Tổng thống Chavez qua đời

Tổng thống Chavez qua đời

Thứ ba, 5 tháng 3, 2013             nguồn:BBC

Hugo Chavez

Hugo Chavez gây nhiều tranh cãi

Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã qua đời ở tuổi 58, theo tuyên bố của phó tổng thống nước này.

Ông Chavez đã không xuất hiện trước công chúng từ khi quay về nước tháng trước sau đợt điều trị ung thư ở Cuba.

Phó tổng thống Nicolas Maduro loan báo tối thứ Ba, đồng thời nói đã trục xuất hai nhà ngoại giao Mỹ vì theo dõi quân đội Venezuela.

Ông Maduro nói ông Chavez qua đời sau khi “chống chọi với cơn bệnh nặng gần hai năm”.

Ông tuyên bố không nghi ngờ rằng bệnh ung thư của ông Chavez là do các kẻ thù của Venezuela tạo ra.

Theo hiến pháp, chủ tịch quốc hội Diosdado Cabello sẽ làm tổng thống tạm quyền cho đến khi có bầu cử.

Vị Tổng thống 58 tuổi, người đã cầm quyền trong 14 năm, tiết lộ ông bị ung thư hồi tháng 6/2011.

Ông đã trải qua bốn lần phẫu thuật, cùng nhiều đợt xạ trị và hóa trị liệu.

Ông Chavez tái cử thêm một nhiệm kỳ sáu năm vào tháng 10/2012, nhưng Tòa án Tối cao phán quyết rằng tuyên thệ của ông có thể được trì hoãn vì lý do bệnh tật.

Tranh cãi

Xuất thân từ lính nhảy dù, và lần đầu tiên ông Chavez nổi lên nhờ lãnh đạo cuộc đảo chính bất thành năm 1992.

Tháng Hai năm 1992, ông Chavez lãnh đạo cuộc đảo chính bất thành nhằm lật đổ chính quyền tổng thống Carlos Andres Perez, vốn đang gặp phản ứng giận dữ của dân chúng do chính sách thắt chặt chi tiêu.

HUGO CHAVEZ

  • Sinh ngày 28/7/1954 ở Sabaneta, bang Barinas, cha mẹ đều là giáo viên.
  • Tốt nghiệp học viện quân sự năm 1975
  • Có bốn người con
  • Rất thích chơi bóng rổ

Cuộc đảo chính thất bại được bắt nguồn từ khoảng một thập kỷ trước, khi ông Chavez và một nhóm sĩ quan thành lập phong trào bí mật đặt tên theo lãnh đạo độc lập của Nam Phi: Simon Bolivar.

Khởi nghĩa 1992 khiến 18 người thiệt mạng và 60 người bị thương buộc Hugo Chavez phải ra đầu thú.

Ông bị giam tới tiều tụy trong một trại quân tù, trong khi các cộng tác của ông ở bên ngoài chiến đấu giành chính quyền chín tháng sau đó.

Cuộc đảo chính lần hai này, vào tháng 11 năm 1992, cũng bị đập tan.

Ông Chavez ngồi tù hai năm thì được lệnh ân xá. Ngay lập tức ông thành lập đảng mới, gọi là Phong trào Cộng hòa lần Năm, và dần chuyển từ lính tráng thành dân chính trị.

Trong thời gian Hugo Chavez gom góp quyền lực cho cuộc bầu cử năm 1998, chính quyền Venezuela cũ đã tan đàn xẻ nghé.

Từ đó, ông Chavez thắng hàng loạt các cuộc tranh cử và trưng cầu dân ý, gồm cả việc thông qua thay đổi hiến pháp về nhiệm kỳ tổng thống.

Những người ủng hộ nói rằng, ông là đại diện cho dân nghèo; còn phe chỉ trích cho rằng ông ta ngày càng chuyên quyền.

Hugo Chavez: Những mốc chính

  • 02/1999: Nhận chức sau thắng cử năm 1998
  • 07/2000: Tái đắc cử dưới hiến pháp mới về nhiệm kỳ tổng thống 6 năm
  • 04/2002: Đảo chính bất thành. Chavez trở lại nắm quyền chỉ sau 2 ngày
  • 08/2004: Thắng trưng cầu dân ý về việc ông có được tại vị tới hết nhiệm kỳ
  • 12/2006: Thắng nhiệm kỳ 6 năm với 63% phiếu bầu
  • 12/2007: Thất bại trong trưng cầu dân ý cho hiến pháp mới về nhiệm kỳ tổng thống vô thời hạn
  • 02/2009: Thắng trưng cầu dân ý về tăng thời hạn nhiệm kỳ cho các công chức đắc cử
  • 09/2010: Đảng ông Chavez thắng đa số trong bầu cử Quốc viện, nhưng đảng đối lập cũng nắm tới 40% số ghế
  • 06/2011: Tiết lộ thông tin ông phải điều trị ung thư
  • 02/2012: Trải qua cuộc phẫu thuật thứ hai ở Cuba
  • 10/2012: Tái đắc cử nhiệm kỳ tổng thống 6 năm

Ông Chavez hứa thực hiện “cách mạng” chính sách xã hội, và thường xuyên chỉ trích những “tên đầu sỏ chính trị” làm mất đi hình ảnh về giới cầm quyền, trở thành “tay sai của bọn tư bản quốc tế”.

Chưa từng bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để được xuất hiện trước công chúng, ông có lần gọi các chủ tập đoàn khai thác dầu là ‘những kẻ sống trong biệt thự xa hoa, nơi họ ngủ tập thể với nhau, và uống whisky”.

Ông Chavez cũng thường xuyên va chạm với giới lãnh đạo nhà thờ, nhóm bị ông buộc tội là lờ đi những người nghèo, đánh bạn với đảng đối lập, và bảo vệ quyền lợi của người giàu.

“Họ không đi theo… con đường của Chúa,” ông Chavez từng nói trong một bài phát biểu.

Mối quan hệ với Hoa Kỳ trở nên tồi tệ chưa từng có, khi ông buộc tội chính quyền Bush “dùng khủng bố để đối chọi khủng bố” trong cuộc chiến với Afghanistan sau vụ 11/9 năm 2001.

Ông Chavez nói Hoa Kỳ hậu thuẫn một cuộc đảo chính ngắn khiến ông phải rời văn phòng vài ngày vào năm 2002.

Ông sống sót qua thời kỳ này và trở nên mạnh mẽ hơn hai năm sau đó trong cuộc trưng cầu dân ý về giới lãnh đạo. Đến năm 2006, ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela.

Chính quyền Chavez thực thi một số “nhiệm vụ” về chính sách xã hội, trong đó có giáo dục và dịch vụ y tế cho cộng đồng. Nhưng nghèo đói và thất nghiệp vẫn lan tràn mặc cho trữ lượng dầu mỏ lớn mà nước này sở hữu.

CHẶNG ĐƯỜNG

CHẶNG ĐƯỜNG
Description: stairway-to-heaven

Chặng đường anh đã đi
Nơi đó anh đã đến
Chặng đường tôi đang đi
Mong luôn đi cùng Ngài

Tất cả đều là những chặng đường mà mỗi người chúng ta phải trải qua, các Thánh nam nữ của Ngài đã đi và đã đến, và các Thánh vẫn tiếp tục dìu dắt chúng ta đi quãng đường còn lại với Ngài và trong Ngài.  Con đường duy nhất dẫn chúng ta đến nơi chúng ta mong mỏi đến là qua Chúa Giêsu.  Có ai đi quãng đường đời có nhiều ngóc nghách mà không bị lạc bao giờ?  Có ai mà đi qua đoạn đường có nhiều thú vui mà lại không muốn dừng chân?  Có lẽ phần đông chúng ta cũng đang đi con đường như người phụ nữ thành Samari, và mong muốn được đến nơi mà cô đã đến.
Câu chuyện của người phụ nữ thành Samari là câu chuyện đi tìm Đấng Sinh Thành của mỗi một người chúng ta, vì chỉ trong Đấng Sinh Thành chúng ta mới tìm được cội nguồn thật, và chỉ có nơi đó chúng ta mới thật sự tìm được chính mình.  Hành trình đi tìm của mỗi người khác nhau, và chỉ có trong sự tĩnh lặng riêng tư của tâm hồn, chúng ta mới biết được mình đã gặp được Đấng đó chưa, và nếu đã gặp rồi chúng ta đang có ở trong Ngài không.  Chặng đường này là chặng đường của mỗi người, dầu là của những cụ già tóc bạc, hay là của các em mới lớn lên, dầu là người đã lập gia đình, hay là đang sống độc thân, hay trong bậc tu trì, tất cả chúng ta cần phải đi chặng đường này với Ngài.  Nếu ai trong chúng ta sống gần gũi với Ngài và để cho Ngài dìu dắt thì Ngài sẽ dẫn chúng ta vào bậc sống mà Ngài chọn cho mỗi một người chúng ta, bậc sống nào cũng ở trong Ngài và bậc sống nào cũng thánh thiện và tốt đẹp.  Và trong mỗi bậc sống, chúng ta tiếp tục đồng hành với Ngài, không phải chỉ một vài ngày nhưng đi với Ngài mọi ngày trong suốt con đường còn lại của ta, vì khoảnh khắc nào chúng ta đi ra khỏi Ngài, chính lúc đó chúng ta đã lạc lối.

Người phụ nữ thành Samari cũng đã trải qua chặng đường tìm kiếm.  Mỗi đời chồng là mỗi lần tìm kiếm.  Cứ mỗi một đời chồng đi qua có lẽ sự tìm kiếm của cô khẩn trương và sâu xa hơn, và chắc cũng đã nhiều lần cô cảm thấy tuyệt vọng vì sau những lần tưởng mình đã tìm được nhưng sao tâm hồn vẫn thấy còn trống vắng.  Thế nhưng cô đã không bỏ cuộc và vẫn cứ đi tìm.  Có lẽ tâm hồn của cô thôi thúc cô tiếp tục đi tìm vì nó mong muốn được gặp Đấng Sinh Thành.  Những tìm kiếm mà người phụ nữ này đã trải qua không xa lạ gì với chúng ta.  Có người cũng giống như cô và đã đi tìm kiếm trong tình người.  Có người đi tìm trong tiền tài danh vọng.  Có kẻ đi tìm qua những chai rượu.  Có người mải mê trong những vật trang sức và đồ hiệu mắc tiền, và có kẻ đi tìm trong sự hiểu biết trí tuệ.  Đã biết bao nhiêu lần chúng ta đi tìm Đấng Sinh Thành không phải ở chính nơi Ngài nhưng ở những thụ tạo của Ngài.

Cũng vì muốn được thoả mãn những ao ước bên trong, người phụ nữ thành Samari chẳng ngại cái nắng gắt của buổi trưa ở miền sa mạc, và đã lên đường đi tìm một cái gì đó mà tâm hồn của cô luôn khát khao.  Có lẽ Gioan đã mượn hình ảnh “mười hai giờ trưa” để nói lên sự khát khao tột đỉnh của cô, và vì không thể chần chờ được nữa, cô đã ra đi.  Cô đi đến nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã từng đến, uống nước mà tổ phụ của cô đã từng uống, và mong sao bên bờ giếng và trong giòng nước này cô tìm kiếm được một chút cội nguồn mà tâm hồn của cô hằng khắc khoải mong chờ.  Chính bên bờ giếng này, cô đã gặp được Đấng Sinh Thành của cô, của tổ phụ Gia-cóp, và của mọi loài tạo vật.  Ngài đã ở đó chờ cô.  Một cuộc đối thoại giữa Ngài và cô đã xảy ra, và Ngài là người khởi đầu câu chuyện .  Thoạt đầu, cô đã có những dị nghị và thắc mắc, nhưng Chúa Giêsu đã ôn tồn nhẫn nại giúp cô nhận ra Ngài là ai, và dạy cho cô con đường dẫn đến sự thật, “Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.  Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Jn 4:23-24).

Con đường đi tìm Đấng Sinh Thành là vậy đó, cũng có lúc tâm hồn chúng ta cũng nóng bỏng lên vì sự trống vắng khi chưa tìm được cội nguồn, khi chúng ta còn lang thang bên những thụ tạo của Ngài.  Trong những lúc trống vắng nóng bỏng của tâm hồn, chúng ta hãy đến với Ngài trong tâm tình của một người đang đi tìm kiếm, và thưa với Ngài những khao khát trong tâm hồn của chúng ta.  Chúng ta hãy khiêm nhường đến với Ngài trong Bí Tích Thánh Thể vì đó là cội nguồn của chúng ta.  Ngài luôn ở đó chờ ta, và trong tình yêu thương của một người Cha, Ngài cũng sẽ khởi đầu câu chuyện và dẫn ta về với Ngài.  Như người phụ nữ thành Samari, chúng ta cũng sẽ có những lo âu dị nghị khi cuộc sống của chúng ta thay đổi.  Chúng ta cũng sẽ có những thắc mắc khi cái nhìn và đường lối của Ngài khác với cái nhìn của ta và những gì chúng ta thường làm, và có lẽ cũng như người phụ nữ kia, chúng ta cũng lắm lúc dám thách thức Ngài khi chúng ta chưa hiểu con đường Ngài dẫn chúng ta đi.  Khi đó Ngài cũng sẽ ôn tồn kiên nhẫn dạy cho chúng ta biết Ngài là Đấng Sinh Thành, và Ngài chắc cũng chẳng ngại về những thách thức của ta, vì qua những thắc mắc và thách thức Ngài dạy cho ta biết rõ ta là ai và Ngài là ai.  Khi gặp được Ngài chúng ta sẽ tìm được cội nguồn, và khi chúng ta luôn ở trong Ngài, tâm hồn chúng ta sẽ không còn nóng bỏng lên vì sự trống vắng nữa.  Khi “giờ đã đến,” Ngài cũng sẽ dạy cho chúng ta thờ phượng Ngài trong ánh sáng và sự thật, trong yêu thương đồng loại và sự khiêm nhường của loài thụ tạo.

Trong cuộc đối thoại giữa Ngài và người phụ nữ, Chúa Giêsu đã nhắc lại hành trình đi tìm kiếm của cô, những khắc khoải mà cô đã phải chịu trong bao năm và người phụ nữ đã nhận ra Ngài là Đấng Kitô.  Đây là giây phút huyền nhiệm khi tâm hồn của cô cảm nhận được sự cảm thông của một người Cha luôn dõi theo con cái của Ngài.  Không phải Ngài đã biết được những gì đã xảy ra trong đời của cô vì Ngài là một đấng tiên tri như cô đã hiểu lúc ban đầu, nhưng Ngài biết vì trong đời của cô luôn có sự hiện diện của Đấng Sinh Thành.  Cũng vậy, mỗi bước hành trình của ta đều có Ngài.  Ngài luôn bước đi bên ta trong âm thầm và chờ đợi sự trở về của ta với Ngài.  Đã bao nhiêu lần trong đời ta, Ngài đã đến và chạm vào bờ vai và ta đã nhún vai phủ nhận sự hiện diện của Ngài và rồi tiếp tục đi con đường ta đang đi mặc cho những thôi thúc khắc khoải trong tâm hồn?  Dầu chúng ta có đối xử lạnh nhạt với Ngài thế nào đi nữa, Ngài luôn ở bên ta vì “Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2Tm 2:13).  Làm sao Ngài có thể bỏ ta được khi ta mang lấy hình ảnh của chính Ngài và sức sống của ta chính là sức sống của Ngài?
Mùa Chay là mùa Giáo Hội nhắc nhở mỗi một người chúng ta bất kỳ đang ở trong bậc sống nào biết nhìn lại chặng đường của mình đang đi và xem xét lại đã bao lần Ngài đã đến và chạm lấy bờ vai ta nhưng ta vẫn làm ngơ hoặc biết nhưng vẫn chối từ.  Có lẽ đây là dịp chúng ta ngồi lại với chính mình trong cõi riêng tư và xin Ngài cho chúng ta được một lần gặp gỡ Ngài như Ngài đã cho người phụ nữ thành Samari gặp gỡ Ngài bên bờ giếng, để rồi mỗi một người chúng ta cũng sẽ chứng kiến được giây phút huyền nhiệm khi tâm hồn ta gặp được Đấng Sinh Thành, và chúng ta sẽ trở nên những người thờ phượng Thiên Chúa Cha đích thực như tâm hồn chúng ta hằng mong muốn.

Củ Khoai 3/2013

Anh chị Thụ & Mai gởi

Bài học marketing từ người ăn xin

Bài học marketing từ người ăn xin

Đăng bởi lúc 6:39 Sáng 5/03/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (05.03.2013) – Internet – Tôi xách túi đồ nhãn hiệu Levi’s ra khỏi Plaza rồi đứng lại ở cửa chờ bạn. Một tay ăn mày chuyên nghiệp phát hiện ra tôi, sán tới đứng trước mặt. Câu chuyện của tôi chỉ có thế thôi. Thế nhưng, tay ăn mày đã dạy tôi một bài học kinh tế còn sâu sắc hơn một khóa học tại chức kinh tế ở trường. Tôi kể câu chuyện này chính bởi ý nguyện của tay ăn mày đó.

– Xin anh… cho tôi ít tiền đi!

Tôi đứng đó chả có việc gì nên tiện tay vứt cho hắn đồng tiền xu, rồi bắt chuyện cùng nhau. Ăn mày rất thích kể lể.

– Tôi chỉ ăn mày quanh khu mua sắm này thôi, anh biết không? Tôi chỉ liếc một phát là thấy anh ngay. Đi mua Levi’s ở Plaza chắc chắn nhiều tiền…

– Hả? Ông cũng hiểu đời phết nhỉ! – Tôi ngạc nhiên.

– Làm ăn mày, cũng phải ăn mày cho nó có khoa học. – Ông ta bắt đầu mở máy.

Tôi ngẫm nghĩ một lát, thấy thú vị bèn hỏi:

– Thế nào là ăn mày một cách khoa học?

Tôi nhìn kỹ ông ta, đầu tóc rối bù, quần áo rách nát, tay gầy giơ xương, nhưng lại sạch sẽ.

Ông ta giảng giải:

– Ai chẳng sợ và ghét ăn mày, nhưng tôi tin anh không ghét tôi, tôi đoan chắc điều đó. Đấy là điểm tôi khác biệt với những thằng ăn mày khác.

Tôi gật đầu đồng ý, đúng là tôi không ghét ông ta, nên tôi đang nói chuyện với ông ta đấy thôi.

– Tôi biết phân tích SWOT, những ưu thế, bất lợi, những cơ hội và nguy cơ. Đối mặt với những thằng ăn mày là đối thủ cạnh tranh của tôi, ưu thế (Strengths) của tôi là tôi không làm người ta phản cảm, lánh sợ. Cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) thì chỉ là những yếu tố điều kiện bên ngoài thuộc về hoàn cảnh, có thể là dân số ở đây đông hay vắng, thành phố có quyết định chỉnh trang đô thị, dẹp hè phố chăng… Tôi đã từng tính toán rất cụ tỉ (cụ thể và tỉ mỉ) rằng, khu vực thương mại này người qua lại đông, mỗi ngày khoảng mười nghìn người, nghèo thì nhiều lắm, nhưng người giàu còn nhiều hơn. Trên phương diện lý luận, giả như mỗi ngày tôi xin được mỗi người một tờ một nghìn đồng, thì mỗi tháng thu nhập của tôi đã được ba trăm triệu đồng. Nhưng thực tế, đâu phải ai cũng cho ăn mày tiền, mà một ngày làm sao tôi đi xin được mười nghìn lượt người. Vì thế, tôi phải phân tích, ai là khách hàng mục tiêu của tôi, đâu là khách hàng tiềm năng của tôi.

Ông ta lấy giọng nói tiếp:

– Ở khu Plaza này, khách hàng mục tiêu của tôi chiếm khoảng 30% số lượng người mua sắm, tỉ lệ thành công khoảng 70%. Lượng khách hàng tiềm năng chiếm khoảng 20%, tỉ lệ thành công trên đối tượng này khoảng 50%. Còn lại 50% số người, tôi chọn cách là bỏ qua họ, bởi tôi không có đủ thời gian để tìm vận may của mình với họ, tức là xin tiền họ.

– Thế ông định nghĩa thế nào về khách hàng của ông? – Tôi căn vặn.

– Trước tiên, khách hàng mục tiêu nhé. Thì những nam thanh niên trẻ như anh đấy, có thu nhập, nên tiêu tiền không lưỡng lự. Ngoài ra, các đôi tình nhân cũng nằm trong đối tượng khách hàng mục tiêu của tôi, họ không thể mất mặt trước bạn khác phái, vì thế đành phải ra tay hào phóng. Rồi tôi chọn các cô gái xinh đẹp đi một mình là khách hàng tiềm năng, bởi họ rất sợ bị lẽo đẽo theo, chắc chắn họ chọn cách bỏ tiền ra cho rảnh nợ. Hai đối tượng này đều thuộc tầm tuổi 20-30. Nếu tuổi khách hàng nhỏ quá, họ không có thu nhập, mà tuổi già hơn, thì họ có thể đã có gia đình, tiền bạc bị vợ cầm hết rồi. Những ông chồng đó biết đâu có khi đang âm thầm tiếc hận rằng không thể ngửa tay ra xin tiền của tôi ấy chứ!

– Thế thì mỗi ngày ông xin được bao nhiêu tiền?

– Thứ hai đến thứ sáu, sẽ kém một chút, khoảng hai trăm nghìn. Cuối tuần thậm chí có thể 400-500 nghìn.

– Hả? Nhiều vậy sao?

Thấy tôi nghi ngờ, ông ta tính cho tôi thấy:

– Tôi cũng khác gì anh, tôi cũng làm việc tám giờ vàng ngọc. Buổi sáng từ 11h đến tối 7h, cuối tuần vẫn đi làm như thường. Mỗi lần ăn mày một người tôi mất khoảng 5 giây, trừ đi thời gian tôi đi lại, di chuyển giữa các mục tiêu, thường một phút tôi xin được một lần được một nghìn, 8 tiếng tôi xin được 480 nghìn, rồi tính với tỉ lệ thành công 60% [(70%+50%)÷2] thì tôi được khoảng 300 nghìn. Chiến lược ăn mày của tôi là dứt khoát không đeo bám khách chạy dọc phố. Nếu xin mà họ không cho, tôi dứt khoát không bám theo họ. Bởi nếu họ cho tiền thì đã cho ngay rồi, nếu họ cho vì bị đeo bám lâu, thì tỉ lệ thành công cũng nhỏ. Tôi không thể mang thời gian ăn mày có giới hạn của tôi để đi lãng phí trên những người khách này, trong khi tôi có thể xoay ngay sang mục tiêu bên cạnh…

Trời, tay ăn mày này có đầu óc quá đi, phân tích như thể giám đốc kinh doanh hoặc giám đốc tiếp thị vậy.

– Ông nói tiếp đi! – Tôi hào hứng.

– Có người bảo ăn mày có số may hay xui, tôi không nghĩ thế. Lấy ví dụ cho anh nhé, nếu có một thanh niên đẹp trai và một phụ nữ xinh đẹp đứng trước cửa shop đồ lót mỹ phẩm, thì anh sẽ chọn ai để ăn mày?

Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo, tôi không biết.

– Anh nên đi đến xin tiền anh thanh niên kia. Vì đứng bên anh ta là một phụ nữ đẹp, anh ta chẳng lẽ lại không cho ăn mày tiền. Nhưng nếu anh đi xin cô gái đẹp, cô ta sẽ giả vờ là ghê sợ anh rồi lánh xa anh. Thôi cho anh một ví dụ nữa: Hôm nọ đứng ở cửa siêu thị BigC, có một cô gái trẻ tay cầm túi đồ vừa mua từ siêu thị, một đôi nam nữ yêu nhau đang đứng ăn kem, và một anh chàng đóng bộ công chức chỉnh tề, tay xách túi đựng máy tính xách tay. Tôi chỉ nhìn họ ba giây, sẽ không ngần ngừ bước thẳng tới mặt cô gái trẻ xin tiền, cô gái cho tôi hẳn hai ngàn, nhưng ngạc nhiên hỏi tôi tại sao chỉ xin tiền có mỗi cô ta. Tôi trả lời rằng, cái đôi tình nhân kia đang ăn, họ không tiện rút ví ra cho tiền; anh kia trông có vẻ lắm tiền, trông như sếp, nhưng vì thế trên người họ thường không có sẵn tiền lẻ. Còn cô vừa mua sắm ở siêu thị ra, cô tất còn ít tiền thừa, tiền lẻ.

Chí lý, tôi càng nghe tay ăn mày nói càng tỉnh cả người ra.

– Cho nên tôi bảo rồi, tri thức quyết định tất cả!

Tôi nghe sếp tôi nói bao lần câu này, nhưng đây là lần đầu tôi nghe một thằng ăn mày nói câu này.

– Ăn mày cũng phải mang tri thức ra mà ăn mày. Chứ ngày ngày nằm ệch ra ở xó chợ, cầu thang lên đường vượt giao lộ, xin ai cho được tiền? Những người đi qua giao lộ, chạy qua cổng chợ đều vội vàng hoặc cồng kềnh, ai ra đấy mà chơi bao giờ, ra đấy xin chỉ mệt người. Phải trang bị tri thức cho chính mình, học kiến thức mới làm người ta thông minh lên, những người thông minh sẽ không bao giờ ngừng học hỏi kiến thức mới. Thế kỷ 21 rồi, bây giờ người ta cần gì, có phải là cần nhân tài không?

Có lần, có một người cho tôi hẳn 50 nghìn, nhờ tôi đứng dưới cửa sổ gào: “Hồng ơi, anh yêu em”, gào 100 lần. Tôi tính ra gọi một tiếng mất 5 giây, thời gian cũng tương tự như tôi đi ăn mày một lần, nhưng lợi nhuận đạt được chỉ 500 đồng, còn kém đi ăn mày, thế là tôi từ chối.

Ở đây, nói chung một tay ăn mày một tháng có thể đi xin được một nghìn hoặc tám trăm lần. Người nào may mắn thì cùng lắm đi xin được khoảng hai nghìn lần. Dân số ở đây khoảng ba triệu, ăn mày độ chục anh, tức là tôi cứ khoảng mười nghìn người dân mới ăn mày một người. Như thế thu nhập của tôi ổn định, về cơ bản là cho dù kinh tế thế giới đi lên hay đi xuống, tình hình xin tiền của tôi vẫn ổn định, không biến động nhiều….

Trời, tôi phục tay ăn mày này quá!

– Tôi thường nói, tôi là một thằng ăn mày vui vẻ. Những thằng ăn mày khác thường vui vì xin được nhiều tiền. Tôi thường bảo chúng nó là, chúng mày nhầm rồi. Vì vui vẻ thì mới xin được nhiều tiền chứ.

Quá chuẩn!

– Ăn mày là nghề nghiệp của tôi, phải hiểu được niềm vui do công việc của mình mang lại. Lúc trời mưa, ít người ra phố, những thằng ăn mày khác đều ủ rũ oán trách hoặc ngủ. Đừng nên như thế, hãy tranh thủ mà cảm nhận vẻ đẹp của thành phố! Tối về, tôi dắt vợ và con đi chơi ngắm trời đêm, nhà ba người nói cười vui vẻ, có lúc đi đường gặp đồng nghiệp, tôi có khi cũng vứt cho họ một đồng xu, để thấy họ vui vẻ đi, nhìn họ như nhìn thấy chính mình.

– Ối ông cũng có vợ con?

– Vợ tôi ở nhà làm bà nội trợ, con tôi đi học. Tôi vay tiền ngân hàng mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, trả nợ dần trong mười năm, vẫn còn sáu năm nữa mới trả hết. Tôi phải nỗ lực kiếm tiền, con tôi còn phải học lên đại học, tôi sẽ cho nó học Quản trị kinh doanh, Marketing, để con tôi có thể trở thành một thằng ăn mày xuất sắc hơn bố nó.

Tôi buột miệng:

– Ông ơi, ông có thu nhận tôi làm đệ tử không?…..

Sưu Tầm

từ internet

SÂN QUÊ,

SÂN QUÊ,

Bờ tre bụi chuối sau hè,
Trưa về trẻ nhóm hát vè nhảy dây,
Khoai lùi bắp nướng trái cây,
Nhà ai vách đất khói bay lửng lờ,
Trò chơi chóng lớn đơn sơ,
Tình quê chan chứa ngập bờ con tim,
Sân nhà nắng đổ im lìm,
Đòng đưa kẽ lá mây ghìm giọt mưa,
Người ơi ! Thương quá hương xưa,
Xa quê ấp ủ sao vừa nhớ nhung…

Liverpool.1/3/2013.
Song Như.

Kính chúc vui vẻ…KT.

ĐTC: Con thuyền Giáo Hội là của Chúa, Người luôn điều khiển và không để nó chìm.

ĐTC: Con thuyền Giáo Hội là của Chúa, Người luôn điều khiển và không để nó chìm.

Linh Tiến Khải

2/27/2013                                                       nguồn:vietcatholic.net

Con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm. Chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn cả qua các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội nhất là trong những lúc khó khăn. Người luôn ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 170.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 27-2-2013. Thật thế, buổi tiếp kiến sáng 27-2-2013 đã là buổi gặp gỡ cuối cùng với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong triều đại của ngài, vì vào lúc 20 giờ tối thứ năm 28-2-2013 giờ Roma, Đức Thánh Cha kết thúc nhiệm vụ giáo hoàng. Tông Tòa sẽ trống ngôi, và trong vài ngày nữa, có thể là thứ hai tuần tới đây Đức Hồng Y Nhiếp Chính sẽ chủ sự buổi họp của Hồng Y Đoàn để quyết định ngày khai mạc Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng mới.

Đáng lý ra trong mùa này buổi tiếp kiến sáng thứ tư diễn ra trong đại thính đường Phaolô VI, nhưng để nhiều tín hữu có thể tham dự buổi gặp gỡ vị Cha chung lần cuối cùng, buổi tiếp kiến đã được tổ chức tại quảng trường thánh Phêrô. Trời Roma trong xanh có nắng ấm rất đẹp, như thể mùa xuân đã bắt đầu. Ngay từ 5 giờ sáng, hàng trăm xe buýt chở các đoàn hành hương từ các giáo phận Italia hay từ các nước khác đã đổ tìn hữu xuống quanh quảng trường thánh Phêrô, để mọi người xếp hàng đi qua các trạm kiểm soát diện tử vào quảng trường. Phủ giáo hoàng đã phân phát 50.000 vé, nhưng số tín hữu tham dự đã lên tới 170.000, đặc biệt có rất đông sinh viên học sinh và các bạn trẻ. Các Đại học giáo hoàng Roma đều cho sinh viên nghỉ để có thể tham dự buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha, và cùng với tín hữu khắp nơi bầy tỏ lòng yêu mến, tình liên đới, sự gắn bó gần gũi và biết ơn ngài, vì những gì Đức Thánh Cha đã cống hiến cho Giáo Hội và cho toàn thế giới trong các năm qua.

Nhiều đoàn tìn hữu mặc áo mầu đồng phục hay có mũ, khăn và cờ để dễ nhận ra nhau. Các đoàn tín hữu đã mang theo rất nhiều cờ, cờ Tòa Thánh cũng như cờ quốc gia, và nhiều biểu ngữ viết tên thành phố của họ và các câu như: ”Cám ơn Đức Thánh Cha Biển Đức XVI”, ”Ngài luôn luôn là Phêrô và giới trẻ chúng con yêu mến ngài”, ”Thưa Đức Thánh Cha, chúng con yêu mến ngài”, ”Chúng con gần gũi ngài”, ”Luôn luôn với Đức Giáo Hoàng”, ”Can ơn Đức Thánh Cha nhiều lắm” vv…

Sau khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã có buổi tiếp kiến chung lần đầu tiên ngày 27 tháng 4 năm 2005. Trong gần 8 năm làm Giáo Hoàng ngài đã có 348 buổi tiếp kiến chung với 5.116.600 tín hữu tham dự. Số tín hữu tham dự đông nhất là vào năm 2006 với 45 buổi tiếp kiến và 1.031.500 người. Trong năm đầu đã có 32 buổi tiếp kiến với 810.000 người tham dự. Các năm khác đã có từ 42 tới tới 45 buổi tiếp kiến với con số tham dự xê xích từ 447.000 tới 729.000 người.

Riêng cho buổi tiếp kiến lịch sử sáng thứ tư 27-2-2013, ban kỹ thuật Tòa Thánh đã dựng thêm 4 màn truyền hình khổng lồ khác để cho các tín hữu đứng ở đường Hòa Giải cũng có thể theo dõi. Hiên diện trong buổi tiếp kiến cuồi cùng sáng 27-2 ngoài khoảng 70 Hồng Y, hàng chục Tổng Giám Mục, Giám Mục, các Đức Ông thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, hàng ngàn Linh Mục tu sĩ nam nữ các dòng tu và các trường quốc tế, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, còn có Đại quận công thừa kế Guillaume nước Luxembourg, tổng thống Slovac Ivan Gasparovic và phái đoàn, ông Horst Seehofer, thống đốc bang Bavière Nam Đức và phái đoàn, ông Renato Balduzzi Bộ trưởng Y tế Italia, ông Jorge Fernandez Diaz, Bộ trưởng Nội vụ Tây Ban Nha, chị Maria Voce, lãnh đạo phong trào Tổ Ấm, Anh Kiko Argello, lãnh đạo phong trào Con đường tna dự tòng, thầy Alois Đan viên trưởng Đan viện đại kết Taizé vv…

Đã có hàng chục đoàn hành hương giáo phận Italia do chính các Tổng Giám Mục và Giám Mục hướng dẫn. Trong các phái đoàn hiện diện củng có một nhóm tín hữu Việt Nam từ Đức.

Trong buổi tiếp kiến hôm qua đã không có nghi thức hôn tay Đức Giáo Hoàng như thường lệ. Nhưng sau đó tại phòng Clemente một só nhân vật quan trọng có thể đến chào Đức Thánh Cha và hôn tay ngài.

Trong suốt mấy tiếng đồng hồ chờ đợi Đức Thánh Cha, các sinh viên học sinh và bạn trẻ đã liên tục gọi tên Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, hát xướng và vỗ tay, trong bầu khí của lễ hội, giống như trong các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Lúc 10 giờ các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khánh Tòa Thánh đã chào tín hữu và giới thiệu các nhóm tham dự. Khi nghe xướng tên nhóm mình tín hữu, đặc biệt là các bạn trẻ, đã hô to lên.

Lúc 10 giờ 40 xe díp trắng chở Đức Thánh Cha Biển Đức XVI xuất hiện từ phía trái Đền Thờ Thánh Phêrô giữa tiếng vỗ tay của tín hữu, những tràng pháo tay xem ra e dè hơn và đượm một nỗi buồn nào đó. Xe chở Đức Thánh Cha đi một vòng giữa các lối đi ở quảng trường để ngài chào tín hữu, trước khi lên khán đài chính giữa thềm đền thờ thánh Phêrô.

Sau khi Đức Thánh Cha làm dấu thánh giá khai mạc buổi tiếp kiến, các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đọc bài Sách Thánh trích từ chương 1 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Mở đầu bài huấn đụ Đức Thánh Cha cám ơn tín hữu đã đến đông đảo như vậy để tham dự buổi tiếp kiến cuối cùng trong triều đại giáo hoàng của ngài. Đức Thánh Cha nói: ”Như tông đồ Phaolô trong văn bản kinh thánh chúng ta vừa nghe, tôi cũng cảm thấy trong tim tôi nhất là phải cám ơn Thiên chúa, là Đấng dẫn dắt và làm cho Giáo Hội lớn lên, là Đấng gieo vãi Lời Người và như thế đưỡng nuôi đức tin Dân Người. Trong lúc này đây tâm hồn tôi nới rộng ra để ôm trong vòng tay toàn thể Giáo Hội rải rác trên thế giới; và tôi cảm tạ Thiên Chúa vì các ”tin tức”, mà trong các năm này của sứ vụ Phêrô tôi đã có thể nhận được liên quan tới niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, và về tình bác ái luân lưu trong Thân Mình của Giáo Hội và khiến cho nó sống trong tình yêu và niềm hy vọng, rộng mở chúng ta và hướng chúng ta tới cuộc sống tràn đầy, tới quê hương trên Trời. Tôi cảm thấy mình mang tất cả mọi người trong lời cầu nguyện, trong một hiện tại là hiện tại của Thiên Chúa, nơi tôi tiếp nhận mọi cuộc gặp gỡ, mọi chuyến du hành và mọi cuộc viếng thăm mục vụ. Tất cả và mọi người tôi đều đón nhận trong lời cầu nguyện để tín thác cho Chúa: để chúng ta am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết tinh thần, và để chúng ta có thể có cung cách hành xử xứng đáng với Người, với tình yêu thương của Người, bằng cách mang lại hoa trái trong mọi việc lành (Cl 1,9-10).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Trong lúc này đây, trong tôi có một sự tin tưởng lớn lao, bởi vi tôi biết chúng ta tất cả đều biết rằng Lời chân lý của Tin Nừng là sức mạnh của Giáo Hội, là sự sống của Giáo Hội. Tin Mừng thanh tẩy và canh tân, đem lại hoa trái, bất cứ nơi đâu cộng đoàn tín hữu biết lắng nghe và tiếp nhận ơn thánh Chúa trong chân lý và sống trong tình bác ái. Đó là sự tin tưởng của tôi, đó là niềm vui của tôi. Ngày 19 tháng Tư cách đây gần 8 năm, khi tôi đã chấp thuận lãnh nhận sứ vụ Phêrô, tôi đã có sự chắc chắn này và nó đã luôn đồng hành với tôi. Trong lúc này đây, cũng như tôi đã nói lên nhiều lần, các lời đã vang lên trong tim tôi: Lậy Chúa, Chúa xin con điều gì? Đây là một gánh nặng lớn mà Chúa đặt lên vai con, nhưng nếu Chúa xin con, thì dựa trên lời Chúa con sẽ thả lưới, chắc chắn rằng Chúa sẽ hướng dẫn con. Và Chúa đã thực sự hướng dẫn tôi, gần gũi tôi, tôi đã có thể nhận thấy hằng ngày sự hiện diện của Người.” Nhìn lại gần 8 năm triều đại giáo hoàng của người Đức Thánh Cha nói: ”Đó đã là một đoạn đường của Giáo Hội, có những lúc vui, có ánh sáng, nhưng cũng có những lúc không dễ dàng. Tôi đã cảm thấy như thánh Phêrô với các Tông Đồ trong con thuyền trên hồ Galilea: Chúa đã cho chúng ta biết bao nhiêu ngày có mặt trời và gió mát hiu hiu, những ngày trong đó đã đánh được đầy cá; nhưng cũng có những lúc trong đó nước động và gió ngược, như trong suốt lịch sử của Giáo Hội và xem ra Chúa ngủ. Nhưng tôi đã luôn luôn biết rằng trong con thuyền ấy có Chúa và tôi đã luôn luôn biết rằng con thuyền Giáo Hội không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa, và Người không để cho nó chìm; chính Chúa điều khiển nó, chắc chắn qua cả các người mà Người đã chọn, bởi vì Người đã muốn như thế. Đây đã và hiện là một sự chắc chắn, mà không gì có thể làm lu mờ. Và chính vì thế mà hôm nay tim tôi tràn đầy sự cảm tạ Thiên Chúa, bởi vì Người đã không bao giờ để cho Giáo Hội, và cho cả tôi nữa, phải thiếu sự ủi an, ánh sáng và tình yêu của Người.”

Đề cập tới Năm Đức Tin đang tiến hành Đức Thánh Cha nói: ”Chúng ta đang ở trong Năm Đức Tin mà tôi đã muốn để củng cố đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa, trong một bối cảnh xem ra ngày càng đặt để lòng tin vào hàng thứ yếu. Tôi muốn mời gọi từng người cảm thấy được yêu thương bởi Thiên Chúa, là Đấng đã ban Con Người cho chúng ta và đã cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Người. Tôi muốn từng người cảm thấy niềm vui được là kitô hữu. Có một lời cầu đẹp cần đọc mỗi sáng nói rằng: ”Lậy Thiên Chúa của con, con thờ lậy Chúa, và con yêu mến Chúa với tất cả trái tim con. Con cảm tạ Chúa đã tạo dựng nên con, đã cho con là tín hữu kitô…”. Vâng, chúng ta hài lòng vì ơn đức tin; đó là thiện ích lớn lao nhất, mà không ai có thể lấy mất! Chúng ta cảm tạ Chúa về ơn đó mỗi ngày, với lời cầu nguyện và với một cuộc sống kitô trung thực. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhưng cũng chờ đợi chúng ta yêu thương Người!”

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cám ơn các cộng sự viên và mọi thành phần dân Chúa và nói: ”Nhưng trong lúc này tôi không chỉ muốn cảm tạ Thiên Chúa mà thôi. Một Giáo Hoàng không một mình hướng dẫn con thuyền của Phêrô, cả khi trách nhiệm đầu tiên là của người; và tôi đã không bao giờ cảm thấy cộ đơn trong việc mang niềm vui và gánh nặng của sứ vụ Phêrô. Chúa đã đặt bên canh tôi biết bao nhiêu người đã giúp đỡ và gần gũi tôi, với sự quảng đại và tình yêu thương đối với Thiên Chúa và Giáo Hội. Trước hết là anh em, các Hồng Y thân mến: sự khôn ngoan, các lời khuyên và tình bạn của anh em đã rất qúy báu đối với tôi; các cộng sự viện của tôi, bắt đầu là Quốc Vụ Khanh và tất cả các cơ quan trung ương Tòa Thánh, cũng như tất cả những người phục vụ Tòa Thánh trong các lãnh vực khác nhau,: có biết bao khuôm nặt không nổi bật, ở trong bóng tối, nhưng chính trong thinh lặng, trong sự tận tụy hằng ngày, với tinh thấn đức tin và lòng khiêm tốn, đã là một sự nâng đỡ chăc chắn và đáng tin cậy. Một tư tưởng đặc biệt tôi xin gửi tới Giáo Hội Roma, giáo phận của tôi. Tôi không thể quên các anh em trong Hội Đồng Giám Mục và Linh Mục, các người sống đời thánh hiến và toàn thể Dân Chúa: trong các chuyến viếng thăm mục vụ, trong các cuộc gặp gỡ, các buổi tiếp kiến, các chuyyến công du, tôi đã luôn luôn trực giác được sự chú ý lớn lao và lòng trìu mến sâu xa. Tôi cũng đã yêu thương tất cả và từng người một, mà không phân biệt, với tình bác ái mục tử là con tim của mọi Chủ Chăn, nhất là của Giám Mục Roma, của Người Kế Vị Tông Đồ Phêrô. Mỗi ngày tôi đã mang từng người trong anh chị em trong lời cầu nguyện của tôi, với con tim của một người cha.”

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: ”Tôi muốn rằng lời chào và cảm ơn của tôi tới được với tất cả mọi người: trái tim của một Giáo Hoàng mở rộng ra cho toàn thế giới. Và tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với Ngoại Giao Đoàn cạnh Tòa Thánh, khiến cho đại gia đình của các quốc gia hiện diện. Ở đây tôi cũng nghĩ tới tất cả những ai làm việc cho một sự truyền thông tốt đẹp và tôi xin cám ơn công việc phục vụ của họ. Tới đây tôi muốn thật sự hết lòng cám ơn tất cả mọi người trên thế giới trong các tuần qua đã gửi tới tôi các dấu chỉ cảm động của sự chú ý, tình bạn và lời cầu nguyện. Phải, Giáo Hoàng không bao giờ cô đơn, giờ này tôi còn cảm nghiệm được điều đó một lần nữa đánh động con tim một cách lớn lao như vậy. Giáo Hoàng thuộc về tất cả mọi người, và biết bao nhiêu người cảm thấy họ gần gũi ngài. Có đúng thật là tôi đã nhận được rất nhiều thư của các nhân vật quan trọng trên thế giới – từ các quốc trưởng các nước, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, từ các đại diện của thế giới văn hóa vv… Nhưng tôi cũng nhận được rất nhiều thư của những người đơn sơ viết cho tôi một cách dơn sơ từ trái tim của họ, và khiến cho tôi cảm thấy lòng thương mến của họ, nảy sinh từ việc cùng nhau ở với Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo Hội. Các người này không viết cho tôi, ví dụ như viết cho một ông hoàng hay cho một người lớn mà họ không quen biết. Họ viết cho tôi như các anh chị em hay như con cái, với ý thức về một mối dây gia đình rất yêu mến. Ở đây người ta có thể sờ mó được bằng tay Giáo Hội là gì – không phải là một tổ chức, một hiệp hội, có các mục đích tôn giáo hay nhân đạo, nhưng là một thân thể sống động, một sự hiệp thông giữa các anh chị em với nhau trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô, là Đấng hiệp nhất tất cả chúng ta. Sống kinh nghiệm Giáo Hội trong kiểu này, và hầu như có thể sờ mó được bằng tay sức mạnh chân lý và tình yêu của nó, là lý do vui sướng, trong một thời đại, trong đó biết bao nhiêu người đang nói về sự suy tàn của Giáo Hội.”

Đề cập tới quyết định từ nhiệm của ngài Đức Thánh Cha Biển Đức XVI giải thích như sau: ”Trong các tháng cuối cùng này, tôi đã cảm thấy sức lực của tôi giảm sút, và trong lời cầu nguyện tôi đã nài nỉ Thiên Chúa, soi dẫn cho tôi với một ánh sáng của Người để làm cho tôi lấy một quyết định đúng đắn hơn, không phải cho thiện ích của tôi, nhưng cho thiện ích của Giáo Hội. Tôi đã đi bước này trong ý thức tràn đầy về sự nghiêm trọng và cũng mới mẻ của nó, nhưng với một sự thanh thản sâu xa trong tâm hồn. Yêu thương Giáo Hội cũng có nghĩa là can đảm có những lựa chọn khó khăn, đau khổ, nhưng luôn luôn có trước mắt thiện ích của Giáo Hội, chứ không phải của chính mình.

Ở đây xin cho phép tôi trở lại ngày 19 tháng 4 năm 2005 một lần nữa. Sự nghiêm trọng của quyết định cũng đã là ở nơi sự kiện từ lúc đó trở đi tôi đã được luôn luôn và vĩnh viễn dấn thân bởi Chúa. Luôn luôn – ai lãnh sứ vụ Phêrô thì không còn có sự tư riêng nào nữa. Người ấy luôn luôn và hoàn toàn thuộc về tất cả mọi người, thuộc về toàn thể Giáo Hội. Như thể nói rằng chiều kích riêng tư bị lấy mất khỏi cuộc sống người ấy. Tôi đã kinh nghiệm và tôi đang trải nghiệm điều đó giờ đây, rằng một người nhận lấy cuộc sống chính khi cho nó đi. Trước đây tôi đã nói rằng nhiều người yêu mến Chúa thì cũng yêu mến Người Kề Vị Thánh Phêrô và cũng trở thành trìu mến đối với ngài; rằng Giáo Hoàng thật sự có các anh chị em, con cái nam nữ trên toàn thế giới, và rằng ngài cảm thấy an toàn trong vòng tay sự hiệp thông của họ; bởi vì ngài không thuộc về chính mình nữa, nhưng thuộc về tất cả mọi người và tất cả mọi người thuộc về ngài.”

Đức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa sự kiện ”luôn luôn” như sau: ”Sự ”luôn luôn” cũng là một sự ”vĩnh viễn” – không còn có việc trở lại sự riêng tư nữa. Quyết định của tôi từ bỏ việc tích cực thi hành sứ vụ không thu hồi điều này. Tôi không trở lại đời sống tư, một đời sống gồm các cuộc du hành, các cuộc gặp gỡ, tiếp kiến, diễn thuyết vv… Tôi không từ bỏ thập giá, nhưng tôi ở lại trong một cach thức mới mẻ gần Chúa bị đóng đanh. Tôi không mang quyền bính của nhiệm vụ cai quản Giáo Hội nữa, nhưng như để nói rằng trong việc phục vụ cầu nguyện tôi ở bên trong ranh giới của thánh Phêrô. Thánh Biển Đức, mà tôi mang tên như Giáo Hoàng, sẽ là gương sáng vĩ đại cho tôi trong điều này. Người đã chỉ cho chúng ta thấy con đường cho một đời sống, mà tích cực hay thụ động, hoàn toàn tùy thuộc vào công trình của Thiên Chúa.

Tôi xin cám ơn tất cả và từng người một, cả về sự tôn trọng và cảm thông mà với chúng anh chị em đã tiếp nhận quyết định quan trọng này. Tôi sẽ tiếp tục đồng hành với con đường của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện và suy tư, với sự tận tụy đối với Chúa và Hiền Thê của Người, mà tôi đã tìm cách sống cho tới giờ này mỗi ngày, và tôi muốn sống nó luôn mãi. Tôi xin anh chị em nhớ tới tôi trước mặt Thiên Chúa, và nhất là cầu nguyện cho các Hồng Y, được mời gọi cho một nhiệm vụ lớn lao như vậy, và cho Người Kế Vị mới của Tông Đồ Phêrô: xin Chúa đồng hành cùng ngài với ánh sáng và sức mạnh của Thần Khí Người.

Chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, để Mẹ đồng hành với từng người trong chúng ta và toàn thể cộng đoàn giáo hội; Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ với lòng tin tưởng sâu xa. Các bạn thân mến! Thiên Chúa hướng dẫn giáo Hội, Người luôn đỡ nâng Giáo Hội, cả và nhất là trong những lúc khó khăn. Chúng ta đừng bao giờ mất đi quan niệm đức tin này, là quan niệm duy nhất đích thật của con đường của Giáo Hội và của thế giới. Ước chi trong con tim chúng ta, trong con tim của từng người trong chúng ta, luôn có sự chắc chắn tươi vui rằng Chúa ở gần chúng ta, Người không bỏ rơi chúng ta, Người ở gần chúng ta và bao bọc chúng ta với tình yêu của Người. Xin cám ơn anh chị em!” Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha đã bị cắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.

Khi Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ, các Hồng Y và mọi người đã đứng lên vỗ tay rất lâu. Đức Thánh Cha cũng đứng lên đáp lễ. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Phàp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, A rập, Ba Lan, Croat, Tchèques, Slovac, Rumani và tiếng Ý.

Chào các tín hữu Italia Đức Thánh Cha nói: ”Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn sự tham dự đông đảo của các bạn trong buổi gặp gỡ này, cũng như lòng thương mến của các bạn và niềm vui của đức tin. Đó là các tâm tình mà tôi xin hết lòng đổi lại bằng cách bảo đảm với các bạn lời cầu nguyện của tôi cho các bạn hiện diện nơi đây, cũng như cho thân bằng quyến thuộc và những người thân thiết của các bạn.

Ngỏ lời với người trẻ Đức Thánh Cha xin Chúa đổ tràn đầy tình yêu của Người trong tim họ để họ sẵn sàng hăng hái theo Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa nâng đỡ các người đau yếu để họ chấp nhận gánh nặng của khổ đau với sự thanh thản. Và ngài xin Chúa hướng dẫn các cặp vợ chồng mới cưới biết làm cho gia đình họ lớn lên trong sự thánh thiện.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Lúc 11 giờ sáng thứ năm 28-2-2013 Đức Thánh Cha gặp các Hồng Y hiện diện tại Roma trong phòng Clemente để chào từ biệt các vị. Vào lúc 5 giờ chiều ngài lấy trực thăng đi Castel Gandolfo. Vào lúc 5 giờ rưỡi chiều ngài ra bao lơn dinh nghỉ mát Castel Gandolfo đễ chào tín hữu thành phố. Đây cũng là lần xuất hiện cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng Roma. Vì từ lúc 8 giờ tối sau đó ngài không còn giữ chức Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ nữa. Tuy vẫn tiếp tục được gọi là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng, nhưng Đức Ratzinger sẽ chỉ mặc áo chùng trắng, không có mảnh áo khoác ngắn trên vai, không có nhẫn Giáo Hoàng, vì nhẫn này sẽ bị phá hủy, và cũng không mang giầy mầu đỏ. Cũng từ lúc 8 giờ tối thứ năm 28-2-2013 đội cận vệ Thụy Sĩ tại Castel Gandolfo chấm dứt nhiệm vụ và giao quyền lại cho đội Hiến Binh Vaticăng. Đức Ratzinger sẽ cư ngũ tại Castel Gandolfo vài tháng trước khi về sống trong tu viện của các nữ tu dòng kín được tu sửa lại, tại nội thành Vaticăng trong thinh lặng và cầu nguyện. Cùng hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Biển Đức XVI, cho Giáo Hội, và cho Hồng Y Đoàn sắp nhóm Mật Nghị. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng để các vị bầu vị Tân Giáo Hoàng theo ý Chúa muốn.

Những giấc mơ.

Những giấc mơ.

Cấn Thị Bích Ngọc

” Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.”

image

(Viết nhân chuyến đi Đài Bắc, một lần được nghe tâm sự của một cô dâu ViệtNam.)

Có lúc trăng soi dạng lưỡi liềm, nhọn như dao, không khắc vào tim mà lòng vẫn nhói đau. Cũng có lúc trăng chênh chếch như giọt nước mắt khổng lồ thổn thức giữa bầu trời hiu quạnh đen tuyền màu u uẩn. Bao tiếng gió miên man rầm rì giữa hàng cây lá vẫn không làm trăng tươi. Trăng ủ rũ, trăng tư lự, trăng ngẩn ngơ buồn, trăng soi rọi tâm tư lũ con gái chúng tôi.

Tôi nằm bên chồng, nghe tiếng ngáy đều của anh mà thấy lẻ loi, cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má, thương mình. Má đã bao nhiêu năm nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo, cô đơn trong đêm về tịch mịch. Nhưng còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít quanh đây mà sao sương đêm vẫn hoang lạnh?

Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh cho đời sống chật vật của gia đình tôi. Điều này trên lý thuyết cũng không khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết ơn vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu thương.

image

Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.

Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày thống nhất là ngày hận thù được thăng hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô giáo một trường tiểu học. Đất nước thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa. Má như một kẻ thua trận, gồng gánh đưa lũ con về quê ngoại. Má giã từ Sài Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ cuộc sống an bình ngày xưa. Má tảo tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng về sau những tháng ngày lao tù học làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi ra đời. Và rồi ba lại ra đi kiếm tìm tự do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi tìm tương lai cho cả gia đình, nhưng ba đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên nghỉ trong lòng đại dương. Đã không còn phiền não, không còn trầm tư trong đôi mắt ôn nhu ngày nào. Chỉ thương cho Ba, ra đi trước khi được về thăm quê nội ở bên kia bờ Bến Hải. (Tôi đã được nghe chuyện kể về một dòng sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài phía Bắc và vùng đất tự do phương Nam). Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng để lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ cười hiếm hoi trên môi má đã tắt lịm từ ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua nỗi chết của tâm hồn, gắng gượng sống cho đàn con.

image

Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn. Chị em tôi bó gối nhìn nhau, nhìn má ngày càng võ vàng vì những cơn bệnh trầm kha không phương tiện chữa trị. Để rồi một ngày, tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những giấc mơ vốn dĩ rất đơn giản đến tội nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng đi tìm tương lai trong những nơi chốn lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người, đơn thuần là những món hàng, quên hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng trơ khoe bày tấm thân thể ngà ngọc, danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ. Tại nơi chốn bát nháo đó, nơi mà ranh giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi gặp chồng tôi.

Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.

Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.

image

Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi. Đã bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng đế về sự trùng hợp huyền diệu này. Nó đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc men cho má và một mái gia đình với một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù không đồng ngôn ngữ, không đồng quá khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng những ánh mắt lãnh đạm, đôi khi rõ nét miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc hôn nhân lệch lạc, má vẫn nói nghĩa vợ chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn, mong rằng tôi và chồng tôi vẫn sóng bước đồng hành để trong đời sống của tôi không phải chỉ có những mất mát. Tôi nhớ ơn chồng nhưng chưa yêu anh được. Cho đến bây giờ mỗi lần ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để che dấu nỗi e dè, ngại ngùng khi khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc ngang của anh thật cận kề. Có lẻ vì chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông với người trong mộng của chồng. Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.

image

Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.

Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…Hay là: kiếp trước tui ở ác, nên bây giờ phải chịu nghiệp quả. Mà thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị đánh đập, không bị chuyền tay từ người đàn ông này qua người đàn ông khác. Nhưng tim tôi vẫn khắc khoải, hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia sẻ niềm tủi nhục của những chị bạn. Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi đồng nghĩa với những đường cùng ngõ hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng tôi đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi đã không bao giờ có tuổi thanh xuân. Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực bẫy. Có ai hiểu những khuấy động trong tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn của lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội nghiệp?? Chúng tôi thường đọc thấy những nét rẻ khinh trong mắt người bản xứ, tôi thường phân vân tự hỏi mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội dám mơ ước thoát cảnh khốn cùng. Chỉ mong sao những người cùng tiếng nói đừng khinh miệt những cánh chim phiêu bạt đáng thương của lũ chúng tôi.

image

Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.

Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm. Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.

Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.

image

Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro. Tôi đã sống dậy từ bao nỗi chết. Trong tôi bao phác họa muôn màu về một ngày mai khi đứa con bé nhỏ của tôi bước những bước thơ ngây vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng những giấc mơ. Rồi từng ngày tháng trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư lự. Con chưa mở mắt, nhưng tim đã ấp ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương Việt Nam ngàn trùng xa mà những điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh đây. Con sẽ được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết tình hoài hương. Ước ao sao con sẽ yêu thương quê ngoại như má luôn trân trọng nơi chốn má chào đời.

Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái. Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.

image

Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…

Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích. Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.

Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.

image

Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.

Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!

Cấn Thị Bích Ngọc

Anh Nguyễn V. Thập gởi

Trở về cát bụi.

Trở về cát bụi.

Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ
Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay

(6:59)

Bạn thân ơi có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai

Anh Nguyễn v Thập gởi

NGHÈO CHO ĐẾN CHẾT

NGHÈO CHO ĐẾN CHẾT

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

nguồn:conggiaovietnam.net

Sinh ra trong cõi tạm này, chẳng ai mong cho mình nghèo cả. Vì hoàn cảnh nào đó phải sống cái kiếp nghèo. Có những người nghèo cho đến chết và bi đát nhất là đến chết rồi cái nghèo cũng như ôm chầm lấy họ, không muốn rời xa họ và đeo họ cho tới ngày họ đi vào dĩ vãng.

Người thân báo tin cho tôi biết tin có một cụ già neo đơn đang hấp hối trong bệnh viện. Nghe tin ấy, tôi chạy ngay vào viện, một cha vừa lo phần hồn cho cụ xong.

Đứng trước cửa phòng săn sóc đặc biệt có một nhóm người đang xôn xao về chuyện sau khi cụ qua đời.

Hoàn cảnh của cụ không có thể dùng từ “khá đặc biệt” như nhiều người thường nói mà là quá đặc biệt hay nói cách khác nữa là không có ai rơi vào hoàn cảnh như cụ cả.

Chuyện là cụ già vô gia cư cũng chẳng có ai thân thuộc. Đứng trước tình cảnh đó, một cha thấy chạnh thương đã nhờ một thầy của mình chăm sóc. Sau khi té ngã, cụ già được chuyện viện cấp cứu. Bác sĩ sau khi đã cố gắng chữa trị đã tuyên bố cụ không qua khỏi trong vài giờ đồng hồ nữa thôi.

Chuyện cụ già đi là chuyện dĩ nhiên của phận người nhưng khi hỏi thăm thủ tục của bệnh viện lại là một vấn đề nan giải. Giờ đem cụ về nơi thầy chăm sóc cũng không được vì khá xa, để cụ nằm lại trong nhà xác thì không có chỗ tẩm liệm. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn như thế này có những sự trợ giúp sẵn có. Có nhà hòm kia sẵn sàng cho hòm nhưng ngặt một nỗi họ không có nơi để liệm xác cụ. Có xứ kia sẵn sàng để cụ tá túc nhưng phải hoàn tất việc tẩm liệm chứ nhà quàng không nhận xác về để liệm. Nhân viên nhà xác bệnh viện này hiến kế là chuyển cụ qua bệnh viện kia để tẩm liệm bởi lẽ bệnh viện kia nhận liệm xác … Với hiến kế này thì lỡ rằng vừa chuyện viện cho cụ mà cụ trút hơi thì cũng lại rơi vào thế bí về chuyện tìm ra nơi tẩm liệm.

Nếu không suy xét thì sẽ nghĩ này nghĩ nọ nhưng thực chất của vấn đề không đơn giản bởi lẽ sau khi cụ qua đời thì nhiều chuyện phiền phức xảy đến vì cụ không có người thân cũng chẳng có hộ khẩu ….

Đang băn khoăn tìm hướng giải quyết khó khăn thì tôi gọi điện đến nhà hòm thân quen. Không ngờ giọng nói từ máy bên kia nhận hết mọi sự để lo cho cụ ! Để xác minh lại thông tin vì đang đi xe ngoài đường khá ồn ào thì vẫn giọng nói từ máy bên kia sẵn sàng nhận xác cụ đem về nhà của mình để chờ tẩm liệm. Thế là mọi lo lắng đã có đường giải quyết.

Về nhà, trình báo cho cha đã cưu mang cụ già biết hướng giải quyết. Phone cho trại hòm nhận lo hậu sự cho cụ để gửi gấm cụ. Người lo hậu sự vui vẻ nhận lời từ cha để rồi mọi người đều an tâm.

Sau khi đã tìm được lối thoát, bệnh viện lo thủ tục xuất viện cho cụ. Trước khi đồng hồ điểm 12 tiếng trước khi qua ngày mới.

Tưởng chừng khó khăn đã qua đi nhưng làm thủ tục chứng tử cho cụ cũng lại gặp trở ngại bởi lẽ cụ không có một mảnh giấy tùy thân. Nếu không có tờ giấy chứng tử sẽ không tiến hành việc hỏa táng cho cụ được. Tìm mãi mới ra tờ giấy đăng ký tạm trú của cụ. Những người có lòng thơm thảo lại chạy tới chạy lui để có được tờ giấy chứng tử trong tay. Lại thở phào nhẹ nhõm để vượt qua những chướng ngại không thể lường trước được.

Đúng là người nghèo đi đâu cũng phải khổ cả. Đến chết cũng còn khổ bởi vì nghèo. Đến chết cũng còn khổ bởi cái thân phận cô thế cô thân.

Trưa hôm nay, như đã hẹn, mọi người lại quy tụ xung quanh thi hài cụ để cử hành nghi thức nhập quan và Thánh Lễ an táng cho cụ.

Nghi thức nhập quan và Thánh Lễ an táng cũng như nghi thức tiễn biệt cho cụ Giuse diễn ra trong bầu khí hết sức ấm cúng. Xung quanh cụ không một người thân nào cả, chỉ là những người có tấm lòng thơm thảo đứng trước một mảnh đời bất hạnh.

Tạm biệt cụ Giuse, một người nghèo thật sự trước mặt Thiên Chúa và người đời.

“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ”. Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, cụ Giuse chắc chắn được hưởng Nước Trời bởi lẽ cụ Giuse không chỉ có tinh thần mà sống cả cuộc đời nghèo khó cho đến hơi thở cuối cùng.

24 tháng 2 năm 2013

Anmai, CSsR

“NGƯỜI ĐI, MỘT NỬA HỒN TÔI…”

“NGƯỜI ĐI, MỘT NỬA HỒN TÔI…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

nguồn:conggiaovietnam.net

Thật bất ngờ…

Ngày mồng Hai Tết, ngay khi kết thúc cuộc rước và hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đầu năm Âm lịch, tôi ngồi ở nhà cơm Tu Viện uống nước với một số anh em, một người anh em đi vội vào nhà cơm trên tay cầm tờ giấy, anh ấy nói “Đức Giáo Hoàng từ chức rồi”, giơ cao tờ giấy “đây là bản tin con vừa đọc được và in ra”, mọi người đổ xô đến đọc, đó là sự thật gây bàng hoàng đầu năm, bất ngờ đến không tưởng tượng được.

Gần như chưa có tiền lệ…

Tôi lẩm bẩm: “Không tin được, chưa bao giờ có sự kiện này”, quay trở lại phòng tôi vào một số trang mạng Công Giáo, tin Đức Thánh cha từ nhiệm là một tin thật, không còn nghi ngờ gì nữa; từ đó cho đến các ngày sau, hàng loạt các bài nhận định, phê bình, dự đoán chung quanh cuộc từ nhiệm này. Chúng tôi thường xuyên phải trả lời các câu hỏi từ nhiều người, thuộc nhiều thành phần, nói chung mọi người băn khoăn và thắc mắc về biến cố từ gần 600 năm nay mới xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo Roma.

Hôm qua gặp một người quen, tôi hỏi thăm về cha xứ của anh như chúng tôi vẫn thường hỏi thăm nhau, ngài hỏi thăm về tôi và tôi cũng hay hỏi thăm về ngài; anh bạn cho biết: “Cha xứ con buồn lắm, ngài như mất tinh thần về vụ Đức Thánh Cha từ nhiệm, ngài nói với con sao lại xảy ra như vậy ?”

Tôi có một bà chị con ông bác, hai chị em tôi thân nhau khi còn bé, chị đi lấy chồng rất sớm ngay sau khi đậu tú tài hai ( tốt nghiệp trung học ), hiện định cư ở nước ngoài, bây giờ hai chị em đã “tóc bạc như nhau”, mấy hôm nay chị gởi E-mail cho tôi nhiều bài viết về biến cố này, chị không viết gì trong E-mail ngoài những lời thăm hỏi dặn dò quen thuộc, như: “Cậu cẩn thận và giữ gìn sức khỏe”, nhưng đọc nội dung các bài đính kèm thì nhận ra chị hoang mang lắm.

Không đột ngột…

Xem lại video vị Giáo Hoàng đọc lời từ nhiệm, gương mặt của các Hồng Y và các viên chức bên cạnh ngài rất bình thản, nghiêm trang và không hề có dấu hiệu nào ngạc nhiên như là một biến cố đột ngột không hề được báo trước. hình như chỉ có một vị Hồng Y người da đen nhúc nhích một chút. Hồng Y niên trưởng đọc bài phát biểu ngay sau bài từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng cho thấy bài phát biểu đã được soạn trước.

Những chi tiết đó cho thấy Đức Giáo Hoàng đã không suy nghĩ một mình, đã không cầu nguyện một mình và đã không quyết định một mình, chắc chắn đó là một quyết định đã được chia sẻ, bàn hỏi, cầu nguyện và chuẩn bị từ trước với nhiều người có trách nhiệm.

Một bài học khiêm tốn thánh thiện…

Đối với tôi, cái bóng của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II quá lớn nên thật sự Đức Benedicto 16 không có chỗ đứng số một trong tâm hồn tôi, nhưng quyết định từ nhiệm của ngài làm hình ảnh một ông cụ ( theo cảm nhận của tôi ) khô cứng, không gần gũi với quần chúng, quá lý trí, đã vụt sáng, trở thành một bài học sống động, hùng hồn, cụ thể và mạnh mẽ về sự khiêm tốn thánh thiện. Giữa lúc sự rời khỏi các vị trí lãnh đạo quyền cao chức trọng khó khăn biết chừng nào, nhất là trong xã hội Việt Nam, một xã hôi ganh đua nhau quyền chức, hại lẫn nhau để tranh dành, bám quyền bám ghế… thì biến cố con người số môt trong thế giới tinh thần quyết định rời chức để lui vào cầu nguyện là một quyết định quá khiêm tốn và gương mẫu. Cái tuyệt vời của ngài là hình ảnh mà vị giảng Tĩnh Tâm cho Giáo Triều Mùa Chay năm nay đã ví von: “Môsê lên núi cầu nguyện”, thật thú vị và hấp dẫn cho đời sống tu đức.

Không ai không thể có người thay thế…

Tháng tư năm 1975, khi chiếm cao nguyên Lâm Đồng, Việt Cộng đã bắn chết cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, tại Di Linh, một chuyên gia Kinh Thánh. Khi ấy bản dịch toàn bộ Kinh Thánh của ngài chưa hoàn tất. Rất nhiều người thương tiếc ngài và tự đặt câu hỏi: “Một người cần thiết như vậy tại sao Chúa lại cất đi ?”

Khi tôi còn học giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, ông chia sẻ với sinh viên về một sai lầm “chết người” của ông, khi Đức Pio 12 qua đời, Giáo Hội chọn Đức Gioan 23, ông đã coi thường vị Tân Giáo Hoàng này và đã có những bài viết chỉ trích phê bình coi thường ngài, nhưng rồi nhiệm kỳ ngắn ngủi của ngài đã khơi lên một “Lễ Hiện Xuống mới – Công Đồng Vatican 2”, hơn nữa vị Giáo Hoàng này khi qua đời đã làm một “phép lạ” cho chính cuộc đời của ông khi ông cầu khấn với ngài.

Đức Gioan-Phaolô 2 là một vị Giáo Hoàng xuất hiện không ai có thể dự báo trước, vai trò của ngài đã tỏ rõ khi cục diện thế giới đổi thay, những hoạt động và tâm hồn đạo đức thánh thiện của ngài đã cho thấy dụng cụ mà Chúa sử dụng rất kiến hiệu. Chúa biết phải chọn ai và sử dụng ai.

Tôi đã sống qua nhiều đời Giáo Hoàng, nhiều thăng trầm lịch sử, tôi nghiệm một điều, ở bất cứ giai đoạn nào của thế giới, của Giáo Hội, Chúa luôn quan phòng để có một vị Cha chung thích hợp dẫn dắt con thuyền Hội Thánh. Chúa đã hứa bảo vệ và xây dựng Hội Thánh, Chúa đã hứa không quyền lực nào có thể phá hoại được Hội Thánh ( Mt 16, 18 ), tại sao chúng ta không tin vào lời hứa của Đấng Trung Tín ( 2Tm 2, 13 ), tại sao chúng ta không tin vào sự quan phòng đầy thương yêu của Chúa ?

Hãy phó thác và tin vào sự quan phòng của Chúa…

Người đi một nửa hồn tôi… vững

Một nửa hồn kia Chúa quan phòng.

( xin lỗi đã sửa thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử )

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

22.2.2013 (Ephata 550)

TUỔI GIÀ LÀ THỜI SUNG SƯỚNG NHẤT

TUỔI GIÀ LÀ THỜI SUNG SƯỚNG NHẤT

Bieu Nguyen*Paul Van

Khi đã lớn tuổi, thì con người được nhiều tự do hơn, được thong thả hơn để sống. Không còn phải như em bé bị cha mẹ ép buộc, bây giờ thì muốn làm chi thì làm, muốn thức khuya dậy sớm gì, cũng chẳng còn ai la mắng dọa nạt, rầy la. Nếu vợ vì thương, sợ mất sức khỏe, thì cũng cằn nhằn chút chút thôi, mình không nghe thì cũng chẳng bị roi đòn gì.

Không còn phải khổ công học tập, lo lắng cho tương lai mai sau, chẳng phải học thêm chi cho mệt trí, biết quá nhiều, biết quá đủ rồi. Nếu đã nghỉ hưu, thì học thêm làm chi. Nếu còn đi làm, thì cũng đã rành nghề, quen tay quen việc,  làm việc dễ dàng.

Khi già tình yêu cũng không  còn là mối bận tâm, không quan trọng quá, chưa nghe báo đăng các cụ già trên dưới sáu mươi tự vẫn chết vì  thất tình. Tội chi mà chết vì tình trong tuổi già, vì cũng sắp thấy Diêm Vương rồi, việc chi mà đi sớm hơn. Khôn quá rồi, chết vì tình yêu là nông nỗi.

Đời sống tình cảm của tuổi già êm đềm hơn, ít đau đớn ít sôi động, và bình lặng. Tuổi già rồi, các ông không còn tính chuyện mèo mỡ lăng nhăng, khỏi phải lo lắng sợ vợ khám phá ra chuyện dấu diếm mà nhà tan cửa nát. Đỡ tốn tiền quà cáp, đỡ tốn thì giờ lui tới các nơi bí mật. Hồi hộp, đau tim. Các bà khỏi phải lo chuyện đi đánh ghen, không còn cần phải chăm chút nhan sắc làm chi nữa, vì như chiếc xe cũ rệu, có sơn phết lại cũng xộc xệch, cũng méo mó. An tâm và chấp nhận, thì khỏi băn khoăn mà vui.

Cũng có một số ít những cặp vợ chồng già đem nhau ra tòa chia tay, vì khi già cả hai đều trở thành khó tính. Hậu quả của ly dị trong tuổi già không trầm trọng như khi còn trẻ, vì con cái đã lớn, đã tự lập, không còn ảnh hưởng nhiều đến tương lai chúng và tương lai của chính mình. Vì còn sống bao lâu nữa mà lo lắng chi cho nhiều. Xa được ông chồng khó tính, độc tài là mừng. Dứt được bà vợ đanh đá, bạc ác là phải sung sướng. Khỏe trí.

Tuổi già, cố giữ cho còn có nhau, khi đã đến nước ly dị, thì hai bên đều đúng, đều có lý. Đây là hành động tự cứu mình, và cứu người ra khỏi cảnh khổ lúc cuối đời, khi mà mộ bia đã thấp thoáng trước mắt, không còn bao nhiêu ngày nữa.

Có điều ít ai nghĩ đến, là càng già, thì càng dễ tìm một người bạn đời để nối lại, để an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Vì chung quanh họ, có thiếu chi người đứt gánh nửa đường. Chồng chết, vợ chết, ly dị. Vấn đề là không sao tìm được một người có chung nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa, nhiều chia xẻ như người phối ngẫu cũ.

Tình già cũng nhẹ nhàng, thong thả, ít khổ đau, ít sôi nổi hơn tình khi còn trẻ trung. Sức lực cũng có còn bao nhiêu mà ghen tương nhau chi, mà lo lắng chi cho thêm mệt, những người lớn tuổi kinh nghiệm và biết rõ như vậy. Nhiều người  trẻ, sau khi gia đình tan vỡ thì xuống tinh thần, uống ruợu đánh bài tìm quên, đôi khi không phải vì họ quá thương yêu người cũ mà tự hủy hoại đời mình, mà chính vì họ tự thương thân, tự ái bị xúc phạm, và rồi sa lầy vào ruợu chè cờ bạc. Người lớn tuổi thì suy nghĩ khác. Họ nghĩ rằng ta cũng đã gần đất xa trời rồi, có sống thêm bao lâu nữa mà sầu khổ cho mệt.  Mất củ khoai lang, thì kiếm củ khoai mì bù vào.

Tuổi già biết giá trị tương đối của tình yêu nên không tìm tuyệt hão, không tìm lý tưởng, và nhờ vậy không bị thực tế phũ phàng làm vỡ mộng, đau khổ.  Khi già rồi, có ai hỏi tuổi, thì cũng không cần dấu diếm, không cần sụt đi năm bảy tuổi làm chi. Sướng lắm. Vì có sụt tuổi, cũng không dấu được những nếp nhăn, mà chẳng có ích lợi gì. Nếu tự cọng thêm cho mình chừng chục tuổi, thì không chừng được thiên hạ nức nở khen là còn trẻ, trẻ quá, và họ mơ ước được như mình.

Các ông có vợ đẹp, khi lớn tuổi cũng đỡ lo bọn dê xồm dòm ngó, lăm le dụ dỗ vợ mình. Con người, ai mà không nhẹ dạ, ai mà không ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai mà không có khi thiếu sáng suốt. Vợ  chồng cũng có khi  bất hòa, buồn giận nhau, và những khi nầy, lòng người dễ chao đảo lắm. Bởi vậy, các ông đỡ nghe các bà hăm he ly dị, hăm he bỏ nhau. Tuổi nầy các bà cũng  thừa khôn ngoan để biết những tên ngon ngọt, hứa hẹn nhiều, thường chỉ là những tên phá đám, chứ không thể tin tưởng được.

Đàn bà có chồng hào hoa, đẹp trai,  khi lớn tuổi cũng bớt lo, vì các ông cũng bớt máu nóng, bớt chộn rộn và khôn ngoan hơn thời trẻ trung. Biết kềm chế hơn, và biết rõ giá trị hạnh phúc gia đình cần gìn giữ hơn là chơi ngông.

Tuổi già, vợ chồng sống chung với nhau lâu rồi, chịu dựng nhau giỏi hơn, quen với cái thói hư tật xấu của nhau. Không còn thấy khó chịu nhiều nữa. Dễ dung thứ cho nhau, chấp nhận nhau, vì họ biết rõ bên cạnh cái chưa tốt của người bạn đời, còn có rất nhiều cái tốt khác.

Vợ chồng, khi đó biết bao nhiêu là tình nghĩa, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu thân thiết, cho nên hạnh phúc hơn, vui hơn.

Tình yêu trong tuổi già thâm trầm, có thì giờ bên nhau nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. Cũng có nhiều ông bà già ưa cãi vã nhau ,cũng dễ hiểu, khi đó tai của cả hai ông bà đều lãng, người nầy nói một đường, người kia hiểu nẻo khác, cho nên buồn nhau giận nhau,  không gây gổ sao được?

Tuổi già, thì tất cả mộng ước điên cuồng của thời trẻ trung đã tan vỡ, đã lắng xuống, không còn khích động trong lòng, không còn thao thức nhức nhối. Họ biết sức mình đến đâu, và không tội chi mà ôm cao vọng cho khổ thân. Họ còn biết thêm rằng, nếu những cao vọng điên cuồng ngày xưa mà có thành đi nữa, thì e cũng chỉ là hư không, chẳng đáng gì.

Khi tuổi già, thì biết khôn ngoan mà an phận, biết vui với bình thường. Biết đâu là hạnh phúc chân chính.  Nhiều người già rồi mới tiếc suốt một thời son trẻ không biết sống, phí phạm thời gian theo đuổi những huyễn mộng, làm đau khổ mình, làm điêu đứng người khác.

Tuổi già, vui khi thấy mình hết nông nỗi, nhìn đời bằng cái tâm tĩnh lặng hơn. Ai khen không hớn hở mừng, ai chê không vội vã hờn giận. Vì biết rõ mình không có gì xuất chúng để thiên hạ khen nịnh. Và biết mình cũng có nhiều cố tật không chừa được, đáng chê. Chê thì chê, khen thì khen. Khen cũng thế, mà chê cũng thế, thì ta vẫn là ta, là một kẻ già, đáng được khoan thứ hơn là trách móc.

Lúc nầy, không  còn muốn làm giàu, không bị con ma tham lam thúc bách để kiếm và tích trữ cho nhiều tiền nhiều bạc. Con cái cũng đã lớn, không phải chi tiêu nhiều thứ , thì tiền bạc, chỉ cần đủ sống thôi, cũng là thỏa nguyện. Họ cũng không cần se sua, tranh hơn thua với ai, tinh thần họ vui vẻ, dễ chịu và khỏe khoắn hơn.

Mối lo âu về tài chánh cũng nghẹ gánh.  Bởi khi đó, nhiều người đã tích trữ được một số tiền nhỏ. Nhà cửa cũng đã có.  Nợ nhà, nợ xe cũng ít đi, hoặc không còn nữa. Con cái cũng đã lớn, không còn là gánh nặng cho mình. Chúng nó  đã có nghề nghiệp, đã làm ăn được. Chắc chắn tương lai chúng khá hơn mình nhiều. Người già không chi tiêu nhiều, ăn cũng ít đi rồi, chơi cũng không còn phung phí dại dột như tuổi trẻ.

Khi già, thời gian mới là thực sự của mình, vì không còn phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống nữa. Không còn bị bó buộc bởi trách nhiệm bổn phận. Có thể ngồi mơ mộng hàng giờ trên ghế đá công viên, thưởng thức thiên nhiên tuyệt thú, có thể tìm được an bình tuyệt đối, không như thời còn trẻ, đi nghỉ mát, mà thỉnh thoảng cũng bị công việc nhà ám ảnh, nhắc nhở.

mưu sinh bên hè phố Hà Nội

Tuổi già về hưu, là một mong ước của gần như của tất cả mọi người. Nhiều người gắng làm sao kiếm cho nhiều tiền để dược về hưu sớm hơn. Nhiều thanh niên, ngày về hưu còn xa lắc, xa lơ mà vẫn mơ ước. Người Mỹ, trẻ già chi cũng ngĩ đến hưu trí. Hưu trí trong tuổi già là một phần thưởng của tạo hóa, của xã hội. Cho sung sướng, nghỉ ngơi. Già là nghỉ ngơi, là khỏe khoắn.

Mỗi buổi sáng nằm dài trên giường, sáng nào cũng là chủ nhật trong tuần, muốn dậy lúc mấy giờ cũng được, muốn nằm cho đến trưa đến chiều cũng không sao. Nằm thoải mái, không ai chờ, ai đợi, không có việc gì gấp gáp phải làm, ngoại trừ cái bọng tiểu nó thúc dục, không cho mình nhịn lâu thêm được nữa. Thế thì sao mà không sung sướng.

Nếu chưa về hưu, còn đi làm việc, thì cái tâm của người lớn tuổi cũng nhẹ nhàng, ít bị những sức căng, bị áp lực đè nén. Vì tài chánh cũng quan trọng, nhưng không quá quan trọng đến nỗi khi thất nghiệp thì mất xe, mất nhà, mất vợ mất con như những người còn trẻ. Khi này, nhiều thứ trong cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tiền bạc cũng không quá nhiều. Vã lại, già rồi, kinh nghiệm công việc nhiều, cho nên giải quyết mọi sự trong dễ dàng, thong thả.mưu sinh bên hè phố Hà Nội

Bạn đồng sự cũng có chút nể nang, phần vì tuổi tác, phần vì kinh nghiệm. Có trường hợp, còn có việc thì tốt, mất việc thì mừng hơn, vì có lý do chính đáng để về hưu cho khỏe. Vì nếu việc có hoài, việc lại dễ dàng, thì tiếc, không muốn về hưu. Tuổi lớn, không cần thăng tiến, không cần đua chen với ai, cho nên tinh thần thoải mái, được bạn bè chung quanh thương mến hơn. Những người về hưu rồi, trở lại làm việc, thì đi làm, như  đi chơi, chứ không phải “đi cày” như nhiều người khác quan niệm. Vui thì làm tiếp, chán thì  về nhà nghỉ ngơi.

Người lớn tuổi, thì sức khỏe xuống, bệnh hoạn ồ ạt đến tấn công, không ai thoát khỏi bệnh hoạn. Nhưng họ lại cảm được cái sung sướng của một ngày khi bệnh thuyên giảm. Một ngày khi cảm thấy gân cốt ít nhức mỏi hơn, dễ chịu trong từng khớp xương hơn. Ngưới trẻ đâu có thấy được những nỗi sung sướng này?  Vì họ chưa kinh nghiệm, chưa trải qua, nên chưa biết. Họ có sức khỏe, nhưng họ không biết đó là sung sướng, cho nên, xem như chẳng có giá trị gì. Anh chị xem, nếu anh chị có một tảng ngọc to bằng cái bàn nằm trong vườn, mà anh chị không biết đó là chất ngọc, thì không biết quý, không biết mình sung sướng có tảng ngọc, mà chỉ quý và sướng vì viên ngọc nhỏ xíu nằm trên chiếc nhẫn mà thôi. Có người viết sách rằng, tuổi già, buổi sáng ngủ dậy, nghe xương cốt đau nhức mà mừng, vì biết mình chưa chết. Tôi thêm rằng, biết mình còn sống là mừng, biết mình đã chết nhẹ nhàng, càng mừng hơn.

Nầy anh chị có nhớ câu chuyện Thượng Đế khi đuổi tổ phụ loài người là ông Adam và bà Eva xuống  trần gian, có chỉ mặt mà phán : “Từ nay chúng mi phải đổ mồ hôi trán mới có hạt cơm vào mồm”. Đó là câu nguyền rủa độc địa nhất, là lời phán ý nghĩa nhất, là con người phải sống trong nhọc nhằn. Sách Phật cũng có viết đời là đau khổ, và tu để tránh khổ. Đó, đời nầy đáng sống lắm, nhưng cũng nhiều khổ đau lắm. Bởi vậy nên tôi nói, được sống là mừng, mà được chết, cũng mừng. Tôi đi đám ma ông bạn già, thấy gia đình khóc lóc, rên rỉ thảm thương, con cháu mếu máo kể lể. Tôi cười trong bụng, nghĩ rằng bọn nầy không biết luật của tạo hóa. Có sinh thì có diệt. Chúng nó muốn thân nhân của chúng sống đời đời sao? Biết đâu chỉ là khởi điểm của một cuôc rong chơi. Nầy, tôi đọc cho anh chị nghe một đoạn thơ của anh bạn tôi:

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó

Ai thay da mãi mãi sống muôn đời ?

Kẻ trước, người sau xếp hàng xuống mộ,

Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi …

Khi tuổi già, thì xem cái chết như về. Ai không phải chết mà sợ. Sống qua khỏi tuổi năm mươi, là đã lời lắm. Tuổi trung bình của con người trên thế giới này chưa được con số năm mươi. Thì mình nên tự xem như được sống thêm đời thứ hai. Đời trước đã hoàn tất, có cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Đời sau nầy, thì chắc chắn là sung sướng hơn hạnh phúc hơn đời trước. Vì đã từng trải, đã gom được kinh nghiệm của đời trước, để thấy đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là phù du huyễn hão. Chết là về. Nhưng chỉ sợ không về được đến nơi đến chốn, mà như chiếc xe hư máy dọc đường. Làm khổ chủ xe, bắt nằm liệt mê man, không sống mà cũng không chết, đó mới là cái đáng sợ. Tôi biết vậy, nên đã làm di chúc, khi nào tôi bị mê ba ngày, thì xin rút ống cho tôi đi. Đi về bình an.

Này, anh chị nghĩ sao về ông bác sĩ mà người ta đặt cho tên là bác sĩ tử thần? Già rồi tôi không nhớ rõ tên, hình như ông ta tên là “Ki-Vô-kiên” phải không? Cái tên gần gần như vậy. Theo tôi, thì ông nầy là một vị Bồ Tát, cứu độ cho chúng sinh mau qua khỏi khổ đau, để bị ra tòa, bị tù tội. Chỉ có cái tâm Bồ Tát thật lớn mới làm được việc đó. Tôi cố tìm một cái ảnh ông ta để thờ sống, mà không có. Tôi nghĩ, trong tương lai, luật pháp sẽ không ngăn cấm việc cho người đau đớn ra đi sớm hơn, vì đàng nào cũng chết, tại sao phải kéo cái đau đớn ra dài hơn mới được chết. Trừng phạt người ta hay sao?

Trong tuổi già, người ta biết ơn sự nhiệm mầu của tạo hóa. Có bộ máy nào, không phải là gang thép, bạch kim, mà chạy một mạch sáu bảy chục năm không ngưng nghỉ, mà vẫn còn hoạt động như quả tim, buồng phổi, trái thận, cái bao tử, não bộ. Có hệ thống ống dẫn nào hoạt động sáu bảy chục năm mà chưa thay thế như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn. Thì dù có rò rỉ van tim, chất mỡ đọng nghẹt trong vài ba mạch máu, thì cũng là sự thường tình, và mừng là còn sống, còn sinh hoạt được. Dù có phải liền liền đi vào cầu tiểu mỗi ngày nhiều lần, thì họ vẫn sung sướng là cái vòi xài mấy chục năm mà vẫn chỉ mới rò rỉ sơ sơ. Mấy cái vòi nước trong nhà, bằng kim khí cứng, không rỉ sét, thế mà năm bảy năm đã phải thay rồi…

Bieu Nguyen*Paul Van

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CỤ GIÀ BÁN RAU

CỤ GIÀ BÁN RAU

Tác giả: Br. Huynhquảng

Qua loạt bài Sống Sao Cho Đẹp, chúng ta như được thưởng thức những món ăn ngon trong bàn tiệc cuộc đời, học được những bài học thấm đậm trong cách cư xử hằng ngày, và thấy được những gương sáng của những con người dù bình thường nhưng rạng chiếu vẻ đẹp trong thế giới chúng ta. Mục Sống Sao Cho Đẹp xin được tiếp tục chia sẻ với quí bạn chủ đề mới: Trung tín và Chung thuỷ. Hy vọng với chủ đề này, chúng ta tìm thêm niềm vui và vẻ đẹp vốn được phú bẩm trong con người chúng ta; để con người chúng ta ngày mỗi thêm hoàn thiện, và đời chúng ta thêm tươi đẹp hơn.

* * *

Gần đây qua internet chúng ta biết được, chuyện một bà cụ bán rau tại Việt Nam đã giữ chữ tín với khách hàng đến nỗi bà đã ngã bệnh và qua đời ít ngày sau đó. Gương của bà cụ đã làm cho nhiều người xúc động và cảm phục lòng chân thành và tín trung của người nông dân chất phát.

Do bị đánh động bởi lòng trắc ẩn khi thấy một bà cụ già phải bán rau vất vả kiếm sống hằng ngày, một chàng thanh niên trên đường đi làm đã dừng xe máy lại mua ít bó rau với mục đích là để giúp bà. Vì lý do đó, chàng luôn tiện nhờ bà giữ giúp rau cho đến lúc chiều đi làm về rồi chàng ghé lấy rau. Nhưng thực ra, ý của chàng là giúp bà chứ đâu phải mua rau, vì thế chàng đã quên hẳn việc “gởi” rau nhờ bà cụ giữ giúp. Hoá ra, bà cụ đã vì trách nhiệm và chữ tín đã ngồi chờ chàng thanh niên dưới cơn mưa tầm tả cho đến chiều tối – kết quả bà ngã bệnh và qua đời sau ít ngày. Những người bán nước xung quanh bà hối thúc bà cất rau, trốn mưa, đi về nhà sớm… bà cương quyết không nghe theo họ, vì bà chờ chàng thanh niên lấy rau, người mà bà đã nhận tiền của chàng từ sáng. Ôi! Chữ tín đẹp làm sao trong cuộc đời!

Trung tín, chung thuỷ có nghĩa trong tiếng Latin là “fidelis.” Fidelis được bắt nguồn từ danh từ fides, nghĩa là đức tin, tính thác. Khi bàn về nghĩa từ “đức tin, tính thác” tức là nói đến mối quan hệ không chỉ giữa con người với nhau, nhưng nói lên mối quan hệ giữa một vị thần linh và con người. Hay nói cách khác, từ mối quan hệ chung thuỷ giữa một vị thần với con người đã giúp con người học được ý nghĩa trọn vẹn thế nào là trung tín và chung thuỷ. Vị thần linh luôn luôn chung thuỷ với con người, còn con người thì thường thiếu sự chung thuỷ với ngài.

Khi bàn đến chung thuỷ và trung tín, chúng ta không thể không bàn tới “lời hứa.” Chính lời hứa là sợi mắc xích, là gạch nối, và cũng là nguyên nhân dẫn chúng ta suy tư và tập sống chung thuỷ và trung tín.

Lời hứa đi theo cuộc sống con người từ lúc có trí khôn cho đến lúc trưởng thành. Thuo thiếu thời, con trẻ được giáo dục và dạy bảo về giá trị của lời hứa qua những việc bình thường trong ngày: “Con nhớ nhé, con làm điều này nhé… Dạ, con nhớ. Dạ, con hứa…” Mối liên hệ, niềm tin giữa người lớn và trẻ nhỏ cũng được chớm nở và phát triển từ đó. Niềm tin dành cho nhau giữa hai người được hun đúc có lẽ phần lớn dựa vào khả năng giữ lời hứa của mỗi người. Cứ thêm một lần lời hứa được giữ, thì niềm tin dành cho nhau càng thêm được cũng cố và phát triển. Ngược lại, nếu cứ một lần lỗi hẹn, thì niềm tin dành cho nhau cũng bị  xói mòn. Trẻ em là người có khả năng nhạy bén nhất để nhận ra điều này. Niềm tin giữa cha mẹ và con cái phát triển tới mức nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giữ lời hứa của cha mẹ dành cho con cái, nhất là lúc các em con thiếu thời.

Khi một lời hứa với ai đó được giữ cẩn thận, thì điều đó có nghĩa là sự tôn trọng của chúng ta dành cho người kia được thẫm định. Dầu vậy, xa hơn thế nữa, khi một lời hứa được giữ, điều trước hết chính là chúng ta tôn trọng chính con người chúng ta, chúng ta giữ lời hứa, chữ tín với chính con người chúng ta – đó chính là điểm then chốt trong việc giữ lời hứa với người khác. Thực đúng như thế, khi tôi hứa một điều gì với ai, tức là tôi thừa nhận với chính tôi và đương sự ấy rằng tôi có khả năng để thực hiện điều đó – Chính giai đoạn thừa nhận với chính tôi đã tạo cho tôi một niềm tin trong tôi; nhờ niềm tin này mà tôi giám hứa với người khác.

Hôm nay, Sống Sao Cho Đẹp mời gọi bạn nhìn ngắm vẻ đẹp của đức tín trung tín và chung thuỷ. Hãy dành đôi phút để hãnh diện về chính con người của mình vốn được ban tặng đức tín cao đẹp này một cách nhưng không. Nhờ niềm tin và lời hứa mà mình đã tạo được biết bao nhiêu mối quan hệ đẹp trong đời: Tình cha mẹ, anh em, bạn hữu, và vợ chồng, con cái. Hãy dành đôi phút để tạ ơn cuộc đời, tạ ơn con người, tạ ơn người thân, vì cũng chính nhờ niềm tin và lời hứa của họ mà ta thêm vững tin xây dựng cuộc đời, xây dựng đời mình.

Bạn thân mến, việc hoàn thiện đời người không chỉ là việc nhổ cỏ dại, nhưng quan trọng hơn chính là trồng thêm lúa, hoa, và rau. Càng trồng thêm lúa, hoa, rau… thì cỏ dại không có cơ hội chiếm đất trống để mọc. Sống trong tâm tình tạ ơn, cảm kích sẽ giúp ta trồng thêm đức tính tốt và thực hiện được ước mơ làm người sống đẹp, sống tốt. Chúng ta cùng hứa với lòng mình và với nhau là trồng thêm lúa, hoa bằng cách giữ lời hứa với mình và với người trong niềm vui cảm tạ.

Br. Huynhquảng

TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –

TU VIỆN SUMELA, THỔ NHĨ KỲ –
Di sản văn hóa thế giới

Huyền bí tu viện cheo leo vách núi ở Thổ Nhĩ Kỳ

Được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, tu viện Sumela là một công trình chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, tôn giáo và kiến trúc của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Tu viện nằm cheo leo trên vách núi trong màn sương mờ ảo.

Tu viện Sumela nằm tại Trabzon, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen. Tu viện được xây dựng trên một vách núi cheo leo cao 1.200m. Do thời tiết quanh năm ẩm ướt cộng với sương mù thường xuất hiện nên tu viện cổ kính này luôn khoác trên mình vẻ âm u, huyền bí.

Để leo lên tu viện Sumela, du khách có hai sự lựa chọn. Một con đường hiện đại được xây dựng xuyên từ sườn bên kia của ngọn núi sang tu viện. Còn nếu bạn không ngại đi bộ, bạn hoàn toàn có thể trải nghiệm và đồng hành với một con đường xuyên rừng, leo lên sườn dốc để lên tu viện.

Lên một chiếc cầu thang chênh vênh bên sườn núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống dẫn nước được đặt trên những mái vòm nối tiếp nhau phía tay trái. Đây chính là nguồn nước duy nhất của những người sống trong tu viện. Ngày nay, các mái vòm đã được phục dựng khá hoàn thiện.

Cầu thang men theo sườn núi vào tu viện, bên trái là đường ống dẫn nước đặt trên những cột trụ cổng vòm.
Bao quát toàn cảnh những dãy nhà nguyện.
Phần kiến trúc bằng gạch trong lòng hang đá.
Nhà nguyện đá.

Leo hết cầu thang, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh những dãy nhà nguyện cổ kính chen nhau dưới mái vòm hang động. Tu viện Sumela có tổng cộng 72 căn phòng, bao gồm nhà thờ đá, các nhà nguyện, bếp, phòng học, phòng tiếp khách và một thư viện lớn. Phần trung tâm của tu viện được đào sâu vào lòng núi và có thêm phần hậu cung xây bằng gạch. Các bức tường gạch và đá đều mang trên mình những bức tranh tường mang chủ đề tôn giáo.

Truyện kể rằng Thánh Luke, một tông đồ của Chúa Jesus đã tạc một bức tượng gỗ màu đen Đức Mẹ Đồng trinh Maria. Sau khi ông qua đời, thánh vật này được chuyển đến Athens, Hy Lạp. Tương truyền, các thiên thần đã mang bức tượng đến một hang đá cất giấu để đến năm 386, hai tu sĩ người Athens là Barnabas và Sophronius đã phát hiện ra nó. Họ đã xây dựng nên tu viện Sumela ngay tại hang đá này. Từ Sumela bắt nguồn từ tên tiếng Hy Lạp của Đức mẹ Đồng trinh – Panaghia.

Tranh tường theo chủ đề tôn giáo, khắc họa các cảnh trong Kinh Thánh.

Đức Mẹ Đồng trinh Maria.
Chúa Jesus.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp quanh tu viện.

Tu viện Sumela là một tu viện Chính thống giáo Hy Lạp, một nhánh của Kitô giáo. Các hoàng đế của đế chế Trebizond đã không tiếc tiền của xây dựng tu viện này. Khi vương triều này sụp đổ và bị thay thế bởi đế chế Ottoman của người Hồi giáo, tu viện Sumela vẫn được duy trì. Cả người theo Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều tin rằng, phép màu của Đức Mẹ Maria sẽ mang đến sức khỏe dồi dào cho những người hành hương.

Đầu thế kỷ 20, cùng với sự thành lập của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, người Hy Lạp buộc phải rời khỏi Sumela và tu viện chính thức bị bỏ hoang từ năm 1923. Các tu sĩ đã chuyển các báu vật sang Hy Lạp, và nhiều công trình bằng gỗ đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn năm 1930. Ngày nay, tu viện Sumela đã được phục dựng và trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Chữ cổ trên tường tu viện.

Hình ảnh tu viện trên một tấm bưu thiếp gửi năm 1903.

Tu viện Sumela là điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách trên thế giới.