹ không bao giờ từ bỏ sứ mệnh của mình vì mẹ khao khát Chúa Kitô”.

“Tôi đã theo gương của Mẹ [Têrêsa],” ông nói tiếp “Đừng giới hạn những gì bạn có thể làm cho Thiên Chúa, và Ngài sẽ không giới hạn những gì mà Ngài sẽ làm cho bạn.

Quỹ Harmony được thành lập vào tháng 10 năm 2005 với mục tiêu nhằm vinh danh các di sản của Mẹ Têrêsa và công bằng xã hội.

Abraham Mathai, người sáng lập và là chủ tịch của hiệp hội cho biết, hiệp hội phấn đấu “nhằm khôi phục niềm tin vào lòng trắc ẩn, bình đẳng xã hội và hòa bình, bằng cách thừa nhận các cá nhân và tổ chức làm việc vì xã hội.”

Khánh Tâm chuyển ngữ

Sự Sống Bất Diệt

Sự Sống Bất Diệt

 

Hôm ấy, một hoàng tử nọ và ba vị cận thần lên đường kinh lý kiểm tra đất nước rộng lớn của vua cha.  Khi tới trên đỉnh núi cao, hoàng tử đưa mắt nhìn xuống miền đất mênh mông phía dưới.  Một lúc sau, hoàng tử ngậm ngùi lên tiếng:

– Ôi, quê hương thân mến!  Ôi đất nước dấu yêu!  Ngươi thật xinh đẹp biết bao với những thung lũng êm dịu, những mặt hồ trong xanh đầy ánh sáng, những cánh đồng với đủ thứ hoa muôn màu sắc, những núi đồi hùng vĩ và những khu rừng tĩnh mạc êm đềm.  Thế nhưng, ta sẽ phải chết và sẽ phải từ biệt ngươi, sẽ không bao giờ còn được chiêm ngắm vẻ đẹp của ngươi nữa.  Ôi sự chết, nhưng tại sao lại phải có sự chết?

Rồi hoàng tử buồn sầu nức nở.  Thấy vậy, hai vị cận thần cũng mủi lòng khóc theo.  Họ than thở và tìm cách ủi an hoàng tử. Trong khi đó, vị cận thần thứ ba chỉ mỉm cười và không một lời phát biểu.  Về tới triều đình, hoàng tử gọi vị cận thần thứ ba đến và trách hỏi:

– Hôm nay, khi đứng trên núi cao, tâm hồn ta buồn sầu khôn tả.  Trong khi hai vị cận thần kia tìm cách an ủi ta, còn ngươi, tại sao ngươi chẳng nói gì mà lại mỉm cười như thế?

Vị cận thần thứ ba khôn ngoan trả lời:

– Tâu lạy hoàng tử.  Xin hoàng tử hãy nghĩ lại xem.  Nếu những vị danh nhân đại tướng từ trước đến nay tiếp tục sống mãi, không ai phải chết, đời sống họ sẽ ra thế nào và vận mệnh thiên hạ sẽ ra sao?  Nếu hoàng đế, vua ông nội của hoàng tử không phải chết thì làm sao vua cha của hoàng tử có thể lên ngôi kế vị được?  Nếu vua cha của hoàng tử còn tiếp tục sống mãi thì làm sao hoàng tử có thể cai trị trên ngai vua cha được?  Nếu như tất cả các hoàng tử và các vua chúa trên trần gian này còn tiếp tục sống mãi thì lúc này hoàng tử sẽ thế nào?  Hôm nay, hạ thần đã nhìn thấy một hoàng tử thiếu hiểu biết sự thật về thân phận con người, lại thêm hai vị cố vấn chỉ biết nịnh bợ vuốt ve sự khờ dại của hoàng tử nữa thì làm sao mà hạ thần lại không thấy buồn cười được?

Lời nói khôn ngoan của vị cận thần thứ ba đã làm cho hoàng tử thức tỉnh và cảm thấy hổ ngươi vì sự khờ dại của mình.  Hoàng tử nói thêm:

– Sau này, khi giờ chết đến, ta chỉ muốn một mình ngươi bên cạnh giường ta mà thôi.

Là người, ai lại không sợ chết.

Bởi vì biết rõ những gì phải bỏ lại đàng sau, nhưng không biết trước mắt sẽ gặp thấy điều gì, chính vì những điều chưa biết đó làm cho con người thêm băn khoăn lo sợ.  Tuy nhiên, trên trần gian này không có chân lý nào chắc chắn hơn là sự chết.  Mỗi người sinh ra trên trần gian đều phải chết, tuy không ai biết được chính xác mình sẽ phải chết khi nào, chết cách nào và chết ở đâu.  Thế nhưng, đâu phải tất cả mọi người đều nghĩ tới cái chết của mình.  Biết bao nhiêu người sống như thể là sẽ không bao giờ phải chết hoặc vì dửng dưng, hoặc vì cố tình muốn gạt bỏ nó sang một bên để khỏi phải bận tâm đến cuộc sống hiện tại của họ.

Chúa Giêsu tuy là Con Một của Thiên Chúa hằng sống và là nguồn mạch sự sống, nhưng đã tự nguyện mặc lấy thân phận con người hay chết, và hơn nữa đã muốn chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để nhắc nhở con người thực tại về sự chết là gì và đâu là con đường dẫn tới sự sống hạnh phúc thật, sự sống bất diệt.

Trong Phúc-âm, trước khi bước vào con đường khổ nạn, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân cận nhất lên núi cao và cho họ thấy trước vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin của họ, để họ không nản lòng thất vọng vì sẽ phải đứng trước cái chết khổ nhục của Ngài, vì biết rằng đó là ngưỡng cửa dẫn vào vinh quang của sự sống bất diệt.

Con đường cứu độ đó không thể nào chỉ dừng lại trong vinh quang của núi Tabor, nhưng là vững bước cùng Chúa vác thập giá tiến lên núi Sọ qua sự chết đi từng ngày trong cuộc sống của mình.

Chết đi cho tính kiêu ngạo, cho lòng ích kỷ tự ái và mọi thói hư nết xấu, để sống cho Chúa trong tinh thần phục vụ và yêu thương.

 

R. Veritas

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Quyền lực và trách nhiệm

Quyền lực và trách nhiệm

Nguyễn Hưng Quốc

28.10.2013

Bản chất của chính trị là quan hệ quyền lực. Quyền lực, nói một cách tóm tắt, là khả năng ảnh hưởng đến cách suy nghĩ cũng như hành vi của người khác. Trong hệ thống đẳng cấp của chính trị, chức vụ càng lớn, quyền lực càng nhiều; quyền lực càng nhiều, ảnh hưởng trên suy nghĩ và hành vi của người khác càng sâu và rộng. Ở vị trí cao nhất trong một quốc gia, ảnh hưởng ấy có thể tác động đến mọi công dân trong nước ấy. Ở Tây phương, hầu như ai cũng biết: Khi thay đổi lãnh tụ, chúng ta thay đổi chính phủ; và khi thay đổi chính phủ, chúng ta thay đổi cả quốc gia.

Về phương diện chính trị, có nhiều loại quyền lực, nhưng đơn giản và phổ biến nhất, có hai loại chính: quyền lực chính đáng và quyền lực không chính đáng. Quyền lực chỉ được xem là chính đáng khi nó được dân chúng ủy thác: Lúc ấy, quyền lực (power) biến thành thẩm quyền (authority).

Có thể nói thẩm quyền là thứ quyền lực được sự đồng thuận giữa người cai trị và những người bị trị. Hình thức phổ biến nhất của sự đồng thuận ấy là qua các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng, công khai và minh bạch.

Tuy nhiên, dù được tiến hành dưới hình thức nào thì mọi quyền lực và mọi thẩm quyền đều phải đáp ứng được một số điều kiện dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là giới hạn và trách nhiệm. Cái gọi là giới hạn ấy có hai khía cạnh chính: một là giới hạn về thời gian (có tính chất nhiệm kỳ, không phải vĩnh viễn, cha truyền con nối) và giới hạn của chính quyền lực (phải chấp nhận phân quyền và chịu sự kiểm soát của các cơ quan độc lập). Những điều này đã có nhiều người viết. Ở đây, tôi chỉ xin tập trung vào yếu tố trách nhiệm.

Nếu bản chất của quyền lực, dưới các chế độ dân chủ, là sự đồng thuận thì hai cơ sở chính để duy trì sự đồng thuận ấy là: sự tín nhiệm và trách nhiệm. Nói đến tín nhiệm là nói đến một thứ quan hệ nhiều chiều, nhưng trong đó, chiều quan trọng nhất là chiều từ dưới lên: những người bị trị tín nhiệm những người cai trị. Trách nhiệm, ngược lại, chủ yếu là theo chiều từ trên xuống: những người có quyền lực phải chịu trách nhiệm về chính quyền lực của mình, và với những người đã ủy thác quyền lực ấy cho mình.

Quyền lực không phải là một cái gì có tính chất tự thân: quyền lực vì quyền lực. Mọi quyền lực chính đáng đều có tính mục đích: quyền lực để làm một cái gì. Dưới chế độ độc tài, cái gì đó là bản thân người và/hoặc gia đình người có quyền lực; dưới chế độ dân chủ, cái gì đó là những mục tiêu chung mà mọi người tin tưởng và giao phó, thuộc về cộng đồng, hay rộng hơn, quốc gia. Những mục tiêu chung ấy chính là trách nhiệm.

Có thể nói, quyền lực chỉ chính đáng trong chừng mực nó gắn liền với trách nhiệm và chu toàn trách nhiệm. Một nhà lãnh đạo lý tưởng phải nhắm đến trách nhiệm nhiều hơn là quyền lực. Ở Việt Nam, ngược lại, với quyền lực, người ta muốn tuyệt đối (độc quyền lãnh đạo), nhưng với trách nhiệm, người ta lại muốn chia sẻ (trách nhiệm tập thể). Hậu quả là không ai chịu trách nhiệm về điều gì cả, ngay cả với những sai lầm của chính mình và/hoặc thuộc quyền hạn của mình.

Tất cả những điều ấy, người ta đều thấy từ lâu. Vụ thất thoát tài sản đến cả mấy tỉ đô la của tập đoàn kinh tế Vinashin: Không ai chịu trách nhiệm cả. Các vụ vỡ nợ liên tục của các tập đoàn kinh tế quốc doanh khác sau đó: Không ai chịu trách nhiệm cả. Kinh tế càng lúc càng suy thoái: Không ai chịu trách nhiệm cả. Nạn tham nhũng càng ngày càng phát triển từ một số con sâu đến cả một “bầy sâu”: Không ai chịu trách nhiệm cả. Đạo đức ở khắp mọi nơi càng ngày càng suy đồi: Không ai chịu trách nhiệm cả. Giáo dục càng ngày càng xuống dốc: Không ai chịu trách nhiệm cả.

Mới đây, gây xôn xao dư luận trong nước nhiều nhất là những chuyện liên quan đến ngành y tế: Nhiều bác sĩ, vì bất cẩn và thiếu đạo đức, làm chết hàng loạt bệnh nhân, trong đó có các sản phụ và trẻ em, thậm chí, một bác sĩ thẩm mỹ ở Hà Nội làm chết bệnh nhân rồi vứt xác xuống sông Hồng để phi tang. Trách nhiệm thuộc về ai? Không có ai nhận cả. Mọi người cứ đổ lỗi cho nhau. Dân chúng bức xúc đến độ, lần đầu tiên trên báo chí chính thống (PetroTimes) trong nước, có người kêu gọi Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức.

Có lẽ, cuối cùng, bà Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn tiếp tục làm Bộ trưởng. Như tất cả những nhà lãnh đạo khác của Việt Nam từ trước đến nay. Vô trách nhiệm đến mấy, cái ghế của họ vẫn bất khả xâm phạm, dù cái giá mà họ và đảng họ phải trả rất đắt: Càng ngày càng mất sự tín nhiệm của dân chúng.

Không có trách nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cắp. Không có sự tín nhiệm, mọi quyền lực đều là ăn cướp. Không có cả hai, người ta vừa ăn cắp vừa ăn cướp.