Thương tâm cho Nghề “NEO” của người Việt ở Mỹ

Thương tâm cho Nghề “NEO” của người Việt ở Mỹ

NGƯỜI VIỆT HÀNH NGHỀ NAILS ở MỸ CẦN LƯU Ý

BS Vũ văn Dzi, MD., Chuyên Khoa Nội Thương

Đa số người Việt sang định cư, du lịch làm bán thời gian kiếm tiền ở Mỹ họ hái ra tiền bằng nghề “NEO”, nhưng có mấy ai thấu được nghiệp chướng này. Chỉ có các bác sĩ là người Việt  ở Mỹ mới thấy hết vấn đề nguy hại về sau cho những anh chị em sinh nhai bằng cái nghề mà dân bản xứ ở Mỹ ít ai chịu làm.

Những nguy hiểm của nghề sơn sửa móng tay

Một thống kê của Bộ Lao Động cho biết là cộng đồng Việt Nam ở Mỹ và tại một số quốc gia khác như Canada, Úc, Tây Âu.. đã gần như chiếm độc quyền một nghề mới có gần đây là nghề sơn, sửa móng tay, tạm gọi là nghề làm “nails”.

Từ các thành phố lớn cho đến nhỏ nhất đâu đâu cũng có một tiệm sơn/ sửa móng tay do người Việt làm chủ nhân và sau đó mở trường dạy nghề khiến mỗi ngày lan rộng đi khắp nơi. Một phóng sự của Đài truyền hình CNN cho biết là nghề làm móng tay đã phát triển ở Mỹ là nhờ một sáng kiến của nữ tài tử Tippi Hedren (đóng phim The Birds) khi bảo trợ giúp 19 gia đình Việt Nam sang định cư tại California thì sau đó đã hướng dẫn một số phụ nữ Việt Nam học cách sơn sửa móng tay do người thợ riêng của bà chỉ dẫn và sau đó theo học tại những trường dạy làm móng tay.

Nhờ tài khéo léo, chăm chỉ và kiên nhẫn nên sau đó những người này thành công mau chóng và từ đó giúp đỡ thân nhân sang sau và những thế hệ kế tiếp đi theo con đường làm “nghề nails“ và cho đến nay thì người Việt gần như chiếm độc quyền trên cả nước và cùng một lúc giúp cho người dân Mỹ trung lưu có dịp được hưởng một dịch vụ mà trước đây chỉ dành riêng cho những người thật giàu có như các tài tử Hollywood..

Những hóa chất độc hại..


Nhưng nghề làm móng tay, móng chân cũng có những nguy hiểm vì trong các loại thuốc sơn móng tay hay rửa móng tay có những hóa chất sau khi hít phải hay thấm phải vào trong cơ thể thì
có thể gây ra một chứng bệnh như ung thư máu, viêm phổ mãn tính hoặc nguy hiểm hơn cả tại những phụ nữ mang thai thì có thể gây ra những dị tật bẩm sinh hoặc bệnh tự kỷ (autism) ảnh hưởng lên các bào thai nhất là trong thời gian 3 tháng đầu tiên khi mà cơ thể của bào thai có những tăng trưởng mau lẹ khiến các dị tật dễ xảy ra..

Trong các hóa chất sơn móng tay thì gần đây có chất Dibutyl Phthalate tức DBT được nghiên cứu nhiều hơn cả được pha vào trong các chất nhựa dẻo và sơn móng tay. Chất DBT đã được thí nghiệm trên loài chuột và gây ra ung thư gan và có thể gây ra bệnh suyễn ở những người thường xuyên hít phải hơi độc của DBT. Hiện nay DBT đã bị các nước Âu châu cấm dùng trong lãnh vực chế tạo các mỹ phẩm.
Ngoài ra còn chất toluene và formaldehyde (được dùng để ướp xác hoặc tại VN, TQ dùng để bảo quản bánh phở và mì gói..). Một số công ty chế tạo mỹ phẩm như Elizabeth Arden, Avon đã không còn dùng hai chất này nữa vì gây ra ung thư gan và ung thứ máu (leukemia).

Acetone tức 2 propanone được dùng để rửa sơn móng tay và là một hóa chất dễ cháy và bốc hơi nên người dùng dễ hít phải rồi bị nhiễm độc bởi khói và bị suyễn hoặc viêm phỗi mãn tính. Nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng gây ra ung thư phổi hay không vì chưa đủ thời gian để kiểm chứng.

Những người dùng acetone để rửa móng tay trong một thời gian ngắn thì không nguy hiểm nhưng đối với những người phải thường xuyên tiếp xúc với hơi của acetone như trong các tiệm sơn/sửa móng tay thì sau một thời gian thì có thể bị những chứng bệnh kinh niên đường phổi (chronic bronchitis). Riêng chất benzene thì Y học đã chứng minh từ lâu là gây ra bệnh ung thư máu (leukemia) và ngày nay vẫn còn được dùng trong công nghiệp hóa chất, nhựa dẻo..

Chất toluene cũng được dùng để rửa móng tay và có thể thấm vào trong cơ thể và có những tác hại lâu dài gọi là systemic effects ví dụ như lên các cơ quan sản xuất ra các tế bào máu trong tủy xương (bone marrow) và lâu ngày dẫn đến ung thư máu (leukemia) rất nguy hiểm và khó chữa và đôi khi cần phải được ghép tủy xương (bone marrow transplant).

Hiện nay có một số thuốc rửa móng tay được quảng cáo là thiên nhiên (natural products) hoặc non–acetone nail remover nhưng sự an toàn của những loại hóa chất này cũng chưa được kiểm chứng rõ ràng..

Nói chung thì hiện nay vẫn chưa có một loại thuốc rửa móng tay thật an toàn và tốt nhất vẫn là áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường và cá nhân.
Nếu rửa móng tay ở nhà thì nên làm ở chỗ thoáng khí và tránh hít phải hơi độc. Các tiệm chuyên sơn/ sửa móng tay thì cần có hệ thống hút hơi làm thoáng khí thật an toàn và đúng tiêu chuẩn của EPA. Đây là điểm quan trọng nhất vì không những bảo vệ sự an toàn cho khách hàng mà cho cả người hành nghề nhất là khi phải tiếp xúc với hơi độc mỗi ngày nhiều tiếng đồng hồ hoặc vì ham lợi nhuận làm “overtime”..

Những chai lọ đựng thuốc sau khi dùng xong cần được bỏ vào những thùng chứa được đóng kín và đem đi phế thải an toàn (air tight container) do những công ty chuyên môn (waste removal). Cần kiểm chứng các loại mỹ phẩm có chứa những chất độc kể trên hay không hoặc tham khảo chủ nhân dùng những loại mỹ phẩm có an toàn hay không..

Những người chuyên nghiệp thì cần bảo vệ cho bản thân và nhất là những bà mẹ đang mang thai (nhất là trong 3 tháng đầu) thì tuyệt đối nên tránh bị nhiễm phải những hơi độc của những hóa chất vì những chất độc này có thể nhiễm vào bên trong cơ thể rồi qua đường máu huyết truyền sang cho bào thai đang trong thời kỳ phát triển mau lẹ khiến dễ bị những dị tật bẩm sinh và nhất là bệnh tự kỷ (autism) mà ở Mỹ ngày nay rất được quan tâm và điều trị hết sức tốn kém. Một thống kê cho biết là trên 150 trẻ sơ sinh thì trung bình có 1 em bị chứng bệnh này mà việc điều trị có thể kéo dài cả đời..mà không có gì có thể thay thế được..

Hội chứng Sick building syndrome..


Gần đây Y học có mô tả một hội chứng gọi là Sick building syndrome nghĩa là có những căn nhà, căn phòng mà khi bước vào thì bị ho hen suyễn, khó thở. Nguyên nhân là lối thiết kế nhà cửa ở Mỹ hiện nay thường được kín gió hòng tiết kiệm năng lượng (energy efficient, well insulated) nên các hơi độc không được thoát ra bên ngoài nếu không có một hệ thống thoát hơi an toàn. Hiện nay cơ quan bảo vệ môi sinh EPA coi việc ô nhiễm không khí là 1 trong 5 nguyên nhân gây tử vong ở Mỹ và những người làm nghề sơn sửa móng tay là một trong những nghề hay bị nhất. Ngoài những hóa chất bay hơi (volatile organic chemicals) thì còn có thêm những chất mốc meo (molds), khói thuốc lá.. cũng gây ra ô nhiễm cho những người làm việc lâu dài và hàng ngày phải tiếp xúc với chất độc.

Ngay cả một số đồ vật trang trí nội thất như cây cỏ, hoa lá bằng nhựa dẻo, màn cửa, thảm lót nhà, gỗ sơn bóng cũng có thể thải ra những hóa chất gây bệnh..nói chung là đời sống công nghiệp ở Mỹ không thể tránh khỏi sự ô nhiễm hóa chất gây ra..

Gần đây có một khảo cứu dựa trên các cuộc thí nghiệm trên các phi thuyền không gian dùng một số cây cỏ trồng trong nhà gọi là houseplants để khử độc những hóa chất trong không khí. Một số cây cảnh trồng trong nhà có khả năng hút những chất độc như acetone, toluene, benzene rồi sau đó truyền xuống hệ thống rễ cây gọi là rhizosphere mà ở trong có một số vi khuẩn có khả năng tẩy uế và phân hóa những hóa chất này trở nên vô hại.

Càng ngày càng có nhiều bằng chứng là các cây cỏ trong thiên nhiên từ những khu rừng nhiệt đới cho tới những đám rừng rong biển cho tới những khu vực sinh thái bờ biển, đầm lày đã có những vai trò tối quan trọng giữ cho các môi trường không bị hủy hoại rồi một ngày kia dẫn đến ngày Tận Thế khi mà không còn sinh vật nào tồn tại nữa. Một vị trưởng lão da đỏ bộ lạc Snoquamish tên Chief Seattle (tên được đặt cho một thành phố lớn vùng Tây Bắc) đã có lần khuyên các di dân Mỹ đến định cư khi thấy họ phá hủy các khu rừng quý tại đây là “nếu các ông tiếp tục phá hoại môi sinh và thải ra những chất độc hại thì một ngày kia các ông và con cháu các ông sẽ chết ngộp trong những đống rác do các ông tạo nên..”

Hội chứng Sick Building syndrome chỉ là một trong những “chứng bệnh” do ô nhiễm môi sinh trong đó có những cửa tiệm sơn sửa móng tay. Ngoài hệ thống thoát hơi thì có thể trồng một số cây cỏ có khả năng tẩy độc như loại cây pothos, English ivy, peace lily, philodendron, diffenbachia.. là những loại cây trang trí để lọc không khí và có thể sống lâu trong nhà dễ dàng thay vì dùng những loại cây bằng nhựa dẻo nhân tạo vừa giữ bụi và vừa có thể gây bệnh cho căn phòng của hội chứng “sick building syndrome”.

BS Vũ văn Dzi, MD., Chuyên Khoa Nội Thương

CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Lm. ĐAN VINH, Hiệp Hội Thánh Mẫu

Trích EPHATA 575

Vấn đề 9: Bạn là người Công Giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên Chúa đi xem.

1. LỜI CHÚA:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thinh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” ( Tv 18, 2 ).

2. SUY NIỆM:

Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy nhiên khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về những định luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là loài người, những sự điều tra khách quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật thiên nhiên cho thấy có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:

PHẦN A. VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA

a. Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa:

Mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động trật tự của mọi vật trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được khoảng 5000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi Wilson, các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã nhận biết, nhưng vì ở quá xa, nên tới nay các nhà thiên văn vẫn chưa thể xác định được. Nguyên trong giải ngân hà mà thái dương hệ của chúng ta chỉ chiếm một phần nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định tinh và hằng tỷ ngôi sao đã chết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện nay người ta đã biết được có hằng tỷ giải ngân hà rồi.

Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1279 lần, và mặt trời to hơn những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác còn to hơn sao Sirius nữa…

Những vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên ( năm ánh sáng ) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một giây đồng hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một quang niên sẽ là 299.792.458 km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ trái đất vượt qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm ( 4 quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn, người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.

Trái đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ của các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.

Bầu trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây nên biết bao tang tóc ! Vậy mà từ tạo thiên lập địa đến nay vẫn chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.

Vậy thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp đặt an bài của Đấng Tạo Hóa hay sao ? Becquerel đã nói: “Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có Đức Tin”.

b. Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:

Vũ trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:

– Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do nhiều đơn chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo nên… Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể phân biệt được chúng với nhau.

– Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng hạn: Chất nước gồm một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành đơn chất H2O.

Các nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ…Những nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất không ngừng trong thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a,b,c…hợp tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã xác định được 92 nguyên tử khác nhau.

Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người ta chỉ căn cứ vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay những kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hằng mấy triệu lần !

Mỗi nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm các dương điện tử ( Proton ) và trung hòa tử ( Neutron ) liên kết với nhau. Lượn chung quanh nhân là chi chít những âm điện tử ( Electron ). Các âm điện tử này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000 km/giây. Thật không khác gì các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.

Khoảng giữa các nguyên tử, có gì không ? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử trong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con người khít lại gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân nặng như hiện nay !

Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử với chất Uranium. ( Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang tuyến “A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản được sức tàn phá của nó ).

Những điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai hại khôn lường.

Một câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình lục lăng. Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và đã đo rất nhiều bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.

Nhà bác học REAMUR một ngày kia đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ ? Một nhà bác học ra công tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’.

Thế rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu trách nhiệm và cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một chổ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới thấy mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.

Vậy loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm theo bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông minh nhất ! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề: Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không bắt nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài theo một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.

PHẦN B. SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA:

Sự sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý nếu người ta không công nhận có Thiên Chúa:

a. Huyền nhiệm của Sự Sống:

Sự sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy được hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống, nhưng không bao giờ có thể thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng hạn: con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho nó hóa ra loài bồ câu được.

Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng gà đẻ ra thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà bác học “ đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống, dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật vật lý hóa học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức lực vô hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL ( 1873 – 1944 ) là nhà giải phẫusinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh Lý và Y khoa năm 1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô thức đặc biệt để trở thành con vật sống động như sau:

“Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước vá khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, khong cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp.” ( Alexis Carrel: “L’Homme, cet inconnu” – P. 160 ).

Như vậy thì hình như mầm giống con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.

Khi nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng phải thán phục sự tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động. Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động tối tân nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng là máy phát thanh hoàn hảo… Có thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong các kỳ quan trên thế giới.

Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện ?

b. Nguồn gốc của sự sống:

Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác nhau được nêu ra:

– Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hình.

Nhưng theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng thuở ban đầu ấy được ? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất. Một nhà quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không có mà ngày nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa ?

– Có người lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào đó trong vũ trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và lan rộng ra khắp nơi.

Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ không trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy từ đâu ra ? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng ( cũng là một hành tinh ngang hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất ! ), Kim tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống cả. Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng xạ của ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.

– Cũng có người lại chủ trương sự sống tự nhiên mà có. Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì vật chất sẽ tự hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít năm sẽ tự nhiên bị mọt ăn, hoa quả thối chin sẽ tự nảy sinh ra dòi bọ…

Nhưng thuyết sự sống tự phát sinh này đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh. Hai ông đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất cả các mầm sống có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là vì đã có sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện nó liền tự nảy nở ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.

Ngoài ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống thật, rồi dùng những chất liệu như vậy để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một thời gian quan sát, ông nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng vẫn không có sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là : có tổ chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào của sự sống thực sự. Bác sĩ Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ mọc thân như sau: “Hạt giống mọc lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà vẫn không sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng phình ra mà vẫn không sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống.”

Nhà bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một số người vô tín đã vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự sống”. Nhưng chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm của ông như sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự sống. Nhưng thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu cơ. Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to !”

Như vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa học không thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.

Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của các hành tinh trong vũ trụ.

c. Bảo tồn sự sống:

Khoa học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng… Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì sinh vật khó long sống được. thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, người ta lại đi kết luận chung như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:

– Tốc độ quay của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600 km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, số còn lại sẽ bị chết cóng.

– Khoảng cách giữa mặt trời và trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là 5.500 độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi sinh vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu them một nửa khoảng cách để đến gần mặt trời hơn thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.

– Độ nghiêng của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ thì mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai cực mới khỏi bị chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông kết trái của cây cối.

– Khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi mọi vật ra biển.

Như vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người có trí khôn đều phải công nhận: phải có một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.

C. LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

a. Nơi mỗi người đều có luật luân lý:

Ai trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói của lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi sinh ra.

Luật tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập quán hoặc luật pháp của quốc gia.

+ Luật lý hóa một khi đủ điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật luân lý thì không những lệ thuộc điều kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chinh do sự lựa chọn tự do này mà con người trở thành một loài vật giá trị ưu việt nhất, khác hẳn các loài vật hành động hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ có con người, sau khi đã nhúng máu thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện lên trước mắt y.

+ Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy tuân giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được ghi chép thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết cùng một bộ luật căn bản giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều ác, không được giết người vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của người khác cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v… Mà nếu cố tình làm trái các điều trên thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo trách, cho dù các việc làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.

Cain vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là Aben, rồi sau đó đã chạy trốn con mắt lương tâm theo dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Cain đã phải tự tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy Lạp cũng kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: “Mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha !” dù thực sự loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói với người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi, người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh sáng.

b. Tiếng lương tâm hay luật luân lý trong con người:

Các câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có ?

Nguồn gốc của luật luân lý nơi con người: Có một số người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy không phải như vậy vì những lý do như sau:

Lương tâm mỗi người không phải tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật cho mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi cho bản thân, đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt ra cho mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thống nhất giống nhau như ta thấy trong luật luân lý nơi con người được.

Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:

+ Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết và mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế mà họ vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý tự nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã hội.

+ Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.

Vậy phải đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi người ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật riêng cho mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành. Cha mẹ, thầy dạy hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển mau lẹ và rõ ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo Hóa in sẵn trong tâm hồn con người có lý trí, tương tự như một thứ bản năng của thân xác. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Giám Mục Jacques Bénigne Bossuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài.”

D. NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

Ngay trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi sinh vật, động vật kể cả con người… Thế mà vẫn không thiếu những trường hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 20 ( năm 1917 ) đã được hằng vạn người chứng kiến v.v… Tất cả những hiện tượng ấy gọi chung là các phép lạ.

a. Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:

Từ 11 tháng 2 đến 16.7.1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette tìm được nguồn suối dưới chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành Linh Địa, mỗi năm có hơn 6 triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7 ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.

Vào trung tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức ( Lourdes ). Vị Giám Mục Giáo Phận Casale Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận phép lạ thứ 68.

Đức Cha Nicolas Brouwet, Giám Mục Lộ Đức đã tuyên đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của bác sĩ Alessandro de Franciscis, chủ tịch Văn Phòng Y Chứng Lộ Đức ( BCM ). Phép lạ chữa lành cho Nữ Tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23.7.1965.

Sœur Luigina Traverso sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị Nữ Tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức ( CMIL ) đã chứng thực ngày 23.7.1965, trước hang đá Lộ Đức, vị Nữ Tu này đứng dậy được từ xe lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ thứ 68 được chính thức công nhận.

Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm 1884, Giáo Hội Công Giáo thành lập Văn Phòng Y Chứng để xem xét các lời khai. Sau khi được văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế. Sau đó, Giáo Phận của người được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ Tu Luigina Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.

Thành viên của Văn Phòng Y Chứng và Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế gồm cả những những bác sĩ không Công Giáo. Các chuyên gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:

– Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;

– Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ;

– Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát;

– Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được chữa lành bệnh.

Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.

Sau đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858 – 1870: 7 trường hợp; 1908 – 1913: 33; 1946 – 1965: 22; 1976 – 1978: 2; 1989: 1; 1999: 1; 2005: 1; 2011: 1.

Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào năm 1905, Hội Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính thức của Giáo Quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ, trường hợp nào là không. Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách thức của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy ban này đã công bố 32 phép lạ thực.

Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng như ủy ban các Giám Mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi bệnh cách lạ lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909, Linh Mục Teilhard de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo Hội về phép lạ Lộ Đức như sau: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi được, chứng minh tác động sáng tạo của Thiên Chúa.’’ ( nguồn: Vietcatholic news ).

b. Phép lạ bởi đâu ?

Những người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:

– Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số bệnh tật.

Nhưng thực sự, khi đem phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế nào được ?

– Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.

Nhưng nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi, bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không có thể chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…

– Khỏi bệnh là vì quy luật tự nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi phối mà người ta chưa khám phá ra:

Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác dụng điều hòa, đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù thì các người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức ( Lourdes ) thì tình trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm, người khác thì khỏi khi đang cầu nguyện vào những thời gian khác nhau trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như vậy, không thể nói có một luật bí mật được.

– Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.

Alexis Carrel ( Ảnh kèm theo ), một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại Đại Học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị. Không thể có phép lạ được ! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương.”

Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự thật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo Hóa, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ thiên nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.

TÓM LẠI:

Trước những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời giải thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ THIÊN CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo một trật tự chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài là nguồn gốc của sự sống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất, và đã phú cho chúng những bản năng riêng để tự phát sinh và tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học không thể giải thích được.

Như vậy, tuy khoa học không thể chứng minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra có bàn tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.

Newton, một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi”. P. Termier cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn hợp, khuyết điểm… có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo Hóa bất biến, tự hữu, đơn thuần, hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế người ta bảo: KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ BÍ TÍCH CỦA THIÊN CHÚA”.

3. THẢO LUẬN:

– Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về sự hiện hữu của Thiên Chúa không ? Tại sao ?

– Bạn nên làm gì khi có người yêu cầu trình bày Giáo Lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa để giúp họ thêm xác tín vào quyền năng của Ngài ?

4. NGUYỆN CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất. Xin cho chúng con thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va nơi mỗi chúng con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm Đức Tin, giống như người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giêsu: “Tôi tin ! Nhưng xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” ( Mc 9, 24 ).

Lm. ĐAN VINH, Hiệp Hội Thánh Mẫu

PHỤ CHÚ:

NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA
CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ

Thánh Thomas d’ Aquin ( 1225 – 1274 ), một vị tiến sĩ Thần Học rất nổi tiếng thời Trung Cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa như sau:

1. Sự chuyển động của vũ trụ chứng minh có Thiên Chúa:

Bất cứ một vật nào đang chuyển động cũng phải lệ thuộc vào một động lực khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.

2. Luật nhân quả chứng minh có Thiên Chúa:

Nhìn vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một nguyên nhân có trước. Chẳng hạn: có khói là đã phải có lửa, có con là đã phải có cha mẹ… Nếu cứ suy luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện hữu, không bị lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên nhân tự hữu ấy là Thiên Chúa.

3. Sự sắp xếp trật tự minh chứng có Thiên Chúa:

Kinh nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự và hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D… viết vào các mảnh giấy rồi bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không bao giờ bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D… Trái lại, bất cứ vật gì ta thấy được xếp đặt trâ\ật tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó. Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt thứ tự, cây cối tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối… ta quả quyết đã phải có một trí khôn làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái cực nhỏ như nguyên tử; Từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người… Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận: Phải có một Đấng nào đó toàn năng siêu việt… đã an bài cho vạn vật hình thành và phát triển hài hòa trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là Thiên Chúa.

4. Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Khi quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc thang giá trị khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều và đáng yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý… từ đó, ta suy ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât… làm tiêu chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là Thiên Chúa.

5. Cứu cánh của vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Cứu cánh nghĩa là cùng đích, là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến. Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thỏa mãn và đem lại cho ta hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất cũng như tinh thần, ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh viễn… Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng về cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa. Thánh Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.

TÓM LẠI:

Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các vật bị động đến một động lực không bị động; Từ các vật không thể tự mình mà có đến một Đấng Tự Hữu; Từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn toàn năng đã an bài xếp đặt; Từ các bậc thang giá trị của vạn vật đến một giá trị tuyệt đối vô hạn; Từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về

Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được. Đó là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng nên. Nhưng Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu tượng, xa xôi, không có liên hệ bao nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa của tình thương, liên hệ chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản tính của Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô thời Tân Ước.

Tất cả những điều Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép lại thành môt bộ sách gọi là Thánh Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí suy luận để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải tìm hiểu học hỏi Thánh Kinh để biết Chúa là ai, nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài.

Cảm tưởng Ngày Thánh Mẫu 2013 tại Carthage,MO. USA

Bách Việt
8/13/2013

Đoàn hành hương của chúng tôi khởi hành hành từ Nhà thờ giáo Xứ Lavang,Houston,TX, trực chỉ Carthage MO dự Ngày Thánh Mẫu tại chi dòng Đức Mẹ Đồng Công, Carthage MO. lúc 6 giờ sáng

ngày thứ năm mùng 8/8/2013 và đã tới nhà dòng lúc 5:45 PM cùng ngày, để kịp khai mạc Ngày Thánh mẫu lúc 7:00PM.

Chủ đề Ngày Thánh mẫu năm nay:

PHÚC CHO BÀ LÀ KẺ ĐÃ TIN (Lc 1:45)

và nhân dịp

*Giáo Hội Cử Hành Năm Đức Tin

*Kỷ Niệm 25 năm Các Thánh Tử Đạo VN được Phong Thánh

*Mừng Kỷ Niện 60 năm Thành Lập Dòng Đồng Công

Chuyến hành hương của chúng tôi gồm 2 xe Bus (1 to,1 nhỏ) khởi hành và đi về cùng lúc do hội Knight of Columbus của giáo xứ Đức Mẹ Lavang,Houston,TX tổ chức. Trong chuyến xe Bus của tôi do chị Ngọc Oanh( in charge) Gồm có 55 chổ ngồi, trong số hành khách có 1 Linh Mục và 5 sisters (diện du lịch và du học từ VN), làm chuyến hành huơng của chúng tôi, thêm nhiều hứng khởi và thích thú.

trên đường trở về từ NTM hôm Chúa Nhật 11 tháng 8,2013 đoàn hành hương chúng tôi ghé qua chỗ xe bus hành hương MO bị lật kỳ 8/2008 để cầu nguyện cho 17 nạn nhân và gia đình nạn nhân. trong chuyến hành hương này 1 cô con gái của 1 nan nhân cũng đi NTM để chủ ý cầu cho bố.

trên đường đi hành hương chúng tôi cùng đọc kinh văn côi, Chúa tình thương, chia sẻ cảm nghiệm, kể những câu chuyên tiếu lâm, văn nghệ… làm cho cuộc hành trình hình như chóng hơn và thêm nhiều kỷ niệm. chúng tôi cũng nhắc nhở nhau cùng cầu nghuện cho các nạn nhân vụ xe Bus Hành hương NTM, MO kỳ 8/2008 làm cho 17 người hành hương tử nạn và rất nhiều người bị thương…cũng khởi hành từ Houston,TX.

Năm nay khí hậu tại NTM Carthage MO trong nhửng ngày hành hương thật tốt đẹp, trời cũng đe dọa mưa, nhưng không có mưa to chỉ mưa lất phất 1 tý, làm cho khí hậu perfect, ban đêm thì phải đắp chăn,nên mọi chương trình ngày Thánh mẫu được thi hành đầy đủ.xố người tham dự NTM năm nay thật là đông đảo, tôi đến đất nhà dòng vào ngày chiều thứ năm mà đã đầy up các tents, lều, xe cộ khắp nơi, tới thứ Bảy thì còn kinh khủng hơn nữa, nhất là lúc kiệu Tượng Đức Mẹ Fatima, ước tính khoảng 60-70 chục ngàn người. các cha đồng tế có tới hơn 2 trăm cha, các tu sỉ, nữ tu thì cũng khá nhiều. Có rất nhiều người muốn đi rước kiệu với cộng đoàn của mình, nhưng không thể tìm tới nơi được vì số người tham gia qúa đông. chật cứng không thể di chuyển.

Năm nay nhà dòng xây dựng thêm 2 mái che bên cạch lể đài chính nên trông rất là vỉ đại và hoành tráng,nếu có bị mưa thì cha cụ, các sisters, Brothers, ca đoàn củng không bị ướt, và các cha đồng tế không phải mặc “bao rác” che mưa như những năm bị mưa trước đây!

Các bài giảng, hội thảo rất là nhiều và hay,gồm hai ngôn ngữ hợp cho các lứa tuổi, do các giảng thuyết viên nổi tiếng, kinh nghiệm như cha Vũ thế Toàn,cha Hy,Nguyển Đình Thắng, lại còn buổi thuyết trình về cuộc tiến trình phong thánh cho cha Bửu Diệp do cha Trần thế Tuyên, cũng là cáo thỉnh viên cho việc vận động này, sau đó ngài cho biếu không, T, shrit, dvd, book về cha Bửu Diêp, hy vọng kết qủa sẻ được trong ngày rất gần.

Riêng tôi tòi còn nhớ hai bài giảng rất hay và cảm động: truyền giáo của cha Nguyển hải Dương ngày lể sáng thứ Sáu và bài giảng hạnh phúc thay cho nhửng ai và dân tộc nào có, và sống Đức Tin như guơng Đức Mẹ… ngày thứ Bảy trong Thánh lễ Đại trào của cha Hy.

trong những NTM này có 4 Đức Cha Tham dự:

4 Đức Cha: 2 Đức Cha Mỹ Và 1 Đức Cha VN đến từ Địa phận Quy Nhơn(Nguyễn văn Khôi) và 1 từ Canada(Đức Cha (Nguyên Mạnh Hiếu).

còn văn nghệ và sổ số gồm rất nhiều mục vũ, hài kịch rất đẹp và hay của các cộng đoàn, cả băng các ca sĩ nổi tiếng, ái mộ từ Paris By Night trình diễn,góp vui.

Các quán ăn thì đông nghẹt người là người, nhất là quán Đồng Hành,( Arlington,TX. lúc nào đầy người, chắc là hốt bạc! vì quán này nhiều món ăn hấp dẩn, nóng và nhiều người phục vụ. còn qún bán đá của truyền thanh tin mừng từ CA có lẽ đói vì khí hậu qúa mát mẻ, nên đá(ice) không bán được là bao, tội nghiệp,tội nghiệp.

trong những ngày hành hương, tôi nhiều lần phải rơi lệ, cầu khẩn xin Chúa và Đức Mẹ cho tôi 1 đức Tin mạnh mẽ, biết tin tưởng,phó thác vào Chúa Mẹ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc đời.

Tôi rất cảm phục vì thấy các thành phần tham dự: người lớn, cụ già, con nit, hay choai choai, cùng tới đây tham dự ngày Thánh Mẫu, có người tới đây lái xe tới 24 giờ, họ từ Boston,Canada, hay ngay cả âu châu,Úc châu,VN. Ai ai cũng hớn hở,cười,nói. Họ tới đây, đất Mẹ vì nhiều lý do, có kẻ để gặp gỡ bạn bè,học hỏi, và tăng thêm cho đời sống tinh thần, đức tin,sống đạo có kẻ để cầu khấn, vui chơi hay bất cứ vì lý do gì, tôi cũng rất là cảm phục.

Bách Việt

Đã tìm ra vị linh mục bí ẩn trong tai nạn ở Missouri.


Têrêsa Thu Lan
8/13/2013

Jefferson City, Missouri, 12 tháng 8 năm 2013 / 02:12 (CNA) -. Vị linh mục bí ẩn đã xức dầu cho cô thiếu nữ bị tai nạn xe ở gần Center, Mo. đã được xác định là Cha Patrick Dowling, của Giáo phận Jefferson.

“Tôi cảm ơn Thiên Chúa và những nhân viên cứu hộ đã có một trình độ thông thạo đáng ngạc nhiên,” cha Dowling đã bình luận như vậy với CNA.

“Tôi cảm ơn họ đã chào đón tôi trong một tình huống căng thẳng như vậy và đã cho phép tôi thi hành chức vụ linh mục.”

Cô Katie Lentz đã bị mắc kẹt trong chiếc Mercedes loại cũ, bị đâm vào bởi một chiếc xe vượt qua đường ranh. Tài xế chiếc xe đó đã bị buộc tội Say Rượu Khi Lái Xe (DWI).

Nhân viên cứu hộ đã mất một giờ để cố gắng đưa cô Lentz ra, nhưng vỏ xe rắn chắc đã làm mòn các thiết bị khẩn cấp cuả họ.

Mặc dù đường cao tốc đã bị chặn lại, “tôi đã không đậu lại với những chiếc xe khác”, Cha Dowling cho biết. Ngài đã lái xe đến thật gần, “và đi bộ 150 mét còn lại. Tôi hỏi người cảnh sát nếu có cần một linh mục không… Sau khi kiểm tra, ông ta cho phép tôi tới. ”

“Khi cô gái xin tôi cầu nguyện cho chân cô bớt đau, tôi đã làm như vậy. Cô xin tôi cầu nguyện lớn tiếng và tôi đã đọc kinh lớn tiếng một thời gian ngắn… các nhân viên cứu hộ cần có chỗ để làm việc, và không muốn bị ai quấy rầy. Tôi bước sang một bên và lần chuỗi Mân Côi âm thầm cho đến khi cô gái được đưa ra khỏi xe. ”

Một khi cô Lentz đã được giải thoát, Ngài giải thích, “Sau đó tôi bắt tay với anh cảnh sát, cảm ơn anh, rồi đi. Tôi rất ngưỡng mộ sự điềm tĩnh của tất cả mọi người tham gia. ”

“Anh cảnh sát xa lộ tỏ ra bình tĩnh đáng ngạc nhiên và hoàn toàn kiểm soát mọi sự việc. Tất cả mọi người làm việc trôi chảy như một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. ”

Cha Dowling cho CNA biết Ngài đã ban phép xá tội (cấp bách) và xức dầu cho cô Lentz.

Ngài cho biết đó là nhiệm vụ thông thường của một linh mục, “trong những trường hợp ngoại thường, việc xá tội (
cấp bách) được cử hành cùng lúc với việc xức dầu.”

“Quí bạn nên biết rằng, có rất nhiều người đã cầu nguyện ở đó, nhiều người, nhiều người lắm… và họ đều rõ ràng là cầu nguyện để chữa lành và cho sự an toàn của cô ấy.”

“Có lẽ tôi chỉ là một phần kết quả của lời cầu nguyện của họ, tôi đến và Xức Dầu và xá tội, (nhưng) tôi đã không nói một lời nào… tôi đã không nói bất cứ điều gì giống như là các máy móc sẽ bắt đầu làm việc hoặc họ sẽ thành công cứu cô ấy ra khỏi xe. ”

“Điều đó đã không đến từ môi miệng của tôi, mặc dù có tới hai người noí rằng họ đã nghe như thế.”

Ngày hôm đó Cha Dowling lái xe qua vùng Center trên đường về sau khi làm lễ ở Ewing. Ngài là người gốc Ai-len (Ái Nhỉ Lan), được thụ phong linh mục cho Giáo phận Jefferson vào năm 1982. Ngài đã phục vụ tại nhiều giáo xứ trong giáo phận, và đã hai lần đi truyền giáo tại Peru.

Cha Dowling hiện đang là tuyên úy các nhà tù và phục vụ những người nói tiếng Tây Ban Nha của Giáo phận Jefferson.

Cập nhật:

Cha Dowling đã tới thăm cô Lentz ở phòng cấp cứu. Ngài tả rằng “khi tôi nói cho cô ấy biết tôi là linh mục đả xức dầu cho cô thì cô ấy bật khóc, tôi không hiểu tại sao.”

Ngài phỏng đóan với một chút hài hước: “Có lẽ tôi là một thất vọng lớn nhất cho cô ấy, vì tôi không phải là một thiên thần gì cả.”

Mặc dù trên đầu của Ngài có một mái tóc “muối tiêu” chứ không phải là một vòng haò quang chói lói, nhưng gia đình cuả cô Lentz cho biết Ngài là một thiên thần đối với họ: ” Rõ ràng Chuá đã thương Katie cách đặc biệt và đã gửi những người trợ giúp đến”

Về chuyện có thiên thần hay không, cha Dowling kết luận trên thông cáo chính thức cuả mình như sau:

“Tôi nghĩ rằng đã có nhiều thiên thần ở đó, với bối cảnh (cách suy nghĩ ) như thế, tôi xin được ca ngợi đội chữa lửa cuả New London và Hannibal, các vị Cảnh sát trưởng / nhân viên của Ralls County, các nhân viên cảnh sát xa lộ, đội máy bay trực thăng, các y tá; tất cả mọi người đã làm việc rất chuyên nghiệp. Xin Chúa ban phước lành cho công việc của quí bạn. Tôi hy vọng những lời khen ngợi sẽ phải dành cho những vị có công ấy.”

Xem video phỏng vấn với đài TV KHQA

CON LÀ CAO NIÊN

CON LÀ CAO NIÊN

Tác giả: Giuse Nguyễn-Công-Khanh

 

Cao niên đâu phải là già!

Mà là Phúc Lộc,món quà Chúa ban.

Kinh qua ngày tháng lầm than,

Dựng xây cuộc sống cho đàn cháu con.

Tuổi xuân,sức lực hao mòn,

Cô đơn,đau yếu gầy còm tấm thân.

Một lòng vẫn quyết xin vâng,

Thuận theo Thánh-Ý chuyên cần phó dâng,

Chuyện đời thôi hết phân vân…

Bạc tiền,lợi lộc chẳng cần băn khoăn .

Tác giả: Giuse Nguyễn-Công-Khanh

Các trường đại học của Mỹ, Anh lại đứng đầu thế giới

Các trường đại học của Mỹ, Anh lại đứng đầu thế giới

VOA

Khuôn viên Đại học Havard

Khuôn viên Đại học Havard

15.08.2013

Trong hai cuộc khảo sát riêng rẽ, các trường đại học của Mỹ và Anh một lần nữa lại chiếm nhiều chỗ trong 20 vị trí hàng đầu.

Theo cuộc khảo sát của trường đại học Giao Thông ở Thượng Hải, trường Harvard của Mỹ chiếm vị trí số Một.

Trường Harvard đã chiếm vị trí này từ năm 2003, là năm trường đại học Giao Thông bắt đầu mở cuộc khảo sát.

Trong số 20 trường đại học hàng đầu thì hết 17 trường là của Mỹ. Còn 3 trường kia gồm trường Cambridge của Anh đứng hạng 5, trường Oxford cũng của Anh đứng hạng 10, và trường đại học Tổng hợp Liên bang Thụy Sĩ, hạng 20.

Trường này của Thụy Sĩ chiếm chỗ năm ngoái của trường đại học Tokyo  của Nhật Bản, năm nay bị đẩy xuống hạng 21.

Trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu, Trung Quốc có 28 trường, Nhật Bản có 20, Nam Triều Tiên có 11, Đài Loan có 9, Hồng Kông 5, Singapore 2, Ấn Độ và Malaysia mỗi nước có 1 trường.

Một cuộc khảo sát khác do báo The Times của Anh thiết lập cũng đưa ra những kết quả tương tự.

Nguồn: Timeshighereducation.co.uk, Channel News Asia with AFP

Trung Quốc sẽ từ từ ngưng thu hoạch nội tạng tử tù

Trung Quốc sẽ từ từ ngưng thu hoạch nội tạng tử tù

15.08.2013

Một quan chức cấp cao cho biết, kể từ tháng 11, Trung Quốc sẽ bắt đầu giảm bớt cách làm ăn đã có từ nhiều chục năm qua, sử dụng nội tạng của các tù nhân bị hành quyết để cấy ghép cho người khác.

Trung Quốc là nước duy nhất trên thế giới vẫn còn sử dụng nội tạng lấy từ các tử tù một cách có hệ thống để cấy ghép, một cách làm bị quốc tế lên án.

Nhiều người Trung Quốc xem chuyện này là cách để các phạm nhân chuộc tội.

Nhưng nhiều quan chức hồi gần đây đã lên tiếng chống lại thói quen này, vì nó làm “hoen ố bộ mặt của Trung Quốc.”

Ông Hoàng Khiết Phu, Vụ trưởng Vụ Cấy ghép Nội tạng, Bộ Y tế Trung Quốc hôm thứ Năm nói với hãng tin Reuters rằng rồi đây chính quyền sẽ thực thi quy luật chỉ sử dụng nội tạng của những người tình nguyện.

Ông tin rằng trong tương lai tất cả các bệnh viện Trung Quốc có giấy phép cấy ghép nội tạng sẽ từ bỏ cách sử dụng nội tạng của tù nhân.

Nguồn: Reuters, New York Daily News

Mẹ Lên Trời !

Mẹ Lên Trời !

Xem hình
Truyền thống Kitô Giáo vẫn tin rằng Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác dựa trên sự khám phá của các Tông Ðồ. Sự việc xẩy ra khi Mẹ Maria qua đời thì Thánh Tôma không có mặt.
Nói về Mẹ thì không bao giờ cùng!” (De Mariam nuquam satis). Ðó là câu nói thời danh của Thánh Bênarđô, vị thánh chảy mật của Ðức Mẹ. Vì mỗi khi nghe thánh nhân nói về Ðức Mẹ, thì người nghe có cảm tưởng như đang nếm hưởng hương thơm tho ngọt ngào của lời ngài như ăn một tảng mật ong vậy. Phần chúng ta, cũng là con Ðức Mẹ, chúng ta sẽ nói gì về một biến cố trọng đại của Mẹ, khi Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác?

Lễ Các Thánh Nam Nữ, ngày 1 tháng 11 năm 1950, Ðức Piô XII, sử dụng ơn vô ngộ của Giáo Hoàng đã tuyên tín điều mà mọi người Công Giáo phải tin về việc Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác sau khi qua đời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ðức Maria Trọn Ðời Ðồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc.”
Trong lịch sử Kitô Giáo, đặc biệt là Công Giáo, có hai trường hợp được tin nhận là đã được về trời cả hồn lẫn xác, đó là trường hợp của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ nhân loại. Ngài đã về trời cả hồn lẫn xác sau khi hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài. Và trường hợp thứ hai là Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Mẹ cũng được về trời cả hồn lẫn xác sau khi hoàn tất cuộc đời này, như lời tuyên tín của Ðức Piô XII.
Chúa Giêsu vì là Thiên Chúa, nên đã về trời bằng quyền năng riêng của ngài. Thánh Kinh ghi nhận biến cố về trời của Chúa Giêsu như sau: “Rồi Ngài đã dẫn họ đến tận Bêtania, đoạn giơ tay, Ngài chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài đã từ biệt họ, và được nhắc lên trời” (Lc 24:50-51). Phần Ðức Maria, Mẹ được đưa về trời nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Việc Mẹ về trời cả hồn lẫn xác không phải do hành động riêng của Mẹ, nhưng đã được Thiên Chúa nâng Mẹ lên (assumption).
Truyền thống Kitô Giáo vẫn tin rằng Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác dựa trên sự khám phá của các Tông Ðồ. Sự việc xẩy ra khi Mẹ Maria qua đời thì Thánh Tôma không có mặt. Cũng chính ông là người đã vắng mặt trong khi Chúa Giêsu hiện ra với các Tông Ðồ. Mà vì không có mặt hôm đó, ông đã đòi phải có chứng cớ. Với ông, chứng đó là được xỏ ngón tay vào các vết đinh, và thọc bàn tay ông vào vết thương nơi cạnh sườn của Ngài. Ông nói với các Tông Ðồ: “Trừ phi tôi thấy các vết đinh nơi tay, và xỏ ngón tay vào các lỗ đinh và bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi vẫn không tin” (Jn 20:25).

Cám ơn Tôma, nhờ ông mà chúng ta biết rõ Chúa Giêsu đã sống lại, vì sau khi đã được nhìn xem và xỏ tay, bàn tay ông vào các vết đinh của tay và vết đâm nơi cạnh sườn của Thầy mình, ông đã kêu lên: “Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Jn 20:28). Và ông đã tin. Cũng vậy, vì muốn được xem thấy mặt Mẹ mình lần cuối, ông đã được các Tông Ðồ chiều ý đưa ra nơi mộ phần. Nhưng khi mở nắp quan, chính Tôma và các Tông Ðồ khác đã không thấy xác Mẹ ở đó. Các ông bằng đức tin rất chân thành, đã tin rằng Mẹ Maria đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Cũng qua đức tin và truyền thống nơi các Tông Ðồ, ngày nay chúng ta tin rằng Mẹ Maria đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Bởi vì:

*Mẹ là đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
*Mẹ tin vào lời Thiên Chúa.
*Mẹ là mẹ Chúa Giêsu.
1. Ðầu thai vô nhiễm nguyên tội: Một thụ tạo được ơn đầu thai vô nhiễm nguyên tội. Mẹ Maria không hề có một giây phút nào bị đặt dưới quyền thống trị của Satan, bị đặt dưới quyền thống trị của tội lỗi.
Thánh Kinh đã ghi nhận, tội lỗi đã lọt vào thế gian vì Nguyên Tổ phạm tội bất phục tùng. Do sự bất tuân phục này, con người đã bị đặt dưới sự thống trị của Satan, và của sự chết. Thiên Chúa đã tuyên án con người: “Ngươi là bụi tro, và từ bụi tro, ngươi sẽ trở về tro bụi” (Gn 3:19). Vậy nếu Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, tức là ngay từ giây phút hoài thai trong lòng thân mẫu, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ Maria khỏi vết nhơ tội Nguyên Tổ, thì Mẹ cũng không bị đặt dưới sự thống trị của Satan, và hệ quả của hành động ấy khiến Mẹ phải chết. Theo mặc khải đã được kể lại trong tác phẩm Thành Ðô Huyền Nhiệm, do chân phước Maria D’acreda, Mẹ Maria đã không chết vì đau yếu, bệnh tật như con người chúng ta, nhưng Mẹ đã lịm ngất đi trong ngọn lửa thiêu đốt vì tình mến ThiênChúa.
2. Là kẻ đã tin vào lời Chúa: Mẹ là tạo vật đã tin vào lời Thiên Chúa một cách tuyệt đối với lòng yêu mến bao la, đến nỗi làm Ngài sảng khoái. Lời Tổng Thầnh Gabriel nói với Mẹ trong ngày truyền tin đã cho ta biết rõ điều này: “Vui lên! Hỡi trinh nữ diễm phúc. Thiên Chúa ở cùng trinh nữ. Trinh nữ được chúc phúc trong các người nữ” (Lc 1:28).
Sở dĩ Mẹ được như vậy, là vì Mẹ đã “tin vào lời Thiên Chúa sẽ được thực hiện” (Lc 1:45). Và điều mà Thiên Chúa thực hiện đó là làm cho Mẹ được tôn vinh như chính lời Mẹ đã nói ra trong bài Kinh Ngơi Khen cùng với chị họ là Isave: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Lòng trí tôi vui mừng trong Ðấng cứu chuộc tôi. Vì ngài đã đoái thương đến phận nữ tỳ ngài, từ nay muôn đời sẽ khen rằng tôi có phúc” (Lc 1:46-47).
Một trong cái phúc lớn lao ấy, phải chăng là được về trời cả hồn lẫn xác. Thật vậy, điều mà Tổng Thần Gabriel đã trấn an Mẹ trong ngày Truyền Tin là: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1:37), đã được thực hiện trọn vẹn nơi biến cố hồn xác Mẹ được đưa về trời.

Nếu Thiên Chúa đã chọn Mẹ một nữ tỳ khiêm hạ làm Mẹ con Ngài, đã gìn giữ Mẹ không vương tội tổ truyền, đồng trinh trước, đang, và sau khi sinh con, thì việc Ngài gìn giữ và làm cho thân xác Mẹ không bị hư nát và được về trời cùng với linh hồn thánh thiện của Mẹ là một việc làm có gì là khó đối với quyền năng vô biên của Ngài.
Có lẽ đối với những đầu óc tự cho mình là thông thái. Những đầu óc chỉ dựa vào những lý luận thuần túy con người, thì việc Mẹ được Thiên Chúa cho về trời cả hồn lẫn xác là một chuyện không thể xẩy ra. Nhưng với chúng ta, những tâm hồn bé mọn, những kẻ đặt niềm tin vào Thiên Chúa và vào quyền năng của Ngài, chúng ta cảm thấy không có gì là quá đáng để tin nhận một điều như thế. Và trong niềm hân hoan vui mừng đó, cùng với những tâm hồn yêu mến Ðức Mẹ, chúng ta hãy ca lên bài thánh cả đã làm cho nhiều tâm hồn cảm thấy xúc động:

Mẹ lên trời giữa một ngày rực ánh sáng. Ðàn ca các thánh tung hô. Nhân loại vui hát mừng. Vì xác hồn vẹn tuyền Mẹ về thiên cung.
Mẹ lên trời mừng ngày vui cho thiên quốc. Hào quang Mẹ Chúa Ba Ngôi. Sáng ngời khắp chín tầng. Vì xác hồn vẹn tuyền Mẹ tới thiên đàng.

*Mẹ ơi! Thế trần là nơi gian khổ. Biển đời con gặp bao cơn giông tố. Mẹ chính là đuốc sáng  soi ban đêm.*Ðoàn con dâng lời tha thiết cầu khấn. Xin Mẹ giúp lòng chúng con tin vững. Luôn trung thành thờ Chúa mãi suốt đời.
*Mẹ ơi! Xin cầu bầu cho mọi nước. Hướng về tôn vinh suy phục Thiên Chúa. Cho đất trời rực sáng danh Chúa Cha.
3. Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng cũng là một người thật. Một người mà Mẹ Maria đã sinh ra từ cung lòng đồng trinh của mình.
Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly trước ngày Ngài chịu tử hình để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã an ủi các Tông Ðồ của mình: “Ðừng để lòng mình bị xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào thầy” (Jn 14;1). Và Ngài đã bảo các ông: “ Thầy đi để dọn chỗ cho các con, và rồi thầy sẽ đến để đón các con về với thầy, để thầy ở đâu thì các con cũng ở đó” (Jn 14:3).

Vậy nếu Chúa Giêsu đã nói với các Tông Ðồ của mình cũng như đã nói với chúng ta là những kẻ tin kính Ngài những lời vừa được trích dẫn trên, thử hỏi Ngài sẽ nói gì với Mẹ mình, là người mà Ngài hằng yêu kính.
Chúa Giêsu ở đâu lúc Mẹ sinh thì? Ngài ở trên Thiên Ðàng. Và như vậy, thì việc Ngài đưa Mẹ Maria về trời với Ngài là điều hợp tình, hợp lý. Lại nữa, không lẽ Ngài chỉ đưa linh hồn Mẹ về trời, mà thân xác Mẹ, một thân xác mà đã cưu mang Ngài suốt 9 tháng trong dạ lại phải hư nát, và tan hòa vào bụi đất, chờ ngày sống lại trong ngày tận thế? Nếu như thế, Chúa Giêsu làm sao nói với Mẹ mình khi chính Ngài cũng đã lên trời cả hồn và xác, thân xác mà Ngài đã lãnh nhận từ Mẹ.

Chúa Giêsu đã về trời trước, đã dọn chỗ, và hẳn là chính Ngài đem theo triều thần thánh đón rước linh hồn và thân xác Mẹ về trời.
Ðể hy vọng ngày sau, khi chúng ta qua đời cũng được về quê hương vĩnh cửu cùng với Mẹ Maria, thì từ hôm nay, và trong mọi ngày trên dương thế, chúng ta hãy sốt sắng tận hiến cho Mẹ. Và hãy xin Mẹ giúp chúng ta sống nên cuộc sống làm con cái Chúa của mỗi người chúng ta.
Trần Mỹ Duyệt

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 16/08/13

chuacuuthe.com

VRNs (16.08.2013) – Sài Gòn – Cuộc sống đầy những chuyện chúng ta phải quyết định. Chúa có buồn khi tôi bê trễ công việc? Chúng ta có những khái niệm về sự thật, nhưng làm sao chúng ta biết chắc rằng các ý tưởng đó xuất phát từ Thiên Chúa? Đôi khi rất khó phân biệt ý Chúa hay ý mình.

Nếu sự thôi thúc của chúng ta thực sự do kẻ thù của linh hồn chứ không từ Thiên Chúa thì sao? Làm sao chúng ta “bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10:5) khi chúng ta không chắc các ý tưởng đó xuất phát từ đâu? Thiên Chúa nói với mỗi người bằng nhiều cách. Ngài biết chúng ta sẽ đáp lại thế nào và Ngài sẽ dùng bất kỳ cách nào cần thiết để đạt tới chúng ta.

Có 3 cách Thiên Chúa thường giao tiếp với chúng ta: Qua lời cầu nguyện, qua Kinh thánh, và qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Thiên Chúa có thể dùng một người khuyên nhủ (Cn 12:15). Nếu Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, không gì có thể ngăn cản Ngài. Ngài có thể dùng một cách, mọi cách, hoặc kết hợp các cách để chúng ta nhận biết Ngài, nhưng có một điều tương tự: Trách nhiệm của chúng ta là LẮNG NGHE và VÂNG LỜI.

CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là cuộc nói chuyện hai chiều, chúng ta nói thì Chúa nghe và chúng ta im lặng khi Chúa nói – tức là lắng nghe Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta “phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1:6). Nếu không có lòng tin, chúng ta sẽ “không nhận được cái gì của Chúa” (Gc 1:7). Chúng ta phải kiên trì cầu nguyện (Mt 13:16-17).

Hãy nói chuyện với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và chăm chú lắng nghe cách trả lời của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng đôi khi Ngài không trả lời theo ý chúng ta muốn. Ngài biết những gì chúng ta cần vào bất kỳ thời điểm nào, và Ngài sẽ cho chúng ta biết vào lúc tốt nhất.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

Đọc Kinh thánh là cách tốt nhất để nhận biết Chúa và cách xử lý của Ngài qua lịch sử cuộc đời. Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17). Càng quen biết với cách hoạt động của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài, và những điều Ngài đã nói trong quá khứ, chúng ta càng có thể nhận biết điều Ngài đang nói với chúng ta trong hiện tại. Khi chúng ta nói với Ngài qua việc cầu nguyện, Ngài sẽ thường xuyên nói với chúng ta qua Lời Chúa (Kinh thánh). Khi đọc Lời Chúa thì chúng ta phải lắng nghe.

LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN

Thánh Thần là Thiên Chúa – Thần linh có trí tuệ, cảm xúc và ý muốn. Ngài luôn ở bên chúng ta, không thể trốn khỏi Ngài (Tv 139:7-8). Mục đích của Ngài là can thiệp giúp chúng ta (Rm 8:26-27) và quyết định để làm lợi cho Giáo hội (1 Cr 12:7-11). Nếu chúng ta cầu xin thì Ngài sẽ ban cho Đấng Bảo Trợ (Ga 14:16).

Khi chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta cần duy trì khôn ngoan (Cn 4:7), và phải “cân nhắc các thần khí” (1 Ga 4:1). Thế gian đầy sự ồn ào và sự xao lãng, và trí óc chúng ta cũng vậy. Sự sống trên trái đất là cuộc chiến đấu tâm linh. Kẻ thù luôn tìm cách làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, vì thế mà phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chúng ta phải cảnh giác để biết rõ điều chúng ta nghe chứ không là cảm xúc, tức là điều thực sự từ Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết con đường đúng đắn mà đi. Ngài không giấu ý Ngài đối với những ai tìm kiếm Ngài. Ngôn sứ Isaia nói: “Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đây là đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21).

Đây là vài điều cần thiết khi chúng ta muốn biết có phải Ý Chúa hay không: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:33), và : “Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16).

Ngoài việc cầu nguyện, tìm hiểu Lời Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần, có thể bạn cần lời khuyên của một người bạn, của gia đình, của người cố vấn hoặc linh hướng: “Thiếu bàn bạc, chương trình đổ vỡ; nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công” (Cn 15:22).

Thiên Chúa không muốn chúng ta thất bại. Chúng ta càng lắng nghe Chua, chúng ta càng có thể phân biệt tiếng Chúa với tiếng của thế gian. Chúa Giêsu đã nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10:4). Ngài xác định: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10:8). Chúng ta càng nhận biết Chúa Chiên Lành, chúng ta càng ít chú ý tiếng nói sai trái.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ GotQuestions.org)

THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013

Trích EPHATA 574

Những năm sau 75, ở miền Nam có thể nói gần như gia đình nào cũng có ít nhất một người phải đi cải tạo do làm việc cho chế độ cũ, hay bị bắt giam vì đi buôn đường dài hoặc vượt biên, và như vậy là quanh năm, luôn luôn có những người mẹ, người vợ, người em gái nào đó đang ruổi rong trên những chặng đường dài để thăm nuôi con, thăm nuôi chồng hay anh trai. Lắm khi không có giấy báo cũng cứ đi với một chút hy vọng mong manh được nhìn thấy mặt người thân, không được thì gửi vào mấy giỏ bàng đựng cây thuốc lá, vài tán đường mía, mấy lạng chà bông và hũ mắm ruốc.

Nhà tôi có ông anh cải tạo tập trung ở Z30C. Đều đặn hàng tháng, mẹ tôi lại chắt bóp từ những đồng lẻ bán đá cục, yaourt, nước mắm, vay thêm một ít nữa, đủ để đi thăm nuôi con. Đến ngày hẹn, quá nửa đêm, tôi chạy chiếc Mobylette cọc cạch đưa mẹ ra góc đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1. Mùa khô hay mùa mưa thì gió khuya cứ luôn se lạnh, hình như lại càng se lạnh hơn vì người ta dạo ấy thiếu ăn, thiếu ngủ, và thiếu mặc, trong lòng lại trĩu nặng những buồn thương. Khoảng hơn chục người đàn bà tội nghiệp loay hoay lụm cụm với nhau giữa những giỏ bàng và bao bị chật căng đồ thăm nuôi, ai cũng ít lời ít điều vì còn phải dành sức cho cả hành trình còn dài…

Khoảng 1g rưỡi, chiếc xe than xịch đến, mọi người như thể đã thạo việc lắm rồi, phụ một tay với bác tài và chú lơ để chất hàng lên. Tôi đứng đó nhìn mà không thể giúp gì được, mẹ tôi bảo: “Cậu cứ về đi để đấy tôi lo, quen rồi !” Và thật nhanh, chuyến xe vội vã khởi hành, chú lơ lấy cái vồ vỗ đùng đùng năm sáu cái vào thùng than đeo ở đuôi xe, lửa xoè ra, hơi nóng phừng phừng, động cơ hộc lên mấy tiếng mệt nhọc và xe bắt đầu lăn bánh. Bóng dáng chiếc xe đen đủi xừng xững lao đi vào giữa những ánh đèn đêm vàng ệch của phố vắng…

Sau những chuyến đi thăm nuôi ông anh như thế, xập tối về lại nhà bình an, mệt thì mệt, bao giờ mẹ tôi cũng có một câu chuyện để kể cho các con nghe, về ông anh ở trại cải tạo lúc này khoẻ hay yếu, về mấy anh CA lịch sự hay hỗn xược, về các tai nạn bà gặp thấy trên đường… Nhiều chuyện vui vui, nhiều chuyện cũng bực mình lắm, nhiều chuyện lại làm cho người ở nhà bị buồn lây cái buồn của người đi.

Nhưng tôi nhớ nhất một lần mẹ kể:

Đi chung với nhau mấy chuyến rồi, nhưng các bà các chị đi thăm nuôi vẫn chưa thân nhau, chẳng ai buồn nói năng gì. Hôm ấy, trời tự dưng trở rét. Xe than nóng thì nóng đấy, nhưng chỉ thấy ấm khi xe phải tạm dừng thôi chứ lúc đang lao đi thì gió tạt hết hơi nóng về đuôi xe, các bà các chị ngồi trong thùng xe cứ phải chịu rét căm căm, dần dần ngồi sát lại với nhau hơn.

Thế rồi bất giác mẹ tôi thì thầm: “Kính mừng Maria đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…” Chỉ thì thầm thôi, vì cũng tế nhị, trên xe may ra chỉ vài người có Đạo. Không ngờ được một lúc thì tiếng thì thầm chuyển lên thành tiếng rì rầm. Mẹ tôi nghĩ: Ồ vậy là lần chuỗi chung được rồi đấy, nhưng chắc cũng vừa vừa, còn phải để mấy bà bên lương người ta… tranh thủ ngủ nữa chứ !

Lại thêm một lúc nữa, đến chục thứ ba, thứ tư, thì lạ thay, tiếng đọc kinh rộn hẳn lên, hình như cả xe mọi người đã cùng đọc đều đều, rập ràng, nhất là khi đọc các kinh Kính Mùng. Mẹ tôi còn bình luận thêm là bầu khí trong thùng xe có vẻ còn vui hẳn lên là đàng khác. Và chuyện lạ tiếp theo là chuyến xe ấm áp hẳn lên, dù bên ngoài trời buốt lạnh.

Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nghĩ trong đầu: Hay nhỉ, hoá ra cả xe lần này lại toàn là dân Công Giáo sao ? Ai cũng đọc kinh ngon lành nhất là kinh Kính Mừng. Đến đoạn phải xướng thứ mấy thì ngắm, lúc đầu mẹ tôi chỉ lẩm nhẩm, bây giờ thì mẹ xướng lên rành rọt cho cả xe cùng nghe…

Đến khi hết chục thứ năm rồi, tự dưng mẹ tôi không thấy nhiều người đọc theo nữa, chỉ còn mẹ và lác đác vài người cùng “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành…” Mẹ tôi ngoái nhìn mọi người qua những ánh đèn đường lọt vào trong xe quét loang loáng từng đợt, khuôn mặt ai cũng đều thành kính chăm chú lắng nghe ! Mẹ tôi lại bắt bài hát: “Mẹ ơi bao người lạc bước lưu đày…” thì vẫn chỉ thấy vỏn vẹn mấy người hát thôi, số còn lại im lặng thật trân trọng, như muốn nuốt lấy từng lời bài Nguyện Ca với Mẹ Maria.

Xong ván kinh, mẹ tôi mỉm cười với một chị còn trẻ ngồi đối diện, hỏi thăm: “Nhà cô ở Giáo Xứ nào thế ?” Chị ta ngơ ngác không hiểu. Bà ngồi kế bên thấy vậy mới bảo: “Cụ ơi, chắc cô này cũng giống tôi, tôi không phải người bên Đạo !” Nhiều cô nhiều bà khác nữa cũng nhao nhao lên vui vẻ: “Cháu cũng thế…”, “Tôi thờ Phật…”, “Còn tôi thì theo đạo ông bà, cụ ạ !”

Mẹ tôi tròn xoe mắt: “Ơ hay, nhưng sao ban nãy các bà các cô đọc kinh lần chuỗi kính Đức Mẹ của bên Đạo chúng tôi giỏi thế ?” Một bà như thể đại diện tất cả trả lời: “Thú thật với cụ là tôi không thuộc kinh nào bên Đạo cả, nhưng nghe bà đọc đi đọc lại nhiều lần, tự dưng tôi lẩm nhẩm đọc theo rồi thuộc lòng lúc nào không biết. Vâng, thuộc lòng mà vẫn không hiểu gì lắm, cụ ạ, nhưng sao cứ đến đoạn “cầu cho chúng con là kẻ tội, khi nay và trong giờ lâm tử” là tôi lại thấy ấm lòng, nước mắt ứa ra và nghĩ chắc là mình cũng được Đức Mẹ của bên Đạo thương nhiều lắm !”

Sau lúc hàn huyên ấy, mọi người như thân với nhau hơn, móc trong túi ra, người khoanh cơm nắm, người nửa ổ bánh mì không, các bà lớn tuổi còn mời nhau ăn miếng trầu, chuyện trò vui vẻ cứ như là có họ hàng bà con với nhau vậy ! Chuyến xe từ trại về, cái chị trẻ trẻ còn nhắc: “Bác ơi, mình lại đọc kinh nữa đi bác…” Và dọc đường Hàm Thuận – Sàigòn, gặp một tai nạn xe chết người, mẹ tôi còn xin mọi người cùng đọc thêm cho hai người chết tức tưởi ấy 3 kinh Kính Mừng, rồi còn: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ…”

Mẹ tôi kết thúc câu chuyện: “Đấy các cô cậu xem, tôi không bịa đâu nhé, từ lúc mọi người trên xe cùng nhau đọc kinh lần chuỗi, rõ ràng không còn thấy rét lạnh nữa, chuyến về cũng không ai thấy bực mình, buồn lo, chán nản hay mệt rũ ra như những lần đi thăm nuôi trước !”

Vâng, tôi biết bà mẹ già đạo đức chân chất của tôi chẳng bao giờ bịa chuyện. Cụ luôn có cái xác tín rất… trực giác, không lý luận, không thần học cao xa chi cả. Tôi ngộ ra vấn đề không phải là một thứ ảo giác tâm lý hay một thứ ám ảnh tập thể chi cả, đơn giản chỉ là Lòng Tin thuần phác của những con người đang phải chịu nhiều đau khổ đã gặp được lòng chạnh thương từ ái hay cứu giúp của Mẹ Maria.

Kính Kính Mừng khởi đầu với ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Kính Kính Mừng lại kết thúc với ý nghĩa “Mẹ ở cùng chúng con”.

Từ sau khi nghe chuyện mẹ tôi kể, lại đi tu trong DCCT như vậy cũng đã được hai mươi lăm năm rồi, tôi cũng dần bỏ đi cái lý trí duy chứng ương ngạnh, mềm lòng ra, và xác tín “Thiên Chúa ở cùng Mẹ – Mẹ ở cùng chúng con” để biết tập cầu nguyện với Mẹ bằng chuỗi Mai Khôi, điều lâu nay tôi vẫn có ý coi thường, chỉ là chuyện của mấy cụ già nhà quê như mẹ của tôi, chuyện đàn bà ấy mà…

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013