Nhóm NO-U kêu gọi giúp đỡ Philippines

Nhóm NO-U kêu gọi giúp đỡ Philippines

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-11-11

000_TS-Hkg9183693(1)-305.jpg

Một người Philippines viết lời kêu gọi cứu trợ lương thực tại Anibong, Tacloban, hôm 11 tháng 11 năm 2013.

AFP photo

Cơn bão Hải Yến được xem là cơn bão mạnh nhất đổ vào đất liền mà nhân loại ghi nhận được đã tàn phá một cách khủng khiếp một vùng rộng lớn miền Trung nước Philippines.

Các hoạt động cứu trợ đang được khẩn trương tiến hành. Tại Hà nội, nhóm NO-U, một nhóm có nhiều hoạt động dân sự, phi chính phủ, cũng bắt đầu kêu gọi cứu trợ cho Philippines. Anh Nguyễn Lân Thắng, một nhà hoạt động xã hội tích cực của NO-U đã dành cho Kính Hòa cuộc trao đổi sau đây về việc kêu gọi cứu trợ mà nhóm của anh đang tiến hành.

Nguyễn Lân Thắng: Qua phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ NO-U chúng tôi biết được cơn bão rất tệ hại ở Philippines. Chúng tôi cũng đã có nhiều bạn bè người Philippines, cũng như những người có cùng những hoạt động lý tưởng với nhóm NO-U như chống đường lưỡi bò của Trung quốc trên biển Đông. Khi biết được các bạn Philippines đang chịu cái điều kinh khủng của cơn bão này, chúng tôi muốn làm điều gì đó để chia sẻ với các bạn.

Kính Hòa: Thưa anh, công việc quyên góp được tiến hành như thế nào ạ?


“Khi biết được các bạn Philippines đang chịu cái điều kinh khủng của cơn bão này, chúng tôi muốn làm điều gì đó để chia sẻ với các bạn.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nguyễn Lân Thắng: Hiện chúng tôi thông qua mạng xã hội để kêu gọi sự đóng góp. Ở đất nước Philippines có nhiều tổ chức nhân đạo khác nhau đang thực hiện công tác nhân đạo rất là to lớn. Bản thân chính phủ Việt Nam cũng đã hỗ trợ cho Philippines 100.000 đô la. Tuy nhiên nhóm NO-U của chúng tôi rất mong muốn tham gia các hoạt động nhân đạo, bởi vì thông qua đó chúng tôi kêu gọi được những người tốt, những người quan tâm đến những giá trị nhân bản, tham gia cùng với chúng tôi tham gia những điều thiện, giúp cho cuộc sống quanh ta tốt đẹp hơn.

Kính Hòa: Thông qua mạng xã hội để góp tiền bạc và phẩm vật rồi sau đó nhóm NO-U sẽ định làm như thế nào để nó đến tay người Philippines?

Nguyễn Lân Thắng: Các bạn NO-U sẽ góp tiền vì cái vùng bị bão hiện nay rất là hỗn loạn. Chúng tôi cũng có nhiều bạn bè Philippines hoạt động trong các tổ chức nhân đạo khác nhau. Lần này chúng tôi quyết định nhờ tổ chức Asian Bridge là tổ chức đã thực hiện khóa học về xã hội dân sự cách đây hơn một tháng. Họ đến vùng bão để hỗ trợ trực tiếp cho những người dân còn sống sót sau trận bão.

Kính Hòa: Các bạn có nghĩ tới việc liên hệ qua tòa Đại sứ Philippines ở Hà Nội không?

Nguyễn Lân Thắng: Tòa Đại sứ là cơ quan đại diện ngoại giao của chính phủ Philippines. Chúng tôi không có chủ trương thông qua kênh này mà muốn các hoạt động dân sự là giữa các tổ chức dân sự với nhau, và các phẩm vật cứu trợ đến trực tiếp tới người bị nạn.

Kính Hòa: Hiện giờ hiện vật, tài chính cứu trợ thu được có khả quan không?

Nguyễn Lân Thắng: Hiện tại theo phản hồi trên mạng là khá tốt, tuy nhiên lời kêu gọi mới chỉ được đưa ra cách đây vài tiếng đồng hồ nên chúng tôi chưa biết chính xác.

Kính Hòa: Anh cho hỏi câu cuối là sau hoạt động này thì nhóm NO-U có thực hiện việc cứu trợ với chính đồng bào Việt Nam mình bị nạn sau cơn bão này không?


“NO-U luôn có một tinh thần hỗ trợ nhân đạo và hoạt động rất nhiều. Đây không phải là hoạt động sau cùng. Trước đây hai hay ba tuần NO-U đã thực hiện các chương trình ủng hộ đồng bào miền Trung.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nguyễn Lân Thắng: NO-U luôn có một tinh thần hỗ trợ nhân đạo và hoạt động rất nhiều. Đây không phải là hoạt động sau cùng. Trước đây hai hay ba tuần NO-U đã thực hiện các chương trình ủng hộ đồng bào miền Trung. Còn ngay bây giờ đây thì chúng tôi có chương trình xây đập tràn cho bà con nghèo ở vùng núi phía Bắc.

Kính Hòa: Xin cảm ơn anh Nguyễn Lân Thắng.

Nhóm NO-U là một nhóm ra đời từ sau những cuộc biểu tình chống sự gây hấn của Trung quốc trên biển Đông. Sau đó nhóm NO-U được duy trì và thực hiện các hoạt động dân sự như nhân đạo, thể thao. NO-U có nghĩa là không chấp nhận đường chữ U hay còn gọi là đường lưỡi bò mà Trung quốc vạch ra để tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Đông.

Nếu bạn ở nước ngoài, bạn có thể gửi ủng hộ trực tiếp vào tài khoản sau:
Name: Asian Bridge Philippines NGO Center, Inc.
Account no: 654 00 34 716
Swift code: BNORPHMM
Name of Bank: BDO
Address: Isidora Hills Branch, Manila, Philippines
________________________________________________
Nếu bạn là người trong nước, bạn có thể gửi đến tài khoản sau:
Chủ TK Lê Trung Sơn
Tk: 190 270 385 18018
Chi nhánh: Techcombank Hà nội
ĐT: 0936663858

Theo thông tin từ anh Nguyễn Lân Thắng, ngày 17/11/2013 Asian Bridge sẽ đến thành phó bị bão tàn phá là Tacloban để cứu trợ.

Điều kỳ diệu của tạo hóa

Điều kỳ diệu của tạo hóa

Con người, có lẽ chính là kiệt tác nghệ thuật hoàn hảo nhất của tạo hóa. Mỗi cá nhân chúng ta lại là một bản thể riêng biệt, không giống bất kỳ ai.

.

Trẻ em chính là món quà tuyệt vời nhất mà tạo hóa ban tặng cho cuộc sống này. Là trái ngọt cho tình yêu của người cha & người mẹ. Mỗi đứa trẻ giống như một công trình khoa học đồ sộ. Điều khác biệt là trong “dự án” này, sai sót là điều không bao giờ được phép xảy ra. Bạn đã bao giờ tự hỏi, trẻ em được hình thành như thế nào? Hay chính xác hơn là bạn được hình thành như thế nào? Đoạn clip dưới đây sẽ trả lời câu hỏi đó cho bạn.

httpv://www.youtube.com/watch?v=Ah_RGa8-J0A

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

Đứa cháu họ của tôi qua đời chỉ ba tuần truớc ngày đám cưới.  Hai mươi bốn tuổi, trai tráng, khôi ngô, đời tràn ngập sức sống.  Bỗng một chiều, cháu mệt.  Vào bệnh viện, rồi ra đi.  Để người con gái sắp cưới ở lại, ôm nỗi đau khó diễn tả.  Mong một ngày làm vợ và làm dâu chưa thành.  Cô khóc không còn nước mắt.  Có ngàn giọt nước mắt người thân đến chia sẻ, nhưng không thể giúp vơi niềm đau.  Cô dựa vào lòng chị tôi, người mẹ chồng tương lai, để tìm sức mạnh.  Nhưng chị tôi cũng yếu đuối như người con gái ấy.  Cả hai ôm nhau đứng trước cơn giông bão cuộc đời quá lớn, có sức phá vỡ tất cả nghị lực và cuốn trôi tất cả niềm tin. “Chúa ở đâu trong cơn giông bão ấy?”

Những người đạo đức trong xứ đến an ủi chị, “Có lẽ là thánh ý Chúa, anh chị cố gắng chấp nhận.”  Chị tôi ngậm ngùi, không dám phản ứng trước lời an ủi.  Trong đáy sâu tâm hồn, chị thầm hỏi “Tại sao lại là Thánh Ý Chúa?”  Rồi chị thinh lặng trong nỗi đau.  Ngày tháng qua đi, chị vẫn chưa hiểu nổi tại sao bão tố đến với gia đình chị.  Đau khổ vẫn mãi mãi là một nhiệm mầu sâu thăm thẳm chưa có câu trả lời thỏa đáng.  Bước đi trong niềm tin xen lẫn nước mắt vẫn là hành trình của người Kitô Hữu.

Đôi khi, người ta tìm được chút ánh sáng trong những trang sách xưa cũ.  Kinh thánh kể về một gia đình đơn côi trong một làng nghèo ở Bethania.  Làng này nghèo hơn tất cả các làng nghèo chung quanh vùng phụ cận Giêrusalem.  Một trong những lý do Chúa Giêsu hay lui tới làng này, là vì họ nghèo.  Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho dân nghèo.  Làm bạn, kết thân, rồi gắn bó với họ.

Có một gia đình đơn côi, không cha không mẹ.  Gia đình của ba chị em Matha, Maria và Lazarô.  Rồi một ngày, Lazarô lâm bịnh rồi ra đi khi Chúa Giêsu chưa kịp đến.  Hai người chị Matha và Maria, tuổi còn xuân xanh, đối diện với sóng gió cuộc đời.  Người em trai duy nhất ngã xuống, mảnh nương tựa của cảnh đời đơn côi rạn vỡ.  Hụt hẫng, hoang mang, giông bão cuộc đời kéo đến.  Thách đố số phận; thách đố niềm tin.  Những ngày đưa tang về thấy căn nhà trống vắng, thiếu tiếng nói cười của người yêu thương.  Lời nguyện trong đêm từ nay xen lẫn nhiều nước mắt.

Phúc âm ghi rõ, người mà Thầy thương mến đang ốm nặng.  Biết người mình yêu mến đang lâm nguy tại sao Chúa không đến ngay?  Tôi cứ mãi băn khoăn, sao người thầy thương mến lại phải đối diện với những nỗi đau mênh mông đến thế.  Sao người thầy thương mến phải nằm trong mồ?  Những lần khác Chúa đến đúng giờ, nhưng khi người thân yêu đau khổ, Chúa lại đến trễ.  Tại sao Chúa lại để người theo Chúa phải nằm trong nhiều nấm mồ của cuộc đời?  Mồ bệnh tật, mồ thất bại, mồ bị phản bội, mồ cô đơn, và nhiều nấm mồ khác.

Tôi không có câu trả lời thỏa đáng, chỉ mong tìm một chút ánh sáng từ câu chuyện Tin mừng: đó là Thiên Chúa không làm ngơ trước đau khổ.  Phải tin tưởng điều này mới mong có ngày bước ra khỏi những nấm mồ cuộc đời.  Nếu không, bệnh viện tâm thần sẽ không còn chỗ chứa.  Ngài hiện diện qua sự nâng đỡ của tình người và nhất là qua ân sủng.  Thánh Phaolô cũng cảm nhận, “Ơn ta đủ cho con.

Đứng Bên Thập Giá

Ngành tâm lý ngày nay giúp hiểu rằng, đau khổ được biến đổi nhờ sự nâng đỡ của người khác.  Có nghĩa là, không phải đau khổ nào cũng đưa con người đi đến một kết quả xấu.  Nếu đau khổ được nâng đỡ bởi tình yêu và nhờ ân sủng, một cuộc biến đổi sẽ diễn ra.  Do đó, đau khổ lớn nhất không phải là chính biến cố đau khổ, nhưng phải đi qua đau khổ trong cô đơn mới là kinh nghiệm đớn đau nhất.  Hai ngàn năm trước, phúc âm đã dọi vào cuộc đời ánh sáng này, khi trình bày cảnh thập giá có bóng dáng của người thân yêu. “Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19, 25)  Sự hiện diện yêu thương này đã giúp Đức Giêsu đi trọn con đường đau khổ ở một giây phút hệ trọng nhất của sứ mạng.

Vậy đau khổ có khi không còn là vì do Chúa trừng phạt như người ta hay nghĩ, nhưng có khi lại là lời mời gọi để đi đến tận cùng của thân phận làm người.  Lắm khi trong đau khổ, người ta lại cảm nghiệm được giá trị thật của cuộc sống.  Như Gandi có lần diễn tả, một con người muốn đạt đến chiều cao của tâm linh, người ấy có khi phải đụng chạm đến cái vực sâu khốn khổ của thân phận làm người.  Chúa để người thân của mình đối diện đau khổ, học những bài học từ đau khổ, và để can đảm sống niềm tin giữa những dằng co trong đó xen lẫn cả đắng cay và ngọt ngào.  Cuộc đời này chưa phải là vĩnh cửu của Thiên Đàng.

Có khi Thiên Chúa để tôi bước vào mầu nhiệp đau khổ để cảm nghiệm sự bất hạnh của một nhân loại đang thật quá đau khổ.  Nếu như thế, giông bão của cuộc đời có khi là một sứ mạng để bắt đầu biết yêu thương.  Tôi sợ sứ mạng này, đó là những “chén đắng” cho đời tôi, nhưng có khi lại là niềm nâng đỡ cho anh chị em mình đang đau khổ.

Chén đắng này Chúa uống cạn, để giúp tôi hiểu về đau khổ.  Hôm nay, Chúa mời gọi tôi nếm  từ từ. Tôi hiểu như thế, nhưng chưa bao giờ nói với chị mình tại sao chị phải uống chén đắng của đời mình. Hy vọng một ngày nào đó khi nắng bình minh của tâm hồn rọi chiếu, chị sẽ khám phá cho chính mình ý nghĩa của từng nỗi đau của một người mẹ mất đi đứa con yêu thương, nhưng trong sâu thẳm vẫn tin rằng Chúa vẫn không bỏ rơi mình.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

From: ThiênKim

Bình Nhưỡng tử hình công khai những người xem truyền hình Hàn Quốc

Bình Nhưỡng tử hình công khai những người xem truyền hình Hàn Quốc

Kim Jong-un chủ trì Hội nghị BCH Trung ương đảng Lao động Triều Tiên, Bình Nhưỡng,  31/03/2013

Kim Jong-un chủ trì Hội nghị BCH Trung ương đảng Lao động Triều Tiên, Bình Nhưỡng, 31/03/2013

REUTERS/KCNA

Thụy My

Từ đầu tháng 11, chế độ Bình Nhưỡng đã hành quyết công khai khoảng 80 người, trong đó có nhiều người lãnh án tử vì đã xem nhiều chương trình truyền hình Hàn Quốc – một hành vi bị nghiêm cấm tại Bắc Triều Tiên. Hãng tin Pháp AFP hôm nay 11/11/2013 dẫn nguồn tin từ một tờ báo Hàn Quốc cho biết như trên.

Tờ Joong Ang Ilbo, một tờ báo bảo thủ chỉ nêu một nguồn tin giấu tên, nhưng có ít nhất một nhóm người Bắc Triều Tiên tị nạn cho biết cũng có nghe thông tin này, làm tăng tín khả tín của nguồn tin trên báo.

Theo nguồn tin trên được cho là rất thành thạo về những chuyện nội bộ của Bắc Triều Tiên, các cuộc hành quyết diễn ra vào ngày 03/11 tại bảy thành phố trên cả nước. Tại thành phố cảng Wonsan ở miền đông, chính quyền đã tập hợp 10.000 người tại một sân vận động để chứng kiến việc xử bắn tám tội nhân.

Đa số các tử tội bị hành hình do đã xem các chương trình truyền hình Hàn Quốc, qua các băng DVD hay USB được lén lút mang vào Bắc Triều Tiên. Một số khác bị kết án vì tội mại dâm.

Daily-NK, một trang web tin tức do những người Bắc Triều Tiên tị nạn điều hành và có một mạng lưới trên khắp nước nói rằng không nghe thông tin này. Một trang web khác cũng của người Bắc Triều Tiên tị nạn là North Korea Intellectual Solidarity thì nhấn mạnh, nhiều cơ sở của họ cách đây mấy tháng đã báo cho biết về dự định một đợt tử hình công khai rộng rãi. Một người có trách nhiệm của tổ chức này nói : « Chế độ Bình Nhưỡng có vẻ lo ngại khả năng thay đổi trong suy nghĩ của người dân và cố gây sợ hãi ».

Chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên được điều hành với bàn tay sắt từ ba thế hệ nhà họ Kim : Kim Nhật Thành (Kim Il Sung), Kim Jong Il và nay đến đời thứ ba là Kim Jong Un.

Hồi tháng 9, tờ Asahi Shimbun cho biết, người yêu cũ của Kim Jong Un, nữ ca sĩ Hyon Song Wol, văn công của đoàn Unhasu Orchestra đã bị xử bắn cùng với một số nữ diễn viên của đoàn vì tội quay video sex. Lệnh xử tử được đưa ra nhằm dập tắt những tin đồn về lối sống đồi trụy của Ri Sol Ju, vợ Kim Jong Un lúc còn là ca sĩ trong đoàn. Bình Nhưỡng hôm 22/9 đã giận dữ bác bỏ các thông tin trên « các phương tiện truyền thông rắn rết » nhằm gây « tổn hại phẩm cách » của lãnh đạo tối cao.

Đảng Chí Hiến Trung Quốc đòi bầu cử tự do

Đảng Chí Hiến Trung Quốc đòi bầu cử tự do

Nữ giáo sư Vương Tranh (Wang Zheng),  một trong những sáng lập viên đảng Chí Hiến (Zhi Xian), tại Quảng Tây, ngày 07/03/2013

Nữ giáo sư Vương Tranh (Wang Zheng), một trong những sáng lập viên đảng Chí Hiến (Zhi Xian), tại Quảng Tây, ngày 07/03/2013

REUTERS/Courtesy of Wang Zheng/Handout via Reuters

Tú Anh

RFI

Đảng Chí Hiến không bài bác quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng yêu cầu phải tổ chức bầu cử theo lối phổ thông đầu phiếu, chấm dứt tình trạng đảng cử dân bầu. Trên đây là giải thích của giáo sư Vương Tranh, một trong những người sáng lập đảng mới tại Trung Quốc, bất chấp các lời khuyến cáo từ phía chính quyền.

Đảng Chí Hiến ( Hiến pháp trên hết) do những người ủng hộ cựu lãnh đạo bị thất sủng Bạc Hy Lai thành lập hôm thứ Tư tuần trước, bất chấp lệnh cấm ngay vào lúc đảng Cộng sản Trung Quốc họp Hội nghị trung ương 3.

Tuy nhiên, theo hãng Reuters, ngày Chủ nhật 10/11/2013, một trong những sáng lập viên là nữ giáo sư Vương Tranh, đại học Bắc Kinh nói rõ là đảng Chí Hiến thừa nhận vai trò lãnh đạo Trung Quốc của đảng Cộng sản. Có điều là đảng mới này yêu cầu chính quyền phải chấp nhận bầu cử tự do theo lối phổ thông trực tiếp. Trong chế độ bầu cử hiện nay tại Trung Quốc, các ứng cử viên do đảng Cộng sản quyết định. Yêu cầu thứ hai là Nhà nước phải tôn trọng quyền tự do hội họp.

Cũng theo bà Vương Tranh, Hiến pháp Trung Quốc dự trù quyền tự do ứng cử bầu cử ở Quốc hội và sự có mặt của đại diện nhân dân ở mọi cấp chính quyền, nhưng trên thực tế những quy định này không được tôn trọng.

Sáng lập viên đảng Chí Hiến thú thật là chưa gặp ông Bạc Hy Lai lần nào. Nhân vật bị thất sủng này đang bị án tù chung thân đã được đề nghị làm chủ tịch đảng Chí Hiến đến trọn đời.

Bà Vương Tranh cũng cho biết, tuy công nhận thiện chí của Nhóm Hiến chương 08 của nhà dân chủ Lưu Hiểu Ba, nhưng bà không đồng ý với phương thức đấu tranh của phong trào này. Được hỏi về mục đích của đảng Chí Hiến, giáo sư Vương Tranh tuyên bố là « để bảo vệ quyền lực của Hiến pháp » và sẽ tổ chức đại hội trong sáu tháng tới đây.

Chủ trương « bảo vệ Hiến pháp » bị phe bảo thủ trong đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ trích dữ dội. Tạp chí Đảng Kiến, cơ quan tuyên huấn của đảng Cộng sản Trung Quốc trong số tháng 8/2013 xem đây là một chiến thuật « diễn biến hòa bình » dựa vào Hiến pháp để từ từ loại trừ đảng Cộng sản.

Sống như ngày sau đang sống

Sống như ngày sau đang sống

M. Hoàng Thị Thùy Trang

VRNs (10.11.2013) – Nói về sự sống đời sau, có lẽ không một người nào hiện diện trên thế giới này mà không đặt dấu hỏi. Từ khi có ý thức, biết suy tư về con người và cuộc đời, người ta đã bắt đầu suy tư về sự tồn tại của bản thân và thế giới. Câu hỏi sự sống đời sau là một trong những câu hỏi được nhân loại quan tâm hàng đầu. Sống đây nhưng con người vẫn ngay ngáy lo cho ngày mai. Mặc dầu không tin lắm vào sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa nhưng người ta cũng vẫn cứ muốn biết cái gì tiếp diễn ở đằng sau cuộc sống này, khi mà sự chết đến, biến đổi toàn bộ đời sống thế giới, nhân loại vẫn muốn biết còn gì nữa đằng sau cái chết.

Niềm tin công giáo dạy rằng, chết chính là cửa ngõ để bước sang một sự sống mới, sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lúc này con người không còn chết nữa, nhưng là sống đời đời. Và sự sống mai hậu trên thiên quốc ấy, nơi chỉ còn tình yêu và hoan lạc, không có nước mắt, chẳng còn khổ đau. Và tất cả mọi người, sống như thiên thần, chẳng còn dựng vợ, cũng không có gả chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết được nữa.” (Lc 20, 34-36)

Nói về cuộc sống trần gian, ai cũng cảm thấy sợ, thấy ngán ngẩm, người ta mơ về một lối sống chẳng còn đau khổ, chẳng có chia lìa. Thế nhưng, để mà đánh đổi cho có được cuộc sống ấy thì ai ai cũng muốn thối lui, bỏ cuộc. Nhân loại không muốn đánh mất những giá trị trần thế, cái mà họ cho là cùng đích, là cứu cánh. Mặc dầu biết rất rõ rằng, tất cả mọi thứ tồn tại trên trần gian này đều là phù vân, là hư vô, là giả trá, không có giá trị trường tồn, vĩnh cửu.

Người tin đã vậy, người không tin lại càng tệ hại. Tin có sự sống đời sau, nhưng khổ nỗi lòng còn mang nặng tham vọng trần thế, nên không dám đánh đổi để có được sự sống vĩnh cửu thuộc về Thiên Chúa. Kẻ không tin thì mặc kệ, buông thả bản thân, thỏa mãn mọi dục vọng thế trần. Làm thế nào đây, để thế giới hiểu được rằng có một sự sống khác đàng sau cuộc sống đầy khổ đau và nước mắt này. Tất cả những gì chúng ta đang gầy dựng cho cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, phù du. Chính sự sống đằng sau sự bôn ba, lo toan vất vả ấy mới là cuộc sống thật, nơi được đong đo bằng tình yêu và lòng mến.

Cuộc sống thật ấy là gì? Là hoàn toàn khác biệt với lối sống mà nhân loại đang thủ đắc. Nơi đó người lành được hưởng phúc thiên đàng, kẻ có tội phải chịu hình phạt thích đáng với hậu quả mình gây ra. Cuộc sống ấy chỉ còn niềm vui, không còn nước mắt vì thuộc về Thiên Chúa, là con cái của Ngài. Chỉ những ai biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa, người đó mới xứng đáng nhận phần phúc mà thôi. Lúc này đau khổ hay ngay cả sự chết cũng không làm gì được họ, họ đã được ngang hàng với các thiên thần, là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại. (x. Lc 20, 36)

Lạy Chúa, con tin có một sự sống đằng sau cuộc sống này. Và cuộc sống ấy mới đích thực là sự sống mà con cần phải thủ đắc. Có được sự sống đời này, con thấy cũng quá đủ đau khổ lắm rồi. Bao phen trầy trụa, vào cay ra đắng, lăn lộn với những vòng xoáy cuộc đời con mới có thể tồn tại đến ngày hôm nay. Khó khăn chật vật vậy đấy, nhưng đó cũng chỉ là một lối sống tạm bợ, nay còn mai mất mà thôi, phù vân biết chừng nào. Vậy thì, có được sự sống vĩnh cửu hạnh phúc bất diệt, không bao giờ phải chết nữa, ắt hẳn con còn phải khổ công lao nhọc hơn biết là ngần nào. Đang sống đây, nhưng luôn ý thức rằng mình sẽ chết mai khiến tâm trí con nhiều khi chao đảo, rã rời. Cái hạnh phúc bất diệt ngày sau mà Thiên Chúa hứa ban ấy dường như với sức lực bản thân, con chẳng sao vươn tới. Thôi thì, hãy giúp con, sống sao thì sống, chỉ cần con sống một ngày hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa, đời này hay đời sau cũng vậy. Cuộc đời đã vắn vủi vậy, nỗi đau khổ của đời sau lại kéo dài, thì còn bất hạnh nào hơn. Xin giúp con hãy sống hôm nay như ngày sau đang sống, để không phải nối tiếc nếu có phải đổi thay.

M. Hoàng Thị Thùy Trang

Chết không phải là hết

Chết không phải là hết

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (10.11.2013) – Đồng Nai – Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.

Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.

Quả thực, nếu cuộc đời  là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:

“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh

Biết mình thế này thà đừng sinh ra”

Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :

– Cuộc sống ở  “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.

Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.

Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giê-su luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Thiên nhiên hiền hòa, tươi đẹp, ban  cho con người bao nguồn vui và cảm hứng , nhưng cũng có thể gây nhiều tai ương, đau khổ, mất mát…, nhất là khi con người làm mất đi sự cân bằng sinh thái, không bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và khai thác quá mức….

Con người phải thận trọng vì mọi thứ do con người tạo dựng có thể bị  hủy diệt bởi Mẹ thiên nhiên ( People need to be cautious because anything built by man can be destroyed by Mother Nature) Russel Honore.

Nguyện cầu cho siêu bão dữ Haiyan sẽ chệch hướng và suy giảm để gây ít thiệt hại cho người dân vùng bão quê hương chúng ta.

Mời các bạn xem clip  THE POWER OF MOTHER NATURE.  Clip You Tube này đã có trên 2.400.000 lượt xem

httpv://www.youtube.com/watch?v=RWgg5-kUSho

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

Tác giả: Xuân Thái

Ngay từ thời Cựu ước, ma quỷ được mô tả là rất quỷ quyệt và luôn là kẻ lừa dối. Chúa Giêsu đã gọi nó là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối. Nó dẫn dụ và mê hoặc người ta tin vào những điều dối trá và chống lại Thượng Đế.

Một trong những điều dối trá mà ma quỷ đưa đến cho con người là dối trá về Thượng Đế. Nó tạo ra sự nghi ngờ về các ý định tốt lành của Thượng Đế dành cho con người.

Điều dối trá thứ hai là về ý chỉ thánh thiện của Thượng Đế. Thiên Chúa đã ban luật lệ vì lợi ích và bảo vệ con người, nhưng ma quỷ dối trá xuyên tạc rằng các lệ luật ấy chỉ làm hại và biến con người thành nô lệ.

Điều dối trá thứ ba là dối trá về hậu quả của tội và bất tuân lệnh Chúa. Ma quỷ dối trá bảo rằng vi phạm luật Chúa sẽ không chết đâu, nhưng mắt sẽ mở ra, sẽ khôn ngoan như Thượng Đế vậy.

Cho đến nay, Satan vẫn luôn dùng sự dối trá của nó để chi phối và thao túng con người hiện đại, nhưng với các thủ đoạn và bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, sau nhà trường và xã hội, gia đình vẫn mãi mãi phải là nơi đầu tiên giúp định hình nhân cách, một nhân cách không thể thiếu sự ngay thẳng và lòng chính trực của một con người. Sự giáo dục phải được đặc biệt quan tâm và từng bước thực hiện ngay từ khi còn thơ bé.

Từ một lần Đức Phật dạy con khi còn niên thiếu…

Theo lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa – sau này chính là đức Phật, trước khi xuất gia đã có một người con trai duy nhất là Lahula (La Hầu La).  Song, ít ai biết rằng sau khi đạt giác ngộ, đức Phật đã trở thành người thầy rất quan trọng dạy dỗ cho con trai mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu.

Kể từ khi La Hầu La lên bảy tuổi, Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm, nhờ vậy, La Hầu La đã đạt được giác ngộ viên mãn khi mới tròn 20 tuổi.

Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con giữa đức Phật và La Hầu La, nhưng đó đây đã để lại những dấu chỉ thú vị đáng lưu ý về việc đức Phật đã dẫn dắt con mình như thế nào trên con đường trưởng thành.

Đó là một tiến trình liên tục của con đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La bảy tuổi, đức Phật dạy cho con về đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, đức Phật dạy cho con Thiền; và lúc 20 tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu La, vì vậy, đi đôi và song hành với tiến trình giác ngộ của Đức Phật.

ĐẠO ĐỨC

Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về lòng chính trực (integrity) như thế nào. Lúc lên tám tuổi, có lần La Hầu La đã nói dối. Bài Kinh Trung Bộ Kinh, 61,  kể chi tiết rằng một lần sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời cha ngồi, rồi mang đến một thau nước cho cha rửa chân theo như phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi:

“Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó, Đức Phật đổ hết nước trong thau ra và nói:

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng vất bỏ đi như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:

“Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:

“Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó Ngài dạy con:

“Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.”

Câu chuyện trên đã nhắc nhở rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn đúng thời điểm để dạy con mà không trừng phạt hay nổi giận với con.

…đến trình thuật về hậu quả của lời nói dối trong Thánh Kinh…

Thánh Kinh đã ghi lại những dòng thật đẹp về đời sống của cộng đoàn tín hữu đầu tiên, họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng để mọi sự làm của chung trong tinh thần hiệp nhất. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, Sách Công vụ Tông đồ ( 5, 1-11) đã thuật lại một trường hợp cá biệt về việc bán đất đai hết sức ấn tượng như sau:

“…Có một người tên Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông đồ. Ông Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? Khi đất còn đó thì nó chẳng là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó hay sao? Sao anh lại rắp tâm làm chuyện ấy? Anh đã chẳng lừa dối người phàm, mà là lừa dối Thiên Chúa. Nghe những lời ấy, Khanania ngã xuống đất, tắt thở. Các thanh niên đến liệm xác và đem đi chôn.

Khoảng 3 giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. Ông Phê rô lên tiếng hỏi: “Chị cho tôi hay, anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không? Chị ta đáp, vâng, được bấy nhiêu thôi. Ông Phêrô liền nói, Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa, kìa, những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi nữa đấy. Lập tức, bà ta ngã xuống dưới chân ông Phêrô và tắt thở”

Nếu chỉ đọc thoáng qua trình thuật trên, dễ có cảm tưởng, sao ông Phêrô lại ác độc quá vậy?. Chỉ vì bớt lại một phần tiền (của chính mình) mà cả hai vợ chồng bị chết tươi bởi quyền năng từ ông Phêrô, có thể vị này đã lạm dụng quyền lực để hại chết người chăng, sao mạng người có thể bị xem nhẹ đến thế?

Thực ra, bản chất tội của họ không phải vì cất dấu một phần tiền bạc, nhưng chính vì vợ chồng họ đã nói dối cộng đoàn và lừa dối Thánh Thần. Hành vi của họ làm cho đời sống cộng đoàn xấu đi. Họ xứng đáng bị trừng phạt để nêu gương cho người khác khi nói dối.

Thiên Chúa rất dứt khoát quyết liệt và luôn không khoan nhượng với ma quỷ, vì thế, những hình phạt là bệnh tật, khổ đau và chết chóc trên trái đất phát khởi từ một lời nói dối chỉ là những hậu quả tất yếu.

Điều này làm chúng ta nhớ Ma quỷ đã nói dối với người nữ đầu tiên là Ê-va. Hắn bảo rằng bà sẽ không chết nếu cãi lời Ðức Chúa Trời và ăn trái cây mà Ngài bảo bà không được ăn. Ê-va đã tin Ma-quỉ và ăn trái cây. Bà cũng đưa cho A-đam ăn nữa. Bởi vậy con người đã trở thành những kẻ phạm tội, cùng với tất cả con cháu đều mang tội tổ tông. Vì có tội, nên tất cả con cháu của A-đam đều đau khổ đủ đường và cuối cùng, phải chết. Những vấn đề này bắt đầu từ đâu ? Thưa, bắt đầu từ một lời nói dối.

Im lặng cũng là một cách nói

Cùng với tâm thức nhị nguyên trong nhận thức và khái niệm về các mặt đời sống của thiện/ác, sai/đúng, phải/trái…sẽ không sợ sai lầm khi cho rằng, ngay từ khi có tiếng nói con người đã biết nói dối. Và, khi bắt đầu có chữ viết, văn tự, thì sự nói dối ngày càng có những bước tiến vượt bậc cùng với sức mạnh kinh hoàng ghê gớm khó thể hình dung, đến mức con người đã hoặc đang bị tẩy não mà không tự nhận ra.

Thật vậy, tẩy não là sự tái giáo dục cưỡng bức các niềm tin và giá trị truyền thống. Hàng ngày, qua báo, đài, tờ rơi và rất nhiều phương tiện truyền thông khác, từng phút rồi từng giờ, ta phải nhận biết bao thông tin không chính xác (nói dối) trong mọi mặt đời sống, từ đó, nhận thức của ta thay đổi lúc nào chính ta cũng không nhận ra qua tràn lan quảng cáo, cùng vô vàn những thông tin vốn đã được định hướng chỉ với mục đích tuyên truyền.

Tẩy não thì ở đâu cũng có, nơi nào cởi mở thì chuyện tẩy não sẽ kín đáo, tế nhị và nhẹ nhàng, thể hiện giới hạn qua những quảng cáo thương mại và các sản phẩm tiêu dùng, khác hơn với những nơi khép kín luôn tàn bạo, trắng trợn kèm theo bạo hành dưới đủ dạng bạo lực và tràn lan mọi mặt đời sống.

Tiến sỹ Paul Joseph Göbbels (1897–1945) Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã, đã truyền lại một công thức để đời : SỰ THẬT là những DỐI TRÁ ĐƯỢC LẬP LẠI NHIỀU LẦN. Kinh nghiệm xương máu ấy đã được vận dụng với rất nhiều sáng tạo, nên không gây nhiều ngạc nhiên khi thế giới được chứng kiến, cảnh đông đảo dân chúng Bắc Triều tiên đã khóc lóc thảm thiết khi lãnh tụ của họ từ trần, trong xứ sở đói nghèo và khép kín nhất thế giới ấy. Họ đã lên đồng, bao nhiêu người khác ở nhiều nơi thế giới đã lên đồng tập thể từ những dối trá.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng người ta vẫn thường nói dối vì nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là SỢ HÃI. Sợ mất quyền lợi, sợ trách nhiệm, sợ phải đương đầu… cùng vô vàn nỗi sợ có tên và không tên khác.

Mấy ngày nay dư luận cả nước đang ồn ào dậy sóng vì vụ Bác sỹ Cát Tường làm chết người rồi quăng xác xuống sông, vụ xương động vật thay vì hài cốt liệt sỹ cùng với oan án 10 năm Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Những thảm kịch ấy mỗi vụ đều khác nhau về tính chất, mức độ, thời điểm v.v…nhưng tựu trung, xét cho cùng, tất cả đều khởi từ những lời nói dối. Sự dối trá đang bao phủ và trùm lên tất cả trong thảm cảnh « Đêm giữa ban ngày ». Giữa ban ngày mà bóng đen đêm tối đang ngự trị khi cha đẻ của dối trá vẫn còn phủ trùm luôn mãi.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng ngay cả khi thinh lặng thì sự thinh lặng ấy vẫn luôn mang nhiều ý nghĩa khi đối chiếu với lời hằng sống : « Ta là Đường và là Sự Thật » để tự trả lời cho lòng mình rằng, ĐƯỜNG ấy sẽ đưa ta đến đâu ? SỰ THẬT ẤY đang là sự thật nào, bên này hay bên kia dãy Phyrené ?.

Tự nguyện

Xem như thế, ai cũng biết hậu quả kinh hoàng của nói dối, nhưng oái oăm và đáng sợ biết bao nhiêu, nói dối lại là điều rất dễ vướng, đôi khi rất khó nhận ra.

Nói dối là nói không thật, nói thiếu chính xác, là chém gió,  là nổ văng miểng.

Theo công trình nghiên cứu Feldman, 60% các đối tượng được nghiên cứu đã nói dối ít nhất 1 lần trong một cuộc trò chuyện ngắn, và cũng trong khoảng thời gian đó, họ đã nói khoảng 2,92 điều sai. Đối tượng được nghiên cứu gồm đủ loại tuổi và nhiều thành phần và đều cho kết quả, lời nói dối dễ xuất hiện trong lần gặp gỡ đầu tiên.

Lạy Chúa !

Nếu kết quả nghiên cứu trên là khả tín và nếu ma quỷ là cha đẻ của dối trá, thì chưa cần cám dỗ, khi này, nơi khác, đôi lần con đã tự nguyện đứng chung hàng ngũ với nó rồi Chúa ơi.

Xin giúp con tỉnh thức và điều chỉnh mình, để luôn nhớ Kim chỉ Nam trong ứng xử mà Chúa đã ban cho con lâu nay :

« Có thì phải nói có, không thì phải nói không.

Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37) ».

Amen.

Xuân Thái.

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi sự căng thẳng và cảm xúc tiêu cực để thực sự bắt đầu một cuộc sống mạnh khoẻ và hạnh phúc? Hãy tuân thủ những mẹo nhỏ và quy tắc đơn giản sau xem sao:

1. Đi bộ từ 10 đến 30 phút hàng ngày.

2. Ngồi yên trong ít nhất 10 phút mỗi ngày.

3. Ngủ đủ 7-8 tiếng mỗi ngày.

4. Nguyên tắc sống với: hoạt động tích cực, hăng hái nhiệt tình và sự đồng cảm.

5. Chơi thể thao nhiều hơn nữa.

6. Đọc nhiều sách hơn bạn đã làm trong tháng trước.

7. Thực hành phương pháp ngồi thiền, tập Yoga và cầu nguyện.

8. Dành thời gian cho ông bà bố mẹ những người trên 70 tuổi và dướii 6 tuổi.

9. Quên các vấn đề của quá khứ đi. Đừng nhắc đi nhắc lại lỗi lầm của bạn đời trong quá khứ.

10. Không suy nghĩ đến những vấn đề tiêu cực hoặc những thứ bạn không nên kiểm soát. Thay vào đó hãy đầu tư sức lực vào những vấn đề tích cực hiện tại.

11. Buổi sáng ăn cho mình, buổi trưa ăn cho bạn, buổi tối ăn cho kẻ thù. Chính vì vậy bữa sáng là quan trọng nhất.

12. Mỉm cười và cười nhiều hơn nữa.

13. Cuộc sống quá dài để bạn lãng phí thời gian ghét một ai.vì vậy hãi loại bỏ cảm giác đau khổ và ghen ghét đi nhé!

14. Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Không ai hoàn hảo cả đâu!

15. Bạn không cần phải thắng cuộc trong tất cả các cuộc tranh luận đâu. Hoà thuận là hơn cả.

16. Đừng so sánh cuộc sống của bạn với người khác. Và cũng đừng so sánh người bạn đời của mình với người khác bạn nhé.

17. Không ai nắm giữ hạnh phúc của bạn ngoài bạn cả.

18. Tha thứ cho mọi người về tất cả mọi thứ.

19. Công việc của bạn sẽ không chăm sóc được bạn khi ốm đâu, mà chỉ có người thân và bạn bè. Vậy nên hãy giữ liên lạc thường xuyên với họ.

20. Loại bỏ tất cả những gì không có ích. Hãy vui tươi hơn.

21. Ghen tị là một việc làm lãng phí thời gian. Bạn đã có được những gì bạn cần hoặc sẽ có những gì bạn thực sự muốn.

22. Gọi điện thoại cho gia đình thường xuyên.

23. Mỗi ngày làm một việc tốt cho người khác.

24. Đừng làm quá sức, hãy giữ giới hạn cho riêng mình.

25. Khi bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng nên cám ơn Trời và cám ơn người.

Chúc các bạn luôn luôn vui vẻ và thành công trong cuộc sống !

S.T.

‘Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

VnExpress.net – Thứ bảy, ngày 02 tháng mười một năm 2013

Ra nước ngoài, người Việt vẫn xếp hàng rất lịch sự, nhưng về nước họ sợ những người ‘đi đêm’, tham nhũng, ‘con ông cháu cha’, các loại ‘cò’ quen biết… giành mất phần của mình.

Người Nhật xếp hàng trong các điểm dịch vụ công cộng là điều cả thế giới nhìn nhận là một nét văn hóa đặc biệt không phải đâu cũng có. Nhất là sau vụ thảm họa kép năm ngoái, toàn thế giới không chỉ được nghe đồn đại, hay đọc đâu đó mà được chứng kiến thực tế và mọi dân tộc khác đều phải ghen tị với việc xếp hàng này.

Trong cuộc sống hàng ngày, tại các bến xe lửa, trước cửa toa tàu là hai hàng người đứng hai bên cho người trên tàu xuống và lần lượt lên. Nếu không hết, người còn lại kiên nhẫn chờ chuyến tới và họ không chen lấn hay phàn nàn điều gì.

So với người Nhật, tại sao chúng ta ít xếp hàng? Hay nói cách khác, người Việt chúng ta có xếp hàng không? Và có được như người Nhật không?

Tôi sinh ra khi chiến tranh gần kết thúc và lớn lên trong giai đoạn bao cấp, giao thời mở cửa rồi đến kinh tế thị trường hiện nay. Tôi còn nhớ câu chuyện vui về xếp hàng phát chẩn (cho tiền, gạo những người bị tai nạn) thời xưa: “Số tôi thật không may, hôm trước đi nhận phát chẩn đứng cuối hàng nên khi đến lượt thì hết. Hôm qua đi sớm, họ lại phát từ cuối hàng lên và đến nơi cũng hết. Hôm nay, tôi cố gắng đứng giữa hàng, khổ nổi, họ phát từ hai đầu lại và… cũng hết khi đến lượt tôi”.

Trong thời bao cấp, dù muốn hay không mọi người đều phải xếp hàng, tuy nhiên việc xếp hàng dần dần có tiêu cực trong đó, có sự xí chỗ, có sự bán chỗ đã “xếp gạch” và điển hình hơn những người nhà, thân quen sếp sẽ có được các cách lấy hàng mà không phải xếp hàng.

Thời gian đó, ở các bến tàu, bến xe, việc có được một vé đi xe khách trước đây rất vất vả, phải xếp hàng từ rất sớm trước khi xe chạy cả ngày. Nhưng người có mối quan hệ, quen biết sếp… sẽ bỗng nhiên chen ngang và lấy hết suất vé, đành quay về chờ chuyến khác và mọi người đều phải sống chung với chuyện đó.

Việc này tồn tại đến tận bây giờ. Các loại vé xe, vé tàu, vé thể thao, vé sự kiện nghệ thuật… đều có sự chen ngang. Hay gần đây, chúng ta biết nhiều việc xếp hàng xin cho con đi học từ mẫu giáo, cấp một mà báo chí nhiều lần thông tin. Trong làm ăn kinh tế, nếu xếp hàng chờ đến lượt để có dự án, chắc mọi người sẽ phì cười vì phi thực tế hiện nay.

Tôi không ví dụ thêm nữa, chắc các bạn cũng hiểu trước nay, xưa kia và hiện tại thì người Việt Nam đều xếp hàng, chen ngang và mất chỗ diễn ra khắp nơi, mọi lĩnh vực, mọi hình thái, trong cả giáo dục, nghiên cứu khoa học đến nông dân bán hàng hóa…

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh: Jenny

Vậy nó nói lên điều gì? Đó là lòng tin của việc xếp hàng. Tôi dẫn chứng không đi quá xa về quá khứ, nhưng có thể nói: trong mỗi con người Việt Nam, lòng tin đạt được từ xếp hàng quá thấp, không ít thì nhiều, nhiều người có kinh nghiệm trả giá từ xếp hàng, bị chen ngang. Chính điều này khiến họ phải chủ động tranh chỗ, chen lấn nhau trong xếp hàng?

Trong cơ quan, thay vì xếp hàng chờ đến lượt, nhiều người đã chủ động “chạy” trước để xen ngang, tác động quan hệ để đạt được cái mình mong muốn, từ tâm lý này, tạo niềm tin vào xếp hàng đi xuống.

Với người Nhật, họ tin tưởng, biết chắc chuyến tàu tiếp theo sẽ đến và họ sẽ lên được tàu. Tin tưởng chắc chắn phần họ mong đợi trong xếp hàng sẽ đến và họ yên tâm xếp hàng, mọi người đều đồng thuận trong văn hóa này.

Người Việt Nam khi ra nước ngoài, hầu hết cũng xếp hàng và theo trật tự của nước sở tại, nghĩa là họ cũng tin cậy và kiên nhẫn với hàng mình đợi. Người nước ngoài đến Việt Nam, cũng có nhiều người lái xe máy phóng vèo vèo, vượt đèn đỏ, xếp hàng cũng chen lấn, tại họ ư? Chắc chắn khó mà lý giải được!

Như vậy, không phải ý thức của người dân Việt Nam chúng ta kém, không phải chúng ta không muốn xếp hàng, hay người Việt Nam chúng ta không kiên nhẫn. Chúng ta có thể thấy từ các hệ quả của xen ngang trong hàng đợi trong cuộc sống, từ các nhà quản lý “con ông cháu cha”… đã dẫn đến mất lòng tin để phải xếp hàng.

Một Lời Xin Lỗi

Một Lời Xin Lỗi

Tưởng Năng Tiến


Trong hơn nửa thế kỷ qua, có lẽ, đây là lần đầu tiên công luận mới được biết đến một điểm son (hiếm hoi) trong hệ thống lao tù ở Việt Nam – theo như tường thuật của phóng viên Trọng Thịnh, trên Tiền Phong Online:

Ngày 28/6, tại Trại giam Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) sơ kết đợt phát động phạm nhân viết thư với chủ đề “Gửi lời xin lỗi”. Sau hơn nửa năm, đã có gần 600 bức thư…

Ông Nguyễn Văn Quý (Xã Phú An, Nhơn Trạnh, Đồng Nai), cha của nạn nhân Nguyễn Văn Lợi đã rất ngạc nhiên khi nhận được lá thư xin lỗi của phạm nhân Từ Khánh Thiện – người đang thụ án về tội giết con ông…


Bà Nguyễn Kim Oanh (Hố Nai, Trảng Bom, Đồng Nai), mẹ của nạn nhân Lê Văn Vũ thì không tin rằng kẻ trong băng nhóm giết con mình là Nguyễn Minh Quang lại gửi thư cho bà. Dù còn nguyên đó nỗi đau mất con nhưng dòng chữ chân thành của kẻ giết người đã khiến bà cảm động: “Hôm nay con muốn viết lên hai từ xin lỗi dù đã quá muộn màng và con biết rằng không thể nào làm cho bác quên hết buồn đau của những chuyện đã qua”.

Bà Oanh kể: “Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm. Tội của thằng Quang thì pháp luật đã xử nó, mình giữ lại thù oán cũng chẳng được gì. Tuổi của nó còn trẻ, còn tương lai ở phía trước. Vì thế tôi muốn đích thân lên trại để nói tôi tha thứ cho cháu”.

Nguyen Minh Quang

Phạm nhân Nguyễn Minh Quang và bà Nguyễn Kim Oanh.
Ảnh:
Trọng Thịnh

Cũng trên Tiền Phong Online, vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 vừa qua, lại có thêm một bài báo nữa (Trào Lưu Tự Thú Về Cách Mạng Văn Hoá Ở Trung Quốc) cũng cảm động không kém – do  ký giả Sơn Duân lược dịch:

Với tư cách Chủ tịch Hội Cựu học sinh giai đoạn 1966 -1968 tại Trường trung học Bắc Kinh số 8, Trần Tiểu Lỗ (67 tuổi) đứng dậy, cúi đầu và đại diện cho các học sinh nói lời xin lỗi vì làm nhục và đánh đập thầy cô giáo trong thời Cách mạng Văn hóa. Các cựu học sinh khác cũng làm theo Trần. Những lời nói hối hận hòa lẫn với ngôn từ an ủi và nước mắt tuôn tràn trên các khuôn mặt. Theo tờ China Daily, trước khi tổ chức cuộc gặp, Trần đã đăng tải lời xin lỗi trên trang blog của nhóm cựu học sinh vì “trách nhiệm trực tiếp trong việc lên án và đưa nhiều người đến trại cải tạo”. Theo ông Trần, lời xin lỗi tận đáy lòng của ông với các thầy cô và bạn cũ “dù muộn nhưng cần thiết”.

Cuối bài viết này, sau khi đăng lại trên trang Đàn Chim Việt, có vị độc giả đã gửi đến phản hồi như sau:

Tudo.com says: Vậy khi nào CS VN sám hối về Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm miền Bắc ?

Câu hỏi (khá) bất ngờ này khiến tôi chợt nhớ đến một đoạn văn của blogger Cu Làng Cát:

Gia đình tôi, bị quy địa chủ trong những năm tháng cải cách ruộng đất. Đó là điều vô lý, thật là vô lý. Đến bây giờ bố tôi và tôi vẫn không hiểu vì sao một gia đình nghèo đói như thế này, bỏ tất cả theo kháng chiến, không một mảnh đất cắm dùi thời kỳ đó mà vẫn bị quy là địa chủ… Bố tôi kể, đợt cải cách ruộng đất oan sai nhiều lắm.

Người oan toàn người giỏi, người tài và rất nhiều Đảng viên bị giết… Tôi đã nhiều lần ngồi nhậu với nhà thơ Ngô Minh, ông cũng mang trong mình nổi đau của oan sai cải cách ruộng đất. Khi rượu vào mềm môi, tôi hỏi: “Chuyện gia đình chú bị quy sai địa chủ chú có đau không?”. Ông cười nhưng từng thớ thịt trên mặt giật liên tục, như đang cố nuốt một nổi đau mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi…”

Nỗi đau này (chắc chắn) sẽ giảm bớt ít nhiều – nếu trong lần nhậu tới, vào lúc rượu vừa mềm môi thì bưu tá viên xuất hiện và đưa cho nhà thơ Ngô Minh một bức thư gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ của nước CHXHCNV, với nội dung (đại khái) như sau:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi ….ông/bà…

Thay mặt Chính Phủ của nước CHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến ông/bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm (vô cùng đáng tiếc, và đáng trách) đã khiến cho cụ ông Ngô Văn Thắng bị oan mạng trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất – vào năm 1956. Chúng tôi kính mong được ông/bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Thử tưởng tượng xem hai vị nhà thơ và nhà báo của chúng ta sẽ ngạc nhiên cỡ nào khi đọc những dòng chữ ngắn ngủi và giản dị trên? Bữa đó, hai chả – không chừng – dám uống tới sáng luôn vì xúc động!

Hãy tưởng tượng tiếp: có chiều, khi ngày đã đi dần vào tối, một bưu tá viên (khác) sùm sụp áo mưa len lách vào đến căn nhà số 24 ngõ 267 2/16 Dường Hoàng Hoa Thám, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội để giao cho bà Ngô Thị Kim Thoa một bức thư khác – cũng gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi …

Thay mặt Chính Phủ của NCHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm, vô cùng đáng tiếc, đã khiến ông nhà (thi sĩ Phùng Cung) vô cớ bị bắt đi biệt tích và giam giữ rất nhiều năm – sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm – vào đầu thập niên 1950. Chúng tôi kính mong được bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này…

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Cũng vào buổi chiều mưa này, một bức thư khác nữa – với nội dung gần tương tự –  đã được gửi đến bà Lê Hồng Ngọc ở ngõ số 26 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nộị… Đêm hôm ấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ của Phùng Cung và Hoàng Minh chính có thể sẽ được khêu sáng hơn một tí, chỉ tí xíu thôi nhưng chắc cũng đủ làm cho những gian nhà quạnh quẽ của các bà quả phụ (đang bước vào tuổi tám mươi) được đỡ phần lạnh lẽo.

me gia

Nguồn ảnh: haigt.dva.vn

Có những bức thư khó chuyển hơn vì người nhận sinh sống ở những nơi xa xôi, và hẻo lánh hơn nhiều:

Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Địa Dư không bao giờ có địa danh “Đèo Bá Thở”. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn … Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang …

Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.

Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi “bá thở”. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời.”


“Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Được vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:

Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi… (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Đèo Bá Thở”. Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn: Westminster, CA 2001).

Tôi hy vọng (mỏng manh) rằng có thể vẫn còn đủ thời gian để thêm một bức thư khác nữa, cũng  từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ, đến kịp Bên Kia Đèo Bá Thở. Dù đây chỉ là một bức thư chung, gửi đến hàng vạn người, với chữ ký đã in sẵn chăng nữa – chắc chắn –  nó vẫn được người nhận trang trọng cất giữ mãi cho đến khi nhắm mắt.

–          Cứ thư từ linh tinh khắp nơi như thế (e) nhiêu khê, phiền phức, và tốn giấy mực quá không?

–          Dạ, không đâu. Tôi tin rằng số tiền hơn bốn trăm tỉ đồng (để xây Tượng Đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng) không chỉ đủ để gửi thư xin lỗi mà còn có thể gửi thêm cả hài cốt (thật) của rất nhiều người lính đến (vô số) những bà mẹ đang thoi thóp – Bên Kia Đèo Bá Thở.

Còn với hàng trăm ngàn tỉ đã chi cho Vinashin thì (ôi thôi) cả nước –  từ Nam ra Bắc – chắc ai cũng có thể nhận được một lá thư xin lỗi về những chuyện đáng tiếc đã qua vì gia đình có người bị chôn sống trong hồi Tết Mậu Thân, có người bị vùi thây trong trại cải tạo, có người bị chìm nghỉm trong lòng đại dương, hay cả dòng họ tan nát và tứ tán vì những cuộc cải tạo công thương nghiệp…

Những bức thư xin lỗi kể trên, nếu được viết bằng thiện ý và lòng thành – chắc chắn – sẽ tạo dựng lại được ít nhiều niềm tin đã mất (từ lâu) trong lòng người, và làm mờ bớt (phần nào) nào cái nét bất nhân của chế độ hiện hành. Điều đáng tiếc là “thiện ý” cũng như “lòng thành” vốn không hề có trong thâm tâm của những người cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, bất kể thế hệ nào.

Tưởng Năng Tiến