THẾ HỆ CUỘI

THẾ HỆ CUỘI

Trích EPHATA 583

Theo báo cáo hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” do Sở Giáo Dục – Đào Tạo tỉnh Lâm Đồng tổ chức tại Đà Lạt, sáng ngày 24.9.2013, Giáo Sư TSKH Trần Ngọc Thêm, giám đốc Trung Tâm Văn Hóa Học Lý Luận và ứng Dụng, Đại Học Quốc Gia Sàigòn ), cho biết những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tâm lý của học sinh trung học hiện nay là do sự thay đổi nhanh chóng của môi trường, điều kiện sống của các em ngày càng đầy đủ hơn.

Bên cạnh đó, những tác động tích cực cũng đã dẫn tới những tác động tiêu cực, như giá trị trong xã hội bị đảo lộn và thâm nhập vào giới trẻ. Cũng theo Gs. Thêm, kết quả của một cuộc điều tra xã hội học cho thấy, tỉ lệ nối dối cha mẹ ở học sinh cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50%, cấp 3 là 64% và sinh viên là 80% ( Phan Thành, Tuổi Trẻ, 24.9.2013 ).

Như thế, cứ tính theo lũy tiến thì khi tốt nghiệp Đại Học, thanh niên bước chân vào đời với hành trang nói dối 100% chăng ? Điều này ai cũng có thể kiểm chứng chính xác trên chính con cái mình. Vậy xin dành cho các bậc cha mẹ đáng kính tự tìm kiếm kết quả và tự hành xử.

Tác giả Nguyễn Quang Thân đi tìm nguyên do và ảnh hưởng hiện tượng “Cuội hóa”, phát hiện thực trạng không thể vui nổi. Xin lược trích như sau:

Các bậc cha mẹ, từ người ít học đến học vấn cao siêu, từ dân thường đến người có chức phận xã hội, dù thuộc tôn giáo, tín ngưỡng nào, không ai dạy trẻ con hoặc người lớn nói dối. Nhà trường lại càng không. Các đoàn thể thì luôn “nâng cao phẩm chất thành viên”, tổ chức học tập, trau dồi đợt này qua đợt khác, năm này qua năm khác. Chúng ta không dạy con nói dối, dạy con sống lương thiện bằng sức lao động của mình, đối xử tử tế với đồng loại, thương yêu người nghèo khổ. Bằng khen, huân chương ta khuân về treo chật tường. Nhưng con cái biết ta xài bằng giả vì chúng chưa bao giờ thấy ta đi học.

Ta nói với con ta là người lương thiện với lương tháng mươi triệu đồng. Vậy mà ta có ba bốn ngôi nhà, sắm ôtô siêu hạng, mỗi năm bỏ hàng trăm triệu chơi gôn và khi nổi nóng có thể đánh ngất một người giúp việc trên sân “để trêu đùa”.

Nhà trường không dạy học sinh nói dối nhưng dùng mọi cách để có tỉ lệ tốt nghiệp cao ngất đến mức chính học sinh của trường cũng biết là chuyện khôi hài. Đài báo luôn đề cao lòng trung thực, nhưng chỉ các bà nội trợ mới biết đích xác cái thứ giá cả đang được coi là hạ giá đang lên phi mã như thế nào ngoài chợ.

Con cái và ngay cả chúng ta vẫn được nghe những lời hứa hẹn chung chung, hoa mỹ nhưng ngay người nói ra cũng biết chắc là sẽ không được thực hiện. Hệ lụy là cuộc sống thiếu minh bạch, thật và giả lẫn lộn không biết đâu mà lần. Trẻ con được lớn lên trong cái ma hồn trận hư hư thực thực, đến lượt chúng nó học được cách nói dối cha mẹ để yên thân hoặc tự do quậy phá từ hành vi của chính chúng ta ! Thay đổi tình trạng đáng lo ngại này không thể trong một đêm. Không ai có thể giết chết sự thật. Nhưng để có sự thật không phải dễ.

Trước đây khá lâu, cảnh báo thói nói dối bị coi là cấm kỵ vì “trên nguyên tắc” xã hội chúng ta không thể có chuyện nói dối. Nhưng bàn tay không che nổi mặt trời, dù muốn hay không sự thật phũ phàng đang được công nhận một cách chính thức trên các diễn đàn quan trọng nhất.

Đó là một tiến bộ về mặt đạo đức và đáng mừng bởi vì, dù chưa triệt tiêu được thói nói dối nhưng thấy được nguy cơ nó đang tiếp tục làm băng hoại mọi thứ cũng là điều tích cực. ( Nguyễn Quang Thân, Tuổi Trẻ, 27.9.2013 ).

BOMBO

LỜI THỀ HIPPOCRATES DANH DỰ ĐÃ TAN THEO DANH LỢI

LỜI THỀ HIPPOCRATES
DANH DỰ ĐÃ TAN THEO DANH LỢI

Trích EPHATA 583

Những đóng góp của ngành y tế đối với cộng đồng, những tấm gương hết lòng vì bệnh nhân của ngành y tế có lẽ không cần phải nói đến thì mọi người dân đều biết. Nhiều năm qua, “Nhân tài Đất Việt”, một giải thưởng uy tín về khoa học đều có chương trình tôn vinh những thầy thuốc có nhiều đóng góp cho nền y học nước nhà.

Thế nhưng công bằng mà nói, việc làm của một số cá nhân và cả nhóm người trong ngành y tế vừa qua đã khiến dư luận rất bất bình, làm hoen ố hình ảnh “lương y” mà bao thế hệ thầy thuốc Việt Nam đã dày công vun đắp….

Kết quả thanh tra của Thanh Tra Sở Y Tế về tiêu cực tại 3 bệnh viện lớn của thành phố, đó là Bệnh Viện Bình Dân, Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương và Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình – đã gây “chấn thương” không chỉ trong ngành y tế mà đối với toàn xã hội. Hai chữ “Y ĐỨC” đã bị đồng tiền hủy diệt. Lời thề Hippocrates đầy danh dự đã tan theo mối lợi thị trường.

Bác sĩ Bệnh Viện Bình Dân liên kết bên ngoài ( thực ra là sân sau ) đưa máy móc thiết bị vào kinh doanh. Bệnh nhân trở thành miếng mồi khai thác béo bở, bác sĩ cứ mặc sức chỉ định chụp, chiếu cho dù họ biết có những ca không cần phải thực hiện như vậy. Họ chia nhau tiền tỉ, bất cần biết bệnh nhân là những người nghèo khổ phải chạy ăn từng bữa, vay mượn từng đồng đi khám chữa bệnh.

Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương và Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình đều móc túi bệnh nhân theo cách gian lận phim. Với kỹ thuật cắt tráo, xén phim, các nhóm bác sĩ ở đây đút túi hàng tỉ đồng. Vụ việc còn rất phức tạp, có thể chuyển sang điều tra hình sự.

Nhìn ngược lại một vài vụ gần đây như bớt vaccine ở Phú Yên, tiêu cực tại Bệnh Viện Hoài Đức, Hà Nội, có thể thấy còn quá nhiều tồn tại trong ngành y tế. Xã hội ngày càng thiếu lòng tin và sự tôn trọng đối với y bác sĩ, bởi vì còn có không ít trường hợp gây mất lòng tin như nêu trên.

Nhìn chung theo mặt bằng xã hội, y bác sĩ ở các bệnh viện lớn của hai thành phố lớn nhất nước này có nghèo không, thu nhập có thấp không ? Có thể nói là không. Chưa kể, những người tổ chức được các trò gian lận, tiêu cực, đưa máy móc vào khai thác ở bệnh viện đều là lãnh đạo của các phòng, ban hoặc lãnh đạo bệnh viện. Với các vị trí này, họ là những người có thu nhập cao, chưa kể còn có nguồn thu nhập từ hoạt động phòng mạch cá nhân. Thế nhưng, họ vẫn sẵn sàng làm những việc phi đạo đức, thậm chí coi thường mạng sống bệnh nhân để trục lợi. Nói đúng hơn, bằng những cách như vậy, họ làm giàu, rất giàu.

Còn bao nhiêu chuyện tương tự ở các bệnh viện nhưng chưa bị phát hiện, chưa có điều kiện để thanh tra ? Đây là câu hỏi cần phải được giải đáp, không thể để người bệnh trở thành con mồi cho một số y bác sĩ thất đức khai thác.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn gương mặt trẻ em thì biết phẩm chất cuộc sống của quốc gia đó. Rất đúng.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn vào hệ thống giao thông và tổ chức giao thông thì biết trình độ văn minh của quốc gia đó. Chính xác.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn bệnh nhân được điều trị, chăm sóc trong bệnh viện thì biết quốc gia đó lo cho dân chúng như thế nào. Tuyệt đối đúng.

Vậy thì với những “con sâu” như vậy, chúng ta sẽ đứng ở đâu trong quan sát của thế giới ?

LÊ CHÂN NHÂN, báo Dân Trí, 10.10.2013

Người tình

Người tình
CHUYỆN TÌNH ông Huỳnh Thủy Lê
Nhiều người đã đọc tiểu thuyết “Người tình” (L’Amant, tiểu thuyết nổi tiếng thế giới của nữ văn sĩ người Pháp Marguerite Duras) và xem bộ phim cùng tên được chuyển thể từ chính cuốn tiểu thuyết “Người tình” bởi đạo diễn nổi tiếng Jean-Jacques Annaud. Nhưng còn ít người biết rằng, đó không chỉ là chuyện tình Pháp – Hoa trên đất Việt, mà là chuyện tình Việt – Pháp – Hoa, và hiện tại câu chuyện tình này đang trở thành giá trị văn hóa lịch sử lớn, góp phần phát triển du lịch ở vùng đất miền Tây Nam Phần, trên cả huyền thoại Công tử Bạc Liêu.
f

Bà Duras thời còn trẻ.

Thị xã Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) và thành phố Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) nằm hai bên bờ sông Tiền, cách nhau khoảng 70 cây số. Gia đình chàng trai Huỳnh Thủy Lê, “anh ở đầu sông” nơi thị xã Sa Đéc đã kết thông gia với gia đình cô Nguyễn Thị Mỹ, “em ở cuối sông” bên bờ sông Tiền thành phố Mỹ Tho. Thế nhưng, trong khi gia đình hai bên chuẩn bị cho cuộc hôn nhân, thì bất ngờ một cô gái người Pháp (là tác giả của tiểu thuyết “Người tình”) xuất hiện.
Sự xuất hiện của cô gái Pháp tuy có làm chao đảo, nhưng vẫn không làm tổn hại đến cuộc hôn nhân đã hẹn ước ở hai bên sông Tiền, mà sự xuất hiện đó đã là cơ duyên cho sự ra đời sau này một tác phẩm văn học lừng danh trong thế giới Pháp ngữ và trở thành giá trị lớn của vùng đất Tây Nam Phần cho đời sau.Sự ra đời của một cuốn tiểu thuyết lừng danh Một ngày cuối năm 1971 giữa thủ đô Paris tráng lệ của nước Pháp. Nữ văn sĩ đang được độc giả nước Pháp và cả thế giới Pháp ngữ yêu mến Marguerite Duras soạn lại các tác phẩm trong một đời viết văn của mình.
Nữ văn sĩ 57 tuổi này có thói quen sống lại với các tác phẩm của mình mỗi lần năm cũ sắp kết thúc, năm mới sắp đến. Trước mặt bà là những cuốn tiểu thuyết mà bà đã rút ruột viết ra trong gần 30 năm cầm bút. Bà Duras dừng lại hồi lâu với cuốn tiểu thuyết L’Amant, bởi nó mang hơi thở của mối tình rất đẹp của bà với một chàng trai người Pháp cũng trong một chiều cuối năm.
Bỗng chuông điện thoại nhà bà reo vang, chiếc điện thoại giả cổ theo kiểu Tướng Charles De Gaulle từng sử dụng phát lên những tiếng chuông như tha thiết, như giục giả. Bà Duras chợt thấy hồi hộp, tim đập mạnh, bà cũng không hiểu lý do tại sao, có lẽ tiếng chuông điện thoại trong một chiều cuối năm vang lên giữa tĩnh lặng đã làm rung động trái tim của người phụ nữ nổi danh là đa cảm này. Nhấc điện thoại, bà Duras vẫn còn hồi hộp chờ nghe thông điệp từ bên kia đầu dây. Giọng người đàn ông có vẽ đã lớn tuổi, phát âm không thuật chuẩn giọng Pháp, có thể là người nước ngoài, cụ thể là vùng Đông Á bởi đặc thù của cách phát âm theo lối ngôn ngữ đơn âm. Người đàn ông bên kia đầu dây cũng lịch sự hỏi thăm có phải bà là nữ văn sĩ Marguerite Duras, là câu hỏi mà bà rất thường nghe mỗi khi nhấc điện thoại.
Sau khi biết chắc là bà Duras, giọng nói trong điện thoại bỗng trở nên thổn thức hỏi bà: “Bà có nhận ra ai đang nói chuyện điện thoại với bà không?”. Tất nhiên là bà Duras không thể nhận ra, vì đã hơn 40 năm có hơn bà không nghe lại giọng nói ấy, ngày trước là giọng sang sảng của một thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, giờ là giọng khàn đặc của một cụ già, thỉnh thoảng chen vào tiếng ho sù sụ.

d
Bà Duras khi đã già.

Bà Duras bỗng thấy chân tay run rẩy, đứng không còn vững, khi từ đầu dây bên kia nói rành mạch: “Anh là Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc – Việt Nam 42 năm trước nè, em còn nhớ không?”. Là một nữ văn sĩ rất nhanh nhạy với từ ngữ, tế nhị trong ứng xử, nhưng trước tình huống quá bất ngờ và xúc động, bà Duras không biết phải nói gì, miệng chỉ ấp úng những lời thừa thải: “Ôi, anh Thủy Lê, làm sao anh biết số điện thoại của tôi…”. Ông Thủy Lê trả lời: “Em là nhà văn nổi tiếng, có khó gì chuyện tìm xin số điện thoại của em”. “Thế anh đang ở đâu, anh từ Trung Hoa gọi cho em phải không?”, bà Duras hỏi.
Khi ông Huỳnh Thủy Lê trả lời rằng, ông đang gọi điện thoại ngay tại Paris, bà Duras chỉ còn biết thốt lên: “Ôi chúa ơi, cảm ơn chúa đã cho đời con còn có được ngày này, con còn có thể gặp được người đàn ông này”. Họ lặng lẽ đi bên nhau bên bờ sông Seine. Dòng sông thơ mộng chảy ngang qua Paris này thường dành làm nơi hẹn hò của những đôi tình nhân trẻ, còn người lớn tuổi ở Paris thường đi dạo trong những công viên dưới chân tháp Effel. Thế nhưng, bà Duras lại hẹn gặp ông Thủy Lê bên bờ sông Seine tình tứ, tất nhiên là có lý do của bà.
Ngay khi vừa gặp nhau, ông Thủy Lê đã rưng rưng đôi mắt mờ đục của tuổi già và nói: “Anh vẫn yêu em, trọn cuộc đời anh vẫn yêu em”. Bà Duras cũng bất chợt thốt lên những câu nói tương tự. Họ đứng tựa vào nhau, hai mái đầu đã trắng màu sương tuyết nhưng hai trái tim thì vẫn nóng hổi, thổn thức. Dòng sông Seine mùa đông mặt nước lặng lờ trôi, không một gợn sóng, nhưng trong tâm tưởng của đôi tình nhân già đứng trên bờ sông lại ào ạt sóng nước sông Cửu Long, sóng nước đập vào mạn phà Mỹ Thuận chạy ngang dòng sông Tiền, trong một ngày cuối năm nước đổ như thác từ phía thượng nguồn…
Cô nữ sinh Marguerite Duras tuổi 15 rời chiếc xe đò Sa Đéc – Sài Gòn, bước xuống phà, đứng tựa vào lan can phà nhìn nước sông Cửu Long chảy siết mang theo những đám lục bình trôi tản mạn. Chàng trai Huỳnh Thủy Lê cũng bước ra khỏi chiếc Limuosine màu đen sang trọng tiến đến mạn phà nơi cô gái Tây đang đứng…Để rồi một mối tình dữ dội và lãng mạn đã đến với chàng thương gia người Hoa và cô nữ sinh người Pháp…
Chia tay với ông Thủy Lê trên bờ sông Seine, bà Duras trở về nhà cả đêm không thể ngủ, hình ảnh mối tình đầu của bà nơi xứ thuộc địa Đông Dương xa xôi cứ ào ạt tràn về như nước sông Cửu Long năm nào. Đối với những người cầm bút, nhất là những nhà văn nữ, những khoảnh khắt cảm xúc cao độ như thế thường cho ra những tác phẩm hay, và bà Duras cũng không bỏ qua cơ hội tuyệt vời này. Quyển tiểu thuyết “Người tình” (L’Amant, Nhà xuất bản Les Éditions de  Minuit năm 1984) đã ra đời trong hoàn cảnh như thế và nhanh chóng chinh phục độc giả Pháp vốn rất tinh tế với văn chương, ngay sau khi xuất bản nó đả trở thành cuốn sách “best seller” (bán chạy nhất) với 2,4 triệu bản, đoạt giải Goncourt – một giải thưởng danh giá của văn học Pháp.
Quyển tiểu thuyết cũng nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong thế giới Pháp ngữ và trên toàn thế giới, nó đã được dịch ra 43 thứ tiếng, tất nhiên là có cả tiếng Việt, và được dựng thành phim cũng rất nổi tiếng.Tiếng sét ái tình trên sông Tiền Phà Mỹ Thuận một ngày cuối năm năm 1929. Con đường thiên lý từ Sài Gòn đi về vùng sông nước miền Tây Nam Phần phải qua rất nhiều sông rạch, hầu hết đều đã được bắc cầu, duy chỉ có hai nhánh sông Tiền và sông Hậu của dòng sông Cửu Long rộng mênh mông là vẫn phải “lụy phà”. Mãi cho đến năm 2000 chiếc phà Mỹ Thuận mới kết thúc vai trò lịch sử của nó khi chiếc cầu Mỹ Thuận – cầu dây văng hiện đại đầu tiên của Việt Nam – nối liền hai bờ sông Tiền.
Sau đó 10 năm, phà Cần Thơ cũng kết thúc sứ mạng lịch sử kéo dài gần 100 năm của nó khi cây cầu Cần Thơ lớn nhất nước thông xe. Ngày ấy, vào cuối thập niên 1920, xe đò “lục tỉnh” phải đợi qua phà Mỹ Thuận trung bình 1 giờ/chuyến. Trên chuyến xe đò Sa Đéc – Sài Gòn ngày hôm ấy, giữa những “anh Hai”, “chị Ba” đậm chất nông dân miền Tây đi Sài Gòn vì một chuyện gì đó, người ta thấy có một cô gái Tây ra dáng nữ sinh với chiếc cặp bên người, mái tóc buộc hai nhánh, đội chiếc nón rộng vành.
Xe đò xuống phà Mỹ Thuận, phà rời bến, trên xe tiếng gà vịt lao xao, từng giỏ trái cây chất đầy trên nóc xe. Cô gái Tây rời khỏi xe, đến đứng tựa vào lan can phà, hít thở không khí trong lành, cặp mắt mơ màng nhìn dòng sông Cửu Long “sông dài cá lội biệt tăm”. Cô tên Marguerite Duras, con gái của một bà giáo là hiệu trưởng trường tiểu học ở Sa Đéc. Đó là bà Marie Donnadieu, Hiệu trưởng trường L’ecole Primaire De Jeunes Filles De Sadec, nay là Trường Tiểu học Trưng Vương thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Đây là ngôi trường cổ nhất Đồng Tháp.
Bến phà Mỹ Thuận ngày nay.

Ngôi nhà của ông Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc.

Quê cô ở tận Paris nước Pháp, sau khi cha mẹ cô chia tay, mẹ cô đã dắt 3 đứa con nhỏ qua xứ thuộc địa Đông Dương để dạy học theo chủ trương truyền bá văn hóa Pháp sang các nước thuộc địa. Đến Sài Gòn, mẹ cô tình nguyện về một tỉnh miền Tây xa xôi để dạy học và bà đã dắt các con đến thị xã Sa Đéc, nơi đó có một ngôi trường tiểu học xập xệ, thiếu thốn mọi bề để dạy học. Thuở ấy ở Sa Đéc mới có trường tiểu học, muốn học cao hơn phải đến Mỹ Tho, Cần Thơ hoặc lên Sài Gòn.
Học hết tiểu học, Duras được người mẹ là giáo viên nghèo gửi lên học trung học ở Sài Gòn, nơi bà có người bạn thân làm hiệu trưởng. Duras có 2 người anh, không ai chịu học hành gì nhiều, trong đó có một người bị nghiện hút, là nỗi khổ tâm của mẹ cô, vì vậy người mẹ khắc khổ đã quyết tâm cho đứa con gái út học hành đàng hoàng. Hậu thế phải mang ơn bà Marie Donnadieu rất nhiều, vì nhờ sự quyết tâm của bà cho cô con gái Duras học hành đàng hoàng mà sau này thế giới có một nữ văn sĩ tài năng, đóng góp vảo kho tàng văn học của nhân loại nhiều tác phẩm có giá trị.
Trên chiếc phà Mỹ Thuận chạy ngang sông Tiền vào cái ngày cuối năm 1929 tiền định ấy, ngoài chiếc xe đò chạy bằng than đá cổ lỗ nói trên, còn có chiếc xe hơi sang trọng hiệu Limuosine. Thời ấy, vào cuối thập niên 1920, xe hơi nhãn hiệu Limuosine nổi tiếng của Mỹ mới nhập vào Đông Dương chưa tới 10 chiếc, ở miền Tây Nam Phần chỉ có vài chiếc, trong đó công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy cũng tậu một chiếc ngay từ đợt đầu tiên. Chiếc Limuosine màu đen trên chiếc phà Mỹ Thuận qua sông Tiền ngày hôm ấy không phải của công tử Bạc Liêu đang nổi tiếng về ăn chơi trên đất Nam kỳ, mà là của một “công tử” khác cũng trên đất “Nam kỳ lục tỉnh”, nhưng ít giàu có và không nổi tiếng bằng, đó là ông Huỳnh Thủy Lê, con trai út của ông chủ chành gạo Huỳnh Thuận giàu có nhất nhì tỉnh Sa Đéc.
Là người gốc Hoa, ông Huỳnh Thuận không khởi nghiệp làm giàu bằng ruộng lúa như những đại điền chủ khác ở miển Tây Nam Phần, ông đã tận dụng lợi thế của người Hoa trong kinh doanh thương mại để kinh doanh lúa gạo, cả mua bán trong nước và xuất khẩu. Ông có chành gạo lớn nhất Sa Đéc, nơi tập trung lúa gạo để chuyển đi bán ở Bắc Phần và Trung Phần, cũng như đưa về cảng Nhà Rồng để xuất cảng ra nước ngoài. Phất lên với nghề kinh doanh, xuất cảng gạo, ông Huỳnh Thuận xây dựng nên những dãy phố sầm uất ở thị xã Sa Đéc để cho thuê, rồi ông về khu người Hoa ở Chợ Lớn xây dãy phố cũng với mục đích cho thuê. Chỉ riêng ở Sa Đéc, ông Huỳnh Thuận đã có hàng trăm căn phố, ông trở thành người giàu có nhất nhì tỉnh Sa Đéc thời đó. Cậu con trai út Huỳnh Thủy Lê được ông Huỳnh Thuận chọn nối nghiệp trao cho toàn bộ gia sản. Vì vậy mà ông Thủy Lê thường xuyên đi lại giữa Sa Đéc và Sài Gòn để quán xuyến chuyện làm ăn của gia đình bằng chiếc xe Limuosine màu đen sang trọng.
Năm ấy ông Huỳnh Thủy Lê đã 27 tuổi, nhưng vẫn chưa lập gia đình, thời đó như thế là quá đứng tuổi, là hiện tượng lạ của một đàn ông thuộc gia đình giàu có. Ông Thủy Lê lập gia đình trễ là có nguyên nhân của nó, cách đó gần 10 năm gia đình ông đã hứa hôn cho ông với 1 cô gái trẻ, nổi tiếng xinh đẹp ở Mỹ Tho, tên là Nguyễn Thị Mỹ. Bà Mỹ nhỏ hơn ông gần 10 tuổi, vì vậy ông phải đợi cho vị hôn thê “đủ lớn” để làm đám cưới. Trong chuyến đi từ Sa Đéc đến Sài Gòn ngày hôm ấy, ông Thủy Lê cũng dự định ghé qua Mỹ Tho để thăm gia đình nhạc gia và nhìn mặt người vợ chưa cưới.
Đang ngồi nghĩ ngợi về những thương vụ làm ăn đang chờ đợi ở Sài Gòn và nghĩ cách chào hỏi gia đình nhạc gia ở Mỹ Tho sau vài giờ nữa, bất ngờ ông Thủy Lê nhìn thấy một bóng sắc giai nhân nổi bật lên trong đám đông người bộ hành nghèo khó trên phà. Cô gái có nước da trắng, tóc nâu vàng, dáng người cao ráo, có thể cô không phải là người Việt hay người Hoa, mà là người Pháp. Cô gái mặc chiếc đầm màu sáng, đội chiếc nón rộng vành, mặt hướng theo dòng sông, không quan tâm gì đến cảnh xô bồ trên phà. Là người nổi tiếng đứng đắn, không thuộc loại “mèo mả gà đồng”, nhưng hình ảnh cô gái đứng tựa lan can phà nhìn dòng nước chảy xuôi chợt làm trái tim ông Thủy Lê rung động. Ông như bị tiếng sét ái tình, như bị thôi miên, đã lặng lẽ mở cửa xe đến đứng bên cô gái. Không nhiều lời, chỉ vài câu “tán tỉnh” của ông Thủy Lê, họ bỗng thấy như thân quen từ thuở nào, nhất là khi chợt nhận ra họ cùng ở thị xã Sa Đéc, sống gần nhau “hai nhà cuối phố”.
Ông Thủy Lê đề nghị và cô gái Duras chấp nhận, cô trở về chiếc xe đò lấy chiếc va li nhỏ và chiếc cặp học trò mang qua chiếc Limuosine màu đen để đi cùng người đàn ông mới quen về Sài Gòn. Tất nhiên là trên quảng đường từ Mỹ Thuận về Sài Gòn, ông Thủy Lê cũng đã “quên” ghé lại Mỹ Tho thăm nhạc gia và người vợ chưa cưới như đã dự tính. Sau đó, tình yêu lãng mạn và dữ dội giữa cô nữ sinh trường dòng người Pháp mới 15 tuổi rưởi và chàng thương gia giàu có người Hoa lớn hơn 12 tuổi đã kéo dài gần 2 năm trong bí mật.  Dù yêu nhau đắm đuối, thường xuyên chìm đắm trong sự hòa điệu của đôi trái tim và trong những cơn mê thể xác, nhưng họ không thể công khai mối quan hệ của mình, mà luôn sống trong lo lắng, ngờ vực, sợ hãi… bởi những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, giữa sự ngăn cách về chủng tộc và thứ tầng xã hội. Còn có một nguyên nhân quan trọng khác làm ông Thủy Lê không thể vượt qua những rào cản vô hình để sống trọn vẹn với tình yêu, đó là cuộc hôn đã hứa hẹn gần 10 năm với 1 cô gái Việt ở thành phố Mỹ Tho.
Có thể đối với Marguerite Duras, mọi rào cản đều có thể bị san bằng, bởi cá tính mạnh mẽ và sự “nổi loạn” của tuổi trẻ, nhưng với Huỳnh Thủy Lê thì lại khác, nền giáo dục Nho học hàng ngàn đời đã không cho phép chàng vì tình yêu mà vượt qua tất cả những định chế của gia đình, dòng tộc, xã hội. Sau khoảng một năm rưỡi, cuộc tình của họ đã kết thúc trong nước mắt khi ông Thủy Lê phải đi đến cuộc hôn nhân đã được an bày từ gần 10 năm trước, còn Duras cùng gia đình lên tàu trở về cố hương bên trời Tây xa xôi.  Trước ngày rời Sài Gòn, Duras đã đến ngôi nhà nơi cô từng sống những tháng ngày em đềm bên người tình, nhưng ông Thủy Lê đang bận lo đám cưới ở tận miền Tây. Sau này khi viết tiểu thuyết “Người tình”, bà Duras đã kể lại khoảnh khắc này bằng những trang sách đẫm nước mắt:“Khóc mà không để cho mẹ nàng và người anh kế của nàng nhìn thấy nàng đang buồn, không để cho họ nhìn thấy gì hết, là thói quen giữa họ với nhau”. Ngày hôm sau, khi ra bến tàu, Duras cố nấn ná, kiếm tìm trong vô vọng hình bóng người đàn ông đã mang đến cho cô cả niềm hạnh phúc và nỗi khổ đau, cô ước mong được nhìn thấy ông 1 lần cuối cùng trong đời. Duras đâu ngờ rằng, ông Thủy Lê đã ra bến tàu tiễn cô, để nhìn thấy cô 1 lần cuối cùng trong đời, nhưng ông không để cô biết, mà đứng lặng lẽ trong con đường nhỏ cạnh bến tàu để làm 1 cuộc chia ly.
Thật kỳ diệu, khi chiếc tàu nhổ neo rời bến, Duras cũng đứng tựa vào lan can tàu như đã đứng trên phà Mỹ Thuận ngày nào, mắt hướng vào bờ, nhờ vậy mà cô đã nhận ra ông Thủy Lê đứng nép bên chiếc Limuosine màu đen quen thuộc trong con đường khuất để dõi theo bóng tàu. Chỉ vài giây ngắn ngũi, họ thậm chí còn không kịp đưa tay chào nhau, chiếc tàu đã khuất bóng. Ông Thủy Lê phải vội vã quay về lo đám cưới, còn Duras lênh đênh trong cuộc hành trình dài 1 tháng rưởi, với những cơn vật vã do say sóng và với nỗi buồn thiên cổ vì yêu! Bà Duras đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Người tình”: “Chiếc xe to lớn của chàng ở đó, dài và đen với người tài xế mặc chế phục trắng đàng trước. Chỗ đó chỉ cách chỗ đậu xe của hãng tàu thủy Messageries Martimes một con đường nhỏ, riêng biệt. Đó là điều mà nàng đã nhận ra. Đó chính là chàng ở phía sau, chỉ đủ trông thấy hình dáng, bất động, kiệt sức.
Nàng tựa người vào lan can tàu, giống như lần đầu tiên, trên phà. Nàng biết chàng đang nhìn nàng, nàng cũng đang nhìn chàng, nàng không thể nhìn thấy chàng nữa nhưng nàng vẫn nhìn về phía cái hình dáng của chiếc xe đen. Rồi sau cùng thì nàng không thể nhìn thấy nó nữa. Bến cảng nhòa đi, rồi đến đất liền”.Rơi vào quên lãng Ông Huỳnh Thủy Lê trở về Sa Đéc để chuẩn bị cho 1 đám cưới lớn nhất từ trước đến giờ trong cái thị xã nhỏ bên bờ sông Tiền này. Đám cưới giữa ông với cô gái vùng đất “miệt vườn” cây lành trái ngọt Mỹ Tho kéo dài suốt 3 ngày, trở thành ngày hội của người dân Sa Đéc, nhưng trong lòng của chú rể thì như “một nửa hồn tôi chết”. Ngày ông rước cô dâu trẻ đẹp Nguyễn Thị Mỹ từ Mỹ Tho về Sa Đéc ngang qua phà Mỹ Thuận, cô dâu luôn tươi vui trong bộ áo dài vải gấm và bó hoa cưới rực rở, còn chú rể cố giữ nét mặt không biểu hiện cảm xúc.
Tình cờ, cô dâu bước xuống xe, cũng đến đứng tựa vào lan can phà để khuây khỏa sau đoạn đường dài tù túng trong chiếc Limuosine, ở ngay tại nơi mà cô nữ sinh Marguerite Duras đã đứng ngày trước… Trong tiệc cưới của mình, ông Thủy Lê uống thật nhiều rượu, uống như chưa bao giờ ông được uống, mọi người cho rằng vì ông quá vui trong ngày vui của mình, nhưng có lẽ chỉ một mình ông biết là trong những chén rượu chảy tràn có chứa những hương vị gì: hạnh phúc hôn nhân, tình yêu, nỗi buồn, đau khổ…? Không biết bên trời Tây người con gái có tên Duras có đau buồn kéo dài hay không, còn ở trời Nam, chú rể mới là thương gia Thủy Lê đã sớm nguôi ngoai chuyện tình buồn để trở về với công việc quán xuyến toàn bộ sản nghiệp và cơ ngơi làm ăn do cha là ông Huỳnh Thuận giao lại cho đứa con trai út sau khi nó đã thành gia thất. Rồi “chim quyên quen trái nhản lồng”, ông Huỳnh Thủy Lê và bà Nguyễn Thị Mỹ đã trở thành đôi vợ chồng đầm ấm, hạnh phúc hơn người, là hình ảnh mơ ước của bao người dân Sa Đéc và khu người Hoa ở Chợ Lớn. Bà Mỹ đã sinh cho ông Thủy Lê tổng cộng 5 đứa con, 3 gái, 2 trai. Họ sinh ra trên nhung lụa, lại được nền giáo dục nề nếp của gia đình, nên tất cả đều thành đạt.
Ngôi nhà của ông Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc.

Bến phà Mỹ Thuận ngày nay.

Cô con gái giữa Huỳnh Thủy Anh của họ từng là hoa khôi của một trường trung học ở Chợ Lớn, cô về làm dâu của ông Trần Văn Hương, nguyên Thủ tướng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, từng có 1 tuần lễ làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Hiện tại, các con của ông Lê đều sống ở nước ngoài, trong đó Huỳnh Thủy Tiên là GS.TS – Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng ở Tiểu bang Califonia (Mỹ), Huỳnh Thủy Hà là giảng viên trường ĐH Sorbonne, Pháp. Năm 1972 ông Trần Thủy Lê qua đời ở tuổi 70, đám ma của ông có ông thông gia là Trần Văn Hương đáp máy bay từ Sài Gòn về đưa tang.
Chuyện tình, chuyện cuộc đời của người đàn ông nổi tiếng trên đất Sa Đéc tên Huỳnh Thủy Lê tưởng như đã đi vào quên lãng, nếu như 1 năm trước ngày qua đời ông không có chuyến đi Pháp để gặp lại người con gái trên phà Mỹ Thuận năm nào. Cuộc gặp ở Paris, bên bờ sông Seine đã giúp cho tiểu thuyết, sau đó là bộ phim “Người tình” ra đời. Để rồi từ đó, thị xã Sa Đéc, nơi ông Huỳnh Thủy Lê và bà Marguerite Duras từng sống và từng yêu nhau, như được phủi lớp bụi thời gian, trở nên  lung linh sống động, trở thành điểm du lịch hấp dẫn của du khách trên khắp thể giới.  

Ôn lại lịch sử trường Petrus Ký (trước 75)

Ôn lại lịch sử trường Petrus Ký (trước 75)

Nguyễn Thanh Liêm

Tôi ra đời trong một làng quê ở tỉnh Mỹ Tho. Ngay từ lúc còn học ở trường Tiểu Học tỉnh, tôi đã được nghe ba tôi và chú tôi nói nhiều về trường Petrus Ký. Thấy các anh học sinh trường College Le Myre de Vilers với bộ đồng phục trắng có gắng phù hiệu trông rất uy nghi tôi đã nể phục các anh và ngưỡng mộ trường college này lắm rồi. Nhưng chú tôi bảo là Petrus Ký còn to hơn, quan trọng hơn Le Myre de Vilers nhiều lắm. Riêng ba tôi thì hình như lúc nào cũng nhắc là “nữa lớn con sẽ học trường Petrus Ký.” Thành ra trong đầu óc non nớt của tôi lúc đó trường Petrus Ký là cái gì vĩ đại lắm, nó lớn lao quan trọng vô cùng. Tôi cũng nghe một người bà con bảo là “học Petrus Ký ra là làm cha thiên hạ đấy.” Lời phát biểu chói tai đó thật ra cũng có phần đúng đối với thế hệ của tôi và đối với người dân Miền Nam thời đó. Bởi vì cho đến năm 1945, sau ngày Đại Chiến Thế Giới Thứ Hai chấm dứt, cả Miền Nam nước Việt chỉ có 4 trường Trung Học công là Petrus Ký, Gia Long, Le Myre de Vilers (Nguyễn Đình Chiểu), và College de Cần Thơ (Phan Thanh Giản), mà trong 4 trường đó chỉ có trường Petrus Ký là trường duy nhất có bậc đệ nhị cấp (tức là lycée hồi đời Tây). Dù ra đời trễ nhất trường Petrus Ký vẫn là trường lớn nhất, cao nhất, và nỗi tiếng nhất ở trong Nam. Thời xưa, có được bằng Tiểu Học đã là oai lắm đối với dân quê, có được bằng Thành Chung thì kể như trí thức lắm rồi, thuộc hạng thầy thiên hạ, huống chi là có được bằng Tú Tài. Quí hóa vô cùng, có mấy ai có được bằng này. Vậy mà trường Petrus Ký lại sản xuất ra số ít người quí giá đó. Bởi thế nên phụ huynh học sinh, những người hiểu rõ giá trị của giáo dục, nhất là những người có con trai, ai ai cũng đều mong muốn cho con mình được vào Petrus Ký cả.

Nhưng khi lên trung học thì tôi vào Le Myre de Vilers chớ không phải Petrus Ký vì thời cuộc lúc này và vì hoàn cảnh gia đình không cho phép. Khi xong đệ nhất cấp, tôi mới xin chuyển về trường Petrus Ký và từ đó sống ở Sài Gòn luôn. Được vào Petrus Ký là kể như ước mơ đã thành, tôi mừng không thể tả, nhưng người vui nhất chắc chắn là ba tôi và kế đó là nhưng người thân trong gia đình tôi. “Ngày đầu tiên vào trường, đứng xếp hàng dưới những tàn cây sao cao ngất bên hông những dãy lớp học đồ sộ uy nghi, tôi có cảm giác như tôi đang được vươn mình lên để lớn thêm và để mở rộng tâm hồn cho khoáng đạt, cho thích nghi với với cái khung cảnh uy nghi đồ sộ của ngôi trường. Khi các lớp học sinh chỉnh tề theo hàng ngũ lần lượt đi vào sân trong và dừng lại ở trước cửa mỗi lớp một cách rất có trật tự và kỷ luật tôi nói thầm trong lòng rằng ở trên đời này chắc chưa có trường học nào có được cái kỷ luật chặt chẽ và cái không khí trang trọng như trường này. Nhất là khi vừa qua khỏi cổng vào sân trong, nhìn lên giữa hành lang chính (préau) thấy thầy hiệu trưởng Phạm Văn Còn cùng với thầy giám học (thầy Huấn) và thầy tổng giám thị (thầy Trương) oai vệ đứng đó tôi càng thấy cái không khí nghiêm trang của ngôi trường hơn, một sự nghiêm trang mà tôi chưa hề thấy được ở những ngôi trường nào tôi đã học qua.” (TTHPK tr. 115-116). So với Le Myre de Vilers, trường Petrus Ký lớn hơn nhiều lắm, cũng ra đời sau Le Myre de Vilers lâu lắm. Họa đồ xây cất trường do một kiến trúc sư người Pháp là ông Hebrard de Villeneuve vẽ hồi năm 1925, và trường được khởi công xây cất liền sau đó để hoàn tất vào năm 1927. Niên khóa đầu tiên khai giảng hồi tháng 9 năm 1927 với bốn lớp học sinh chuyển từ Chasseloup Laubat sang. Lúc này trường mang tên Collège de Cochinchine. Vị hiệu trưởng đầu tiên là ông Banchelin. Năm sau, 1928, Thống Đốc Nam Kỳ là Blanchard de la Brosse lấy tên nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký đặt tên cho trường, biến trường này thành lycée (trường Đệ Nhị Cấp) và cho đặt tượng đồng bán thân Petrus Ký vào giữa sân trường. Lễ khánh thành tượng đồng Petrus Ký và trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký được đặt dưới sự chủ tọa của Tống Đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse. Trường nằm ở giữa hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn, trên khoảng đất rộng mênh mông với đầy đủ cung cách của một khu học đường trang nghiêm yên tịnh. Tất cả đất đai, và phần lớn cơ sở trong khu vực đóng khung bởi bốn con đường Cộng Hòa, Thành Thái, Trần Bình Trọng và Nguyễn Hoàng, đều thuộc lãnh thổ của Petrus Ký. Trường có sân vận động riêng của trường, sân vận động Lam Sơn. Nhưng vì sự phát triển nhanh của nền giáo dục trong thập niên 1950 khi nước vừa độc lập nên một số cơ sở và đất đai của trường Petrus Ký bị cắt xén, trưng dụng để xài cho những cơ quan giáo dục khác. Trường Quốc Gia Sư Phạm, trường Trung Tiểu Học Trung Thu dành cho con em Cảnh Sát, Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục đều được xây trên phần đất của trường Petrus Ký. Ba dãy lầu lớn của trường Petrus Ký được dùng cho Đại Học Khoa Học và Đại Học Sư Phạm. Nhà Tổng Giám Thị Petrus Ký được dùng làm Trung Tâm Thính Thị Anh Ngữ, và một số các nhà chức vụ khác của trường cũng được dùng cho một số các viên chức Bộ Giáo Dục. Tuy bị cắt xén nhiều nhưng trường Petrus Ký vẫn còn là một trường trung học lớn nhất dành riêng cho nam sinh ở miền Nam Việt Nam.

(Về phương diện kỷ luật và trật tự thì có lẽ không có trường nào có kỷ luật và trật tự chặt chẽ, tốt đẹp bằng trường Petrus Ký. Ở Le Myre de Vilers tuy kỷ luật cũng khá chặt chẽ, tuy cũng có nhiều biện pháp mạnh trừng phạt học sinh như cấm túc, đuổi học, vv…nhưng vẫn không có cái không khí trang nghiêm uy nghi của trường Petrus Ký. Ở Le Myre de Vilers khi cổng trường mở thì học sinh cứ đi thẳng vào trước lớp học của mình chờ tới giờ sắp hàng trước cửa lớp đợi thầy đến cho phép là vào lớp. Ở Petrus Ký, sau khi vào cổng học sinh phải xếp hàng bên hông trường trước. Xong rồi mới theo lệnh giám thị tiến vào bên trong xếp hàng chờ trước cửa lớp một cách rất trật tự. Ở Le Myre de Vilers học sinh không thấy ông hiệu trưởng đâu, nhưng ở Petrus Ký, khi vào bên trong trường là học sinh sẽ thấy ngay ban giám đốc đứng giữa hành lang chính nhìn xuống toàn thể học sinh của trường. Tôi chưa hề chào cờ ở trường Le Myre de Vilers bao giờ. Nhưng ở Petrus Ký thì học sinh phải chào cờ mỗi sáng Thứ Hai. Cảnh chào cờ bao giờ cũng rất nghiêm trang và long trọng. Ở đây lúc nào bạn cũng cảm thấy như được ban giám đốc chiếu cố tới luôn).

Muốn được vào học trường Petrus Ký người đi học phải chứng tỏ được rằng mình thuộc thành phần ưu tú, xuất sắc, có thể là ở trong nhóm từ 5 đến 10 phần trăm đầu của những người cùng lứa tuổi. Kỳ thi tuyển vào Petrus Ký là kỳ thi rất gay go cho nhiều học sinh, xưa cũng vậy mà sau này cũng vậy. Vì thuộc thành phần chọn lọc như vậy cho nên học sinh Petrus Ký đậu rất nhiều và rất cao trong các kỳ thi. Kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1959 chẳng hạn là kỳ thi rất hóc búa, toàn quốc chỉ có một người đậu hạng Bình mà thôi, và người đó là học sinh Petrus Ký. Quyển Kỷ Yếu của trường Petrus Ký niên khóa 72-73 ghi thành tích học tập của niên khóa trước như sau:

TÚ TÀI II
Ban A: Dự thi 101, trúng tuyển 101 với 2 Ưu, 10 Bình, 25 Bình Thứ, tỷ lệ 100%.
Ban B: Dự thi 419, trúng tuyển 419, 11 Ưu, 53 Bình, 114 BT, tỷ lệ 100%
Ban C: Dự thi 52, trúng tuyển 52, với 7 BT, tỷ lệ 100%
Đậu nhiều và nhiều người đậu cao, đó là thành tích học tập của học sinh Petrus Ký từ xưa đến giờ.

Trường Petrus Ký đối với tôi là một trường mẫu, lý tưởng, là tấm gương cho các trường khác noi theo. Lúc còn học ở Le Myre de Vilers bọn học sinh chúng tôi luôn lấy các bạn Petrus Ký làm mẫu trong mọi hoạt động. Bởi vậy nên khi tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm, tôi quyết định lấy Petrus Ký làm ưu tiên một trong việc chọn lựa nhiệm sở của tôi. Tôi được về Petrus Ký theo ý muốn. Ở thời đại của tôi được bổ nhiệm về trường Petrus Ký và một số các trường lớn khác ở Đô thành thường phải là những người đậu đầu hay thật cao trong danh sách tốt nghiệp CĐSP hay ĐHSP sau này, hoặc những người đã dạy lâu năm ở tỉnh. Nói chung thì phần đông giáo sư Petrus Ký là giáo sư được chọn lọc, rất có căn bản chuyên môn và cũng rất đạo đức. Một số giáo sư Petrus Ký đã đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục sau khi dạy ở trường một thời gian. (Giáo sư Nguyễn Thành Giung sau làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục, giáo sư Phạm Văn Lược sau làm Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, giáo sư Phạm Văn Thuật sau làm Tổng Giám Đốc Trung Tiểu Học và BDGD, giáo sư Nguyễn Thanh Liêm sau làm Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên). Đặc biệt là từ niên khóa 1964-65 giáo sư Petrus Ký giữ vai trò quan trọng trong việc soạn đề thi cho các kỳ thi trên toàn quốc. Họ cũng là những người đem bài thi trắc nghiệm khách quan (objective tests) thay dần vào chỗ những bài thi theo lối luận đề (essay). Một số giáo sư khác đã có những công trình nghiên cứu soạn thảo, viết sách giáo khoa rất có giá trị như giáo sư Phạm Thế Ngũ, giáo sư Vũ Ký, vv…Phần đông đều rất tận tụy với việc giảng dạy, rất thương học sinh, và rất chú tâm đến việc bảo vệ uy tín và thanh danh của trường. Thầy Đảnh, thầy Thái, thầy Ái, thầy Minh, thầy Hạnh, thầy Đính, thầy Nam… thầy nào học trò cũng thương cũng mến và thầy nào cũng hết lòng lo lắng cho học sinh, cũng như lo lắng cho trường. Mến thương học trò, mến thương trường Petrus Ký, đó là điều mà phần đông anh chị em giáo sư Petrus Ký đều cảm thấy. Cho nên năm 1962 khi tôi bị đưa đi làm hiệu trưởng ở Bình Dương tôi thấy rất khổ tâm khi phải rời khỏi trường. Cũng may là năm sau tôi lại được trở về Petrus Ký không phải để đi dạy lại mà để làm hiệu trưởng trường này.

Tôi là hiệu trưởng đời thứ 13 của trường mặc dầu trước tôi chỉ có 11 ông hiệu trưởng (vì ông Valencot làm hiệu trưởng tới hai lần cũng như giáo sư Trần Ngọc Thái sau này). Từ 1927 cho đến năm 1975 trường có tất cả 17 vị hiệu trưởng. Trong số 17 ông hiệu trưởng này, có 5 người Pháp (Banchelin, Valencot, Andre Neveu, Le Jeannic, và Taillade) và 12 người Việt Nam (Lê Văn Kim, Phạm Văn Còn, Nguyễn Văn Kính, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Lược, Nguyễn Thanh Liêm, Trần Ngọc Thái, Trần Văn Thử, Trần Văn Nhơn, Bùi Vĩnh Lập, và Nguyễn Minh Đức). So với những vị hiệu trưởng trước, tôi là người quá trẻ khi đảm nhận chức vụ hiệu trưởng trường này. Lúc đó tôi mới có 30 tuổi trong khi những vị hiệu trưởng trước tôi không có vị nào dưới năm mươi tuổi. Tất cả đều là bậc thầy của tôi. Nhưng cũng từ tôi trở đi thì hiệu trưởng Petrus Ký đều còn nhỏ tuổi cả (trừ ra giáo sư Trần Văn Thử), tất cả là đàn em của tôi về phương diện tuổi tác. Lớp trẻ chúng tôi tuy có rộng rải, cởi mở hơn thế hệ lớn tuổi nhưng tất cả đều không xa rời truyền thống tốt đẹp của trường Petrus Ký. Kỷ luật, trật tự vẫn đứng hàng đầu. Chọn lựa kỷ giáo sư, chọn lựa kỷ học sinh, thúc đẩy các hoạt động trong cũng như ngoài học đường, vận động mọi phương tiện, mọi nguồn yểm trợ để phát triển trường sở, thăng tiến việc học của học sinh, làm cho học sinh đậu nhiều và đậu cao trong các kỳ thi, đào tạo người giỏi cho non sông tổ quốc, đó là những điều chính yếu mà ông hiệu trưởng Petrus Ký nào củng cố làm. Ông hiệu trưởng nào cũng biết là trường mình là trường rất nỗi tiếng, rất được sự chú ý của chính quyền cũng như của dân chúng. Ông hiệu trưởng nào cũng biết trường mình là trường được giới giáo dục coi như là trường kiểu mẫu của trường trung học ở miền Nam tự do và là trường luôn được sự chú ý của mọi người và mọi giới. Những nhân vật hàng đầu của chính phủ thường đến thăm viếng trường, từ Tổng Thống, Chủ Tịch Quốc Hội đến các Tổng Bộ trưởng, đến các quốc khách từ các quốc gia khác đến. Ai cũng biết trường mình là trường đã từng đào tạo rất nhiều nhân vật quan trọng, từng giữ những vai trò lãnh đạo trong chánh quyền bên này hay bên kia, từng đóng góp vào việc làm nên lịch sử cho xứ sở.

Và trên hết tất cả ai cũng hiểu rằng trường mình hết sức hãnh diện mang tên một nhà bác học, một nhà văn hóa có công rất nhiều đối với việc phổ biến nền học thuật mới ở Việt Nam hồi thế kỷ thứ XIX. Đó là nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký. Nói đến ông là người ta phải nhớ đến vai trò “khai đường mở lối” của ông trên các địa hạt sau đây:
1. Dùng chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Nôm và chữ Hán trong việc biên khảo trước tác.
2. Viết câu văn xuôi thay lối văn biền ngẫu của các nhà nho,
3. Làm báo theo đúng mẫu mực một tờ báo, và
4. Xây dựng nền học thuật mới tổng hợp văn hóa Á Đông và văn minh Tây phương thay thế nền học thuật cũ kỹ lỗi thời của nho gia.

Qua công trình soạn thảo, trước tác của ông ta thấy ông là một nhà văn hóa giáo dục có tinh thần nhân bản, dân tộc và khai phóng, ba đặc tính quan trọng mà nền giáo dục chân chính và tiến bộ nào cũng cần phải có. Lý tưởng của ông là đào tạo được lớp người mới có đủ những kiến thức khoa học kỹ thuật của văn minh Aâu Tây đồng thời nắm vững những nguyên tắc đạo đức cổ truyền Á Đông, vừa có tâm hồn khai phóng, cởi mở, vừa có tinh thần dân tộc, vừa biết tôn trọng giá trị con người dù bất cứ trong xã hội nào. Lý tưởng đó được thể hiện trong chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam manh nha từ thời Pháp thuộc để phát triển và bành trướng mạnh mẽ từ Đệ Nhất qua Đệ Nhị Công Hòa.

Trường trung học được cái danh dự mang tên Petrus Trương Vĩnh Ký từ khi ra đời đã mang lý tưởng giáo dục đó biểu lộ trong hai câu đối ghi khắc trước cổng trường:

“Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm.”

Từ ngày được thành lập cho đến khi bị đổi tên, trong suốt gần năm mươi năm hoạt động, trường Petrus Ký đã làm tròn sứ mạng giáo dục được giao phó, đã đóng tròn vai trò một định chế xã hội đối với quốc gia, đã đào tạo được không biết bao nhiêu nhân tài cho xứ sở, đã trở thành một trường trung học phổ thông nổi tiếng vào bậc nhất ở Miền Nam Việt Nam.

Nguyễn Thanh Liêm

Tôi chỉ có một đời để sống

Tôi chỉ có một đời để sống

Bùi Hữu Thư

10/10/2013

Tôi chỉ có một đời để sống,
Một đời cậy một đời để trông.
Cửa Thiên Ðàng luôn luôn rộng mở,
Hay vùi sâu hỏa ngục mịt mùng.

Ngày tôi đi đến cuối cuộc đời,
Tôi có gì dâng Chúa? Chúa ơi!
Tôi không thể chạy theo ảo vọng,
Xa hoa và phù phiếm gọi mời.

Phải dẹp tính kiêu kỳ dị hợm,
Ám ảnh tôi sáng tối chiều hôm.
Uốn lưỡi mình trước khi ăn nói,
Mất lòng người vì lỡ miệng mồm.

Không bao giờ say đắm, đam mê,
Những vàng son quyến rũ mọi bề.
Hài lòng với những gì đang có,
Chúa an bài ban phát phủ phê.

Tôi chỉ có một đời để sống,
Chúa mỗi ngày tính sổ lao công.
Tôi chỉ có dịp may độc nhất,
Lỡ qua rồi tay trắng hoàn không.

Với tha nhân tôi nhiều bổn phận:
Coi mọi người như thể người thân,
Lắng nghe và luôn luôn thông cảm,
Tha thứ người như Chúa từ nhân.

Mỗi ngày qua tôi đều phải sống,
Giống y như giờ phút cuối cùng.
Dọn dẹp cho tâm hồn thanh tịnh,
Quét sạch bao tội lỗi chất chồng.

Tôi vẫn đi, đi giữa giòng đời,
Nhưng trong lòng khắc khoải không ngơi.
Niềm trông mong không bao giờ đổi,
Một ngày kia, Chúa cất về trời.

Tổng thống nghèo khổ và lập dị nhất thế giới

Tổng thống nghèo khổ và lập dị nhất thế giới

Báo Gia Đình

10/11/2013

“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ.

Nếu không được biết trước ông Mujica là tổng thống của Nước Cộng Hòa Uruguay, một trong những nền kinh tế phát triển ở Nam Mỹ, thì bất cứ ai cũng có thể nhầm Ông với những người nông dân lam lũ ở quốc gia này.

Khó có thể tin người đàn ông này là đương kim Tổng thống Uruguay

Trước khi đắc cử Tổng thống Uruguay vào năm 2009, Ông Mujica đã có một cuộc sống hết sức giản dị và cần kiệm, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng chẳng quá lời nếu gọi đó là khắc khổ. Sau khi trở thành tổng thống, ông vẫn tiếp tục duy trì lối sống được cho là đối nghịch hoàn toàn với nhiều vị lãnh đạo trên thế giới.

Ông Mujica đã từ chối căn biệt thự sang trọng mà nhà nước Uruguay cấp cho những vị lãnh đạo của mình, để chọn sống trong căn nhà cũ kỹ của vợ ông ở vùng ngoại ô.

Ngôi nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa vùng nông thôn hoang vắng với lối dẫn vào là một con đường đất bụi bẩn.

Trước cửa ngôi nhà, không khó để nhìn thấy những dây phơi đầy quần áo mới giặt, được giăng mắc sơ sài. Nguồn nước sử dụng trong ngôi nhà không phải là nước máy mà là nước được bơm lên từ chiếc giếng khoan lâu năm ở trong vườn.

Căn nhà nhỏ được bố trí đơn giản và gần như không có đồ đạc giá trị. Trong căn phòng ngủ chật chội của ông Mujica, ngoài chiếc giường và một số đồ đạc cá nhân, vật có giá trị nhất có lẽ là chiếc ti vi mà ông vẫn dùng để xem tin tức.

Tổng thống Mujica vẫn tự tay làm mọi việc trong gia đình, từ sửa chữa những đồ gia dụng, máy móc cho đến làm vườn và làm việc đồng áng. Hầu hết thời gian của ông Mujica và vợ là ở ngoài đồng. Hai vợ chồng tổng thống tự tay lái máy cày, trồng trọt, nhổ cỏ và thu hoạch nông sản như những người nông dân chính hiệu.

Tổng thống nghèo khổ và lập dị nhất thế giới

Ông Mujica cho biết ông không hợp với một cuộc sống xa hoa và kiểu cách, vì vậy ngay đến số lượng cảnh sát được cử đến nhằm bảo vệ an toàn cho gia đình ông cũng được giảm xuống tối thiếu và chỉ còn 2 người.

Người bạn thân thiết từ nhiều năm nay của ông Mujica là một chú chó tật nguyền có 3 chân, tên là Manuela. Ông thường chơi đùa với Manuela mỗi khi rảnh rỗi và chú chó này cũng kiêm luôn nhiệm vụ bảo vệ cho ngôi nhà của ông Mujica.

Chính bởi ông Mujica có một cuộc sống bình dị chẳng khác nào những người dân bình thường, mà giới truyền thông Uruguay đã gọi ông là vị tổng thống nghèo nhất thế giới. Không chỉ ăn chay và sống cần kiệm, ông Mujica còn tự nguyện quyên góp 90% lương hàng tháng của mình, tương đương khoảng 12 nghìn đô la Mỹ để làm từ thiện nhằm giúp đỡ những người nghèo và những doanh nghiệp nhỏ đang gặp khó khăn.

Hiện tại, tổng thu nhập của 2 vợ chồng tổng thống vào khoảng 775 đô la Mỹ/tháng, tương đương với mức thu nhập của bình quân trên một đầu người ở Uruguay.

Năm 2010, trong cuộc kê khai tài sản bắt buộc đối với những chính khách, toàn bộ tài sản giá trị của vị Tổng thống này chỉ là chiếc xe ô tô cũ kỹ được sản xuất từ năm 1987 có giá 1.800 đô la Mỹ.

Trong đợt kê khai tài sản năm nay, tài sản của tổng thống đã “tăng đáng kể” vì ông liệt kê thêm tài sản của vợ mình, bao gồm đất nông trại, ngôi nhà và chiếc máy cày.

Nhưng tổng tài sản của tổng thống cũng không bằng phân nửa tài sản của phó tổng thống đương nhiệm và 1/3 của vị tổng thống nhiệm kỳ trước.

Tư tưởng khác lạ về giàu và nghèo.

Vị tổng thống nghèo nhất thế giới cho biết, nhiều người có thể nghĩ ông là một ông già lập dị nhưng đó là lựa chọn của cá nhân ông. Ông Mujica nói rằng ông đã sống như vậy trong hầu hết cuộc đời của mình và sẽ còn sống như vậy cho đến cuối đời.

Nhiều người thường nhìn ông Mujica bằng ánh mắt thương hại và nghĩ rằng ông là một ông già nghèo lẩm cẩm, nhưng vị tổng thống này lại không hề cảm thấy như vậy vì ông có những quan niệm hoàn toàn khác biệt về giàu nghèo.

Tài sản giá trị nhất của tổng thống là chiếc xe ô tô cũ kỹ này

Ông Mujica nghĩ rằng chỉ có những người bị vướng vào vòng xoáy của tiêu dùng và của cải mới là những người nghèo. Những người không bao giờ cảm thấy thỏa mãn với số của cải mà mình đang có và luôn tìm mọi cách để kiếm tiền mua chúng, đến nỗi họ chẳng có thời gian dành cho bản thân, làm những việc mình yêu thích mới là những người nghèo, những người đáng thương.

Tổng thống Mujica tin rằng mình là một người may mắn và giàu có, bởi ông không sở hữa nhiều tài sản. Ông không phải mất nhiều thời gian chăm chút cho những tài sản này, vì vậy ông có thời gian để làm công việc đồng áng mà mình yêu thích.

Tư tưởng này cũng được Tổng thống Mujica phát biểu tại Hội nghị Liên hợp quốc về phát triển bền vững vào tháng 6 năm nay. Ông Mujica cho rằng việc tiêu thụ nhiều sản phẩm, hàng hóa chính là nguyên nhân dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên và gây ra sự ô nhiễm môi trường trên thế giới. Ông cũng hy vọng trong tương lại sẽ có nhiều nhà lãnh đạo và người dân sẽ lựa chọn phong cách sống như ông.

Nhiều người dân Uruguay khi được thăm dò ý kiến về phong cách sống của Tổng thống Mujica đã cho biết họ cảm thấy ông rất giản dị và gần gũi với mình. Nhiều người khác thì cho rằng phong cách sống là quyền lựa chọn của mỗi cá nhân, cho dù đó có là tổng thống đi chăng nữa.

Điều mà người dân mong chờ ở một tổng thống không phải là ông ta sống ra sao mà ông điều hành đất nước thế nào. Trong khi đó, nhiều người lại tỏ ra không đồng tình với cách sống của ông Mujica. Họ cho rằng có những nguyên tắc khi trở thành nhà lãnh đạo tối cao của một đất nước và họ mong muốn ông Mujica giữ hình ảnh trang trọng của một nhà lãnh đạo.

Con đường trở thành lãnh đạo của “người đàn ông lập dị”

Trong khi những người dân Uruguay có nhiều ý kiến trái chiều về phong cách sống của tổng thống nước mình, thì không ít những người dân trên thế giới không khỏi tò mò muốn biết người đàn ông giản dị này đã trở thành tổng thống như thế nào.

Có lẽ ông Mujica không bao giờ ngờ rằng việc tham gia vào đội du kích Tupamaros là một bước ngoặt, dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong cuộc đời ông của ông sau này. Trong suốt khoảng thời gian trong đội du kích từ năm 1960-1970, ông đã trở thành thủ lĩnh của phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài quân sự cầm quyền tại Uruguay.

Ông Mujica từng nhiều lần bị mưu sát và đã bị bắn trọng thương 6 lần trước khi bị giam cầm trong suốt 14 năm. Chính quãng thời gian bị biệt giam trong tù đã giúp ông Mujica định hình được quan điểm và phong cách sống của mình.

Năm 1985, ông Mujica được thả tự do và trở thành nghị sỹ quốc hội vào năm 1995. Trong khi đó, tổ chức đấu tranh vũ trang mà ông từng lãnh đạo đã trở thành một chính Đảng tham gia Mặt trận mở rộng.

Năm 2009, ông Mujica đại diện cho tổ chức chính trị Mặt trận mở rộng cầm quyền tham gia tranh cử tổng thống. Đối thủ của ông lúc này là ông Luis Lacalle, cựu tổng thống và là thành viên của Đảng Dân tộc.

Trong quá trình vận động tranh cử, ông Mujica đã nhanh chóng chiếm được thiện cảm của đông đảo người dân bởi phong cách giản dị, gần gũi. Ông thường xuất hiện với chiếc ba lô cũ trên vai cùng với quan điểm làm việc ít để tận hưởng cuộc sống nhiều hơn. Đồng thời, lối sống thanh đạm được ông duy trì từ khi ra tù cho đến hiện tại cũng khiến nhiều ông được nhiều người dân nghèo ủng hộ.

Nhờ phong cách giản dị, ông Mujica đã được người dân tín nhiệm và lựa chọn. Ông đã đánh bại đối thủ một cách ngoạn mục để trở thành tổng thống kế tiếp của Uruguay với 51% phiếu bầu. Khi đã trở thành tổng thống, ông vẫn duy trì cuộc sống thanh đạm như trước đây của mình.

Năm nay ông Mujica đã 75 tuổi và theo luật của Uruguay ông sẽ không được tái tranh cử vào năm 2014, khi ông đã 77 tuổi. Dù có nghỉ hưu và chỉ sống dựa vào trợ cấp của nhà nước, ông Mujica cũng sẽ không cảm thấy hụt hẫng khi mất đi một khoản thu nhập, bởi ông vốn đã quen với một cuộc sống tiết kiệm.

Tổ chức minh bạch quốc tế đã xếp Uruguay vào danh sách những nước ít tham nhũng nhất ở Châu Mỹ. Và chắc chắn, để Uruguay có tên trong danh sách này, có ít nhiều sự đóng góp của những chính khách sống giản dị như Tổng thống Mujica.

(Theo Báo Gia đình và Cuộc sống)

Chuyện nghệ sĩ sân khấu trùng tên

Chuyện nghệ sĩ sân khấu trùng tên

Ngành Mai, thông tín viên RFA
2013-10-12

mong-tuyen-305.jpg

Nghệ sĩ Mộng Tuyền, ảnh sưu tập chụp trước đây.

File photo

Dễ nhầm lẫn

Ngoài xã hội nếu như có 2 người trùng tên nhau cũng đã gây khó khăn cho thiên hạ xác định, mỗi khi đề cập đến một trong 2 người thì trong văn nghệ cũng vậy thôi. Trong làng sân khấu có đến những 3 nàng Thanh Lan, do vậy mà thiên hạ rất dễ nhầm lẫn.

Khi nói về một buổi trình diễn ở sân khấu, hoặc ai đó đang nói về người nghệ sĩ mà nghe họ đề cập đến 2 chữ Thanh Lan, thì chắc rằng người nghe phải nghĩ ngợi trong vài giây và tự đánh dấu hỏi xem người ta muốn nói đến Thanh Lan nào đây.

Thật vậy, trong làng sân khấu, ca nhạc có đến 3 nàng Thanh Lan xuất hiện ở 3 thời kỳ: Thanh Lan thời Đệ Nhứt Cộng Hòa; sang thời Đệ Nhị Cộng Hòa lại có nàng Thanh Lan khác xuất hiện, và sau 1975 lại có thêm một nàng Thanh Lan nữa. Do đó mà khán giả, thiên hạ rất dễ nhầm lẫn, người ta có thể hiểu ca sĩ này sang nghệ sĩ kia… Cái đặc biệt là cả 3 nàng đều có nét đẹp riêng và nổi tiếng mỗi người một cách.

Chúng tôi tạm thời gọi 3 nàng Thanh Lan bằng số 1, 2, 3 theo thứ tự thời gian trước sau mà các nàng ta xuất hiện ở mỗi thời kỳ.

Trước hết nói về Thanh Lan 1 thì nàng này xuất hiện trước nhất, đã tạo được tên tuổi cùng thời với Thanh Thúy ở những nhà hàng Văn Cảnh, Hòa Bình, Bồng Lai, phòng trà Anh Vũ và các sân khấu đại nhạc hội. Nếu như Thanh Thúy quyến rũ khán giả bằng giọng ca truyền cảm và nét đẹp dịu hiền, thì Thanh Lan 1 đã thu hút được người xem bằng sắc vóc và nét bạo dạn khi trình diễn. Thanh Lan đi vào tâm hồn khán giả do cái “duyên”, cái “bạo” chớ không phải do sự tạo rung động khó quên bằng giọng ca như Thanh Thúy hoặc Hoàng Oanh.

Thanh Lan 1 còn một lợi điểm nữa là rất ăn ảnh. Vì thế, nàng bước qua địa hạt phim ảnh thật dễ dàng. Trên màn bạc, Thanh Lan đã xuất hiện trong các phim “Đò Chiều”, “Bẽ Bàng”, “Cảnh Đẹp Miền Nam”, và thủ một vai chánh trong phim “Ảo Ảnh”. Con đường nghệ thuật đã đưa Thanh Lan 1 dến nếp sống trưởng giả, từ một nữ vũ sinh trong đoàn Kim Chung vào khoảng năm 1958. Nàng bắt đầu qua tân nhạc năm 1959, người hường dẫn về tân nhạc đầu tiên cho Thanh Lan là nhạc sĩ Phó Quốc Thăng.

TRANG-THANH-LAN2-250.jpg

Nghệ sĩ Bạch Tuyết và Nghệ sĩ Trang Thanh Lan tại giải Kim Khánh. File photo.

Nét đẹp của Thanh Lan được công nhận năm 1962, khi người ta tôn phong nàng làm “hoa hậu nghệ sĩ” và long trọng trao vương miện cho nàng trên sân khấu Anh Vũ. Phòng trà Anh Vũ ở Sài Gòn, là nơi mà những nhân vật tai to mặt lớn thời Đệ Nhứt Cộng Hòa thường lui tới. Tên tuổi và sự giao thiệp đã đưa Thanh Lan lên địa vị một “phu nhân” giàu sang đến mức triệu phú, hồi chế độ Ngô Đình Diệm.

Thế nhưng, nếp sống trưởng giả không làm Thanh Lan quên nghệ thuật, vì vậy thỉnh thoảng vẫn phải tìm tới một nơi có nhạc để hát, hoặc tự ý, hoặc theo lời mời. Hát không còn là sinh kế, nhưng hát cho… đỡ nhớ. Thanh Lan bảo vậy đó. Thanh Lan cũng không quên mình là 1 nữ nghệ sĩ có ít nhiều nguồn gốc từ giới cải lương. Vì vậy nàng vẫn yêu sân khấu bộ môn này và vẫn thường đi coi cải lương, ngồi ở hàng ghế đầu theo dõi mà say mê thích thú.

Do xuất thân từ đoàn cải lương Kim Chung, nên khi nghe tin Thanh Lan được bầu làm hoa hậu thì cả đoàn Kim Chung đã cười rần lên (không biết cười vấn đề gì).

Có lần một ký giả kịch trường phỏng vấn:

“Thanh Lan bây giờ muốn những gì?”

Nàng đáp:

“Chẳng muốn gì nữa, chỉ ngủ trong hạnh phục sẵn có và niềm vui hiện tại là thích nhứt. Mỗi ngày Thanh Lan ở nhà cưng cậu con trai hoặc lái xe đi dạo phố.”

Bấy giờ nàng đã làm chủ những chiếc xe hơi, những ngôi biệt thự trị giá bạc triệu. Nghe nói thì Thanh Lan 1 là phu nhân của ông Cao Xuân Vỹ (chẳng biết có đúng hay sai). Từ sau 1975 người ta không nghe thấy nàng ca sĩ Thanh Lan 1 này ca hát gì cả, đã giải nghệ, và có lẽ đã ra hải ngoại nhưng không xuất hiện.

Tiếp đây là đề cập đến Thanh Lan 2, nàng này xuất hiện khoảng sau năm Mậu Thân, và nổi tiếng như cồn vào những năm cuối của thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Thanh Lan 2 “lừng danh” nhiều hơn so với Thanh Lan 1, không những ở lãnh vực nghệ thuật mà luôn cả ngoài xã hội. Báo chí tốn khá nhiều giấy mực với nàng Thanh Lan 2 này, từ chuyện Dũng Long Biên (chồng của cô) đến chuyện đóng phim “Tiếng Hát Học Trò”, đóng phim “Tinh Khúc Thứ 10” với tài tử Nhật Bổn trên sông Hương v.v…

Không biết tại sao mà mỗi lần có việc gì đó xảy ra liên quan đến Thanh Lan 2 thì báo chí tập trung vào để nói. Tóm lại là Thanh Lan 2 nổi tiếng khá nhiều do những xì căng đan, mà báo chí thời bấy giờ đã triệt để khai thác, mà báo nói nhiều là thiên hạ bàn tán nhiều vậy. Hiện nay Thanh Lan 2 đã ở hải ngoại gần 20 năm, thỉnh thoảng vẫn còn đi hát. Khoảng hơn một năm trước đây cô có tham gia sô hát của kịch sĩ Túy Hồng.

Giờ thì nói đến nàng Thanh Lan 3 nhỏ nhứt, nàng này xuất hiện sau 1975, không có những “dậy sóng” như hai nàng kia, được khán giả biết đến là nhờ ca hát, và từng làm bầu gánh cải lương, nhưng rồi gánh hát rã nghỉ làm bầu luôn.

Thanh Lan 3 sinh quán ở Vĩnh Long, trong gia đình truyền thống cổ nhạc, và là em chú bác với nghệ sĩ Thành Tôn (hát bội). Nàng từng theo học lớp tân nhạc với Duy Khánh, và cũng từng học lớp có cổ nhạc ờ lò Út Trong. Sau đó thì chính thức đi vào nghề qua việc gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Phước Thành. Kế thì đi đoàn Đất Mũi và điều kiện thuận lợi đẩy nàng nhảy lên làm bầu gánh hát Sân Khấu Mới Đồng Nai. Thanh Lan có dịp kinh nghiệm được nỗi đắng cay nghiệp làm bầu, gặp cảnh đào kép eo sách, làm khó đủ thứ, đòi mượn tiền trước giao kèo rồi lại bỏ đi… Đoàn hát kiệt quệ, Thanh Lan cho đoàn rã gánh và đi hát chầu trở lại cho mấy đoàn khác. Thanh Lan 3 vừa mới nổi tiếng, được báo chí nói đến, đăng hình, nhưng rồi do “ngành cải lương cúc rũ thu tàn” nên hiện nay người ta chẳng biết Thanh Lan này ra sao, ở đâu?

Trên đây là thành tích của 3 nàng Thanh Lan, chúng tôi nêu lên tổng quát những sự kiện nổi bật, chớ nếu như đi vào chi tiết thì quá rườm rà…

Ngoài 3 nàng Thanh Lan cùng mang một tên, thì cũng có 2 nàng Kim Loan trùng tên với nhau.

thanh-tam-250.jpg

Các nghệ sĩ đoạt giải Thanh Tâm (từ trái sang):Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích Sơn. File photo.

Vào thời đầu thập niên 1960 trong làng tân nhạc có ca sĩ Kim Loan, vừa đẹp lại vừa hát hay, và nhân lúc Hoa Kỳ phóng phi thuyền Apollo 11, cô nàng nói với báo chí: “Tôi thích lên cung trăng nhưng cũng sợ nguy hiểm quá!” (Không biết nói đùa hay có dụng ý gì chăng)?

Trong khi đó thì phía bên cải lương cũng có cô đào Kim Loan, và dù rằng khác lãnh vực nhưng cả hai đều đứng trên sân khấu, nên có thể người ta hiểu lầm, gây ngộ nhận giữa Kim Loan này và Kim Loan kia. Cũng như có dư luận cho rằng hai nàng Kim Loan chỉ là một thôi, mà lúc bấy giờ nghe đâu hình như Kim Loan tân nhạc có phàn nàn, rằng bộ hết tên rồi sao mà lại lấy trùng tên với cô, để cho thiên hạ thắc mắc chớ? (Có lẽ Kim Loan cải lương xuất hiện sau).

Thật vậy, nếu phải chi Kim Loan cải lương mà tài nghệ yếu kém, chỉ là cái bóng mờ ít ai chú ý, hoặc là không được cải nhan sắc mỹ miều trời cho, thì người ta nghĩ chắc sẽ không có vấn đề gì. Đằng này cả hai đều trẻ đẹp, tuổi đời lại cũng được khán giả ái mộ, nên vấn đề mới được đặt ra, mà chung cuộc thì người sau luôn bị thiệt thòi.

Báo chí thời có có nêu lên sự thể, thiên hạ cũng lên tiếng phê bình này nọ, chạm đến lòng từ ái của một nghệ sĩ, đồng thời cũng có những đề nghị thế nào đó, nên sau ngày lãnh giải Thanh Tâm 1963, Kim Loan cải lương đã quyết định đổi tên là Mộng Tuyền. Cô tuyên bố với mọi người rằng, cô được khán giả mến chuộng là do khả năng tài sắc của mình, chớ đâu có phải nhờ ở cái tên “Kim Loan”! Quả thật thời gian sau Mộng Tuyền được phía điện ảnh mời đóng phim, đảm nhận vai chánh của mấy cuốn phim, và làm trưởng ban cải lương ở đài truyền hình, tên tuổi nổi như cồn.

Có thể nói Mộng Tuyền là một trong những cô đào sân khấu đẹp nhứt vào thời đó, cô đã hát qua nhiều gánh, và lọt vào bao nhiêu cặp mắt xanh của bầu bì, vương tôn công tử, cũng như những anh kép cùng trang lứa. Ngày ấy một hoa mai trắng rụng vào tim cô, trung tá Nam được cái diễm phúc ấy, và đám cưới tổ chức tại nhà hàng Bát Đạt ở Chợ Lớn. Có những cơn sóng gió xảy ra, nàng nói bởi vì mình đã chọn, mình đã yêu, thì phải chiều nhau cho đến ngày răng long tóc bạc! Nhưng chưa đến ngày đó, trước ngày tàn cuộc chiến vài tháng thì Mộng Tuyền đã bái bai ông xã hoa mai trắng kia.

Sau 1975 Mộng Tuyền chánh thức làm vợ ông Bầu Xuân, và khi ông này đi học tập cải tạo hơn 3 năm, nàng ôm cầm sang thuyền khác, và ôm theo trên cả trăm cây vàng khiến cho ông này khổ đau, chán ngán quá ở vậy luôn. Người ta nói có lẽ ông Bầu Xuân khó kiếm ra một cô đào nào mà tài sắc như Mộng Tuyền, nên không thèm có vợ nữa.

Còn Kim Loan tân nhạc thì về sau cũng nổi tiếng không kém, nhưng chỉ ít năm sau vào lúc danh tiếng nổi như cồn thì Kim Loan đi Tây Đức và ở luôn bên Đức. Kể từ lúc ấy trong làng tân nhạc vắng bóng Kim Loan, và khi Kim Loan kia đi rồi, nàng Kim Loan ở lại cũng mang tên khác, thành thử ra sân khấu Việt Nam chẳng còn ai là Kim Loan hết.

Tiếng Cú Bis

Tiếng Cú Bis

Tưởng Năng Tiến

Xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một “bên thắng cuộc” nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.
Trịnh Hữu Long

Ngày 25 tháng 6 năm 2013, sinh viên Từ Anh Tú bị “mời đi làm việc” vì sở hữu một cuốn sách (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Qua hôm sau, RFA đã trực tiếp truyền thanh lời cô Từ Thị Minh Thu – em gái của T.A.T – về chi tiết của vụ mời mọc (rầm rộ) này:

Lúc 9:30 sáng công an ở Hưng Yên đến… gồm 15 người, có cả đại tá, thượng tá, và trung tá…”

Công an ở đâu ra mà lắm thế, và rảnh rỗi thế, hả Trời? Đã thế, ở đâu cũng thế, chứ chả riêng gì thành phố Hưng Yên. Trước đó, có bữa, báo Dân Việt đã buồn bã đi tin:

Trung tá Nguyễn Hoàng Tương – Phó Công an phường An Hoà, Rạch Giá, Kiên Giang bị tạm đình chỉ công tác để làm rõ nguyên nhân dẫn đến vụ xô xát với ông Cao Trọng Lợi.”


Mới đây, báo Pháp Luật cũng vừa cho hay:

“Ngày 8/7, Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận bước đầu về vụ Trung tá Hồ Lưu Luyến – nguyên Đội phó Đội Tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh bị tố ép doanh nghiệp (DN) trả tiền nhậu, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để “tiếp thị”.

Trung Tá Hồ Lưu Luyến đang “tác nghiệp” – ảnh Phương Nam

Nếu cấp bậc của những nhân vật kể trên nhỏ hơn, và tương xứng với những chức vụ (khiêm tốn) của họ hơn thì sự việc, xem ra, chắc đỡ … xấu hơn – thí dụ như:

–         Trung sĩ  Nguyễn Hoàng Tương , phó công an phường An Hoà, xô xát với dân …

–         Trung sĩ Hồ Lưu Luyến, đội phó đội tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để tiếp thị …

Chớ đeo lon đại tá, thượng tá, trung tá mà đi … “bắt” một cuốn sách, hay lê la đầu làng cuối xóm đánh nhau với dân, hoặc đứng đường “tiếp thị” (một hai chầu nhậu) thì rõ ràng là không được đẹp, và cũng hơi bị … hẹp.

Sự hẹp hòi này có nguyên do rất giản dị, theo như ghi nhận của ông Trần Ngân –  trên trang viet-studies:

“…từ khi thủ tướng Dũng, một nhà chính trị kỳ tài trong việc xây dựng phe cánh và đấu đá nội bộ lên làm thủ tướng thì ông này đã phong hàm tướng cho hàng loạt cán bộ CA:

–        2007: 29 thiếu tướng; 12 trung tướng (CAND, 28/4/2007)

–        2008: 33 thiếu tướng, 4 trung tướng (http://CAND, 5/6/2008)

–        2009: 10 thiếu tướng, 5 trung tướng (CA TP.HCM, 20/10/2009)

–        2010: 44 thiếu tướng, 8 trung tướng (Langmotrach, 2010)

–        2011: 51 thiếu tướng, 7 trung tướng (VOV, 16/12/2011)

–        2012: 34 thiếu tướng, 14 trung tướng (CA Đà Nẵng, 2012)

Như vậy, chỉ trong 6 năm, thủ tướng Dũng đã ký phong hàm cho tổng cộng là 201 thiếu tướng và 50 trung tướng ngành CA, đây là một con số rất lớn so với thời kỳ trước đó cũng như so với lực lượng cảnh sát của hầu hết các quốc gia trên thế giới…”

Tướng mà nhiều (tới) cỡ đó thì tá ra … đứng đường là phải rồi, chớ còn phàn nàn chi nữa – đúng không?

Thì đâu có ai dám phàn nàn, thắc mắc, hay khiếu nại gì nhưng nghĩ tới hậu vận cũng phải thấy lo chớ bộ. Bây giờ thì Đảng còn mình, nếu không có rượu cũng có bia bốc lai rai nhưng rồi biết ra sao – ngày sau – khi Đảng không còn tồn tại nữa?

Mà cái ngày đó, ngó bộ, cũng không xa xôi gì lắm – theo như tường trình của Thanh Trúc (RFA) nghe được vào hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới … Giám đốc  Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn Sang, cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu Bảo Hiểm Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau đó muốn trả lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội của những năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên nữa tức vào năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để thanh toán.”

Ngân qũi cạn kiệt là kể như “hết phim,” theo như cách nói (gở) của blogger tranhung09. Hết phim là hết chuyện nhưng nhà nước mà hết tiền thì sẽ nẩy sinh ra cả tỉ chuyện lôi thôi. Viễn ảnh không chỉ sẽ ảm đạm mà còn hứa hẹn rất nhiều rối loạn, cùng bạo loạn.

Hình ảnh của những ông đại tá vá xe hay trung tá bán chè, chắc chắn, sẽ lại tái diễn trong tương lai gần.  Nhưng sau một cuộc đời tác nghiệp, và tác yêu tác quái, liệu đám sĩ quan công an sẽ được để cho yên thân kiếm ăn ở đầu đường hay cuối phố  như qúi vị sĩ quan quân đội – ngày trước – hay không?

Ảnh: Phan Hữu Lập

Đây không phải là câu hỏi chỉ dành riêng của những ông trung tá vá xe, hay đại tá công an bán chè (mai hậu) mà cho tất cả của mọi người dân Việt. Không ít người vẫn thường  cầu mong cho cái chế độ hiện hành sụp đổ nhưng hầu như không mấy ai bận tâm về những hệ quả ngay sau đó.

Trong một bài viết trước (Tiếng Cú) chúng tôi đã mạo muội đề cập đến vấn đề này. Nay xin phép được nhắc lại – đôi điều – với hy vọng là mong được dư luận quan tâm:

Lực lượng công an hiện nay, dù đông đảo và có vẻ áp đảo – theo như cách đánh giá của nhà báo Ngô Nhân Dụng – chỉ là một thứ “xi măng cốt tre” thôi. Và cái  giàn “xi măng cốt tre” này được một nhà báo khác, ông Bùi Tín, ghi nhận như sau:

“Dưới danh hiệu Công an Nhân dân, dưới khẩu hiệu Công an là bạn dân, trong con mắt của đông đảo người dân lương thiện, công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.”

Sau hơn nửa thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược,” chuyện gì sẽ xẩy ra cho “bọn kiêu binh tệ hại nhất” này – khi cái “giàn xi măng cốt tre” gẫy đổ?

Câu hỏi được đặt ra (xem chừng) đã muộn nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh những vấn đề cấp thiết khác trước mắt (đạo đức xã hội suy vi, tình trạng sắc tộc căng thẳng, an ninh lãnh thổ bị đe dọa, tài nguyên cùng ngân sách quốc gia bị thao túng và cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…) tưởng chúng ta cũng cần phải quan tâm và chuẩn bị để giảm thiểu (tối đa) cảnh tàn bạo – sau này – khi mà những cô chú công an (bỗng chốc) biến thành đích nhắm cho mọi người trút sự thù hằn, oán hận, và phẫn uất đã chất chứa hơn nửa thế kỷ qua!

Chỉ cần nhìn thái độ hiếu sát của dân làng ở những nơi có kẻ trộm chó bị đánh chết (tại chỗ) hay nghe nghóng sự đồng tình của dư luận trước vụ nổ súng của ông Đặng Ngọc Viết – bây giờ – cũng có thể đoán biết được “độ nóng” của người dân đã lên cao đến mức nào rồi?

Trước những sự kiện vừa kể, bất cứ ai còn quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng đều thấy bất an:

Blogger Cánh Cò: “Không thể nói là lạ, mà phải nói là man rợ. Chỉ có kẻ man rợ chưa hưởng ánh sáng văn minh mới có thể hành động một cách xuẩn động như vậy. Cái lạ là họ không ở trong hang động, họ đang sống, đang sinh hoạt bình thường tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước luôn tự hào có truyền thống này truyền thống nọ nhưng hình như đã lâu không ai nhắc tới truyền thống thương yêu đồng loại. Bằng chứng là tại cái làng ấy, cái thôn ấy người ta thương chó hơn còn ‘đồng loại người’. Họ đồng loạt vung tất cả phương tiện giết người lên. Giết tập thể. Giết hội đồng.

–         Ông Nguyễn Nguyễn Gia Kiểng: “Trong một quốc gia bình thường một hành động như vậy chắc chắn đã phải bị đồng thanh lên án. Chúng ta đang ở trong một tình trạng tâm thần rất không bình thường. Xã hội ta có nguy cơ bùng nổ.”

–         Ông Nguyễn Quang A: ”… tôi thực sự bị sốc khi xem một đoạn video mang tên ‘Lê Quốc Quân’ trên mạng. Tại đó một người phụ nữ hô to ‘Học tập gương anh hùng Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình,’… ‘Nhìn thẳng đầu bọn quan tham mà nổ súng,’ ‘Nhìn thẳng đầu bọn tham nhũng mà bóp cò’.

Với ít nhiều chủ quan, tôi thành thật tin rằng đã đến lúc mà lòng bao dung, đức nhân ái, và tính độ lượng (vốn) tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc Việt cần phải được khơi dậy và đề cao – chứ không phải là những việc làm ngược lại. Trong tinh thần này, cách đây chưa lâu, blogger Mai Xuân Dũng đã gửi đi những lời lẽ cảnh cáo tuy nhẹ nhàng, và ôn tồn nhưng rất đáng trân trọng:

Cũng là một lũ bần cùng khố dây khố rợ cả, nên thương nhau thì hơn. Bức tranh tôi có post lên đấy, các chú xem nhé: bão cát thì ngập đến đầu gối các chú rồi, bão đang to lên lắm, liệu mà nương nhờ nhau cho khỏi cát vùi bão dập thì hơn chứ đừng làm cái chuyện bẩn thỉu như vậy. Nếu các chú là con người, cũng có vợ và con cái như những người khác thì hối đi kẻo không kịp.”

Tranh Goya. Nguồn: blog Mai Xuân Dũng

Trước viễn cảnh “cát vùi bão dập” này, nhà văn Dương Thu Hương cũng đã ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:

Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ… Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.

Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi – như cách nhìn bao dung của nhà văn Uyên Thao: ”Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.”

Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?

Nói thế (e) độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ và phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?

Tưởng Năng Tiến

Khoảng Cách Giữa Giàu Và Nghèo

Khong Cách Gia Giàu Và Nghèo

Rev.John Nguyen

Người mẹ bảo đứa con trai: ăn thêm cái nữa đi con. Đứa bé trả lời: ngán quá, con không ăn đâu. Con ráng ăn thêm một cái, má thương, má cưng. Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi! Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay mẹ làm chiếc bánh kem văng qua cửa xe, nó rơi xuống vệ đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.

Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, chạy đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng. Anh trai bảo: Anh thổi sạch rồi mình ăn. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đường đã dính vào bánh, chẳng chịu đi. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm chiếc bánh rơi tõm xuống cống hôi thúi, chìm mất. Con bé khóc và nói: tại anh hai thổi mạnh – Ừa. Tại anh! Nhưng kem còn dính trên tay anh nè. Cho em liếm ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!.

Đọc câu chuyện này, chúng ta cảm thấy xúc động và chạnh lòng cho những trẻ em nghèo bất hạnh. Đồng thời, nó nói lên khoảng cách giữa kẻ giàu và người nghèo. Kẻ thì dư thừa, phung phí của ăn, bên cạnh đó thì có người đang đói khát. Cũng như câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giê-su đưa ra cho ta thấy sự khác biệt giữa ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Nó nói lên về cái hố sâu ngăn cách kẻ giàu người nghèo trên thế giới này.

Theo quy luật tiền định của tiền bạc, thì người giàu sinh sống riêng biệt: nhà cửa, xe cộ, giải trí, y tế, sinh hoạt… Ông nhà giàu này ăn mặc toàn là gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Bên cạnh đó, anh nhà nghèo La-da-rô nằm trước cổng ông ta, thèm được những thứ trên bàn rơi xuống để ăn cho no bụng cũng không có để ăn. Anh ta thì cũng giống như những con chó đang chờ những khúc xương rơi xuống từ bàn của ông chủ.

Nhưng rồi, cả hai đều chết. Mọi thứ đều đảo ngược trật tự. Anh La-da-rô đã được đứng trong hàng ngũ của các thiên thần, bên cạnh Áp-ra-ham và những người có đức tin. Ngược lại, ông nhà giàu kia lại xuống hỏa ngục, bị lửa thiêu đốt và bị cực hình. Bấy giờ, ông ta kêu lên: ” Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”.

Có người muốn biết ông giàu ấy đã phạm tội gì để bị sa vào hỏa ngục. Phải chăng ông ta đã từ chối không cho anh La-da-rô những mẩu bánh thừa của ông! Tin Mừng không nói thế. Tội của ông ta là thái độ dửng dưng vô cảm trước những con người bất hạnh. Ông không nhìn thấy La-da-rô nằm trước cửa nhà ông.

Ngày nay cũng có hàng ngàn anh La-da-rô cũng đang nằm chờ miếng ăn, chờ sự bố thí và giúp đỡ của chúng ta. Với quy mô toàn cầu hóa hiện nay, các nước tiên tiến và thành phần tiểu số giàu có đã chiếm hết chỗ trên bàn ăn cho người nghèo ở các nước nghèo. Các công nghiệp quốc gia và các nguồn lao động đã bị hủy diệt do hệ thống mậu dịch tự do đã xô đẩy hàng triệu La-da-rô ra bên lề xã hội dẫn đến chết vì nghèo đói, vì chiến tranh và bạo lực gây ra. Người nghèo sống chung với những bãi rác bẩn thiểu, hôi thối để mưu sinh vì miếng ăn hàng ngày. Trẻ em không được học hành, bị lạm dụng và bóc lột sức lao động. Cụ thể, hình ảnh ông nhà giàu Tin Mừng cho thấy, ông ta không chỉ hưởng thụ, ăn chơi xa hoa phung phí mà còn thể hiện đẳng cấp sự giàu có của mình. Ông ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình. Sự ích kỷ của ông ta đã làm cho trái tim trở nên vô cảm, và cánh cửa tâm hồn của ông ta đã khép lại.

Thật vậy, với cuộc sống bon chen giữa đời thường, tôi chỉ biết tìm kiếm cho riêng mình mà quên đi những người xung quanh họ đang đói khổ. Tôi chỉ biết xin Chúa thật nhiều mà không biết cho đi những người đang cần sự giúp đỡ. Tôi chỉ muốn người khác yêu thương mình mà chẳng bao giờ nghĩ đến những khác người, những người già nua, cô đơn bệnh tật không có ai để nương tựa. Tôi chỉ muốn bước vào cửa thiên đàng nhưng cửa tâm hồn thì luôn khép lại, chẳng biết chạnh lòng thương.

Ước gì, Lời Chúa hôm nay đánh thức trái tim chai lỳ khô cứng của con, để con biết rung cảm, biết mở rộng bàn tay và con tim với tha nhân và xóa đi khoảng cách phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo vì tất cả mọi người đều là hình ảnh và con cái của Chúa. Amen.

Rev.John Nguyen

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 18: 1-8

Cũng có thể, nhà thơ từng bảo thế. Cũng rất đúng, lời dụ ngôn kể vị chánh-án nói như vậy.

Dụ ngôn hôm nay, thánh-sử Luca ghi lại lời của chánh án từng phán-quyết cũng rất thật. Sự thật ở dụ ngôn vẫn rất thực, ở mọi thời. Thời buổi ấy, lại thấy vị chánh án từng chán ngán cảnh tội nhân cứ đeo bám quấy rầy như dịch tễ, để đòi cho được một phán quyết rất công minh. Ngôn ngữ đời thường đều diễn-tả chuyện đeo bám như dịch-tễ là những quấy rầy/phiền hà, thường khó tránh.

Tiếng Do thái, mô-tả cảnh-tình này lại mang ý-nghĩa của một phiền-hà khiến người trong cuộc thành vô dụng. Phiền hà, là chuyện mà người trong cuộc cứ quấy rầy đòi mãi một chuyện mà chẳng ai muốn dính líu, giải quyết. Sách Isaya ở đoạn 7 câu 13 cũng có lời tương-tự: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên-hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa?”

Vấn đề ở đây, là hỏi rằng: đối nghịch động-thái quấy rầy/phiền hà và đeo bám là có ý gì?

Cũng có thể, đối chọi chuyện phiền hà đeo bám, là: chuyện trò thân mật với ai đó, cho đời vui. Và, điều đối chọi giữa “lải nhải” với “quấy rầy” là “chuyện trò thân mật”, rất thật tâm. Đúng thế, hình-thức đổi-trao giữa hai người bằng lời nói, vẫn là chuyện vui/buồn thường ngày ở khắp chốn. Bởi, một khi đã nói năng, nếu không là chuyện trò thân mật, thì chắc phải là động-thái lải nhải, quấy rầy như dịch tễ thôi.

Về chuyện trò thân mật, thánh Bênêđíchtô từng qui-định với anh em Dòng mình, là: bất cứ anh em nào một khi đã tuyên hứa trước mặt Chúa và Bề trên rằng: mình quyết sống ổn định, chuyện trò/trao đổi suốt đời với anh em và tuyệt đối tuân phục đấng lãnh đạo nhà Dòng, cả ba điều này trở thành lời khấn hứa mang cùng ý nghĩa. Là thày dòng sống khắc khổ, là chấp-nhận sống trọn vẹn cuộc sống cộng-đoàn có đổi-trao. Nói như thế, thì: đây không là lời tuyên-khấn giữ thinh lặng suốt đời; và, cũng không là chọn lựa tồi đối với những ai sống đời tu trì bởi cộng-đoàn nhà Dòng đã đồng ý như thế.

Luật dòng Biển Đức viết bằng tiếng La-tinh lại đã thấy có cụm từ “hồi hướng trở về” thay cho chủ trương “chuyện trò trao đổi”, như vừa nói. Thông thường thì, tiếng La-tinh “cổ” rày diễn-tả việc “hồi hướng trở về” như sinh-hoạt quay vòng tròn có đổi thay, theo nghĩa luân-lý hoặc tu-đức. Thế nhưng, bản gốc luật này do chính thánh Bênêđíchtô lập ra, đã nhấn mạnh đến việc cần thiết phải chuyện trò/trao đổi chứ không phải chỉ mỗi “hồi hướng trở về”, với Đạo Chúa.

Với tiếng La-tinh “cổ”, thì: chuyện trò/trao đổi có nghĩa: năng lui tới nơi nào đó, cứ quẩn quanh đến trò chuyện với những người hay đến nơi đó. Tự-vựng này, đi vào tiếng La-tinh của Kitô-hữu trước thời thánh Bênêđíchtô còn sống. Từ-vựng đây, diễn tả lối sống thông thường có quan-hệ mật-thiết với mọi người, và còn hiệp-thông giao dịch với mọi người khác nữa.

Điều này, còn có nghĩa: chung sống với người khác hoặc có liên-hệ mật-thiết với mọi người theo cung-cách không giống với kiểu của mình. Đây, còn là lối sống ít giống với cách sống của mình nhưng giống kiểu của người khác, nhiều hơn. Đây còn là: sự hiện-diện ở nơi nào đó để hoà trộn với người khác theo cung-cách nói năng/chuyện trò rập theo kiểu người khác, chứ không theo ý mình. Nói cho cùng, đây là yếu-tố chính của đồng hành, có tương-tác.

Theo nghĩa này, tốt hơn ta nên chuyện trò/đồng hành với nhau hơn là chỉ “hồi hướng trở về’ với thánh-hội, mà thôi. Bởi, cộng-đoàn Hội thánh ở đâu cũng thế, vẫn luôn đòi hỏi ta chuyện trò/đồng hành hơn chỉ quay trở về, mà thôi. Người tu trì, đồng hành chuyện trò với nhau, vẫn có thể không là nhóm “hồi hướng” quay về chốn cũ mà sinh sống. Họ là người biết chuyện vãn, giao du rất tế-nhị. Xem như thế, thì đồng hành trong chuyện trò mới là chuyện cần thiết cho đời tu.

Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, cũng có cụm-từ chỉ việc “hồi hướng trở về” như tự-vựng “shub” có nghĩa đen, để chỉ sự việc quay đầu trở lại, thôi. Thông thường, từ này là chỉ về cuộc sống quay vòng tròn nhưng lại có nghĩa gốc-gác nói về chuyến trở về sau bao ngày lưu vong/lưu đày chốn đất khách quê người. Việc này, còn có nghĩa: trở về với đất miền được Chúa phú ban cho riêng mình và mình quyết sẽ ở nơi đó mãi, chứ tuyệt nhiên không phải nơi nào khác. Nói theo tính cách linh thiêng có tương-quan, ta đã đi vào chốn “lưu vong/lưu đày” rồi, vẫn cần khám phá chốn miền thực thụ để mình sẽ về lại đó mà sinh sống.

Tân Ước cũng có cụm từ “hồi hướng trở về” tương tự như tự-vựng “epistrophe” ta có thói quen dịch là “hồi hướng”, cũng rất đúng. Thế nhưng, mỗi khi mô tả Chúa, sách Tân Ước của ta thích sử-dụng cụm từ “metanoia”. Lại nữa, ngôn-ngữ của ta cũng lại dịch cụm-từ này thành một “hồi hướng trở về”, giống như thế. Tuy nhiên, “metanoia” thực ra không có nghĩa “trở về” hay “trở lại” theo cung cách mà lâu nay ta vẫn tưởng.

Metanoia là điều được Chúa đòi-hỏi những ai dấn bước theo chân Ngài, phải làm thế. Cụm từ này, thường dịch thành động-thái “đổi mới tâm can”, nhưng không chỉ mỗi thế, mà còn hơn thế nữa. Tiếp-vĩ-ngữ “noia” ở chữ “meta-noia” xuất tự tiếng “nous” của Hy Lạp, mang ý-nghĩa: một hiểu biết thực-chất của những gì xảy đến và diễn biến theo chiều-hướng sâu-sắc. Suy cho kỹ, nếu ta đặt tiếp-đầu-ngữ “meta” ở trước chữ “nous” bên tiếng Hy Lạp, ta sẽ tạo ý-nghĩa: tư-thế của một người không biết được những gì đang diễn-tiến và cũng không tìm ra được ý-nghĩa của nó cho đến khi có ai đó đến giúp cho mình và mời mình học hỏi, lắng nghe cũng như đi vào một chuyện trò, còn tiếp-diễn.

Muốn hiểu “Metanoia” cho đúng, thì không thể gọi đó là cuộc “hồi hướng trở về”, được. Trao đổi với ai, như thế, phải hiểu như động-thái biết lắng-nghe, chuyện trò và cứ thế để hiệp-thông tiến-triển, rồi ra mơi thông-hiểu nhau hai chiều. Trong trao-đổi, luôn có đối-thoại tương-tác hầu tạo dựng bầu khí mới, tức: một giòng chảy xuyên suốt đượm nhiều nghĩa. Tức: bất cứ ai chủ-trương cho đi chính mình mình, trong trao-đổi/đối-thoại là mình tự cho chính mình cho người khác, dù không biết gì về “người khác” ấy, để rồi tìm cách hiểu biết người khác, có khác mình nhiều không, đó mới là đối thoại, đổi-trao.

Đối-thoại đổi trao, là cung-cách nhận thức không biết trước sự việc sẽ diễn-tiến ra sao. Tuy nhiên, lại giáp mặt tạo tình thưong-yêu thoải-mái và an toàn cho ta. Nó đòi cho được một thoải mái thích thú liên tục, không ràng buộc. Bởi, có thoải mái trong đối thoại/đổi trao, con người mới không tìm về những quấy rầy/phiền hà bất cứ ai.

Truyện dụ-ngôn hôm nay, tác giả Tin Mừng nói đến động-thái quấy rầy/phiền hà của bà goá nọ đối với vị thẩm-phán chẳng biết kính sợ Chúa cũng chẳng thiết tha gì chuyện lắng nghe người phàm. Chính đó là xu-hướng quấy rầy/phiền hà không thích-hợp cho một đối-thoại/đổi trao rất thực. Quấy rầy/phiền hà không có chân đứng trong đối thoại/đổi trao. Bởi, nó luôn là rào cản là nói một chiều, chẳng cần nghe ai nói. Là, đòi hỏi mãi không dứt từ một người không biết đến đổi trao, đối thoại. Trong sống đời thực tế, động-thái đối thoại lành mạnh, linh đạo vẫn cần thiết hơn một hồi hướng trở về, mà vẫn thế.

Điều này cũng có thể áp-dụng cho tương-quan ta có với Chúa. Đối đầu quan hệ với Chúa không thể có chuyện quấy rầy phiền hà được, bởi Chúa đã cho tất cả mọi sự từ trước, thế nên ta không cần đòi thêm gì nữa hết. Cũng không cần có cố gắng để “hồi hướng trở về” mà chẳng đổi thay động thái rất đòi và hỏi đủ thứ. Tương quan đối-thoại với Chúa, cũng phải biết là Chúa đã tặng ban cho ta hết mọi thứ ta cần đến.

Giờ đây, ta không cần làm hết sức mình, bằng một “hồi hướng trở về” để khám phá ra Chúa, bởi chính Ngài đã khám phá ra ta từ hồi nào, rồi. Nay, chỉ cần ta đi vào với đối thoại/đổi trao thật mật-thiết với Đấng từng thương yêu ta trước. Chỉ cần ta biết nói lời “cảm tạ” Chúa, tự khắc Ngài sẽ đón chào ta trong vui mừng, thôi.

Bởi, Chúa từng nói với ta là: Ngài rất chán ngán với những người suốt ngày cứ nguyện cầu bằng đường lối quấy rầy/phiền, những là: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để “hồi hướng trở về” mà lại không có được cuộc chuyện trò thân mật, thoải mái như bạn Đồng Hành, trong yêu thương. Chúa vẫn từng dạy ta hãy có lời khấn-nguyền đi vào chuyện trò mật thiết với Ngài và Ngài đã hứa chẳng khi nào làm phiền ta hết.

Giả như Chúa cũng đầu hàng chúng ta và/hoặc bà goá nọ –như hành xử của vị thẩm phán trong truyện dụ ngôn vừa kể- ta có nghĩ rằng Chúa sẽ làm ít đi chỉ để cho con người “hồi hướng trở về” với Ngài mà thôi, không? Hay, Ngài những muốn ta luôn có cuộc chuyện trò thoải-mái, mật thiết với Ngài? Câu trả lời dành cho mỗi người trong ta, là như thế.

Trong cảm-nhận tính bức thiết của một chuyện trò thoải mái với Chúa, với mọi người, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Nhắc làm chi? Ôi! Nhắc làm chi nữa?

Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.

Mây lìa ngàn, e lệ cánh chim thu.

Con bướm ép thoát hồn mơ giấc ngủ.”

Nhà thơ nay không nhắc làm chi nữa, vì nàng thơ nay đã đi rồi, “mưa gió suốt trang thơ.” Nhưng nhà Đạo, lại cứ nhắc lại những chuyện tương tự truyện dụ ngôn hôm nay ở trình thuật, để còn nhớ. Nhớ, mà chuyện trò thân mật với Chúa, hơn là chỉ đòi và hỏi nơi Chúa đủ mọi điều, chẳng thiết thực.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa thuờng niên năm C 03-11-2013

Hãy cứ vui chơi cuộc đời”
Ðừng cuồng điên mơ trăm năm sau
còn đây em ngọt ngào
Ðứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao
(Trịnh Công Sơn – Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)

(Mt 5: 12/Rm 12: 15-18)

Nếu bạn và tôi ta lại tưởng rằng: người viết nhạc bản ở đây từng lấy ý/từ thi-ca của nữ sĩ họ Hồ nổi tiếng nọ, e không ổn. Nhưng, nếu lại bảo ý/lời đó cũng tương tự như lời khuyên của sách Diễm Ca ở Cựu Ước, thì xin bạn và xin tôi, ta tiếp tục bàn và luận mang đôi chút “phiếm lọan”, rồi dẫn người đọc vào với Lời vàng của thánh nhân hiền lành, thật cũng nên.

Nên hay không, vẫn cứ xin tôi và xin bạn, ta cứ mạnh dạn mà bàn/mà luận, kệ những lời ca nghe rất quen chỉ để khích lệ những người thấy cuộc đời mình khá buồn chán, chẳng thiết gì kể cả chuyện sống Đạo, hoặc chăm nom cuộc sống cho hạnh đạo, nhiều thú vị.

Với những vị thấy đời mình không còn hứng thú, chí ít là khi cận kề tuổi 7, 8 bó như bầy tôi đây thì có hát trăm ngàn câu như sau, cũng chẳng lay động được nỗi lòng “con quốc quốc” hoặc “cái gia gia”, làm gì cho cam:

“Hãy cứ vui chơi cuộc đời.
Dù ngày mai em như chim bay
Bỏ quên đây một người
Hát bên trời gian dối
dù ta như con đường dài vắng người
Hãy cứ vui chơi cuộc đời
Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng lá trời còn xanh
Phố còn người đông rồi quên rồi quên.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như người viết nhạc, nay còn sống, hẳn nhiều bạn bè quẩn quanh với cuộc sống như tôi hoặc ai đó, có lẽ cũng sẽ hỏi rằng: có nên hát theo anh, theo em những lời cuối, rất khích lệ một lập trường, như sau:

“Hãy cứ vui như mọi ngày
Dù chiều nay không ai qua đây
hỏi thăm tôi một lời
vẫn yên chờ đêm tới
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Dẫn nhập một lời có hơi “bốc” thế rồi, nay bần đạo lại sẽ xin bạn và xin tôi, ta đi vào vấn đề của nhà Đạo, mà cùng với một số các đấng bậc trong Đạo, cứ hỏi rằng: Đạo mình nay có Đấng Chủ Quản ở trên cao tít ấy cũng rất mới mẻ và năng nổ đã tạo được sức sống vui tươi, hấp dẫn cho thánh Hội không? Đã phóng khoáng hơn hay vẫn bảo thủ? Thì, đây là một trong những câu trả lời rất “tương đối”, như sau:

“Chắc chắn với thời gian chúng ta sẽ còn thấy những ưu tiên mới mà Giáo Hội sẽ đưa lên hàng đầu, nhưng về câu hỏi liệu Giáo Hội có thể ‘phóng khoáng’ hay ‘bảo thủ’ hơn thì câu trả lời chắc chắn là Không!

‘Phóng Khoáng’ (Liberal) và ‘Bảo Thủ’ (Conservative) là những ý niệm chính trị mà từ lâu đã không bao giờ phù hợp với quan điểm cuả Giáo Hội.

Tại Mỹ và Châu Âu thì khuynh hướng phóng khoáng có nghiã là ‘phá thai tự do’, ‘hôn nhân đồng tính’, là những hành động mà Giáo Hội chống. Tuy nhiên những chủ trương như ‘giúp đỡ lao động’ để tạo ra ‘công bằng xã hội’, giúp người di cư, ‘cải thiện y tế’ là những việc mà Giáo Hội cổ võ.

Trái lại khuynh hướng bảo thủ cũng có những điều thuận và nghịch với Giáo Hội. ‘Bảo vệ gia đình’, ‘phò sự sống’, ‘bảo vệ luân lý’ là những điều phù hợp với đạo lý cuả Giáo Hội, trái lại những chủ trương như ‘phò thương mại’, ‘chống nghiệp đoàn’, ‘chống di cư’, ‘khai thác thiên nhiên tự do’ là những điều ngược với Giáo Hội.

Vì thế mà chúng ta thấy Giáo Hội hầu như lúc nào cũng có một sự gì để than phiền về một chính quyền, dù là bảo thủ hay phóng khoáng. Thí dụ khi còn là Hồng Y, Đức Thánh Cha đã ‘đụng chạm’ khá nhiều với chính quyền bảo thủ Cristina Fernandez de Kirchner hiện tại cuả Argentina. Bên Brazil, Giáo Hội đang lên tiếng phản đối chính quyền phóng khoáng Dilma Rousseff vì những chính sách phá thai. Còn ở Mỹ thì Giáo Hội đang kiện ra toà chính quyền cuả Obama vì tội ‘hạn chế tự do tôn giáo’.

Cho nên, tuy Giáo Hội dạy phải tuân phục quyền bính dân sự, nhưng với tư cách là ‘thầy dạy luân lý’, Giáo Hội sẽ lên tiếng chống lại mọi sự ác khi nó xảy ra.

Vì không hiểu như vậy cho nên gần đây cả hai phe bảo thủ và phóng khoáng đã đồng thanh lên tiếng ca ngợi những lời tuyên bố cuả Đức Thánh Cha và tự cho là mình đã chiến thắng.” (x. Trần Mạnh Trác, Nguyên nhân những tranh cãi chung quanh các bài phỏng vấn của Đức Giáo Hoàng, www.Vietcatholic.org/News/Html/116521.htm  10/10/2013)

Hỏi chuyện về nhà Đạo, hôm nay, thì cũng chỉ dám hỏi như thế, chứ người hỏi có lẽ cũng đã biết trước câu trả lời sẽ như thế nào, rồi. Hỏi về chuyện Đạo hoặc chuyện đi Đạo và sống đích-thực đời đi Đạo, còn là hỏi giống như cha/cố nhà xứ hỏi “con chiên” như sau:

“Úi chà! Còn gì quý bằng thấy ông đây quay trở về với giáo xứ đi lễ nhà thờ rất đều đặn. Cho cha hỏi một câu hỏi nhỏ, để rút kinh nghiệm mục vụ, có được không?

-Cha cứ tự nhiên như con cái Chúa. Con đây, nay sẵn sà trả lời Cha thôi!

-Thế ông đi nhà thờ trở lại như thế này, có phải là do Cha giảng hay hơn trước rất nhiều, phải thế không?

-Dạ thú thật với cha, là: mỗi lần nghe cha giảng, con cứ phải ra bên ngoài nhà thờ phì phà điếu thuốc cho đỡ thèm, chứ có biết cha giảng hay dở thế nào đâu! Sở dĩ con đi nhà thờ trở lại là do mụ vợ nhà con nó cứ càm ràm hoài, chịu không nổi!” (x. The Catholic Weekly, Parish Pump, 25/8/2013 tr. )

Hỏi về chuyện Đạo, còn là hỏi cha/hỏi cố xem đời đi Đạo: sao dạo này ra như hơi nản, cũng chán ngán, như người giáo dân ở huyện nhà Sydney cũng đã có câu hỏi vào tháng ngày mà Giáo hội quen gọi là “Tháng Mân Côi” về việc lần chuỗi hạt Mân Côi, đâu có gì vui, như sau:

“Thưa cha. Mới đây bọn con cố tạo lại thói quen tốt lành do cha mẹ để lại, là: tập cho con cháu quen đọc kinh tối có lần chuỗi Mân Côi, ngõ hầu hưởng ơn lành Chúa Mẹ ban từ việc này, thì hai đưa con của con, một lên 13 còn đứa kia mới 11, lại cứ bảo: “Đọc kinh lần chuỗi hoài ngán quá mẹ ạ!” Con cố tìm đủ mọi cách mà chẳng sao thuyết phục được bọn con nhỏ ngồi im mà đọc kinh, cho tốt. Thế nên, con viết thư này hỏi xem Cha có cách nào giúp con giải thích cho con của con chhúng hiểu về chuỗi Mân Côi, tốt lành là dường nào? Con kính biết ơn Cha rất nhiều.” (Câu hỏi từ một giáo dân nữ ở Sydney bối rối quá quên đề tên)

Ở đây nữa, khi đã hỏi cha/hỏi cố về chuyện Đạo rồi, thì cha/cố nào mà chẳng tìm cách trả lời/trả vốn để người hỏi được yên tâm. Và hôm nay, câu trả lời (mà không trả vốn) của vị cha/cố ở Sydney, vẫn như sau:

“Kinh nghiệm ở đời cho ta biết: trẻ con, đứa nào cũng nói như nhau khi chúng không muốn làm điều gì do người người lớn áp đặt, chỉ bảo. Thế nên, câu cửa miệng chúng vẫn bảo, là: “chán lắm cơ, mẹ ạ!” Biết bao lần dân con Đạo mình vẫn thường nghe câu cửa miệng của nhiều giáo hữu ở mọi nơi/mọi thời, rằng: Thánh lễ Misa, Đàng Thánh Giá và cả đến chuyện đi thăm ông/bà nội/ngoại hoặc bà con thân thuộc cao tuổi, đều là những việc cũng rất chán!

Rất nhiều chuyện, ta đều nói được như thế. Nhưng trước tiên, không nên và không thể coi Chuỗi Mân Côi, thánh lễ Misa hoặc thăm viếng người già.. là hình thái mang nặng tính cách giải trí, giải khuây được. Bởi các sinh hoạt hoặc sự việc này, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa như thế cả. Giả như, ta có đi đến nơi này/chốn nọ để giải khuây đi nữa, thì cũng không thể nói ngay ra rằng: mình thấy nơi ấy, chốn nọ rất ngán ngẫm. Thế nhưng, nếu ta làm việc gì cốt giúp vui người nào hoặc làm việc gì rất có nghĩa hoặc ý tốt, thì cũng chẳng có gì khác biệt nếu đó là chuyện rất chán, nhưng ta lại vẫn làm.

Thế nên, đi thăm người thân thuộc nào mà cho dù mình thấy chán ngán, tức: chỉ muốn chứng tỏ cho họ thấy tình mình thương yêu; và khi ta chọn chủ đề nào đó ở trường học mà không thấy có gì thích thú, nhưng rất cần thiết cho toàn bộ công cuộc giáo dục khiến để ta nên người. Hoặc, công việc rửa chén/bát sau khi ăn và/hoặc ra sân sau làm vườn để vui lòng mẹ/cha là những đấng/những vị từng làm cho mình quá nhiều thứ dù mình không vui thú gì cho cam, nhưng vẫn làm. Cũng thế, trong tương quan mật-thiết với Chúa, ta vẫn làm những việc như đi nhà thờ dự lễ và lần chuỗi Mân Côi đọc kinh dài giờ, không phải để làm cho mình được vui, mà để chứng tỏ rằng: ta cảm kích những điều lành thánh Chúa ban cho ngõ hầu lớn lên trong tình thương yêu của Ngài.

Với chuỗi Mân Côi, chính Đức Mẹ đã yêu cầu/cổ võ ta thường xuyên lẫn chuỗi hạt. Vào lần hiện ra ở Lộ Đức năm 1858, chính Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette trong tay Mẹ có tràng chuỗi và Mẹ đã cùng đọc kinh với thánh-nữ Bernadette ngay khi đó. Ở Fatima năm 1918, vào lần hiện ra đầu tiên ngày 13/5, tay Mẹ cũng cầm tràng hạt và bảo ba vị thánh trẻ hãy năng lần hạt Mân Côi, mỗi ngày. Lần sau, vào tháng 7 năm ấy, Mẹ cũng yêu cầu ba thánh trẻ hãy siêng năng lần chuỗi hạt Mân Côi để cầu nguyện cho hoà bình thế-giới và cho chiến tranh mau chấm dứt. Lần cuối cùng vào ngày 13 tháng Mười năm đó, Mẹ đã làm phép lạ cả thể về mặt trời quay, và cũng chính Mẹ cho biết Mẹ là “Mẹ Mân Côi” và Mẹ còn cho các thánh trẻ thấy ba tấm bảng/thị kiến diễn bày 3 mầu nhiệm “năm sự vui”, “năm sự thương” và “năm sự mừng” ở tràng hạt Mân Côi. Giả như ta chỉ thực thi điều Mẹ dạy để làm vui lòng Người Mẹ trên trời, là Đấng yêu thương ta hết mình và dạy ta làm thế, hẳn là ta vẫn làm thế dù cho việc ấy có chán ngán hay không.

Thế nhưng, lần chuỗi Mân Côi không chỉ làm Mẹ vui lòng mà thôi, nhưng ta còn hưởng được nhiều điều tốt lành do việc ấy đem đến. Trong lúc lẫn chuỗi, nếu ta suy gẫm các mầu nhiệm gợi ý trong đó, ta sẽ hiểu biết Đức Mẹ và Chúa của ta nhiều hơn. Nói cho cùng, thì các mầu nhiệm trong chuỗi Mân Côi để xét đến các sự kiện chính xảy ra trong đời của Chúa, từ lúc Mẹ cưu mang Chúa nơi cung lòng thánh thiện của Mẹ, rồi ngang qua thuở thiếu thời và cuộc đời công khai của Chúa ngang qua việc chịu khổ nhục, hành hạ cho đến chết và rồi Ngài lại đã phục sinh rất quang vinh vui hưởng vinh quang của Ngài cùng với Mẹ Ngài, và là Mẹ của ta.

Chính vì lý do như thế, mà toà thánh La Mã đã có Chỉ dẫn cho các Đức Giám Mục thực thi công cuộc mục vụ qua tông thư “Ecclesiae imago”, trong đó có nói: các Đức Giáo Hoàng đều khuyến khích con dân trong đạo hãy đọc kinh lần Chuỗi Mân Côi không ngừng nghỉ, là vì đó là bản tóm lược trọn vẹn Kinh thánh và đó còn là khuôn mẫu của việc sùng kính vẫn được Hội thánh khuyến khích mà các thánh của ta vẫn thực hiện.

Và, khi đã suy gẫm các mầu nhiệm mà chuỗi Mân Côi chuyển tại, ta sẽ không còn thấy đó là chuyện đáng chán. Trái lại, ta còn thấy việc này khá ngắn ngủi vì chỉ mất độ dăm ba phút để nghiệm suy một mầu nhiệm súc tích là thế. Nhằm biến cho việc suy gẫm này dễ thực hiện hơn, cũng nên tập trung suy-tư về khía cạnh nào đó của mầu nhiệm, coi đó như một nhân đức, bí tích, như chân lý hoặc lòng sùng kính từ đó ta có được.

Khi cùng đọc với con cái trong nhà, cũng nên yêu cầu các cháu xướng kinh và bắt đầu mầu nhiệm trước rồi đề nghị cả nhà sẽ quyết tâm thực thi mầu nhiệm nào đó thành hiện thực. Chẳng hạn như các cháu đề nghị: cả nhà đọc chục kinh này là để cầu nguyện cho hoà bình diễn ra ở Syria chẳng hạn, hoặc cho các trẻ em bị thất lạc vì chiến tranh, các trẻ mồ côi, đau yếu hoặc cho bà con thân thuộc vừa mới qua đời chẳng hạn có như thế các cháu mới thấy có chất xúc tác trong nguyện cầu, đọc kinh vì hiểu nhiều hơn, rõ hơn.

Cuối cùng, ai cũng thế, khi đã yêu thương người nào rồi, sẽ chẳng bao giờ thấy chán/ngán nói đi nói lại mãi chỉ một câu Anh yêu em/ Em yêu anh nhiều lắm. Nói nhiều như thế, cũng đâu bao giờ thấy chán, đâu nhỉ. Cũng thế, khi ta đã suy gẫm về cuộc đời rất đỗi yêu thương của Chúa và Đức Mẹ rồi, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ thấy chán ngán hoặc buồn rầu hết. Cuối cùng, vấn đề chỉ là quyết tâm của mỗi người, mà thôi.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 13/10/2013, tr. 10)

Trích dẫn ở đây, người người những dẫn và trích cốt để nói lên rằng: Đấng quyền thế ở trên cao từng mang lại nhiều hứng khởi nơi cuộc sống cho cả triệu triệu người trên thế giới như Đức Giáo Hoàng của ta là thế, mà khi đã chấp nhận tham gia cuộc phỏng vấn của báo chí, cũng bị mang tiếng là người tạo “tranh cãi” về cuộc sống của thánh hội, ở trần thế. Nói như thế, có ý bảo rằng: có đặt vấn đề, vấn nạn hay sao đó, vẫn cứ mời bạn và mời tôi, ta cứ hát mãi câu ca rất “đời”, rằng:

Hãy cứ vui như mọi ngày
Nhìn người đi như mây vô danh
Dù chân xưa dặm nghìn
Vẫn như còn thấp thoáng
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hát rồi hoặc nghe rồi, hãy nhớ lời Đấng Thánh Hiền từng khuyên dân con mọi người ở mọi nơi, rằng:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em

ở trên trời thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Và thêm một câu khác, cũng từ “vị thánh của mọi thời” rất muốn vui, rằng:

“Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.

Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,

đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.

Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,

để sống hoà thuận với mọi người.”

(Rm 12: 15-18)

Xem thế thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta chỉ có thể sống mà hát thêm, rằng: Hãy cứ vui như mọi ngày, nhìn người đi như mây vô danh.” Vô danh, hoặc có tên và có tuổi, vẫn là người anh, người chị của tôi/của bạn trong thánh Hội và xã hội, vẫn rất vui.

Xem thế thì, chân lý cuộc đời rõ ràng còn đó lời nhủ: “Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Lớn lao, to tát hơn nhiều niềm vui của người đời chỉ lo ăn chơi. Niềm vui đây, còn được diễn tả bằng văn/thơ truyện kể không theo kiểu của nữ sĩ họ Hồ rất mang tiếng, mà là lối kể cũng rất vui rất tâm tình khi kể về “cái chết” mà người người rất chán/ngán:

“Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết?

Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.

Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.

Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.

Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.

Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.

Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:


Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi… Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?…”

Và, ông Tư dặn vợ con khi ông chết chỉ nên đưa bài thơ “Khi tôi chết” thay cho cáo phó. Thơ rằng:

Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.

Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.

Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.

Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.

Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.

Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hản, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.

Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :

-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.

Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Đọc thơ văn/cáo phó của “Ông Tư” ở trên, hẳn người đọc cũng thấm thía cuộc đời chỉ là thế, có mỗi thế. Mỗi thế thôi, nhưng hãy cứ vui lên nếu ta nhận ra rằng: mọi chuyện ở đời, cần nhất là vui!”. Bởi có vui, ta mới có thể sống và thực hiện mọi nguyện ước, kể cả ước nguyện làm dân con Đức Chúa Trời. ở mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn vui chơi cuộc đời

nay hết thời.

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

 

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Khi nói tới từ ‘Nợ’, có lẽ, ta vẫn nghĩ tới những món nợ: nợ ngân hàng bao nhiêu tiền, nợ gia đình này gia đình kia bao nhiêu ký thóc-ký gạo, nợ mấy ngày công mấy tháng lương, nợ người này người kia mấy cây vàng… Và có nợ thì phải lo để trả; trả không xong thì đâm lo lắng, buồn phiền, có khi mất ăn mất ngủ, thậm chí còn chạy để “trốn nợ”.  Như vậy, nợ ở đây như là một “gánh nặng” đè trên vai con người.

Đã gánh thì nặng là điều chắc chắn rồi!  Và khi trả được nợ ta như trút được một gánh nặng trên vai! Nhưng cái nợ cứ muốn kết bạn với ta; khổ nỗi ta thì chẳng muốn chút nào!  “Chả nhẽ” suốt cuộc đời này ta phải mang trên vai một “người bạn” mà ta chẳng hề quý, chẳng hề thích sao?  Giả như ta có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì ta có thực sự vui, thực sự hết gánh nặng không?  Và lúc ấy ta là ai?  Ta không phải là một người trốn nợ sao?  Nếu vậy từ “trách nhiệm” trong cuộc đời còn ý nghĩa gì?

Nếu nợ là một gánh nặng, ngày sống của ta sẽ rất nặng nề, với hàng khối công việc, với những mệt mỏi về thể xác, với những người tôi chẳng hề muốn gặp nhưng vẫn cứ phải đối diện hàng ngày, với những “món quà” dù không muốn cũng phải nhận…

Thế nhưng, dù nợ có là gánh nặng nó cũng giúp ta biết sống trách nhiệm với cuộc đời: trách nhiệm với những điều ta đã làm, tức vay thì phải trả!  Ấy vậy, nếu chỉ dừng lại ở mức độ trách nhiệm với cuộc đời tức phải lo mà trả nợ thôi thì cuộc đời vẫn luôn là một gánh buồn phiền đung đưa trĩu nặng trên vai.

Cuộc đời sẽ bớt nặng, tươi vui và rực nắng hơn khi ta sống tâm tình ‘Nợ là một quà tặng’: Nợ một ánh mắt, một nụ cười; nợ một cái bắt tay, một lòng cảm thông,… nợ bạn bè, cha mẹ, người thân trong những lúc nâng đỡ sẻ chia vui buồn… nợ cái hơi ấm tuổi còn trong nôi…  Có khi là nợ một lời nói nhẹ nhàng, dễ thương và ngọt ngào của một ai đó…  Quả thực, cuộc sống luôn cho ta những món nợ như là những quà tặng.  Nếu ngày nào ta cũng sống với tâm tình “nợ” như là một món quà, là một sự trao tặng ta nhận được từ người yêu thương, chắc hẳn cuộc đời của ta thật đẹp, thật đáng quý và thật nhẹ nhàng!

Ấy vậy mà đi qua một con đường hoa đẹp, chiêm ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn, ngửi mùi hương nhè nhẹ của những cánh hoa vừa mới nở buổi sớm, tản mạn với nhau những câu chuyện đầu năm… có khi nào ta nghĩ mình đang nợ một ai đó ngoài tiền bạc không nhỉ?  Hay có khi nào ta nghĩ mình “nợ cuộc đời từng tia nắng mai” như nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy đã đặt tâm tình “nợ” của ông trên giai điệu bài hát “Vẫn nợ cuộc đời” không?

Vì cuộc đời “có những khi ước mơ chưa đầy mà đã vội vơi đi rồi”, nên nợ không chỉ cho ta thấy trách nhiệm nhưng còn là biết ơn cuộc đời! “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm một ngày nữa để yêu thương”; và “nếu còn một ngày để sống” tôi sẽ chọn một ngày sống với tâm tình biết ơn đời, “đời cho ta” biết bao điều cao đẹp!  Biết đâu chính khi ta biết ơn đời, ta sẽ có được một thái độ ngạc nhiên.  Ngạc nhiên để khám phá quà tặng cuộc đời.  Ngạc nhiên thấy “nợ” cho ta “liên hệ” gắn bó với cuộc đời, gần gũi với tha nhân!

Nắng Sớm

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Cách đây 20 năm, gần nhà tôi có anh bạn trẻ, hễ đi làm về là cả xóm đều biết. Bởi vì: “Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau….”. Bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy lại vang lên từ chiếc máy cassette của anh, làm cả xóm phải “thưởng thức”.

Một hôm tôi đến làm quen, vờ thích bài hát này, mượn về nghe và để xem anh chàng này có “Bị” gì không. Rất may, vì anh ta chỉ có một băng nhạc nên nghe đi nghe lại chứ không có vấn đề gì. Tiện thể, tôi cho anh ta “Mượn” cuốn băng Thánh ca do ca sĩ Hoàng Oanh thể hiện (Đã thủ sẵn) đang thịnh hành lúc bấy giờ, ngay hôm đó, cả xóm được nghe nhạc Thánh .

Vài ngày sau, gặp lai anh và anh cho biết:

– Trước đây em chỉ có một cuốn băng nhạc vàng, nên em để nghe cho đỡ buồn, chứ thật ra em không tin những lời bài hát đó, không có kiếp này kiếp kia. Đời người Chúa chỉ cho sống có một lần. Từ hôm có cuốn Thánh ca anh cho mượn, em lại thích nghe nhạc Thánh, em lấy làm tiếc vì phải để hàng xóm nghe những bài hát ủy mị, không có thật .

Quả vậy. Thiên Chúa tạo dựng “Cỗ máy” con người cho mỗi người chỉ một lần trong đời ( Như động cơ máy). Cỗ máy con người này có linh hồn, biết đúng sai, phải trái để tự hoàn thiện bản thân mình. Trong thời gian vận hành, cỗ máy nào hỏng hóc sẽ được đưa về Gara luyện ngục, đại tu cũng chỉ một lần, sau cùng tất cả các cỗ máy được đưa về diện kiến Người Chủ sáng tạo ra mình.

Con người vì lầm lỗi, vì nuối tiếc những gì mình đã làm, những gì mình chưa làm, nên đã bấu víu vào những chuyện vô thường, tưởng tượng ra con đường đi có đoạn nối tiếp, để làm lại những gì mình làm sai, những gì mình chưa làm được.

“ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống….”(Ga 14,6). Đó là lời khẳng định của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha “Người Chủ Sáng Tạo” sai đến để nói cho nhân loại biết được điều này, Ngài còn cho biết thêm “Ta và Cha Ta là một” có nghĩa là lời giáo huấn của Chúa Giêsu là lời của Đấng Sáng Tạo.

Rất tiếc, ngày nay có nhiều người công giáo giơ cao tay lên tuyên xưng là con của Chúa, nhưng không nghe hoặc hoài nghi Lời Chúa truyền dạy, bằng cách là xem bói toán, tin vào vận may số đề, vé số… vv.. Anh bạn trẻ kia khi đã biết và hiểu Lời Chúa, chắc chắn anh ta đã không nghe những bản nhạc vàng này, dù nghe cho đỡ buồn.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết nghe và giữ Lời Chúa truyền dạy, không hoang mang những chuyện vô thường, kiếp này kiếp kia, để chúng con vững bước trên con đường tiến về Nhà Chúa. Amen.

Tôma Đỗ Lộc Sơn