Còn Tình Nào Cao Quý Hơn

Còn Tình Nào Cao Quý Hơn

Trích Lẽ Sống tháng 8

Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Đức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.

Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: “Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi”. Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh…

Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp và sâu xa… Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác…

Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Đức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.

Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàn đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: “Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại…”.

Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Đức quốc xã…

Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Đàng: Thiên Đàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại… Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.

“Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng…

Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Đã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình…

Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã chết thay cho một người bạn tù. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.

Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi

Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi

Trích Lẽ Sống tháng 8

Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Đạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.

Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.

Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.

Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Đó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Đức Giêsu đã dạy.

Đế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.

Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Đức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.

Trong bốn bức tường tu viện tại San Đamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.

Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH.

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH.


Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh! Mỗi lần muốn gọ…i, chỉ cần: “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.
Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi?” – Mẹ tôi bảo thế.
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng!…
Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng…
Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm… Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò? Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.
Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.
Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà!
Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.
Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão! Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.
Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người!
Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm!.
Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…
Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.
Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

Khổng Văn Đươn

Sản phụ tử vong, nhiều bà bầu vội vàng chuyển viện

Sản phụ tử vong, nhiều bà bầu vội vàng chuyển viện

– Một sản phụ đã tử vong sau sinh vào ngày 19/8 tại Bệnh viện (BV) Đa khoa Hiệp Hòa (Bắc Giang) khiến nhiều bà bầu khác hốt hoảng… chuyển viện vì lo lắng.

Vụ việc xảy ra vào ngày 19/8, người tử vong là sản phụ N.T.T. (31 tuổi, trú tại xã Đại Thành, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Chị T. nhập viện để sinh cháu thứ tư.

Trước đó, vợ chồng chị đã có ba mặt con, nhưng là con gái. Chồng chị, anh H. làm nghề thợ xây, mong muốn có đứa con trai nối dõi nên hai vợ chồng đã quyết tâm “vượt kế hoạch”.

sản phụ, tử vong, chuyển viện, BV đa khoa Hiệp Hòa, Bắc Giang

BV đa khoa Cần Thơ, nơi vừa xảy ra vụ việc 2 mẹ con sản phụ tử vong. (Ảnh: VietNamNet)

Tại Khoa sản của BV Đa khoa Hiệp Hòa, các bác sỹ tiến hành mổ đẻ cho sản phụ. Tuy nhiên, ngay sau khi sinh, sản phụ đã tử vong vì mất máu.

Sáng 20/8, rất đông người nhà nạn nhân đã tập trung tại Khoa sản của bệnh viện yêu cầu đối chất với các bác sỹ tiến hành mổ đẻ cho chị T. Theo những người nhà của nạn nhân, sản phụ tử vong do bị nhau tiền đạo nhưng không được các bác sỹ cho chuyển lên tuyến trên để cấp cứu.

Anh Nguyễn Văn Nam, người đưa vợ đi đẻ tại khoa sản, chứng kiến sự việc cho biết, người nhà nạn nhân đã rất bức xúc, yêu cầu đối chất với nhóm bác sỹ sản trực tiếp mổ đẻ cho chị T.

Họ còn nói, chị T. bị mất nhiều máu, khoa sản không cho chuyển viện lên tuyến trên mà cố giữ lại, đồng thời yêu cầu gia đình nạn nhân nộp 6 triệu để truyền 2 đơn vị máu.

Trưa 20/8, thi thể của sản phụ đã được bệnh viện bàn giao cho người nhà nạn nhân đưa về quê mai táng. Cháu bé (con của sản phụ) được đưa đi cấp cứu tại BV Đa khoa tỉnh Bắc Giang. Được biết, sau sinh, cháu bị gãy tay.

Nhiều người có mặt tại Khoa sản (BV Hiệp Hòa) rất xót xa về sự việc trên.

Trao đổi với VietNamNet, ông Trương Quang Vinh, PGĐ Sở Y tế Bắc Giang thông tin: Sở Y tế Bắc Giang đang chỉ đạo BV Đa khoa Hiệp Hòa làm rõ nguyên nhân dẫn đến tử vong của sản phụ.

Khi vụ việc xảy ra, người nhà nạn nhân đã kéo đến Khoa sản của BV Hiệp Hòa vì quá bức xúc. Tuy nhiên, chưa có hành động nào quá khích xảy ra.

“Chúng tôi không thấy các bác sỹ sản khoa xuất hiện. Nhiều gia đình có người nhà nằm chờ sinh đã tìm cách chuyển viện vào sáng ngày 20/8 vì quá lo lắng. Công an huyện Hiệp Hòa cũng đã có mặt tại bệnh viện” – anh Nam nói.

Vụ việc đang được các cơ quan chức năng Bắc Giang vào cuộc làm rõ.

Thái Bình

Mẹ không phá thai, hai con song sinh làm linh mục

Mẹ không phá thai, hai con song sinh làm linh mục

Nguyễn Long Thao

8/20/2013

Hai linh mục người Chile là anh em song sinh cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ CNA biết, nhờ thân mẫu kiên quyết không chịu phá thai mà hai anh em đã được sinh ra và nay trở thành linh mục.

Hai linh mục đó là cha Paulo Lizama và cha Felipe Lizama sinh ngày 10 tháng 9 năm 1984 tại thành phố Lagunillas de Casablanca. Cha Felipe sinh trước, cha Paulo sinh sau 17 phút

Cha Felipe kể rằng mẹ ngài là bà Rosa Silva, khi biết mình có thai, đã xin đi chiếu điện và sau đó đã được siêu âm bào thai. Bác sĩ cho biết bào thai của bà có một cái gì lạ: “Thai nhi có 3 tay, hai cái đầu, chân thì quấn lấy nhau.”

Bác sĩ cho biết, tính mạng bà có thể bị nguy hiểm nếu giữ bào thai và cách chữa trị là phá thai. Phá thai ở Chile được luật pháp cho phép. Tuy nhiên, bà Rosa, mẹ của hai Linh Mục, đã không bằng lòng và kiên quyết từ chối lời đề nghị phá thai. Bà nói, bà chấp nhận những gì Thiên Chúa trao cho bà.

Cha Felipe nói: “Chúa đã tạo dựng bào thai song nhi. Tôi không biết các bác sĩ đã sai hay có chuyện gì”

Còn cha Paolo nói: “ Tôi thì luôn luôn nhớ tới lòng yêu thương và dịu dàng trong trái tim của mẹ tôi là người đã cho chúng tôi sự sống”.

Cha Paulo kể thêm rằng “ Khi anh ngài là cha Felipe sanh rồi, thì cuống nhau vẫn chưa đứt ra khỏi cung lòng mẹ nên bác sĩ đã đề nghị nạo bào thai để lấy cuống nhau ra. Bà Rosa Silva, mẹ của hai Linh Mục từ chối và nói bà cảm thấy còn một đứa bé nữa ở trong cung lòng. Và quả thế 17 phút sau, cha Paulo đã được sinh ra.

Trước sự kiện này cha Paolo nói: “ Chi tiết cuối cùng này có ý nghiã rất quan trọng đối với tôi. Mẹ tôi biết tôi còn ở trong bụng, tôi sinh ra trễ nhưng đã được sinh ra. Nếu bác sĩ nạo cung lòng mẹ tôi thì chắc chắn tôi đã bị thương nặng rồi”.

Câu chuyện hai cha đã được sinh ra thế nào chỉ được hai cha biết đến khi đang học năm thứ Sáu tại chủng viện

Cha Paolô kể tiếp: “Điều chắc chắn là sự khôn ngoan của mẹ tôi và tâm hồn của bà đã đúng lúc cho chúng tôi được biết chuyện kỳ diệu như thế ”

Rồi ngài kể tiếp: “Hồi tưởng lại chuyện đó trong khi trước đây tôi vẫn nghĩ rằng ơn kêu gọi làm linh mục của tôi chỉ bắt đầu từ thời thanh xuân, nhưng sau này tôi mới nhận ra rằng Chúa đã can thiệp vào đời tôi ngay từ thuở ban đầu nhờ cái tiếng “Xin Vâng” của mẹ tôi”.

Thời còn bé, dù được lớn lên trong gia đình Công Giáo, nhưng cả hai anh em đã mất đức tin và thôi không dự thánh lễ nữa. Rồi chính việc cha mẹ ngài ly dị mà hai anh em lại đã trở về với Giáo Hội và chịu phép Thêm Sức.

Cha Paolô kể tiếp rằng dù lúc mất đức tin, nhưng hai anh em vẫn cảm thấy mình bị hấp dẫn bởi Mình Thánh Chúa, thánh ca và việc âm thầm cầu nguyện.

Cha Felipe thì kể rằng chính cha Reinaldo Osorio đã kéo ngài trở về với Chúa. Và sau này cha Reinaldo Osorio đã hướng dẫn hai anh em trong chủng viện để lên chức linh mục.

Cha kể với cơ quan truyền thông CNA: “ Chúa đã gọi tôi, tôi nhận ra rằng chính Chúa và mọi sự trong Chúa làm tôi rất hạnh phúc. Chắc chắn tôi muốn làm linh mục”.

Điều ngạc nhiên là dù hai anh em sống gần nhau nhưng không bao giờ nói cho nhau biết về ơn kêu gọi của mình. Cha Paolo nói “ Tôi không biết anh em tôi ai đã nghe tiếng Chúa gọi trước, nhưng tôi nghĩ Chúa đã chọn đường lối tôn trọng sự tự do đáp trả của anh em tôi.”

Tháng 3 năm 2003, cả hai anh em gia nhập chủng viện. Ban đầu gia đình băn khoăn về quyết định của họ, nhưng sau một năm sống trong chủng viện, mẹ ngài thấy hai con hạnh phúc nên bà đã an tâm.

Vào ngày 28 tháng 4 năm 2012, hai anh em song sinh, thầy Felipe và thầy Paulo chịu chức linh mục và cử hành lễ mở tay tại quê hương của các ngài là Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn ở Lagunillas.

Sau một năm chịu chức, giờ đây cha Felipe phục vụ tại giáo xứ Thánh Martin of Tours ở Quillota, và cha Paolo phục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Mông Triệu tai Achupallas.

Kết thúc câu chuyện về đời mình với CNA Cha Felipe nói: Chúa không làm chuyện linh tinh với chúng ta. Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chức linh mục là ơn gọi tuyệt vời làm chúng tôi vô cùng hạnh phúc.

Còn cha Paolô kết luận “ Theo Chúa Giêsu không phải là dễ, nhưng là chuyện tuyệt vời. Chúa Giêsu, Giáo Hội và thế giới cần chúng ta, nhưng không phải cần bất cứ bạn trẻ nào, mà chỉ cần những bạn nào được trao ban sự thật của Thiên Chúa để chính đời sống họ sẽ chuyển tải sự sống, nụ cười của họ mang theo niềm hy vọng, diện mạo của họ chuyển tải đức tin, và hành động của họ sẽ mang theo niềm tin yêu”

THỤ PHONG LM. LÚC 71 TUỔI ĐÃ CÓ 8 NGƯỜI CON VÀ 18 CHÁU NỘI NGOẠI

Trm Hương Thơ
8/20/2013

Cảm động về một ơn gọi bền đỗ.

Nhờ nền giáo dục Công Giáo mà cậu Enrique nhận được từ gia đình cha mẹ là người gương mẫu trong cách sống đạo. Từ khi còn là một cậu giúp lễ bên bàn thờ Enrique đã cảm thấy mình có ơn gọi làm lm. và ở tuổi 17 Henry bước vào chủng viện Tổng Giáo Phận Chihuahua ở Mexicô. Tuy nhiên Enrique phải bỏ học vì lý do sức khỏe.

Sau bao nhiêu cố gắng chiến đấu với bệnh viêm xương và xoang mũi và sức khỏe có phần tốt hơn nên Enrique xin trở lại chủng viện để học tiếp theo con đường ơn gọi. Nhưng sau một thời gian không lâu thì bệnh cậu lại tái phát nên lại phải từ giã chủng viện để trở về đời sống thường.

Sau một thời gian sức khỏe kha khá trở lại thì cậu xin được việc làm ở một khu mỏ sắt. Vẫn tiếc nuối ơn gọi nên lần thứ ba cậu đã cố gắng xin để trở về chủng viện nhưng đã bị từ chối vì những hậu quả của bệnh.

Sau đó một thời gian dài thì cậu gặp được Wilhelmina cả hai cùng đồng chí hướng trong việc tông đồ. Cảm nhận rằng Chúa đã gọi mình trong cuộc sống hôn nhân, và họ kết hôn vào ngày 14 tháng 10 năm 1967 tại xứ đạo Santa Rosalia. Enrique. cách chọn lựa của hai người là luôn sẵn sàng sống trong công việc tông đồ trong bậc hôn nhân Sau này Enrique được sự đồng ý của vợ nên đã theo học và được chịu chức phó tế vĩnh viễn 08 tháng 9 năm 1981 với người bạn của ông Cornelius Corral.

Họ hai có sáng kiến lập qũy đoàn kết và tương trợ để giúp cho các trẻ em được học hành, và họ đã thành công trong việc quyên góp và quản lý để xây dựng một trường mẫu giáo, trường tiểu học và trung học, một trạm y tế và xây dựng một nhà nguyện.

Hai vợ chồng hạnh phúc đã có được tám người con: Francis, Henry, Celia, Isela, Roque, Mark, và Celina Melina Patricia Dew. và 18 đứa cháu nội ngoại từ 1 đến 17 tuổi.

Mặc dù không có đủ khả năng tài chánh để thực hiện cho tất cả các con đi học đại học. Nhưng Enrique luôn luôn cố gắng hết mình phục vụ giáo xứ và công việc chung. Nhưng quan trọng là luôn nhận được sự hỗ trợ từ người vợ thân yêu của mình.

Sau một thời gian mang căn bệnh ung thư người vợ đã qua đời vào ngày 07 tháng 2 năm 2011. Một sự mất mát to lớn trong đời đối với Enrique. Đó là một thời điểm thử thách rất quan trọng. “Nếu bạn sống luôn sẵn sàng để Thiên Chúa quyết định, thì cái chết tự nó không phải là một bi kịch, nhưng là đường đời đích thực nơi chúng ta đi về”

Sau cái chết của Wilhelmina người vợ thân yêu độ nửa năm Enrique được sự gợi ý của một số người thân và xin với tòa giám mục học thêm để trở thành linh mục. Đức Tổng Giám Mục Constancio Miranda đã gởi thơ lên Tòa Thánh sau một năm rưỡi thì được thông báo rằng có thể tiến hành với lễ thụ phong.

“Tôi muốn trở thành linh mục là vâng phục Thiên Chúa, chứ không phải để lựa chọn một con đường riêng” Người mà tôi đã luôn luôn tôn thờ và cảm thấy gần gũi. Đây là thời điểm quyết định quan trọng nhất của cuộc đời tôi, vì vậy tôi sẽ tiếp tục thực hiện theo ý muốn của Thiên Chúa,

Hôm thứ năm 15. 08 2013 ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời tại Giáo phận Chihuahua, Enrique Martinez được thụ phong linh mục.”Cùng với những hạnh phúc của anh chị em và con cháu và Giáo Hội. Con gái Celia của ông cho biết lễ thụ phong linh mục của cha cô là một phước lành từ Thiên Chúa”, là một món quà cho các giáo phận và các gia đình .”

Linh mục Enrique sẽ dâng Thánh lễ mở tay và tạ ơn tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe.

Lược dịch theo (CNA/EWTN)

Bông hồng trắng

Bông hồng trắng

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 12:36 Sáng 21/08/13

VRNs (21.08.2013) – Sài Gòn – Rằm Tháng Bảy được giới Tăng Ni Phật tử gọi là Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành, tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, Vu Lan còn là ngày xá tội vong nhân. Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông Hồng ĐỎ, những ai mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.

Mỗi năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy “ghen” với những người còn cha mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những người may mắn! Người Trung quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Người có công trực tiếp với chúng ta nhất chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau

Vu Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ ngày nay có chút gì đó bị lu mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, rất trọng chữ Hiếu. Như vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn trọng và duy trì. Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ thừa hưởng từ cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối cãi, không thể bác bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút về lễ Vu Lan – vì nhiều người Công giáo có thể chưa biết rõ!

TÍCH XƯA. Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ.

Sau khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết mẹ mình thế nào nên dùng huệ nhãn dò tìm. Thấy mẹ rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp ác, ông đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn, mẹ ông đã dùng một tay che bát cơm để không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá thương cảm, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù ta thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp lập trai đàn để cầu siêu, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú tâm cầu cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.

Rằm Tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan Bồn Pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan Bồn Hội (tiếng Phạm là Avalambana), đó là nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong kinh Vu Lan Bồn. Còn bộ kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.

Theo Phật Quang Đại từ điển, Vu Lan (tiếng Phạn là Ullalambana), cũng gọi là Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo huyền (nghĩa là “treo ngược” – nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của người bị treo ngược, cực kỳ đau đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.

Và thế là mỗi năm, khi ngày này đến gần, các phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức. Theo truyền thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà Lương là người đầu tiên cử hành hội Vu Lan Bồn Hội.

Theo Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam, Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan được cử hành vào Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân thoát khỏi địa ngục. Rằm Tháng Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày các vong hồn được tha tội. Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.

SUY TƯ. Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút hoặc không văn minh hiện đại mà xem thường cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, có kém kiến thức hơn mình, hoặc có là gì đi nữa, thì đó vẫn là những đấng sinh thành đáng kính. Chúng ta phải nhớ rằng bản thân mình là một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ rẫy, vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng là một con người, vì một danh nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên đời này không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa mẹ. Nếu ơn cao nghĩa dày như vậy mà chúng ta quên đi thì những ơn khác trong xã hội – ơn của bạn bè, tình làng nghĩa xóm, ơn của người vãng lai,… – làm sao chúng ta có thể biết ơn và đền ơn?

Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ” (x. Tb 4:3; Hc 3:8), còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng CÓ HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU”. Không có gì đối lập, dù đạo hay đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu và “trách yêu”: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48), nhưng rồi Chúa Giêsu vẫn ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục các ngài (x. Lc 2:51). Vì vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của chúng ta dành cho tổ tiên. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu thân, cố gắng đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù lao” của song thân phụ mẫu, như thế mới phần nào xứng đáng là người con có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp “nhị thập tứ hiếu” (chuyện 24 người con chí hiếu).

Hãy thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện cho những người đã khuất. Đó vừa là văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công giáo vậy!

TRẦM THIÊN THU

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

Phan Sinh Trần

08/2013

Ngày nay mốt thời thượng của nhiều bạn Trẻ là từ bỏ Đức Tin, nhưng trong số đó, cũng có nhiều người đang tỏ lộ một Đức Tin mạnh mẽ đáng cảm phục.

Làm sao để biết đức tin của Ta là mạnh hay yếu về phẩm và Đức Tin của người khác là nhiều hay ít về lượng. Làm sao đo lường Đức Tin?

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG HIỆU QUẢ TRONG LỜI CẦU :

Năm 2011 chúng tôi có dịp hỏi về cách cầu nguyện của một Anh trong lớp Tân Tòng thuộc Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể , Houston , TX. Anh cho biết Anh cầu nguyện rất có kết quả cụ thể là cách đó khoảng mấy tuần, trong công việc lát gạch làm cho một nhà thầu nọ, khi đó, anh bí không thể lát được vì mặt phẳng đổ bê tông quá méo mó, không thể nào lát gạch được, trước đó đã có mấy thợ khác bó tay chịu thua. Ông nhà thầu liền chỉ định cho anh đến giúp, tính tới, tính lui anh cảm thấy mình cũng bị bí kế như họ, thế là … anh quì gối ngay tại chỗ làm, khoanh tay anh hỏi Chúa: “Cha, con bí rồi, Cha tính sao thì tính dùm đi” … Cầu nguyện xong, anh bắt tay làm ro ro một hồi , … khi làm xong , Ông chủ của Anh đến xem và còn khen là lát gạch đẹp nữa. Anh đơn sơ cho biết “ Cầu nguyện với đức tin thì rất kết quả”. Phần tôi thì rất thích cách cầu nguyện trong lòng tin, gọi Chúa bằng “Cha” của anh này. Anh đã nói “ Cầu nguyện với lòng Tin thì hầu hết trong mọi trường hợp đều được Cha ban cho nếu đó là điều có lợi cho mình”.

Rồi một thanh niên mới biết Chúa khác tên là Phúc ở Hội Thánh Baptist , Houston, TX. Anh rất hăng hái học hỏi Lời Chúa, một ngày nọ có một Chị tên là Nh trong nhóm chia xẻ Lời Chúa bị sưng phù chân, mắt cá chân sưng múp míp và kéo dài lên tới phần dưới của bắp vế cũng bị phù to, chị không thể đi đứng bình thường và nhờ cầu nguyện, Phúc được ông trưởng nhóm khuyến khích cầu nguyện cho Chị N, em quì xuống, cầu xin nhân danh tên quí yêu là Chúa Giê Su và truyền cho bệnh tật phải tan biến. Ngay ngày hôm sau, khi Nhóm họp lại thì đã thấy bàn chân của Chị N rút hết phù , bàn chân khô tóp lại và lộ cả mắt cá. Chị đi đứng nhanh nhẹn và bình thường như chưa hề bị đau chân.

Bạn biết không , anh Thanh Niên này cùng với cả nhà mới tin Chúa có ba năm rưỡi trời thôi ! nhưng đức tin, yêu Chúa Giê Su của anh đã mạnh hơn nhiều . Anh đã tin đến mức đạt được lời hứa của Chúa Giê Su: “Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Luca 11:9)

Nếu bạn cho rằng hiệu quả của lời cầu xin cũng là thước đo Đức Tin của một người , thì có lẽ bạn cũng sẽ nhận thấy nhiều Anh Chị Em Tân Tòng có lòng tin vượt qua cả những Tín Hữu già cỗi là chúng ta nữa.

ĐỨC TIN MẠNH ĐO LƯỜNG BẰNG ĐỘ TRUYỀN TẢI:

Lúc đó là vào khoảng năm 2007 , khi Chị Ng còn là một dân chơi , không tuần nào không viếng vũ trường Diamond Club , Houston, và từng trải đủ các món ăn chơi, cũng như các tranh cạnh của cuộc chơi trong giang hồ. Rồi một hôm, sự say mê tin Chúa của con Chị đánh động chị , chị thắc mắc , con bé đó làm sao mà nó chịu đựng các la lổi, dằn vặt của mình từ ngày nó đi theo đạo Chúa và Nhóm Thánh Linh , làm sao mà nó cứ ở trước cái hộp nhỏ đựng bánh lễ trong nhà thờ hoài, nó quì có đến hàng giờ mà không biết chán, làm sao và làm sao, từ tò mò chị đến thử và được Chúa thu hút làm đệ tử hồi nào không hay ! Đức Tin bằng việc làm, bằng đời sống của con Chị đã cảm hóa Chị , rồi Chị cảm hóa Anh cũng trở nên giống như con và Chị . Đức Tin sống động từ Chúa thật có tính truyền tải cao, Đức Tin rất hay lây !

Thạt là tuyệt nếu đức tin của ta cũng có độ truyền tải cao như của cả nhà Chị Ngọc. Căn nhà Chị ở, trên đường Elridge, nay đã trở thành nơi ca ngợi Chúa cho nhiều anh em ngoại đạo. Từ chỗ một nhóm vài ba người nay đã lên đến hơn ba chục người , từ chỗ cầu nguyện trong một hai giờ nay đã lên đến ba bốn giờ và hai lần mỗi tuần. Xin Chúa cho đức tin của ta mạnh như Đức Tin Truyền Tải này của các Anh Em Tân Tòng !

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG THÁI ĐỘ DẠN DĨ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một người có đức tin mạnh mẽ thì rất dễ biết vì đi đến đâu họ cũng mạnh dạn đứng lên làm chứng cho Chúa. Trường hợp của Chị Nh , có tiệm hớt tóc trên đường Bellaire, trong khu Salomon, Houston. Chị vốn theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo từ nhỏ .Khi chị được biết về Chúa, thì tình yêu của Chúa thu hút Chị , đời sống của Chị được thay đổi, từ bệnh hoạn sang mạnh khỏe , từ buồn lo đến độ đau bao tử trở nên vui tươi bằng an. Từ tình trạng tan hoang gia đình đến độ phát quẩn , không còn đủ lý trí thành ổn định và hòa giải trong tình Mẹ Con, Vợ Chồng. Do đó , Chị Nh không bao giờ quên làm chứng cho Chúa về những ơn lành Chúa đã và đang ban cho từ ngày biết và yêu kính Chúa. Chị nói về ơn Chúa cho bắt cứ ai đến tiệm hớt tóc, muốn nghe về vị Chúa cứu khổ , cứu nạn của Chị , cho dù đó là Mỹ đen, Mễ hay người Việt , người Hoa. Cũng có khi gặp một vị khó tánh cho là Chị quá độ, Chị cũng không quê độ hay sợ hãi, chùn bước vì Chị cho rằng: “ ai nói gì mặc kệ họ, phần Chị không thể nào không tìm cách cứu giúp người ta để họ cũng được Chúa cứu như chị nhất là được Chúa cho sự sống đời đời ” .

Đối với Anh Chị Em Tân Tòng đi trong Tin Yêu trên đường Giê Su thì Đức Tin quả là một hồng ân.

Còn Chúng ta , những cây lâu ngày trong Giáo Hội thì sao?. Đúc Tin của chúng ta mạnh hơn hay yếu hơn, nhiều hơn hay ít hơn. Xin Chúa cho bạn và tôi có thể noi gương các Anh Chị Em Tân Tòng đạt đến viến tượng như Chúa muốn như trong sách Mat Thêu 13, 31-32:

“Về Nước Trời, thì cũng in như hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Nó nhỏ tí, thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên, thì to lớn hơn rau cỏ mà thành một cây, đến đỗi chim trời đến nương náu nơi cành nó”.

Phan Sinh Trần

Nữ tu, người lội ngược dòng

Nữ tu, người lội ngược dòng

Đăng bởi lúc 12:34 Sáng 20/08/13

VRNs (20.08.2013) – Sài Gòn – Vào lúc 9g sáng thứ bảy, ngày 17-08-2013 tại nhà nguyện Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, 523 Lê Đức Thọ – P. 16 – Q. Gò vấp, đã diễn ra thánh lễ Tuyên Khấn vĩnh viễn của Nữ tu Cé-ci-li-a Nguyễn Thị Thuý Hường.

Nữ tu Cé-ci-li-a từ nhỏ sống bên Đức, sau tám năm sống trong nhà dòng bên Đức, nay Nữ tu trở về Nhà Mẹ tại Việt nam để Tuyên Khấn vĩnh viễn trước mặt Mẹ Bề Trên Tổng Quyền.

Cha Giu-se Trần Hoà Hưng Bề trên Giám tỉnh Dòng Don Bosco chủ tế và chia sẻ Lời Chúa. Trong bài chia sẻ, Cha đã cho cộng đoàn và Nữ tu thấy được sự cao cả của việc tuyên khấn, đó là làm chứng cho thế gian biết rằng sự có mặt của Thiên Chúa trong cuộc sống sẽ làm cho ta thấy hạnh phúc. Nữ tu Cé-ci-li-a đã dám lội ngược dòng nhằm giúp mọi người thấy rằng trong đau khổ và đắng cay vẫn có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa làm cho con người trở nên hạnh phúc. Vì có Chúa là niềm vui của cuộc đời, làm cho đời thêm phấn khởi và vui tươi. Hình ảnh người Nữ tu hôm nay tuyên khấn nói lên sự tín thác tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ không bỏ rơi chúng ta. Cho dù chúng ta có ích kỷ hay phản bội, Ngài vẫn yêu và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài muốn cho con người được hạnh phúc.

Kết thúc bài chia sẻ Lời Chúa là phần Tuyên Khấn vĩnh viễn của Nữ tu Cécilia trước mặt Thiên Chúa, Mẹ Bề Trên Tổng Quyền cùng quý cha, quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn tham dự.

Trong thánh lễ còn có sự hiện diện Cha Ma-ri-a Mát-thêu Nguyễn Bá Linh, Viện Phụ Đan Viện Xi-tô Thánh Mẫu Thiên Phước, Cha Giu-se Hồ Sĩ Hữu thư ký Toà Giám Mục Phan Thiết, cùng với 6 Cha đồng tế và cộng đoàn tham dự.

Kết thúc thánh lễ, Quý Cha, Quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn tham dự tiệc Agape trong tình huynh đệ và đầy yêu thương.

Sau đây là vài tấm hình trong ngày lễ Tuyên Khấn vĩnh viễn.

GB. Vân Anh, CSsR

Chìa khóa hạnh phúc.

Chìa khóa hạnh phúc.

 

“Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui hạnh phúc của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui”.

Image

– The Key to Happiness ” Key to Happiness “

Phóng viên nổi tiếng Sydney Harries và một người bạn dừng chân mua báo ở một quầy bán báo, người bạn mua xong rất lịch sự nói lời “Cám ơn!” nhưng người chủ quầy báo thì ngược lại, mặt lạnh như tiền, một tiếng cũng không thèm mở miệng.

Hai người rời quầy báo tiếp tục đi về phía trước, Sydney Harries hỏi:

– Ông chủ đó thái độ kỳ quái quá phải không?

– Cứ mỗi buổi tối là anh ta đều như vậy cả – Người bạn đáp lại.

– Như vậy, tại sao bạn lại đối xử tử tế với ông ta chứ? – Sydney Harries lại hỏi tiếp

– Tại sao tôi để ông ta quyết định hành vi của tôi chứ? – Người bạn trả lời.

Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui của mình, thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Trong tâm của mỗi người đều có “Chiếc chìa khóa của niềm vui hạnh phúc”, nhưng chúng ta lại không biết nắm giữ mà đem giao cho người khác cầm giữ.

 

– Một người phụ nữ thường than phiền trách móc: “Tôi sống rất buồn khổ, vì chồng tôi thường vắng nhà!”, cô ta đã đem chìa khóa niềm vui của mình đặt vào tay chồng.

– Một người mẹ khác thì nói: “Con trai tôi không biết nghe lời, làm cho tôi thường xuyên nổi giận!”, bà đã trao chìa khóa niềm vui của mình vào tay con trai.

– Một vị trung niên của một công ty thở dài nói: “Công ty không thăng chức cho tôi, làm tinh thần tôi giảm sút…!”, anh ta lại đem chìa khóa niềm vui của cuộc đời mình nhét vào tay ông chủ.

– Bà cụ kia than thở: “Con dâu tôi không hiếu thuận, cuộc đời tôi sao mà khổ!”.

– Một thanh niên trẻ từ tiệm sách bước ra la lên: “Thái độ phục vụ của ông chủ đó thật đáng ghét…”.

Những người này đều có một quyết định giống nhau, đó là để người khác chế ngự tình cảm của mình. Lúc chúng ta cho phép người khác điều khiển và chế ngự tinh thần chúng ta, chúng ta có cảm giác như mình là người bị hại, đối với tình huống hiện tại không có phương pháp nào khác nên trách móc và căm giận, việc này trở thành sự lựa chọn duy nhất của chúng ta.

Chúng ta bắt đầu trách móc người khác đồng thời chúng ta cũng truyền tải một yêu cầu là: “Tôi khổ như vậy là do người khác và họ phải chịu trách nhiệm về nỗi khổ này!”. Lúc đó chúng ta đem trách nhiệm trọng đại phó thác cho những người xung quanh và yêu cầu họ làm cho chúng ta vui.

Chúng ta dường như thừa nhận mình không có khả năng tự chủ lấy mình, mà chỉ có thể nhờ người nào đó xếp đặt và chi phối mình. Những người như vậy khiến nhiều người không muốn tiếp xúc, gần gũi, lý do đơn giản là bởi khi nhìn thấy họ ta chỉ thấy toàn sự trách móc, giận hờn.

Nhưng, một người biết nắm chắc chiếc chìa khóa niềm vui của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Tinh thần người đó ổn định, biết chịu trách nhiệm về chính mình không đổ lỗi cho người khác; biết làm chủ xúc cảm và biết tạo, cũng như giữ được niềm vui cho chính mình. Như thế thì trong cuộc sống và công việc hằng ngày, người đó sẽ luôn thảnh thơi, vui vẻ và không bị áp lực từ người khác.

Chiếc chìa khóa niềm vui của bạn ở đâu rồi? Đang nằm trong tay người khác phải không? Hãy nhanh lên mà lấy lại bạn nhé!

Chúc mọi người đều giữ được chiếc chìa khóa niềm vui hạnh phúc của mình!

Haley

(Dịch từ Life-goal)

From: terengocnga

& Anh chị Thụ Mai gởi

Ðiều Kỳ Diệu”

Ðiều Kỳ Diệu”

Sức mạnh con người là điều chi .
Chẳng phải gươm đao, súng đạn gì .
Nhưng là yêu thương và gắn kết .
Vượt qua được hết cảnh lâm nguy .

Chuyện cảm động về cặp song sinh 1 trai 1 gái. Trong khi bé trai khỏe mạnh, bé gái lại rất yếu và nguy kịch buộc lòng bác sỹ phải để hai bé nằm trong 2 lồng kính riêng. Nhưng một hôm, cô y tá phá lệ đặt 2 bé nằm cạnh nhau. Bất ngờ cậu anh trai giang tay ôm lấy em gái mình trong nhiều giờ đồng hồ. Kỳ diệu hơn là nhịp tim cô bé cũng bắt đầu đập bình thường, sức khỏe dần hồi phục và thoát khỏi bàn tay tử thần.
Ðôi khi sức mạnh kỳ diệu không ở đâu xa, mà chỉ đơn giản là một vòng tay ấm áp từ những người thân yêu bạn nhỉ!?

Ðó chính là “Ðiều Kỳ Diệu”

S.T.

Năm 2050: Tp. HCM trong tốp các thành phố ven biển thiệt hại vì lụt

Năm 2050: Tp. HCM trong tốp các thành phố ven biển thiệt hại vì lụt

RFI

Bão nhiệt đới Mangkhut gây ngập lụt tại Hà Nội hôm 08/08/2013.

Bão nhiệt đới Mangkhut gây ngập lụt tại Hà Nội hôm 08/08/2013.

REUTERS/Kham

Anh Vũ

Đến năm 2050, 136 thành phố ven biển lớn trên thế giới có thể sẽ bị thiệt hại tới một nghìn tỷ đô la Mỹ bởi lũ lụt nếu như không có các biện pháp đối phó quyết liệt. Thành phố Hồ Chí Minh cũng được xếp trong tốp đầu rủi ro cao. Đây là một số liệu cảnh báo đáng ngại trong một nghiên cứu do các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới tiến hành vừa được công bố ngày hôm qua 18/08/2013.

Dựa trên những dữ liệu về dân số cũng như tổn thất về nhà cửa, thương mại hay công nghiệp của 136 thành phố ven biển, bản báo cáo được đăng trên tạp chí Nature Climate Change do nhà kinh tế Stephan Hallegatte cùng các đồng nghiệp thực hiện đã đưa ra con số thiệt hại ngay từ giờ của riêng bốn thành phố Miami, New York, New Orleans (Mỹ) và Quảng Châu (Trung Quốc) đã lên tới có số là 6 tỷ đô la mỗi năm, tức chiếm 43% tổng thiệt hại do lũ lụt của các thành phố biển trên thế giới.

So sánh tỉ lệ thiệt hại với tăng trưởng dân số thành phố, khả năng phòng vệ trước lũ lụt, mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu … Nhóm chuyên gia xác định nếu các thành phố biển tăng cường đầu tư các biện pháp chống lũ thì tổng thiệt hại có thể hạn chế được ở mức độ 52 tỉ đô la mỗi năm vào năm 2050. Ngược lại trong kịch bản không có các biện pháp ứng phó tích cực, tổn thất của hơn một trăm thành phố biển nêu trên có thể vượt quá con số một nghìn tỷ đô la mỗi năm.

Nghiên cứu cho thấy kể cả khi tăng cường các biện pháp phòng chống lũ lụt, thiệt hại vẫn sẽ gia tăng. Các chuyên gia ước tính, dù có hệ thống đê điều hiện đại, đến 2050, vì lũ lụt hàng năm cách thành phố như Quảng Châu vẫn sẽ thiệt hại 13,2 tỷ, Thẩm Quyến 3,1 tỷ ; các thành phố Ấn Độ như Bombay 6,4 tỷ, Calcutta 3,4 tỷ ; Guayaquil của Ecuador 3,2 tỷ đô la…

Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam cũng bị xếp vào trong nhóm thiệt hại cao với con số 1,9 tỷ đô la xếp sau Thiên Tân của Trung Quốc, New York và Miami của Mỹ. Một con số quá nặng nề cho thủ phủ kinh tế của Việt Nam, cho dù từ nay đến đó thành phố này có đạt mức tăng trưởng kinh tế như thế nào đi chăng nữa.

Theo phân loại của nghiên cứu thì các thành phố giàu có được cho có nhiều khả năng đối phó với lũ lụt tốt hơn các thành phố nghèo thì vẫn là nơi thường xuyên bị thiên tai tàn phá. Lấy thí dụ như trường hợp thành phố Amsterdam của Hà Lan, một thành phố biển giàu có và nổi tiếng với các biện pháp phòng chống hiệu quả nhưng hàng năm vẫn bị mất đi 3 triệu đô la vì lũ lụt.

Nhà kinh tế Hallegatte cho biết 136 thành phố cần phải đầu tư hàng năm khoảng 50 tỷ đô la để cải thiện các biện pháp phòng chống lũ lụt để giảm thiểu thiệt hại hàng năm xuống còn từ 60 đến 63 tỷ đô. Mức tổn thất này được cho là có thể chấp nhận được.

Trên đây là những số liệu nghiên cứu của các chuyên gia về nguy cơ thiệt hại kinh tế do lũ lụt gây ra cho 136 thành phố ven biển trong tương lai. Nhưng lũ lụt nặng nề đã và vẫn đang xảy ra khắp nơi trên thế giới thường xuyên hơn và dữ dội hơn. Các cơn hồng thủy không chỉ đe dọa các thành phố duyên hải. Đầu mùa hè năm nay, người ta đã chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của những trận lũ lụt đổ xuống khắp vùng đông và nam Âu trong suốt nhiều tuần. Ngay lúc này, đó đây ở Trung Quốc, Philippine, Bangladesh, Pakistan hay Nga những trận lũ lụt vẫn đang liên tiếp hoành hành cướp đi sinh mạng và đe dọa cuộc sống của hàng nghìn người.

Có thể hiệu ứng nhà kính, bầu khí hậu nóng nên không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lũ lụt nhưng rõ ràng đó là những yếu tố góp phần làm gia tăng nguy cơ của hiện tượng được xếp hàng đầu trong các các tai họa thiên nhiên.