Mời Xem và Suy Ngẫm

Mời Xem Và Suy Ngẫm...
 
 
            Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm của người khác.
 Đức Đạt Lai Lạt Ma kể về một vị sư già, sau khi bị nhà nước CSTQ giam tù 20 năm, đã vượt biên trốn sang Ấn Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi vị sư già này, rằng trong 20 năm tù kia, nhà sư lo sợ điều gì nhất. Vị sư già trả lời, rằng trong 20 năm trong tù lúc nào cũng chỉ lo sợ có mỗi một điều: Chỉ sợ rằng mình mất đi Bồ Đề Tâm, chỉ sợ có khi nào khởi lên lòng oán giận các cai tù, chỉ sợ có khi nào lòng mình khởi lên căm thù… Chỉ sợ lòng mình không giữ được Từ Bi, nhẫn nhục
 
 Sao phải đợi đến lúc cô đơn mới nhận ra giá trị của một người bạn?
Sao phải đợi được yêu rồi mới đem lòng yêu người?
Sao phải đợi có thật nhiều rồi mới chia sẻ một chút?
Sao phải đợi một nỗi đau rồi mới nhớ đến một lời ước nguyện?
Sao phải đợi có thời gian mới đem sức mình ra phục vụ?
Bạn ơi, sao phải đợi? Bởi có thể rằng bạn không biết bạn sẽ đợi đến bao lâu.
Đã bao nhiêu lần ta chần chừ để rồi cơ hội vuột đi?…
 
“Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất ở nhân loại?”
Đức Đatlai Lama trả lời:” Con người … bởi vì con người phung phí sức khỏe để tích tiền của, rồi lại bỏ tiền ra để tìm mua lại sức khỏe.
Và vì quá lo nghĩ cho tương lai, con người quên mất hiện tại, đến nỗi không sống với hiện tại lẫn tương lai.
Con người sống như thể sẽ không bao giờ chết … Nhưng rồi sẽ chết như chưa từng sống bao giờ.”
 
 Yêu thương như bạn vẫn thường yêu, sống như bạn vẫn thường sống nhưng với một niềm tin là bạn không thể có cuộc sống này lần nữa.
Hạnh phúc mà bạn đang có hay nỗi đớn đau mà bạn đang mang là duy nhất, bạn hãy chấp nhận và thưởng thức.
Như bạn chỉ có thể sống được ngày hôm nay, còn ngày mai, ngày mai đó chưa tới và chắc chắn, ngày mai đó vẫn sẽ tới, nhưng có thể sẽ không còn có bạn.
 
Có hai chuyện phải lo lắng:
Hoặc là bạn khỏe mạnh hoặc bạn bị đau.Nếu khỏe mạnh, thì chẳng có gì phải lo lắng
Nếu bị đau, thì có hai điều phải lo lắng:
Hoặc sẽ được bình phục hoặc sẽ chết.
 Nếu đưọc bình phục, thì chẳng có gì phải lo lắng.
Nếu bị chết, thì có hai điều phải lo lắng.
Hoặc lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục. Nếu lên thiên đàng, thì chẳng có gì phải lo lắng.
Nếu xuống địa ngục, thì … , còn thì giờ đâu nữa mà lo với lắng.
 

Thế thì tại sao bạn phải lo??? (=> có lý lắm thay!!!)

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG?

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG?

(Suy tư nhân lễ Lòng Chúa Thương Xót)

 “Em đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời Cha Mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc nhà thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc cạch cọc cạch đi lễ đi làm việc nhà thờ. Có mấy lần bị thiên hạ mời và bị hỏi: “Làm ở nhà thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy?”. Thấy mà thương! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sài gòn, đứa nào cũng phải tự bươn chải vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ…Tội nghiệp!

 Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về LCTX trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót họ. Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng mà nay đi đâu cũng Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót….

 Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng đạo được 9 năm nay. kể rằng: ban đầu, chị đến với LCTX nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời Ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối rửa”. Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, xin cho ổng đừng ghét con”. Hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều thứ năm tuần thánh 5-4-2012, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai, là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói vài hôm ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện Ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là Ba của chị đã đến thăm con, cháu…

 Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao? Thật bất công quá! Em đạo dòng…. Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy thứ ngưòi kia….”.

 Thiết nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là người thấy người khác được Chúa Xót Thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người.

 Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang Thương Xót từng người, và ban ân lộc cho từng người “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ’. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời” kẻo uổng công trình trút hết giọt máu, giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

 Trở lại câu chuyện của chị đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại,  không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng cho được Nước Trời, được sống đời đời, nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu.

 Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”.

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa.

Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 14-4-2012

Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II

Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và bức ảnh mới được công bố

Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đến thăm và tha thứ cho tay súng Mehmet Ali Agca đang bị giam trong tù (bìa tạp chí Time)

TẠI SAO NGƯỜI TÍN HỮU LUÔN HY SINH VÀ THA THỨ ?????
Bấm xem ảnh ở cửa sổ mới
Ngày 1 tháng 5 năm 2011 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Benedict, thay mặt Giáo Hội, đã vinh phong Đức Cố Giáo Hoàng lên bậc Chân Phước. Nhân dịp này, xin giới thiệu bạn đọc một biến cố quan trọng nhất trong xẩy ra trong cuộc đời Đức cố Giáo Hoàng thân yêu chúng ta. Biến cố này xẩy ra vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ngày ngài bị ám sát. Chính ngày đó, ngài đã được cứu sống nhờ sự can thiệp của Đức Maria… 

Vào ngày 13.5.1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ, đã cố ý giết chết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô ở Roma. Mãi cho đến hôm nay nguyên nhân vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II của Ali Agca vẫn chưa được hoàn toàn giải thích một cách rõ ràng, mặc dù người ta đã biết được rằng Agca thừa hành lệnh của mật vụ Bảo Gia Lợi (Bulgarie).

Sự nghi ngờ cho rằng vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là được Breschnew, Chủ tịch nhà nước và đảng trưởng Đảng cộng sản Liên Sô, sắp xếp và được cơ quan mật vụ Liên Sô KGB ở Mạc Tự Khoa trao cho mật vụ Bảo Gia Lợi thi hành, đã lan rộng ra liền ngay sau vụ ám sát.

Riêng Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, hiện là TGM của Krakau/Ba Lan, và là vị thư ký lâu năm của Đức Gioan Phaolô II – kể từ khi ngài còn là Tổng Giám Mục Kraukau mãi cho tới hết 26 năm làm Giáo Hoàng -, thì hoàn toàn xác tín rằng: «Nói một cách khách quan thì hoàn toàn không thể tin được là Ali Agca chỉ là kẻ hành động lẻ loi một mình và tất cả mọi sự đều chỉ do một mình y thực hiện mà thôi».

Trong các hồ sơ vụ việc người ta thấy có ghi nhận là bộ An ninh Quốc gia của Đông Đức đã nhận lãnh sứ mệnh tìm cách làm giảm thiểu bớt trách nhiệm cho «cơ quan tuyên truyền của người anh em» Bảo Gia Lợi về việc ám sát Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, trên thực tế các sự thú nhận hay các bằng cứ chắc chắn và rõ ràng về vụ ám sát thì mãi cho tới nay người ta vẫn chưa nắm hết được.

Đúng vậy, cho tới nay những lý do thầm kín phía sau vụ ám sát vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Chỉ một điều chắc chắn là Bộ chính trị trung ương Liên Sô đã nhiều lần bàn luận về việc «làm sao có thể giải quyết dứt điểm vấn đề Ba Lan». Ông John O. Koehler, một ký giả người Hoa Kỳ, thì khẳng định là ông đã đọc một hồ sơ được viết vào tháng 11 năm 1979, có ghi các chữ ký của các thành phần thuộc Bộ chính trị trung ương của Liên Sô cũ, trong số đó có cả chữ ký của ông Michail Gorbatschow.

Quả vậy, vào tháng 11.1979 chính là lúc ông Gorbatschow đang đảm nhận chức Tổng bí thư của trung ương Đảng cộng sản Liên Sô, nhưng ông lại chưa phải là thành viên của Bộ chính trị trung ương. Những quyết định về các phương thức hành động của cơ quan mật vụ KGB chỉ được một số rất ít các đảng viên cao cấp quyết định mà thôi.

Trong một hồ sơ hiện đang được lưu trữ ở Văn khố quốc gia tại Mạc Tư Khoa có ghi: «Cần phải tận dụng tất cả mọi phương tiện khả dĩ để dẹp tan một khuynh hướng chính trị mới do vị Giáo Hoàng người Ba Lan khởi xướng đang chớm nở, và nếu cần thì phải sử dụng cả những phương tiện thông tin ngụy tạo và làm mất tín nhiệm.»

Còn riêng Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005.

Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.

ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất:

«Tại sao Ngài lại không chết? – Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?»

Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma – ngày 13 tháng 5 (1981) – cũng chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 (1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài.

Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy.

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mới

Và đây là bức ảnh mới được công bố gần đây, cho thấy sự can thiệp nhiệm mầu của Đức Mẹ Maria vào ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô bị ám sát, ngày 13 tháng 5 năm 1981

Chúng ta không hiểu tại sao Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn cất dấu tấm hình chụp nầy trong nhiều năm. Vatican đã vừa mới công bố tấm hình chụp nầy lần đầu tiên. Tấm hình được một vệ sĩ của Người chụp ngay chính lúc Đức Thánh Cha bị tấn công và đang ngã xuống trong chiếc xe đặc chế (papamobil) của Người. Các bạn có thể nhìn thấy đau đớn hiện trên mặt Người.

Joaquin Navarro Valls, phát ngôn nhân Toà Thánh vào thời gian đó, đã tuyên bố người ta mất nhiều năm để nghiên cứu tấm hình chụp khó tin nầy và tất nhiên là về chất lượng rửa hình, vì khi được chuẩn bị kỹ càng, không ai có thể nhìn rõ ràng bởi vì tấm hình không sáng sủa. Cuối cùng, sau nhiểu kiểm duyệt và tìm tòi, dưới sự kiểm soát của các chuyên gia nhiếp ảnh trên thế giới, họ đã quyết định không hề có “giả mạo’ thuộc thuật nhiếp ảnh và ngày nay họ cho chúng ta món quà đẹp đẽ nầy về Mẹ Thiên Chúa.

Các bạn có thể nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa ôm Đức Gioan-Phaolô II trong tay Mẹ.

Lm Nguyễn Hữu Thy

Linh Mục Bác sĩ Nguyễn Viết Chung

Linh mục Bác sĩ Augustinô Nguyễn Viết Chung

(xem hình người đứng giữa)
alt

Linh mục bác sĩ Chung (thứ ba trong hình)

(Trích đăng từ bài viết “Sau ba thập niên” của tác giả Hương Vĩnh)

IV. SỐNG ĐỜI KHÓ NGHÈO

ĐÁP LẠI TIẾNG GỌI CỦA TIN MỪNG

Trong lúc đại đa số giới trẻ ở đây đang tận dụng mọi phương cách để kiếm thật nhiều tiền ngõ hầu đáp ứng nhu cầu vật chất, trong bối cảnh một xã hội đang đổi mới thì một thiểu số rất nhỏ những thanh thiếu niên nam nữ đã đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng để sống đời phục vụ tha nhân.

Điều làm tôi cảm động là mỗi sáng sớm, một nhóm các em dự tu – có lẽ thuộc Nữ Tử Bác Ai hay một tu hội nào khác – nghiêm trang đi xem lễ ở nhà thờ Dòng Đa-Minh – và có lẽ ở những nhà thờ khác nữa. Các em ăn mặc đơn sơ: áo trắng quần xanh, nghiêm trang trong mỗi bước đi, đắm hồn trong sự suy tư chiêm niệm.

NẾP SỐNG KHÓ NGHÈO THẬT SỰ

Lần đầu tiên tới thăm linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung tại Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn ở đường Nguyễn Kiệm, tôi được cha dẫn đi xem một số phòng ốc, nhờ đó tôi mới hiểu được phần nào nếp sống khó nghèo của các tu sĩ trong khung cảnh hiện tại.

Phòng cha Chung chỉ vỏn vẹn một chiếc giường gỗ với một chiếc chiếu trải lên đó. Bên cạnh tủ sách là một chiếc ghế và một cái bàn nhỏ. Có cái quạt máy treo tường nhưng không thấy mở! Với khí hậu oi bức mùa hè ở Saigon, tôi không hiểu làm sao cha có thể chịu đựng được “cái nóng ghê người, nóng nóng ghê!”

Cha dẫn tôi đi xem phòng ngũ các thầy. Năm sáu thầy nằm ngũ trong một phòng nhỏ: chỉ có hai giường gỗ, ngoài ra là mấy chiếc chiếu xếp lại, để trên sàn nhà. Thầy nào cảm thấy nằm trên sàn nhà không được thì mới nằm trên giường.

Khi quan sát cảnh tượng đó, tôi tự nhủ: đành rằng có một số linh mục tu sĩ sống trong nhung lụa, ngủ trong nệm ấm chăn êm với máy điều hòa không khí… không thiếu những linh mục tu sĩ có nếp sống thanh bần theo gương Thầy Chí Thánh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không nơi gối đầu!”

Tôi nhớ lại “Lời Nguyện Không Thể Thiếu” của đông đảo linh mục cũng như nam nữ tu sĩ đang sống đời chứng nhân một cách hùng hồn (sách LKĐNTNK, trang 7-9), để cầu xin Chúa cho những tôi trung của Ngài luôn trung thành với những gì đã đoan hứa:

“…
Lay Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới trao tặng niềm tin,
Nhưng con lại có thể làm nên
Chứng tá sống động cho Chúa hôm nay.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới gởi đến niềm hy vọng,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Tìm lại nguồn cậy trông.

Lạy Chúa chỉ mình Chúa,
Ngài mới đốt lên ngọn Lửa Mến,
Nhưng con lại có thể giúp anh em con
Học biết yêu thương.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới tác tạo hòa bình,
Nhưng con lại có thể ra đi gieo cấy
Tình đoàn kết hợp nhât anh em.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Đấng ban sức mạnh Thánh Linh,
Nhưng con lại có thể nâng đỡ
Một tâm hồn anh em đang thất vọng.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thật sự là đường,
Nhưng con lại có thể chỉ đường
Cho anh em con bước đi.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể
Làm cho ánh mắt anh em con
Thêm ngời sáng long lanh.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là sự sống vĩnh cửu,
Nhưng con lại có thể đem đến
Cho anh em con niềm vui sống.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thực hiện được những điều nan giải,
Nhưng con lại có thể làm được
Cái khả dĩ làm được trong tầm tay.

Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Tự Ngài đã thực sự viên mãn,
Nhưng Ngài lại ưa thích cho con
Được cộng tác trong công việc của Ngài,
Và Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con
Để cứu độ mọi người.”

NHÀ DƯỠNG LÃO TÌNH THƯƠNG

Vào một trưa Chúa nhật, tôi đã tham dự Thánh lễ do cha Chung dâng tiến cho các cụ bà ở Nhà Dưỡng Lão Tình Thương Bình Lợi. Nhà Dưỡng Lão nầy nằm khuất trong một thôn xóm hẻo lánh, bên cạnh dòng sông Sài Gòn với những hàng dừa nước hoang dại. Trước NhàDưỡng Lão là một dãy mộ bia của những nữ tu đã ra đi từ lâu, sau một thời gian dài tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo.  Nhà Dưỡng Lão gồm mấy dãy nhà nghèo nàn xơ xác, tương xứng với những cụ bà cũng rất nghèo hèn, xem chừng bị bỏ rơi, không được người nhà quan tâm.

Nhà này nuôi dưỡng 37 bà cụ. Bà cụ già nhất được 94 tuổi. Đa số các cụ bà trên 70 tuổi. Có 14 cụ bà bị bệnh nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, cần chăm sóc tích cực. Nhà có 4 phòng: hai phòng dành cho các cụ bệnh nặng và hai phòng dành cho các cụ đi lại được. Các nữ tu phải mướn thêm hai người giúp việc, lưong tháng khoảng năm hay sáu trăm ngàn đồng Việt-Nam, chưa tới ba bốn chục Mỹ Kim. Chính các em dự tu và các chị khấn tạm đã tích cực giúp đỡ các cụ bà.

Khi tôi vừa tới nơi là lúc cha Chung đang chia sẻ bài Phúc Am Chúa nhật. Những lời nói chân thành đơn sơ của cha phản ảnh một tâm hồn say mê Lời Chúa và sống Lời Chúa.

Khi Thánh lễ chấm dứt, cha Chung đưa tôi đi thăm Nhà Dưỡng Lão. Hầu hết những cụ bà đều đau yếu, phân nhiều ngồi xe lăn, hay xê dịch phải có người giúp đỡ. Một ít cụ nằm suốt ngày trên giường. Các cụ nằm trên những chiếc giường sắt nghèo nàn, nhưng sạch sẽ vì được các chị nữ tu và các em dự tu chăm sóc chu đáo về mặt vệ sinh. Nhưng có cụ vì nằm lâu ngày trên giường nên lưng bị thâm đen.

Lúc đó một cụ già yếu vì nhu cầu phải nằm xuống giường, nhưng không thể tự lực được. Một nhóm năm sáu em dự tu vội vàng xúm lại, vui vẻ bồng đỡ: em thì choàng lưng, em khác đỡ vai còn em khác nữa thì quàng chân…chẳng khác nào những cháu chắt trong nhà đỡ đần các bà ngoại, bà nội vậy. Có lẽ vì thế mà các cụ hay nở nụ cười trên môi, tuy phải đau đớn về thể xác và đau khổ trong tâm hồn.

Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi tự hỏi có gì hấp dẫn nơi các cụ già, nghèo hèn xơ xác, da thịt nhăn nheo, đen điu xấu xí… nếu không phải vì tiếng gọi của Tình Yêu Thiên Chúa. Trong lúc các tầng lớp thiếu nữ thuộc lứa tuổi các em đều ra sức tìm kiếm những nếp sống mang lại phúc lợi cho chính bản thân họ, còn các em đã tự nguyện quên mình cho những người bị bỏ rơi. Các em đã dâng hiến đời mình cho Chúa để theo đuổi lý tưởng quên mình vì tha nhân:

“Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con,
Mong chẳng còn gì là của con,
Để con được trắng tay,
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy,
Con được chọn Chúa mãi là của con.

Chỉ mong Ngài xóa đi,
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu,
Mong chẳng còn gì ràng buộc con,
Để con được ngước lên,
Con tìm được Ngài là chân lý,
Con được cùng Chúa đồng hành luôn.

Chỉ mong Ngài cất đi,
Mong chẳng còn gì để nắm giữ,
Mong chẳng còn gì mà tự tôn,
Để con chỉ biết yêu,
Yêu một mình Ngài trọn đời con,
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.”

(“Mong Chẳng Còn Gì” của Tagore, trong sách Lời Kinh Đẹp Nhất Thiên Niên Kỷ, do Lê Quang dịch, trang 20)

V.- LINH MỤC NGUYỄN VIẾT CHUNG

MỘT BÁC SĨ PHẬT GIÁO TRỞ THÀNH LINH MỤC

Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Đức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và vô tình Đức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Đức Cha Jean Cassaigne.

Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng… Ơn gọi làm linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó.

Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ai là Phó Giám Đốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”

Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ Chung đã về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa bác sĩ Chung đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức linh mục hơn một năm nay.

Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne, linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói!

Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi cuối cùng ngã bệnh giữa những bẹnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng sống mình vì kẻ mình yêu!”

Địa chỉ của linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung:
479/15 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú-Nhuận,
Thành phố Hồ-Chí-Minh.
Điện thoại: (08) 990-4980
Địạ chỉ email: vinhson@hcmc.netnam.vn

NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ĐÌNH

Đáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo. Đời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Điều đó đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời sống gia đình không mang lại hạnh phúc.

Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng dưỡng hai cụ thân sinh.

Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi, xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch về thăm nhà!

Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im lặng.

Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”

NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ

Đáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Am…thì sẽ vượt qua những cơn cám dỗ.”

Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa, cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô Đơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKĐNTNK, trang 49-50):

“Lạy Chúa,
Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn
Đôi lần đến với con trong cuộc đời.

Con dâng lên Chúa
Lúc con phải làm việc một mình:
Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề
Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng
Trong cộng đoàn.

Con dâng lên Chúa
Những lúc cô đơn,
Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,
Khi không còn biết con đường
Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu
Và trên đó bóng đêm bao trùm.

Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải
Đau khổ âm thầm một mình,
Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải
Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,
Do thờ ơ và thiếu cảm thông.

Con dâng lên Chúa
Những giây phút con phải yêu một mình
Giây phút thật nặng nề
Khi trái tim con khắc khoải,
Đi tìm sự tương giao
Mà không gặp thấy trong lòng người khác.
Và trong lòng những người con ưa thích
Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.

Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải đau khổ một mình,
Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.
Và chính trong những lúc ấy,
Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.

Cũng như Chúa,
Con ước muốn và cầu xin
Cho chén khổ nầy ra khỏi con,
Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh
Để chế ngự mình
Mà vâng theo Thánh ý Cha,
Đấng Chúa yêu ngàn đời,
Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.

Lạy Chúa,
Xin đừng theo ý con
Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”

VI.- TRUNG TÂM MAI-HÒA

THÁP TÙNG CHA CHUNG

Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ai Thánh Vinh Sơn đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng Thánh lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân vào ngày thứ tư và thứ bảy.

Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm, cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.

Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của tôi đối với những chi thể đau khổ của Đức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt tay, quần đùi, đi dép…để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.

SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA

Đây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa. Đây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Đới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.

Địa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:
Ap Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi,
TPHCM.
Điện thoại: (848) 8 926 135
Địa chỉ email: aidsmaihoa@hcmc.netnam.vn

NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS

Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.

Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids. Nhìn thân thê ôm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn bẹnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy…

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân giúp đỡ – nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc – nên nhà cửa khang trang hơn, chứ không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.

THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA

Đây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.

Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ – nhất là của các em bé – tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.

Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách. Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Đông trước kia: thây các em cười nhưng tôi lại khóc.

MỘT BỮA ĂN ĐẠM BẠC

Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ai phục vụ những bệnh nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn sóc các em bé và một Dì nấu ăn.

Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.

Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.

Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Đỗ Khánh Hoan dịch (Sách LKĐNTNK, trang 39):

“Lạy Thiên Chúa,
Đây lời con cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim con
Mọi biển lận tầm thường.

Xin cho con sức mạnh thản nhiên
Để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho con sức mạnh hiên ngang
Để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho con sức mạnh ngoan cường
Đê chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
Hay cúi đầu khuất phục
Trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho con sức mạnh dẻo dai
Để  nâng tâm hồn vươn lên
Khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho con sức mạnh tràn trề
Để dâng mình theo ý Ngài luôn.”

Không Quyền Lực Nào

                      Không Quyền Lực nào

 Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy

 Hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người

                                                    (Tv 34, 9)

 “Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!”. Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giả Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.

 Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.

 Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.

 Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…

 Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.

 Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.

 

Chân Phước Caesar de Bus

 

Chân Phước Caesar de Bus
(1544-1607)

Như nhiều người trong chúng ta, Caesar de Bus cũng phải vất vả lắm mới tìm thấy ơn gọi đích thực của mình. Sau khi tốt nghiệp ở trường dòng Tên, ngài gặp khó khăn khi phải quyết định giữa sự nghiệp của một quân nhân và một văn gia. Ngài có sáng tác một vài kịch bản nhưng sau cùng an phận trong quân đội và toà án.

Cũng có lúc cuộc đời thật êm xuôi cho một người lính thủy tài giỏi. Ngài tin đó là một chọn lựa đúng. Cho đến khi ngài chứng kiến thực tế của một cuộc chiến, kể cả cuộc thảm sát của người Tin Lành Pháp vào ngày Thánh Batôlômêo năm 1572.

Ngài lâm bệnh nặng và bỗng dưng nhìn lại những tiên quyết trong đời, kể cả đời sống tâm linh. Khi bình phục Caesar quyết tâm trở thành một linh mục. Sau khi được chịu chức vào năm 1582, ngài đảm nhận công việc mục vụ đặc biệt là dạy giáo lý cho người dân sống trong tình trạng bị quên lãng ở nông thôn, hoặc các nơi hẻo lánh. Nỗ lực của ngài quả thật cần thiết và được đón nhận cách nồng hậu.

Cùng với người bà con, Cha Caesar thiết lập một chương trình giáo lý cho gia đình. Mục đích là để chống với sự lạc giáo của người dân, và mục tiêu này được sự chấp thuận của đức giám mục địa phương. Từ những nỗ lực này phát sinh một tu hội mới: các Cha của Giáo Thuyết Kitô Giáo.

Một trong những công trình của Cha Caesar là Huấn Thị Các Gia Ðình về Giáo Lý Công Giáo, được ấn hành vào 60 năm sau khi ngài từ trần.

Ngài được phong chân phước năm 1975.

Thánh Bernadette Soubirous

 

 

Thánh Bernadette Soubirous

(1844 – 1879)

Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của một gia đình thật nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Ðức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.

Vào ngày 11 tháng Hai 1858, cô được Ðức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Ðức. Cô được thị kiến Ðức Trinh Nữ tất cả 18 lần, lần sau cùng vào ngày lễ Ðức Mẹ Núi Carmel, 16 tháng Bảy. Khi kể lại lần thị kiến đầu tiên, cô đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà chức trách. Nhưng Ðức Trinh Nữ hiện ra với cô hàng ngày đã khiến đám đông tuốn đến hang ngày càng đông. Nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy.

Vào ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay đào xới khi vâng theo lời Ðức Trinh Nữ. Nước suối ấy đã chữa được nhiều người khỏi bệnh kể cả người tàn tật.

Vào ngày 25 tháng Ba, Bernadette cho biết trinh nữ hiện ra với cô tự xưng là Ðức Vô Nhiễm Nguyên Tội, và ngài muốn xây một nhà thờ ở đây. Nhiều giới chức dân sự tìm cách đóng suối nước lại và trì hoãn công việc xây cất nhà thờ, nhưng ảnh hưởng và tiếng vang đã thấu đến tai Hoàng Hậu Eugenie nước Pháp, vợ của Napoleon III, do đó việc xây cất được tiến hành tốt đẹp. Ðám đông lại quy tụ về Lộ Ðức, không bị phiền hà bởi các giới chức chống đối tôn giáo và hàng giáo sĩ.

Vào năm 1866, Bernadett được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15 tháng Tư 1879, khi mới 35 tuổi.

Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, và suối nước nhỏ bé ấy hàng ngày vẫn cung cấp nước cho khách thập phương từ khắp nơi trên thế giới.

Sơ Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1933.

Những Cái Vỗ Tay Vô Thanh & Đức Tin Là Một Hồng Ân

 
NHỮNG CÁI VỖ TAY VÔ THANH     tác giả Đỗ Tân Hưng

 
Một tin tức gây sửng sốt cho các Kitô hữu tại Việt-Nam cũng như ở hải ngoại qua bài “BA MƯƠI NĂM CHO MỘT GIẤC MƠ” đăng trên Ephata số 110. Bài đó viết về giấc mơ của một Phật tử – bác sĩ Nguyễn Viết Chung – người mà trước đây rất cảm mến cuộc đời hy sinh của Đức Cha Jean Cassaigne, vi giám mục người Pháp đã gởi nắm xương tàn ở trại cùi Di Linh. Bác sĩ đã ôm ấp một giấc mơ từ ba mươi năm nay là được phục vụ các người xấu số như Đức Cha Jean Cassaigne.

Sau khi tốt nghiệp y khoa vào năm 1980, bác sĩ Nguyên Viết Chung đã tình nguyện phục vụ ở các trại phong cùi và tại đây bác sĩ Chung đã chứng kiến sự tận tụy hy sinh của các nữ tu nghĩa tử dòng Thánh Vinh-Sơn nên đã quyết định theo đạo Công giáo vào tháng 5 năm 1994 với tên thánh Augustinô. Vào tháng 8 năm đó, bác sĩ Chung xin vào tu dòng Thánh Vinh-Sơn và đã nhận lãnh thánh chức linh mục ngày 25 tháng 3 năm nay để có thể tận hiến đời mình một cách trọn vẹn hầu phục vụ các bệnh nhân phong cùi và liệt kháng.

Vì xúc động bởi mẩu tin đó, tôi đã nhờ người bạn thân ở Saigon liên lạc để kiếm giùm cuốn video Thánh lễ phong chức của cha Augustinô Nguyễn Viết Chung. Gần đây tôi đã được toại nguyện khi một linh mục trẻ về thăm Việt-Nam và vừa trở lại Canada đã mang sang cuốn video đó cho tôi. Được xem lại Thánh lể trang nghiêm và sốt mến mà trong đó một bác sĩ – trước kia là Phật tử – nay trong phẩm phục phó tế, đang hiên ngang tiến vào thánh đường họ đạo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Saigon và đã nằm phủ phục trước bàn thờ để nhân lãnh thánh chức linh mục.

Càng cảm động hơn nữa khi tôi được xem cuốn video thứ hai trình bày những hoạt động phục vụ của cha Chung ở tại các trại phong cùi và bệnh liệt kháng. Một quang cảnh đã gây ấn tượng mạnh nơi tôi là khi thấy cha Chung sau khi thăm viếng khám bệnh các bệnh nhân phong cùi xong thì đã đứng vòng quanh với các bệnh nhân đó mà có người đứng, người ngồi hay nằm trên giường hoặc giữa sàn nhà, vừa hát vừa vỗ tay… Thật đau xót khi thấy vài bệnh nhân mà đôi bàn tay không còn một ngón hay chỉ còn một vài nửa ngón mà cũng ráng vỗ tay theo nhịp điệu bài hát!

Trong những sách thiền có đề cập đến công án về “tiếng vỗ của một bàn tay” khiến người Tây phương khi nghiên cứu phải điên đầu về ý nghĩa của công án đó. Thông thường tiếng vỗ chỉ phát ra khi hai bàn tay chạm nhanh và chạm mạnh vào nhau, Cứ suy lý đó thi với một bàn tay không thể nào gây nên tiếng vỗ tay được.

Theo thường tình, phải có môi trường (tức không khí…) thì mới có âm thanh, và chỉ có những rung động hay đột xuất làm thay đổi áp suất của môi trường mới cho chúng ta âm thanh. Vậy một tay đập mạnh trong không khí sẽ cho chúng ta tiếng cọ xát (tức gió), nhưng nếu nhanh hơn vận tốc âm thanh sẽ cho chúng ta tiếng nổ siêu thanh Từ tiếng kêu của vô thanh tới tiếng nổ của siêu thanh đều có thể thực hiện được.
Như vậy không có tiếng vỗ của một bàn tay. Thế nhưng, mục đích của công án đó là để giúp chúng ta tìm sự thinh lặng của vũ trụ, đồng thời cho chúng ta thấy những giới hạn của con người trong những vòng lẩn quẩn của lý luận và của trí thức. Chúng ta phải cảm nghiệm được sự im lặng tuyệt đối hiện hữu trước chúng ta và sau khi chúng ta thôi hiện hữu.

Và như vậy, dưới nhãn quan của thiền gia, người nào nhận ra được chân lý đó sẽ có cơ hội gạt bỏ hết các tạp niệm để hoà mình với vũ trụ, làm một với vũ trụ, trở nên một phần tử cùng hiện hữu với vũ tru. Chỉ có thế chúng ta mới thấy mình và tha nhân là một. Do đó khi mình vượt lên trên mọi đối đãi, thị phi thì mình sẽ tìm về với tuyệt đối, chân như.

Vậy tiếng vỗ “vô thanh” của hai bàn tay mà năm ngón đã rơi rụng hết đã tạo thành những tiếng nỗ siêu thanh xuyên phá quả tim con người! Tiếng nỗ siêu thanh đó đã xuyên thấu con tim của một bác sĩ trẻ tuổi, khôi ngô tuấn tú khiến bác sĩ tỉnh ngộ mà tận hiến đời mình cho những con người xấu số đang mang lấy trong thân xác khổ đau của họ những thiếu sót trong thân thể khổ nạn của Đức Kitô.

Trước đây Phi-la-tô đã trình diện cho dân Do-Thái một Đức Kitô với thương tích đầy mình cùng chiếc mũ gai trên đầu rồi nói: “Nầy là người!” (Ecce homo). Qua cuôn video đó những vết thương đau của Đức Kitô đang hiển hiện qua các thân thể đớn đau của những người phong cùi và liệt kháng cũng được trình diện cho những người dự khán. Ngày xưa khi nói về Đức Kitô khổ nạn trên thập giá, tác giả Thánh vịnh đã viết: “Hởi người bộ hành, hãy đứng lại nhìn xem, có đau khổ nào lớn hơn nỗi đau đớn mà tôi đang chịu đây chăng!” Nỗi đau đớn của Đức Kitô còn đang tiếp nối trong những thân thể bị tàn phá bởi chứng phong cùi hay bệnh liệt kháng. Những tiếng vỗ của một bàn tay vì bàn tay kia đã cùn cụt hay tiếng vỗ của đôi bàn tay mà năm ngón đã rơi rụng hết có cảm động tâm can chúng ta như đã cảm động cậu Nguyễn Viết Chung ba mươi năm về trước không?

Cùng với Lm. Nguyễn Công Đoan, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta được thực hiện trong đời sống mình những tâm tưởng sau đây để hàn gắn phần nào những thương đau của những con người xấu số, những phần thân thể còn đang bị thương tổn của Đức Kitô:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa
Làm chân tay cho những người què cụt,
Làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
Làm lỗ tai cho những người bị điếc,
Làm miệng lưỡi cho những người không nói được,
Làm tiếng kêu cho người chịu bất công…

(Trích bài thơ “Như Một Sự Tình Cờ”)

Tác giả: Đỗ Tân Hưng

 
ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN 
nói về Lm. Nguyễn Viết Chung
 
Một ngày vào năm 1973, các báo ở Sài gòn đồng loạt đưa tin về cái chết của Jean Cassaigne, một người Pháp, nguyên là Giám Mục Sài gòn nhưng lại qua đời tại một trại phong ở Di Linh, một nơi đèo heo hút gió trên đường từ Sài gòn đi Đà Lạt. Nguyễn Viết Chung đọc tiểu sử của vị cố Giám Mục trên báo và không hiểu do đâu anh lại mong muốn được nên giống ngài ở chỗ phục vụ người cùng khổ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh chẳng biết gì về Đạo Công giáo, thế mà Đức Cha Cassaigne lại là thần tượng của anh.

Năm 1974. Chung học Y Khoa Đại Học Sài gòn. Tại đây anh gặp người công giáo đầu tiên trong đời anh, giáo sư bác sĩ Lichtenberger người Bỉ, dạy môn Mô phôi học. Chung ngưởng mộ sự uyên bác khoa học vô song của ông. Các bài giảng vô cùng sinh động và phong phú của nhà khoa học uyên thâm một cách lạ lùng làm cho Chung mê mẫn. Chung kinh ngạc khám phá vị giáo sư khả kính này là một Linh Mục dòng tên. Anh thường cùng các bạn trường Y đến nhà thờ để xem Giáo sư Lichtenberger dâng lễ.
Những năm học Y khoa không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Viết Chung anh phải làm thêm nhiều việc nặng nhọc kể cả đạp xích lô để kiếm tiền ăn học và phụ giúp gia đình.

Năm 1984, bác sĩ Chung khi đó 29 tuổi, xin được bổ nhiệm lên trại phong Di Linh  để thực hiện giấc mơ lớn nhất của đời anh. Nhưng theo đúng thủ tục hành chánh thì anh phải trình diện và chịu sự điều động của Sở Y tế Lâm Đồng. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:

– Anh có điên không hay là anh bị cùi?

– Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi.Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.

Từ ngày 01-7-1986 anh về làm việc tại phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng Nai cho tới năm 1989. Từ năm 1990-1992 đổi về làm tại phòng xét nghiệm của bịnh viện da liễu Sài gòn. Ở đây anh xin học thêm chuyên khoa da liễu, vì anh không bao giờ anh quên mộng ước của mình.
Năm 1993 Bác sĩ Chung tình nguyện lên công tác tại trại Phong Bến Sắn, Bình Dương. Tại đây, anh làm việc hăng say như để đạt được tâm nguyện của mình giống như Đức Giám Mục Cassaigne trong việc phục vụ bịnh phong cùi. Anh hết sức tận tụy không nề hà. Nhưng dù như thế anh vẫn thấy mình thua xa các nữ tu nữ tử Bác ái trong việc yêu thương phục vụ người bịnh. Các nữ tu luôn nhẫn nại lắng nghe phục vụ người bịnh hết lòng, không bao giờ làm họ buồn tủi. Tinh thần hy sinh, quảng đại đó khiến cho anh cảm phục. Anh cho rằng muốn có được tinh thần yêu thương người nghèo khổ như thế, anh phải trở thành một người giống như các nữ tu. Anh chưa phải là người công giáo, nên anh không thể hiểu được tinh thần làm việc của các Sơ. Anh cũng muốn được phục vụ với tinh thần giống như các Sơ.

Ngày 28-8-1993 bác sĩ Chung đến gặp Cha Hoàng văn Đoàn, dòng tên, tại Bình Dương xin học giáo lý tân tòng. Ngày 15 tháng 5 năm 1994 bác sĩ Chung được cha chính xứ Bến Sắn, Linh mục Trần Thế Thuận làm lễ rửa tội cho anh tại nhà nguyện trại phong Bến Sắn. Nhưng bác sĩ Chung không hài lòng khi chưa được trở nên giống các Sơ để có thể yêu thương phục vụ người nghèo. Ở tuổi tứ tuần theo đuổi ơn gọi tu sĩ là một điều quá khó khăn.

Ngày 15.9.1994 bác sĩ Chung trở thành tập sinh lớn tuổi nhất của dòng Vinh Sơn nam số 40 đườngTrần Phú, Đà Lạt. Ngày lễ truyền tin 25.3.2003 Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.

Ngày  3.4.2003, Linh Mục Nguyễn Viết Chung quay về trại phong Bến sắn dâng Thánh lễ tạ ơn trong sự hân hoan của các bịnh nhân phong với sự hiện diện của cha sở Bến sắn, người mà 9 năm trước đây đã làm lễ rửa tội cho cha. Vẫn thái độ khiêm nhường, yêu thương và cung kính với các người bịnh vẫn xưng mình là “con” khi nói chuyện với các bịnh nhân lớn tuổi.
Tháng 3 năm 2009 tôi có về Sài gòn có dẫn người cháu đến thăm Linh mục Nguyễn Viết Chung, cha dong dõng cao, hơi ốm, nói năng nhỏ nhẹ: “ “con” cũng chỉ là cái máng để hứng lấy tình yêu thương của mọi người để mang đến cho những người kém may mắn”. 

Nhà văn Hương Vĩnh có viết: “Ba vị đã tác động mạnh mẻ trên ơn gọi của cha Chung là Giám mục Jean Cassaigne, Linh mục Lichetenberger và Dì hai Loan ( phục vụ trại phong Bến Sắn 17 năm, chết vì bịnh ung thư ở tại trại này). Cả ba cùng có mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói.
Trong bài “Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ” cố Giáo sư Trần Duy Nhiên đã viết trong đoạn kết của bài này như sau:

“Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian. Nguyễn Viết Chung biết chắc lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan.. đấy là chưa kể đến nhiều người khác trong đó có thân mẫu của mình một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi Cha Lichtenberger vì tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa. Và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bịnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, bác sĩ Nguyễn Viêt Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bịnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chiụ đóng đinh trong những con người bất hạnh. Và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành Linh Mục của Chúa vào tuổi 48.”
 
KẾT LUẬN
 
Theo Vietcatholic news: Ngày 18.10.2009 Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1114 tân tòng và hơn 2000 người là thân nhân, họ hàng, bạn bè của các tân tòng. Chủ sự Thánh lễ, Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc cùng đồng tế có Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục giáo phận Kontum và hơn 50 cha trong giáo phận.
Ở mỗi giáo xứ hay mỗi nhà thờ hàng năm đều có làm lễ “Rửa tội” cho người lớn, thông thường con số cũng vài chục người. Trong số những người nhận Bí tích thanh tẩy, con số không nhỏ là những người trí thức.
Con đường đến với Thiên Chúa tình yêu, đến với Hội Thánh Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương mời gọi tìm về suối nguồn tình yêu là Thiên Chúa toàn năng, để được an ủi, để được hạnh phúc đời này lẫn hạnh phúc vĩnh cữu đời sau, sau khi mất.
 
Phùng văn Phụng

 

__._,_.___

Những điều không nhìn thấy…

Những điều không nhìn thấy…
ảnh không thể làm thay đổi thế giới,nhưng có thể làm chúng ta thay đổi cách suy nghĩ

 Người ta có thể chi hàng triệu USD từ Quỹ Toàn Cầu cho việc phục hồi Đền Thờ nhưng lại không dành chút nào cho những người dân này sao???Phải chăng chúng ta đang sai lầm trong việc sắp xếp các thứ tự ưu tiên??? Phóng viên ảnh người Tây Ban Nha, Omar Havana, đã dành bảy tháng từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 4 năm 2011 để làm quen với người dân ở bãi chứa rác này và ghi chép lại cuộc sống của họ. Ông nói rằng những gì ông nhìn thấy là “từ một thế giới khác”, nhưng những người dân lại cảm thấy hạnh phúc. Dưới đây, Havana chia sẻ hình ảnh và câu chuyện của ông với ABC News Online

 

 Trẻ em và cha mẹ lọc tìm thực phẩm từ bãi rác (Nguồn: Omar Havana)

 Một cậu bé nói với tôi rằng em đã sống nhiều năm trong các bãi rác. Tôi đã rất cố gắng để có được quyền viếng thăm họ nhưng thất bại, vì thế tôi đã quyết định cứ đi mà không cần được cho phép. Những gì tôi thấy là từ một thế giới hoàn toàn khác. Trong số khoảng 500 người làm việc ở đó, hầu hết  sống, ngủ, ăn và uống ở ngay trong các bãi rác. Sau vài tháng làm việc trong các bãi rác, tôi thậm chí còn nhìn thấy một bé sơ sinh.

Một phụ nữ cho bé ăn dưới một nơi trú ẩn tại bãi rác (Nguồn: Omar Havana)

Với 34% dân số sống dưới 1 đô-la một ngày thì những người trong bãi rác cũng còn có thể kiếm được đồ ăn và lều che thân. Họ kiếm khoảng 35 cen (0.35 $) mỗi ngày trong 14 giờ lao động.

 Một cậu bé trèo vào thùng rác để lục tìm thực phẩm (Nguồn: Omar Havana)

 Họ là những người du mục. Họ di chuyển từ bãi rác này đến bãi rác khác khi có một bãi đầy rác mới được hình thành, thường là khoảng bốn năm. Toàn bộ cuộc sống của họ là trong các bãi rác; họ chỉ di chuyển từ bãi này đến bãi khác mà thôi.

 

Bé gái tươi cười giữa đống chất thải (Nguồn: Omar Havana)

Họ là những người bình thường. Hầu hết các em nhỏ trong độ tuổi từ 3 đến 15, và chúng luôn luôn mỉm cười – đó là điều làm tôi sốc nhất. Mùi hôi thối ở đây mạnh đến nỗi nó xộc thẳng vào cổ họng của bạn. Bạn có thể nếm được cả mùi. Đôi mắt của bạn trở nên đầy nước mắt. Thật là kinh khủng, nhưng với thời gian bạn sẽ quen dần.

Mọi người tìm thực phẩm từ các chất thải mới vừa chuyển đến (Nguồn: Omar Havana)

 Ngày nọ, một cậu bé mang theo một bịch máu hỏi tôi tại sao những người ở nước tôi không bao giờ mỉm cười. Tôi không biết trả lời em thế nào. Vừa nhìn vào bịch máu em mang theo để ăn như thể đó là cả một kho tàng, em giải thích với tôi: “Cháu luôn mỉm cười, cháu thật may mắn. Hôm nay cháu sẽ ăn món này và ngày mai cháu sẽ được thấy mặt trời một lần nữa”. 


Cậu bé khoe “chiến lợi phẩm” của mình (Nguồn: Omar Havana)

Họ dường như miễn dịch từ rác. Các bệnh thông thường rất hiếm; thường chỉ là tiêu chảy, đau bụng hoặc cảm. Một điều rất chung ở đây đó là các vết cắt và vết bầm tím, vì hầu hết trẻ em ở đây đều đi chân trần giữa hàng tấn rác thải.

 

Hai người bạn trẻ (Nguồn: Omar Havana)

 Về cơ bản bãi rác là “trung tâm mua sắm” của họ. Mọi thứ cần thiết cho cuộc sống đều đến từ bãi rác. Họ luôn nói với tôi rằng họ sẽ rất may mắn nếu tìm được chuối vì đây là thực phẩm sạch nhờ lớp vỏ che phủ bên ngoài. 

 Một phụ nữ đang lấy nước (Nguồn: Omar Havana)

Nơi có nhiều khách sạn với giá phòng có thể lên đến hơn 1.500USD cho một đêm.

 

Đống “phế liệu” (Nguồn: Omar Havana)

  Họ xứng đáng được biết đến, họ xứng đáng có tiếng nói, và tôi nghĩ rằng nụ cười của họ là cách tốt nhất mà họ dùng để thể hiện mình. Họ đang hạnh phúc chỉ vì ngày mai họ sẽ lại thấy mặt trời. 

 Bé gái ngồi trong đống rác (Nguồn: Omar Havana)

 Thành thật mà nói, tôi không tìm thấy nỗi buồn ở đó. Tôi đã hạnh phúc mỗi khi được ở cùng với những người dân ở đó.

 Nụ cười vui vẻ của cô gái khi lục tìm thức ăn (Nguồn: Omar Havana)

 Nỗi buồn và những giọt nước mắt sau đó lại đến, khi bạn ngồi trong phòng khách sạn, bao quanh bởi đầy rẫy vật chất mà lại thiếu vắng nụ cười, và khuôn mặt của những người dân sống ở đó xuất hiện trong tâm trí bạn – đó là lúc nỗi buồn bắt đầu xâm chiếm bạn.

 Trẻ em sống ở bãi rác (Nguồn: Omar Havana)

 Thế Giới Bị Quên Lãng. Nhiếp ảnh không thể làm thay đổi thế giới, nhưng có thể làm chúng ta thay đổi cách suy nghĩ và chạm đến trái tim chúng ta. Đó là lý do vì sao tôi là một nhiếp ảnh gia… để lên tiếng cho những người sống trong im lặng…

HỌC NHÂN ĐIỆN VÀ THIỀN CỦA TÍN HỮU CÔNG GIÁO

  HỌC NHÂN ĐIỆN VÀ THIỀN CỦA TÍN HỮU CÔNG GIÁO

Lời ngỏ

Khi tôi đặt bút viết về “Học Nhân Điện và học Thiền của các tín hữu Công giáo”, tôi biết mình sẽ gặp những ý kiến bất đồng  trong giới Công giáo về vấn đề này, vì có nhiều linh mục, nam nữ Tu sĩ và giáo dân đã học “Nhân điện” và học Thiền. Tuy vậy tôi vẫn quyết định viết, hy vọng những nghiệm xét này giúp những anh chị em Công giáo học thiền và học nhân điện định hướng lại con đường mình đang đi, và hãy khám phá lại đời sống tâm linh dồi dào phong phú trong Đức Kitô:

“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.”(x. Ga 10,10).
Từ năm 1980, tôi đã có dịp  xét nghiệm về tập thiền, và từ năm 1992 nghiệm xét về “Nhân điện”. Tôi quyết định viết ra những nghiệm xét của mình về vấn đề “học Nhân Điện và học Thiền”, khi đọc kinh nghiệm của hai cha Don Calloway và Robert Thorn trên trang web Mễ Du vào tháng 8 năm 2006.

Tôi rất mong được anh chị em trong giới Công giáo chia sẻ và đóng góp về kinh nghiệm đã trải qua khi học “Nhân điện” và “tập thiền” này. Xin chân thành cám ơn anh chị em trước.
Từ “nghiệm xét” dùng ở đây được lấy ở trong thư của Thánh Gio-an tông đồ: “Anh em thân mến, đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy nghiệm xét các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có lắm tiên tri giả đã xuất hiện trên thế gian.”(Bản dịch của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn).

(1G  4:1 Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.( giờ kinh phụng vụ)
Những tên thật của những người trong bài viết này đã được thay đổi bằng tên khác, để tránh những điều đáng tiếc sẽ xảy ra khi ai đó biết tên thật của những anh chị em đó.

Có một điều,mà bbt trang web Khơi nguồn này chúng tôi xin sửa lại chữ Thiền Kitô Giáo ra chữ : suy ngiệm trong lòng như Đức mẹ ôm ấp và suy nghiệm trong lòng theo cùng 1 ý đó,vì mình không nói: đi ăn cướp xấu, khác với ăn cướp tốt, mà nói:
Đi cứu người hay đi giúp người. Vả lại mình biết cái vụ Thiền này không đến từ Thiên Chúa mà từ kẻ nói lời dối trá,từ ma qủy, nên chi mình dùng chữ của Kinh Thánh là Suy gẫm về Chúa kitô ,về tình yêu và ơn cứu độ của Ngài,vì Ngài là ông tổ Chữa lành, sao lại còn đi học với ai khác hay ma qủy mà làm chi zậy ! Amen !
Tu Sĩ Giuse-Maria Trưông Văn Trung XV.
DÒNG SỨC SỐNG CHÚA KITÔ

I. HỌC NHÂN ĐIỆN

1. Gặp gỡ Soeur Minh học Phái nhân điện của thầy Lương Minh Đáng

Vào khoảng 1992, tôi được Sơ Lan nói rằng có Sơ Minh trong Dòng được dịp học nhân điện với Thầy Lương Minh Đáng ở Mỹ, và Sơ Lan tặng tôi một tập sách nói về “Nhân điện”. Sau khi đọc kỹ tập sách nhân điện, tôi đến Nhà Dòng xin gặp Sơ Minh để xin giải đáp một thắc mắc về nhân điện.

Tôi hỏi : Thưa Sơ, con đọc trong sách thấy nói rằng ai đã học nhân điện cao cấp có thể mở lớp học nhân điện sơ cấp và trung cấp, còn muốn mở cao cấp thì phải xin ý kiến của Thầy Lương Minh Đáng, nếu không xin mà tự mở lớp sẽ bị mất “điện”, có đúng như vậy không thưa Sơ ?

Sơ Minh : đúng như vậy.

Tôi hỏi tiếp: Nếu như vậy thì con thấy việc mất điện do không hỏi ý kiến của Thầy Đáng giống như việc  “dứt phép thông công” trong Công giáo mình quá; mà nếu đúng như vậy thì “cái nhân điện” mà chúng ta có đâu phải do luyện tập mà có, nhưng do một Đấng nào đó ở cõi vô hình ban cho khi chúng ta vâng lời giữ luật của họ, còn nếu không vâng không giữ luật thì Đấng ấy cất đi, Sơ thấy con nghĩ như vậy có đúng không  ?

Sơ Minh ngẩn người ra một lúc vì cái lập luận của tôi, nhưng rồi Sơ cũng nói: “Thú thật với Thầy, học nhân điện thì học chứ trong đó còn nhiều điều huyền bí lắm không hiểu hết được”

Khi Sơ Minh nói lên điều đó, tôi liền nghĩ trong lòng: “Chúa ơi ! còn nhiều điều huyền bí không hiểu hết, mà Sơ dám liều mình học nhân điện và để Thầy Đáng “khai luân xa” thì không khôn ngoan chút nào”. ( Chúa là Đường là sự thật ,rất trong sáng, chứ không huyền bí u u tối tối vậy đâu à, bbt Khơi-nguồn)

Tôi được biết Sơ đã mở nhiều lớp để dạy “Nhân điện”  và Sơ “khai luân xa ” cho nhiều người, rất đông giáo dân và  các Sơ đến học nhân điện với Sơ Minh. Không biết rõ về những điều huyền bí của một môn phái mà dám bước vào là hơi liều lĩnh rồi, lại còn phổ biến và kéo nhiều người đi vào theo mình thì thật là liều mạng quá trời rồi.

Thậm chí gần đây, tôi biết có một Nhà Dòng yêu cầu các em thỉnh sinh trước khi vào Nhà Tập phải học một nghề hoặc học nhân điện, tôi thực không hiểu vị Bề trên đó nghĩ gì khi yêu cầu họ phải học nhân điện như vậy.( Đui dắt mù lăn cù xuống hố .)

2. GẶP GỠ MỘT giáo dân Công giáo HỌC Phái nhân ĐIỆN CỦA THẦY Dasit Narada (1846-1942) ở Tích Lan (Sri Lanca)
Tháng 7 năm 2004, tôi có tổ chức tĩnh tâm năm cho một số anh chị em giáo dân ở Đan Viện Thánh Mẫu Vĩnh Phước. Khoảng 20 anh chị em tĩnh tâm ba ngày trọn, hai ngày lắng nghe giảng và thinh lặng hoàn toàn.

Ngày thứ  ba trong khi đồng hành với anh Hải, anh mới chia sẻ là anh có tập thiền theo Phái nhân điện của Thầy Dasit Narada. Anh Hải đã theo học một khoá “Nhân điện” với một Bà Thầy trình độ nhân điện cao cấp trong phái nhân điện này. Sau khoá học thì anh Hải có thể chữa bệnh, nhưng phải sau ba năm học với bà Thầy thì anh Hải mới có thể học  “trừ tà”.

Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói trước khi về trời :
17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, …

Nghe nói về “trừ tà”, tôi liền hỏi kỹ thì anh Hải nói rằng sau khi đặt tay truyền nhân điện để chữa bệnh tà nhập (giới nhân điện gọi là bệnh thần kinh giả), thì “vẽ ấn” trên luân xa số 7 (đỉnh đầu) để tà khỏi nhập lại. Anh Hải có đưa tôi xem một miếng giấy hình vuông màu vàng trên đó có một chữ, hình như chữ Phạn màu đen.

Khi xem xong tôi nói với anh:

“Anh theo tà phái rồi, vì ấn là biểu hiện của đa số các môn phái tà”.

Nghe nói vậy anh Hải lặng người đi một lát rồi hỏi tôi:
“Thưa Thầy, như vậy bây giờ em phải làm gi ?”

Tôi trả lời:
“Anh phải can đảm từ bỏ nó thôi”.

Suy nghĩ một chút anh liền đưa cho tôi miếng giấy “vẽ ấn” và nói:
“Xin Thầy giúp em từ bỏ nó”.

Tôi liền mời anh cùng tôi đọc kinh Tin Kính để tuyên xưng đức tin Công giáo, đọc kinh kính Tổng Thần Micae xin Tổng Thần Micae cầu bầu xua đuổi Xa-tan, và đặt tay cầu nguyện cho anh. Chúng tôi xin Chúa Giêsu xua trừ ảnh hưởng của tà thần ra khỏi anh. Sau đó tôi dùng lửa đốt tờ giầy “vẽ ấn” đó.

Sáng hôm sau trong nghi thức dâng mình cho Chúa Giê-su, anh chia sẻ và thú nhận thêm rằng lần đầu tiên trong mấy năm nay (có lẽ từ khi bắt đầu học nhân điện) anh thoát khỏi một cám dỗ dai dẳng về ham muốn tình dục (dù anh đã có vợ, và có con), và anh cảm nhận một niềm vui nội tâm sâu xa khi dâng mình cho Chúa Giê-su.

3. KINH NGHIỆM CỦA LINH MỤC DON CALLOWAY

Ở Mễ Du, Mẹ Đầy Ơn Phúc có đề cập đến “An bình giả tạo” trong thông điệp ngày 20/07/2006. Nữ tu Emmanuel có phỏng vấn Cha Don Calloway ở Mễ du, Cha nói về cách mà người ta bị lầm lạc hiện nay. Xin bạn vào trang http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/  07_15_06.html

3.1. Những điều huyền bí

Nữ tu Emmanuel: Xin Cha cho biết Cha phổ biến thông điệp Mễ du bằng cách nào?

Cha Don Calloway: Hầu như trong mọi lần tôi tới các giáo xứ, các điểm truyền giáo, các hội nghị, các nhóm bạn trẻ, các nhà tù. Thường khi tới những nơi đó, tôi nói những điều căn bản, như về năm hòn sỏi, nói thật đơn giản để mọi người có thể nhớ. Nhiều người đến với tôi vì thấy ma, những điều liên quan đến ma quỷ, những điều huyền bí, chúng ở nhan nhản mọi nơi. Họ tham gia các thứ như Wicca, New Age, Nhân Điện hay các môn như mát-xa, Yoga, v.v… Bạn phải bảo họ rằng những thứ đó chỉ có thể được xua trừ bằng cầu nguyện và chay tịnh. Đó là một phần của thông điệp, bạn phải làm như vậy !

3.2. Luyện tập Nhân Điện

Nữ tu Emmanuel: Thưa Cha, nhiều người đang mắc mưu trong các luyện tập Nhân Điện. Cha khuyên họ điều gì ạ?

Cha Don Calloway: Có một cuốn sách tên là “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” (Ransomed from Darkness). Có rất nhiều người bị những thứ như vậy lừa phỉnh, ví dụ bộ truyện Harry Porter. Bởi vậy nên tôi sẽ nói như Chúa Giêsu:
“Thà con các ngươi ngu dốt mà được vào Nước Trời còn hơn.”

Nhiều người, đặc biệt là trong các tu viện và các xứ đạo, nghĩ rằng mấy chuyện đó cũng ổn.

Yoga, Thái Cực Quyền, những thứ này không chỉ đơn giản là các môn thể dục,  mà còn là một triết lý sống mà bạn phải theo, và bạn đang cố trở nên tự mình giúp mình, hay là Đấng Cứu Độ cho chính mình, cố tự chữa lành. Không thể nào đâu! Nhiều người đã rất bối rối khi tôi nói đến những điều này.

Chuỗi Mân Côi chính là câu trả lời. Nếu bạn muốn học cách trở nên điềm tĩnh và an bình, và nếu hơi thở bạn đã trở nên đều hoà và thấy khỏe hơn, tuyệt! Nhưng nếu bạn không có một hy sinh gì đó kèm theo, thì bình an đó có thể là do ma quỷ.

4. Nhận định

4.1. “Nhân điện” không phải là tôn giáo nên dễ lôi cuốn người có tôn giáo vào Phái “Nhân điện” :

Trong tập “Tài liệu Lớp 4” của một lớp nhân điện được tổ chức tại Hoà  Lan ngày 11-12/05/1996. Khi có người hỏi : “… có phải đây là tôn giáo mới hay không ? “ (câu hỏi số 90).
Thầy Lương Minh Đáng trả lời:
“Đây không phải là tôn giáo nào hết vì tôi đâu có đưa ra điều lệ gì đâu, hay là giáo điều và luật lệ gì đâu”

Câu trả lời của Thầy Lương Minh Đáng là một câu trả lời rất hay, vì nếu nó là một tôn giáo thì các linh mục, Tu sĩ và giáo dân Công giáo thấy “Tôn giáo Nhân điện” đã chạy xa rồi, đâu có chịu để các Thầy nhân điện đặt tay lên đầu để “khai luân xa” cho họ đâu. Các thầy nhân điện nói rằng bạn cứ giữ nguyên tôn giáo của bạn, bạn vẫn cứ cầu nguyện với Chúa, với Mẹ Maria  …. nhưng chúng tôi chỉ nói về một ít điều này thôi…,

Thánh Phê-rô nhắc nhở chúng ta :

“Trong dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới diệt vong. Vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ diệt vong” (2 Pr 2,1).

Như một con virus đi vào máy tính, nó từ từ làm chậm chương trình máy tính, và dần dần làm máy tính “bị treo” không làm việc được nữa. Cũng tương tự như thế, thầy Lương Minh Đáng đưa thuyết luân hồi vào những học tập ở lớp nhân điện cao cấp, nghe rồi lòng tin của bạn hơi nghiêng ngả, nhưng dần dần những điều ấy sẽ thay đổi nếp nghĩ của bạn, và lòng tin của bạn sẽ từ từ chết lịm lúc nào không hay: “treo máy !” lòng tin của bạn nơi Chúa và Giáo Hội không “khởi động” được ! ?

Hiện nay việc học “nhân điện” không còn xa lạ gì với giới Linh mục, Tu Sĩ  nam nữ và giáo dân của chúng ta. Nhiều người sốt sắng học nhân điện, mong rằng mình có thể cứu nhân độ thế, mà không biết “nghiệm xét các thần khí” (x. 1 Ga 4,1) theo lời dạy của Thánh Gio-an Tông đồ.
Vàng thau lẫn lộn,  không ai biết “cái năng lượng vũ trụ” mà giới “Nhân điện” hay nói tới đến từ Chúa hay từ Xa-tan, từ thần khí tốt (Chúa Thánh Thần) của Thiên Chúa hay thần khí xấu (tà khí) của ma quỉ.

Nghiệm xét kỹ và chịu khó đọc những kinh nghiệm thương đau của những anh chị em khác khi học nhân điện, bạn sẽ nhận ra “cái năng lượng vũ trụ”  ấy đến từ  Xa-tan.Ngoài ra Xa-tan còn cám dỗ lòng trí lại hay bị  :khao khát tìm kiếm tình cảm trai gái dù là tu hành hay không !Nhất là rất kiêu ngạo ,ta đây học biết rộng…

4.2.  Đặt tay “khai luân xa”:

Với khẩu hiệu “cứu nhân độ thế”, các thầy nhân điện hoặc những người đã học “Nhân điện” luôn miệng quảng cáo rằng các bạn được dịp xoa dịu những đau khổ bệnh tật của đồng loại ; khiến chúng ta nghĩ rằng đó là một việc rất tốt lành, thôi thì cứ  cúi đầu xuống cho họ đặt tay.
Nhưng đa số giáo dân và giới tu của Công giáo đâu biết rằng Xa-tan núp sau chiêu bài đó để thao túng chúng ta, sau khi cho chúng ta chia sẻ ít “năng quyền” mang tên “nhân điện chữa bệnh” của nó. Cái “thần khí xấu” (tà khí) mà các thầy nhân điện nhận được từ những bậc Thầy khai luân xa cho họ, giờ đây được truyền vào anh chị em qua nghi thức “khai luân xa”, và “thần khí xấu” ấy ở trong anh chị em sẽ từ từ chi phối đời sống tâm linh của anh chị em.

Linh mục Don Calloway cho chúng ta biết: “Nhiều người đến với tôi vì họ thấy ma, những điều liên quan đến ma quỷ, những điều huyền bí, chúng ở nhan nhản mọi nơi. Họ tham gia các thứ như Wicca, New Age,Nhân Điện, hay các môn như Mát-xa (massage), Yoga, Thiền v.v… >>

Như vậy nhân điện có liên quan đến ma quỉ, nên khi chúng ta thân thiện giao tiếp, hay chấp nhận cho các thầy nhân điện của Xa-tan hoặc môn đệ của họ “khai luân xa” cho chúng ta qua việc đặt tay của họ, hay nói cách khác đó là nghi thức làm cho chúng ta gia nhập làm đệ tử, làm môn đệ của  Phái “Nhân điện” hoặc “nhập pháp môn” Nhân điện.  Qua việc đặt tay “khai luân xa”, “năng lượng vũ trụ” gì đó hoặc  nói khác đi một “thần khí xấu” đi vào người được khai luân xa qua luân xa trên đỉnh đầu, và  “thần khí xấu” đó chi phối thể xác và tâm linh của người đó (kinh nghiệm của Anh Hải ở trên, và kinh nghiệm của Cha Robert Thorn ở phần sau).

Ma quỉ được dịp đi vào trong anh chị em qua việc “khai luân xa”, Xa-tan cho anh chị em  “nhân điện” hay “năng lượng vũ trụ” gì đó của nó,  để chữa bệnh cho người khác hoặc tự chữa bệnh, thậm chí cả trừ tà nữa.

Khi được “khai luân xa ”, chúng ta tự nguyện mời Xa-tan vào trong chúng ta, chứ Xa-tan không ép buộc chúng ta. Khi chúng ta chịu phép rửa tội Xa-tan bị duổi ra khỏi chúng ta qua lời nguyện trừ tà của linh mục chủ sự làm phép rửa tội. Nhà cửa tâm linh được quét dọn sạch sẽ, được trang hoàng bằng ơn thánh của Chúa Giêsu, mà giờ đây chúng ta tự nguyện mời Xa-tan vào, anh chị em hãy lắng nghe Lời Chúa nhắc nhở:

“Khi thần ơ uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước” (Mt 12,43-45).

4.3. Khai luân xa và hiện tượng ma nhập khi học nhân điện với thày Mai viết Nhự

Xin Bạn đọc toàn bài ở trang http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=321084 , ở đây xin trích một phần nhỏ của bài viết của người lấy bút hiệu là Bác Mù:
Khoảng đầu tháng 4 năm 2007, qua lời giới thiệu của một nguời cháu ruột, hai em gái của tôi (tạm gọi là em A và em B) đã đến thọ giáo với thày Mai viết Nhự,
Thày Nhự dạy học trò môn Nhân Điện Khoa Tự Động,

Thày không có tính tiền học phí gì cả.  Thày chỉ dạy học trò trong 6 ngày, chứ không như các môn phái nhân điện khác thường phải mất nhiều thời gian hơn, có thể đến 6 tháng.  Khi đến học, thày sẽ để tay lên đầu, lên trán để mở luân xa số 7 và số 6 bằng nhân điện của chính thày.
Thày cũng mở những luân xa 5,4, 3, 2 và 1 bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống lưng.

Trong truờng hợp em B của tôi, chỉ 5 phút sau khi thày Nhự dùng nhân điện của thày để mở luân xa cho em, B rùng mình một cái rồi hai tay B tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển của B, vái lạy tứ phuơng và B có thể quay nguời dẻo dai như nguời lên đồng, múa lên những đông tác mà B, môt nguời thường bị đau lưng kinh niên, không bao giờ có thể làm đuợc.  Bệnh đau lưng, mệt mỏi trong B do đi làm vất vả lại thêm cuộc hành trình xuống nhà thày Nhự từ Sài-gòn trên cái xe không êm ái, trên đọan đuờng kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên biến sạch.

Hai em rất vui vẻ, sung suớng nghe lời thày Nhự dạy bảo là khi muốn chữa bệnh cho mình hoặc nguời khác là chỉ cần kêu “6, 7 hãy chữa bệnh này đi!” là 6, 7 (luân xa 6 và 7) sẽ làm đúng y như vậy.  Em A còn hân hoan khoe với tôi qua điện thọai là 6, 7 của em rất giỏi; có 1 hôm em sơ ý bị một hộp thịt đã mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề.  Em bèn kêu 6, 7 cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền; em kể cho tôi nghe rất hăng hái, khuyên tôi nên về Việt Nam để  đi học nhân điện ở thày Nhự để chữa bệnh tiểu đuờng vốn đã làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.

Xin hết sức cẩn thận khi đi học nhân điện khoa tự động ở những người thầy như thầy Mai Viết Nhự.  Tôi không đủ dữ kiện để kết luận là thày Nhự có liên quan trực tiếp đến vấn đề tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của Thày hay không; tôi chỉ biết là 2 cô em gái của tôi đều bị ma nhập ngay trong lúc đang học nhân điện với thày, sau khi thày mở luân xa số 6 và 7 cho hai em.

Chị K. cũng cho tôi biết là 1 số nữ tu Công Giáo cùng bị hiện tượng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về Việt Nam sau khi cũng học khóa nhân điện với thày Nhự.  Sao lại có sự trùng lập đặc biệt như thế?

Tôi mong bài viết này có thể đóng góp chút nào trong việc ngăn ngừa những trường hợp không may có thể xảy ra sau khi học nhân điện khoa tự động.

Xin các bạn, nếu có thể, đưa bài viết này của tôi ở bất cứ website hay báo chí nào trong hoặc ngoài nuớc để hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho nguời đọc chút nào chăng. Xin cảm ơn các bạn.  (08/06/2007, Bác Mù)

4.4. Học “Nhân điện” của Thầy Lương Minh Đáng sẽ được học về luân hồi, đầu thai chuyển kiếp ở những lớp cao cấp:

Cũng trong tập “Tài liệu Lớp 4” được nói ở trên. Khi có người hỏi : ”Khi chết linh hồn sẽ đi về đâu và sẽ ra sao ? “ (câu hỏi số 86). Thầy Lương Minh Đáng trả lời: “Khi chết linh hồn sẽ đi đầu thai liền … anh chị em sau khi chết sẽ được tái kiếp làm con người liền … ”

Nếu bạn là người Công giáo chân chính, chúng ta phải biết sống theo những gì mình tin, và biểu lộ một cách dứt khoát từ chối tin những điều không phù hợp với lòng tin của người Công giáo, với Giáo lý Công Giáo. Nếu chúng ta đọc kỹ Giáo lý  Giáo Hội Công giáo số  1005 và 1013 thì trong lòng tin của người Công giáo không có việc “đầu thai chuyển kiếp”.

 Giáo Huấn của Giáo Hội Công giáo rất rõ ràng:

+ “Muốn được phục sinh với Đức Kitô, chúng ta phải cùng chết với Người, ta phải “lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa” (2 Cr 5,8).
Chết là “ra đi” (Pl 1,23), hồn lìa khỏi xác.

Hồn sẽ họp lại với xác trong ngày kẻ chết sống lại” (Sách Giáo lý Số 1005 ).

+ Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để con người sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt “cuộc đời trần thế duy nhất này” (x. GL 48),chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác.

“Con người chỉ chết một lần” (Dt 9,29), không “đầu thai” sau khi chết. (Sách Giáo lý Số 1013).

Người Công giáo học “Nhân điện”, được khả năng chữa bệnh ít nhiều, thích quá, rồi cố hết sức để được học những lớp “Nhân điện” cao cấp, để được khai luân xa 100%, để được thêm nhiều nhân điện, thánh Phao-lô còn cho chúng ta biết:
“Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ ”(2 Tx 2,4-10).

Chúng ta khao khát học lên những lớp cao của nhân điện, để rồi được học những điều không phù hợp và đi ngược với niềm tin Công giáo của mình. Một lúc nào đó nếu chúng ta thành tâm xét mình, chúng ta sẽ  giật mình trong hối tiếc rằng có lẽ mình cũng dần dần tin những điều các Thầy “Nhân điện” dẫn dắt mình tin việc “đầu thai chuyển kiếp”, hoặc những tin tưởng khác không phù hợp với niềm tin Công giáo, và dần dần niềm tin nơi Chúa Giêsu của bạn dần dần tàn lụi và tắt ngúm.

Chúng ta sẽ nhận ra việc tập luyện nhân điện là một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như  những quyền năng nào đó bắt nguồn từ một “thần khí nào đó” không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần; và đó chính là điều Thánh Gioan đã nói:
“Thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn  thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4,2-3).

Các Phái “Nhân điện” không tuyên xưng Đức Kitô, nhưng khi đi  sâu vào tập luyện “nhân điện” chúng ta sẽ được học tập liên quan đến việc đầu thai chuyển kiếp (như Phái Nhân điện của thầy Lưông Minh Đáng), hoặc anh em sẽ được học ở cấp cao Phái Nhân điện của thầy Dasit Narada (1846-1942) ở Sri lanca (Tích Lan), người học cao cấp sẽ được  “truyền ấn” để trừ tà (nhân điện goi là thần kinh giả).

Thánh Phaolô cho chúng ta biết:
“Thần  Khí phán rõ ràng: Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4,1-2).
4.5. Việc luyện tập nhân điện với giáo phái Thời Đại Mới

Vào http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html , chúng ta được biết thêm về việc luyện tập nhân điện với giáo phái Thời Đại Mới (New Age)

+  Việc tập luyện nhân điện đang lan rộng nhanh chóng và phát triển mau lẹ nhờ hoạt động của giáo phái Thời Đại Mới, New Ages. Đó là một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như những quyền năng nào đó bắt nguồn từ một “thần khí Siêu Nghiệm” không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần!

+ Trong môn này, năng lượng vũ trụ xuống trên bệnh nhân bằng cách vẽ “ấn” trên họ. Rồi nhà trị liệu mường tượng như năng lượng đó đi vào anh ta qua luân xa trên đỉnh đầu, đổ đầy anh ta và qua tay anh ta đổ tràn vào bệnh nhân. Điều thực sự xảy ra là nhân điện mở cánh cửa đi vào huyền bí. Có một vài trường hợp, sức khỏe người bịnh có khá hơn, nhưng nó nhanh chóng được thay thế bằng những dấu hiệu mà thường dẫn tới việc tập luyện huyền năng, và cả chiêu hồn nữa.

+  Việc tập luyện này bao gồm những dấu “ấn” mật truyền, những câu mantra, có nguồn gốc mờ ám. Như trường hợp thường thấy trong các tập luyện của giáo phái Thời Đại Mới, nó phủ nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa Ngôi Vị, Đấng Tạo Dựng chúng ta, và nó tập luyện với năng lượng của một tinh thần khiếm thần. Nó được truyền cho nhau trong các khoá khai tâm (ngược với ân sủng Chúa Thánh Thần không thể tự động truyền từ người này sang người khác, nhưng chỉ đón nhận từ trên ban xuống, tùy ý Chúa định).

+  Tập luyện này không thể đi đôi với niềm tin Kitô giáo của chúng ta. Với Chúa Giêsu, không có gì là bí ẩn cả! Bởi thế, yếu tố bí ẩn trong các giáo phái không hề chứa đựng điều gì tốt lành. Những cái bẫy của nó rất tinh vi và các nghiên cứu về nó chưa từng được Công khai.

II. HỌC THIỀN

1.    Gặp gỡ một giáo dân Công giáo tập Yoga và thiền theo phái “Con Đường Chân Phúc” (Ananda Marga).

+ Năm 1996, tôi có gặp anh Chánh, một thanh niên Công giáo học Yoga và Thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)” do Guru (Chân sư) Ánandamúrtijii sáng lập ở Ấn Độ. Anh tập Yoga thì thấy sức khoẻ tiến bộ rõ rệt, và tập thiền thì thấy tâm trí an định. Khi nói chuyện với anh, tôi nói rằng bên Công giáo cũng “thiền”, nhưng gọi là “nguyện ngắm” hay chiêm niệm. Tôi trao đổi với anh rằng Phật giáo hay các môn phái thiền thường tập trung tư tưởng để đạt đến một cõi tĩnh lặng, và tìm ra phật tánh, chân như, hoặc một cõi nào đó … của môn phái mình.

Còn bên Công giáo khi  nguyện ngắm hay chiêm niệm, họ cũng tập trung tư tưởng mà họ hay gọi là “cầm lòng cầm trí”, không mong tìm đạt tới một khoảng không nào cả, nhưng chỉ để gặp gỡ một Thiên Chúa sống động yêu thương họ trong Đức Giê-su mà thôi. Sau đó anh Chánh bỏ thiền theo phái Yoga, và chuyển sang nguyện ngắm  theo cách nguyện ngắm  Công giáo lấy gợi ý từ Thánh Tê-rê-xa d’Avila, và sau đó anh cảm nhận được một niềm “bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (x. Pl 4,7) trong ân sủng của Chúa Giê-su.

Khi thiền theo Yoga, anh Chánh được thầy dạy truyền cho một câu mantra bằng tiếng Phạn, và buộc phải thề giữ bí mật câu mantra của mình, để trợ giúp việc tập thiền được tốt hơn. Anh không ngờ rằng câu mantra đó có liên quan đến một “thần khí xấu”.  Khi anh quyết định bỏ thiền của phái “con đường chân phúc” thì cái “thần khí xấu” đâu có để cho anh yên thân, và ma quỉ đâu có dễ dàng bỏ đi như vậy, nó phải “quậy cho đã tức” vì mất một con mồi nó đã khổ công lừa đảo.

Cái “thần khí xấu” mà trước đây anh thường mời gọi nó đến qua việc đọc câu mantra của riêng mỗi người khi thiền, “thần khí xấu” đó làm anh đau bụng quằn quại. Anh cầu nguyện với Chúa Giêsu và mấy ngày sau cơn đau bụng kỳ lạ mới hết. Khi đọc kinh nghiệm của Cha Robert  Thorn, anh Chánh lại càng xác tín rằng ma quỉ đã quấy nhiễu anh qua những cơn đau bụng quằn quại. Khi anh dâng mình cho Chúa Giê-su trong tay dịu hiền của Mẹ Maria nó phải ra khỏi anh, và anh được sống an bình trong cầu nguyện.

Chúng ta được biết rằng câu Mantra (chân ngôn) là những lối đọc thánh thiêng, được lập đi lập lại trong khi cầu nguyện, trong khi thiền, hay là trong khi luyện tập bùa phép. Nó là một lời cầu khẩn với thần linh, một câu thần chú. Nó là một nhóm từ, hay một phần của bản kinh chứa đựng huyền năng.  Chúng ta còn được được biết rằng câu Mantra thường là tiếng Phạn (chú thích: tiếng Phạn là một cổ ngữ của Ấn Độ), mà không ai hiểu ý nghĩa thực của nó là gì trừ ý nghĩa được thầy dạy mình gán cho, và ý nghĩa bao giờ cũng rất là cao đẹp.

Tôi dùng chữ “gán”, bởi vì cả người dạy cũng không thực  sự biết ý nghĩa những câu mantra đó như trường hợp cha Robert Thorn với Siêu Nghiệm Thiền được kể ở dưới đây chẳng hạn.

+  Xin được trích dẫn một phần bài “Cái nguy hại của Yoga” của Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt trên Vietcatholic: trong đó chứng từ của Ông Christian-Marie, tín  hữu Công Giáo nước Pháp, ông cho biết:

Yoga là phương pháp khổ chế nhằm dẫn đưa tâm trí con người đến trạng thái của lương tâm tinh tuyền, của sự hiện hữu tinh tuyền. Đó là trạng thái mà con người ý thức về cái tôi của mình, nghĩa là về điều siêu-việt-hoá sự hiện hữu, trừu-tượng-hoá sự hiện hữu.

… Yoga khiến con người ý thức về cái-ngã, cái vô-thể, cái hoà-lẫn trong khoảng không, bởi vì, nó không có chất thể, nghĩa là không có bản thể, không có một hiện hữu nào hết từ chính nó. Nói tắt một lời, Yoga trước tiên là học thuyết của trạng thái trống không, trống rỗng tuyệt đối. Mục đích tối hậu của Yoga là dẫn đưa linh hồn con người đến chỗ hoà lẫn, hiệp nhất với cái vô thể. Thế nhưng điều này không thể nào xảy ra được,

Do đó có thể kết luận rằng:

Yoga là một phương pháp chỉ có thể thực hiện được với sự trợ giúp của các quyền lực tăm-tối của quỷ dữ. Cái hiểm nguy là ở chỗ trạng thái tinh tuyền mà Yoga muốn đạt tới trở thành đối thủ của Thần Linh và nhường chỗ cho tên Quỷ ngày xưa trong vườn địa đàng đã quyến rũ bà Evà rằng: “Các người sẽ trở thành những thần linh”!

2.  Kinh nghiệm của  Linh Mục  Robert Thorn về “Siêu nghiệm Thiền”

Siêu Nghiệm Thiền (Transcendental Meditation) là một hình thức thiền do một Yogi là Maharishi Mahesh truyền bá từ năm 1955, Ông là đệ tử của Brahmananda Saraswati. Siêu Nghiệm Thiền cũng là tên của một phong trào do Maharishi Mahesh lãnh đạo. Ông tuyên bố rằng Siêu Nghiệm Thiền được gợi hứng và rút ra từ các tập luyện mật truyền của Ấn Độ Giáo. Phong trào này cho rằng có một nghiên cứu khoa học về cơ thể cho thấy các kỹ thuật của nó tạo ra một loạt các ảnh hưởng tích cực cho cộng đồng cũng như cho các cá nhân tập luyện.

Tuy nhiên các phê phán về phong trào này đã đặt ra vấn đề về giá trị của nghiên cứu trên, cũng như bản tính của chính phong trào. Nhiều chỉ trích cho rằng phong trào Siêu Nghiệm Thiền này là một dạng sùng bái tôn giáo. (Trích từ http://en.wikipedia.org/wiki/Transcendental_Meditation).
Vào http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html , chúng ta được đọc một kinh nghiệm rất sống động của Cha Robert Thorn. Trước khi là linh mục, Cha từng là huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền, Ngài  tặng chúng ta một bằng chứng trực tiếp về niềm bình an giả tạo.

2.1. Kinh nghiệm về Siêu Nghiệm Thiền và về Mễ Du

Tôi (Cha Robert Thorn) có một người bạn thân, một người luôn rất điềm đạm và an hoà và tôi hỏi anh làm thế nào mà được như thế.

 Anh ta đáp: ‘À, tôi tập Siêu Nghiệm Thiền.’ Tôi biết một chút ít nhờ anh chỉ dạy, và quyết định tập thử. Từ khi khởi sự, tôi cảm thấy một sự an bình tràn ngập thân tôi. Tôi thực sự cảm thấy một sự bình an lớn lao lạ thường. Nó kéo tôi khỏi xì ke, vì quy trình thiền không cho phép chơi xì ke.

Cuối cùng, tôi trở thành huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền. Vì bị anh tôi thúc quá, nên tôi đến Mễ du – chỉ như một du khách thôi – vì tò mò ấy mà. Có một đêm, trên Đồi Hiện Ra, tôi quỳ dưới chân thánh giá và thiền. Một số khách hành hương đang cầu nguyện bên cạnh.

Một người trong bọn họ bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng lạ, và ngay khi anh ta bắt đầu thì tôi cảm thấy khó chịu ở trong ruột. Cảm thấy như mình phải nói cái gì đó. Bất thình lình tôi bật ra tiếng lạ và tôi với anh ta bắt đầu trao đổi với nhau bằng tiếng lạ! Điều này cho thấy là cả người tội lỗi cũng có thể nói tiếng lạ!

2.2. Tập thiền trong sự khống chế của quỷ dâm dục

Sau kinh nghiệm đó ở Mễ du, tôi tiếp tục công việc cũng như các chuyến du lịch,  nhưng tôi đã bắt đầu đọc Kinh Thánh và lần chuỗi Mân Côi.

Tôi vẫn còn tập thiền và cảm thấy bị phụ nữ cuốn hút không cưỡng nổi (chú thích: như trường hợp của anh Hải trong thiền của Dasit Narada). Lúc đó, tôi vẫn còn đang sống trong tội. Tôi trở lại Mễ du (trên đường đến chỗ hẹn hò với một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ để làm một cuộc chạy trốn đầy lãng mạn ở Istanbul).

Sau một vài ngày, tôi bỏ luôn các dự định còn lại để ở lại Mễ du. Vào một tối nọ, tôi được một cảm nghiệm khi tham dự nghi thức chữa lành ở trong nhà thờ ngay sau thánh lễ. Tôi đang quỳ gối, tưởng tượng như Máu Đức Kitô đang đổ tràn trên tôi. Tôi nhắm mắt lại và bất thình lình tôi nhìn thấy một con vật đen thui xấu xí, một thứ gì đó giữa cua càng và ong, đi qua lại trước con mắt tâm trí tôi.

Tôi nói theo bản năng: ‘Đó là một thần khí xấu. Tôi cần thoát khỏi nó’. Khi một linh mục nghe tôi xưng tội về chuyện đó, ngài nói: ‘Á à, nghe hấp dẫn chứ nhỉ. Kể tôi nghe anh có ăn chay không?’ Tôi đáp: ‘Dạ, có’ và vị linh mục nói tiếp: ‘Tốt, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ mạnh hơn khi anh có ăn chay.’

2.3. Xa-tan vùng vẫy trước khi phải  ra đi

Vị linh mục đó trừ được quỷ và vì thế, qua một đêm dài sốt sắng cầu nguyện, chúng tôi từ bỏ mọi gắn bó với những thần khí xấu ở bên trong tôi nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường ở trong ruột (chú thích: như trường hợp của anh Chánh học Yoga và thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)”.

Nó bắt đầu thoát khỏi cổ họng tôi giống như bị ợ chua liên tục, có lúc tôi thực sự nhìn thấy một luồng khí thoát ra ngay khỏi miệng tôi ! Tôi bị lê trên sàn nhà trong khi vị linh mục rảy nước phép trên người tôi, ngài đặt tượng chịu nạn trên bụng tôi và tôi đau đớn kinh khủng.

2.4. Ý nghĩa của câu mantra liên quan đến quỷ dâm dục

Có một lúc trong đêm hôm đó, khi vị linh mục ra lệnh: ‘Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, mày là ai?’ Tôi thấy mình đang đọc câu mantra (chân ngôn) của tôi khi thiền. Đọc lớn câu mantra là điều cấm kỵ vì như thế là làm suy yếu sức mạnh của nó để đem bạn vào “bên trong”. Vì thế điều làm tôi ngạc nhiên là chính tôi lại đọc nó ra.

Sau này tôi hỏi vị linh mục xem có gì sai trái với Siêu Nghiệm Thiền không và tôi giải thích cho Ngài biết cái mà tôi đọc ra là câu mantra dùng khi thiền của tôi. Ngài nói: ‘À, nó có phản ứng với quyền năng và thẩm quyền của Chúa Giêsu Kitô đấy!’ Sau này, cả hai chúng tôi khám phá ra ý nghĩa của câu mantra đó- đó là quỷ dâm dục. Vào một lúc khác trong đêm đó, tên của một trong những con quỷ là tên của một vị chân sư trong Siêu Nghiệm Thiền!

3. Kinh nghiệm về thế mạng cho thần tăm tối

3.1. Cuốn sách “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” (Ransomed from Darkness)
Cuốn sách “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” nói về :
– Giáo phái Thời Đại Mới, về:
– Đức Tin Kitô giáo và :
– Cuộc Chiến vì Các Linh Hồn.

Tác giả là Moira Noonan, một người Công giáo, đã có 25 năm kinh nghiệm về huyền bí.
Bà làm việc trong cơ quan Khoa Học về Tôn giáo với tư cách là một chuyên viên tâm lý và đào sâu chuyên môn trong các lãnh vực như :
–    thôi miên trị liệu,
–    tử vi,
–    tiến trình các phép lạ,
–    nhân điện,
–    đồng bóng,
–    bói quả cầu pha lê,
–    các Bà Chúa,
–    thấu thị, và
–    các tập luyện huyền bí khác…

3.2. Sau hàng loạt cảm nghiệm hối cải mạnh mẽ, bao gồm cả Mễ du, bà trở lại đạo

Hiện giờ bà Moira Noonan đang làm chứng, rao giảng Tin Mừng, và giải thích ý nghĩa sâu xa cũng như ảnh hưởng của phong trào Thời Đại Mới. Sách trên kể lại hành trình tập luyện và từ bỏ huyền năng của bà, và cũng chứa đựng các quan sát của bà về phong trào Thời Đại Mới, các mối nguy hiểm của nó, cũng như cách mà các tư tưởng Thời Đại Mới thâm nhập vào trong Giáo Hội.

Mời bạn đọc kỹ hơn ở trang web http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html

3.3. Bói toán và ma thuật

Sách Giáo lý Công giáo số 2116 và 2117 cho chúng ta biết:

+ Bói toán:
Phải loại bỏ mọi hình thức Bói toán :
Cậy nhờ Xa-tan hay ma quỉ,
Gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai .

10 giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ,11 bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn.  ( x. Ðnl 18,10-11); 8 Quả vậy, ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau:
Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các ngôn sứ đang ở giữa các ngươi, cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy,9 bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.Gr 29,8 ).

Coi  tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, Bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí, điều này nghịch lại với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên Chúa.(số 2116)

+  Ma thuật hay pháp thuật: Ai muốn dùng ma  thuật hay pháp thuật để chế ngự các thế lực huyền bí, bắt chúng phục vụ mình và nắm được quyền lực siêu phàm trên người khác dù là để chữa bệnh, cũng lỗi nặng nhân đức thờ phượng.

Các việc này càng đáng lên án hơn nữa khi có dụng ý hại người, hay nhờ đến sự can thiệp của ma quỉ.
Mang bùa cũng là điều đáng trách.
Chiêu hồn thường đi kèm cả Bói toán hay ma thuật.

Hội Thánh cảnh giác các tín hữu phải xa lánh các điều ấy.

Khi dùng các phưông thuốc gia truyền:
không được kêu cầu các thế lực ma quỉ cũng như lợi dụng sự nhẹ dạ của người khác.(số 2117)

4. NHẬN ĐỊNH:

Kịch bản mới (ngày nay),
Diễn viên cũ (Xa-tan )

4.1. Xa-tan ngày xưa (địa đàng)

“Khi ma quỉ nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì ma quỉ là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối.” (Ga 8,44b). Xưa kia trong vườn địa đàng Xa-tan lấy hình con rắn dụ dỗ ba E-và ăn trái cấm, ngày nay Xa-tan lừa dối chúng ta qua “tuyệt  chiêu” đã dùng để lừa dối bà E-và trong vườn địa đàng xưa, khi Bà E-và khao khát một quyền năng, một dạng “năng lượng vũ trụ” ngày nay, để trở nên như vị thần, và khi đã là “thần” bà E-và không còn phải lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Bà E-và nghe Xa-tan phỉnh gạt nói: 
“… ông bà sẽ nên như những vị thần” (St 3,5),
kết quả là con người phải chết. Chúa Giê-su đã lên án Xa-tan:
“Ngay từ đầu, ma quỉ đã là tên sát nhân” (Ga 8,44a).

Xa-tan có thể ban cho chúng ta một thứ quyền năng nào đó, nhưng  “quyền năng” hoặc “năng lượng vũ trụ” ấy không liên quan gì đến Chúa, nhưng liên quan đến sự dối trá của Xa-tan vì “Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8,44a).

4.2. Xa-tan ngày nay (thế kỷ 20 và 21)

Trong các giáo phái ngày nay (thế kỷ 20 và 21), Xa-tan không hiện ra dưới hình một con rắn, vì người ta sẽ sợ hãi mà co chân chạy trốn ngay; nhưng Xa-tan mặc áo cà sa và cầm thiền trượng, nó xuất hiện như một vị Thiền Sư đắc đạo, hay một Chân sư (Guru). Vị thiền sư hay Guru này được con người ngày nay tiếp nhận một cách nhiệt thành với những kỹ thuật tập luyện để tăng cao sức khoẻ (yoga, khí Công), hay có khả năng khai luân xa cho người khác có “Nhân điện” để cứu nhân độ thế.

Dù là hình thức “Nhân điện” hay “thiền”, các bậc thầy luôn luôn dẫn người theo học họ đến một “cách thiền” nào đó để đat tới một sự hoàn thiện nào đó trong Yoga, hoặc thiền, hoặc để có được nhiều  “nhân điện” hơn. Bạn muốn tiến xa hơn trong thiền thường bạn phải được một chân sư dìu dắt.

Cha Robert Thorn cho chúng ta kinh nghiệm của Ngài :
“Khi nhớ lại và xem xét mọi giáo huấn của Siêu Nghiệm Thiền,
thình lình mọi chuyện đối với tôi trở nên rõ ràng như ban ngày,
những chuyện họ nói đều là ma quỷ!.

Cái bình an mà bạn cảm nghiệm qua thiền là một thứ bình an giả tạo, quy về chính mình”. Trong khi chúng ta phải quy về Chúa Giêsu Kitô mà thôi ! Các đấng tu hành,các nhà dòng thay vì tìm học về Lời Chúa để đi làm chữa lành trừ qủy ,trừ ma bệnh như Chúa, như các tông đồ khi xưa,  lại đi học cách chữa bệnh của những ma đầu đaị diện cho satan, thì làm sao mà không bị kống chế bởi tà thần dâm dục, xác thịt, thèm khát tình cảm trai gái, gian dâm, rất kiêu ngạo…vì đã tự động rước nó vào con người mình rồi “Quân này thờ ta bằng môi miếng , nhưng lòng nó xa ta

III. LỠ HỌC ‘NHÂN ĐIỆN’ VÀ “TẬP THIỀN” CÙA TÀ KHÍ (SA-TAN) LÀM SAO THOÁT RA ?

1.    BẠN SẼ THẮC MẮC :
2.    Tôi học nhân điện, tôi chữa bệnh cứu giúp người bệnh và
3.    Tôi vẫn giữ đạo bình thường, có thấy gì thay đổi gì đâu ?
4.     Sao ông Thầy nói nghe ghê quá VẬY !

Nhiều người sẽ nói rằng tôi đã tập luyện nhân điện và chữa bằng nhân điện từ nhiều năm nay mà đâu có thấy gì. Bạn không thấy gì là tại bạn chưa nghiệm xét kỹ đấy thôi:

“Vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.

Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng:
Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy” (Mt 13,13-14)
Nếu nghiệm xét kỹ bạn sẽ phát hiện ra “bình an giả tạo” và “sự trì trệ từ từ” của đời sống đạo đức và bị đam mê trì kéo.

1.1.    Sự bình an giả tạo sẽ đánh lừa bạn:

“Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết.
Hãy tỉnh thức ! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. (Kh 3,1b-2)”.
Tinh thần ích kỷ chỉ lo tập luyện để để được bình an nội tâm cho mình, cha Robert Thorn chia sẻ về Siêu Nghiệm Thiền (hoặc môn thiền nhân điện cũng vậy thôi): “Trong Siêu Nghiệm Thiền, bạn sẽ cảm thấy bạn có tất cả mọi thứ bạn muốn được thỏa mãn, vì bạn đi vào lãnh vực này và ma quỷ cung cấp cho bạn mọi thứ bạn cần. Và dĩ nhiên là ma quỷ sẽ chu cấp mọi nhu cầu của bạn vì mỗi khi bạn thiền, bạn mơn trớn vuốt ve chúng và ma quỷ muốn bạn còn tiếp tục thiền trong môn phái của nó! Cái bình an mà bạn cảm nghiệm qua thiền là một thứ bình an giả tạo, quy về chính mình. Bạn chỉ ve vuốt cái TÔI của chính mình và rồi bạn thấy thoải mái. Bạn không nhận ra rằng bạn đang biến thành “kẻ chống lại Chúa Giêsu”, như người ta thường nói! Còn bình an thực sự chỉ được Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên bạn khi bạn hướng về Ngài mà thôi. Thay vào đó, Siêu Nghiệm Thiền hoàn toàn là tự mãn”.

1.2.    “Sự trì trệ từ từ” xuống cấp của đời sống đạo đức và bị đam mê trì kéo

Trường hợp anh Hải trong câu chuyện trên, hoặc kinh nghiệm của cha Robert Thorn tập Siêu Nghiệm Thiền trước khi làm linh mục ; anh Hải tuy vẫn đi nhà thờ, nhưng anh vẫn khổ sở vì một ham muốn tình dục cứ như đốt cháy tâm hồn và thân xác anh. Anh chỉ thoát khỏi những ham muốn tình dục của Xa-tan khi dâng mình cho Chúa Giê-su và anh được Chúa Giêsu ban tặng bình an của Ngài, chứ không phải của Xa-tan.

 Hãy nhớ lời của Chúa Giêsu
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).
Nếu bạn để ý kỹ lòng tin của bạn bị “xói mòn” từ từ, lòng mến với Chúa Giê-su dần dần nhạt nhẽo với tình trạng “chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng” :
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Ngươi nói:
“Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi”; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng” (Kh 3,15-17).

2. NHẬN ĐỊNH

2.1. Không phải bất cứ lối tập luyện nhân điện nào cũng bởi ma quỉ

Bạn có thể đã tập những môn khí Công, những môn dưỡng sinh để tăng thể lực và nội lực hoặc nội công, nhưng môn khí Công hoặc dưỡng sinh nào dẫn bạn đến một CÁCH THỨC “Thiền” thì bạn nên để ý, nhất là khi học lên cao với những dẫn dắt của các thầy dạy “Nhân điện”  sẽ dẫn bạn xa dần niềm tin  Công giáo, thì bạn hãy nghiệm xét lại cách tập của bạn dựa trên những chỉ dẫn của Chúa Giê-su trong Tân Ước, các thư của Thánh Gio-an, Thánh Phao-lô, Thánh Phê-rô ….  để :
“Nghiệm xét các thần khí” (1 Ga 4,1).

2.2. Bạn phải thực sự cảnh giác

+ Bạn phải thực sự cảnh giác với những cách luyện tập “Nhân điện” mà nhân điện đó do một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như những quyền năng nào đó và bắt nguồn từ một “thần khí Siêu Nghiệm”; không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần.

+ Bạn phải thực sự cảnh giác với những cách tập luyện “Nhân điện” của bạn có những dấu “ấn” mật truyền, những câu mantra, có nguồn gốc mờ ám như trường hợp:

Anh Hải được “truyền ấn” với phái nhân điện của Thầy Dasit Narada,
Anh Chánh với câu mantra của  “Con đường chân phúc”,

Cha Robert Thorn với câu mantra của Siêu nghiệm  thiền.

+ Bạn là người Công giáo, bạn phải thực sự cảnh giác với những cách tập luyện “Nhân điện” của bạn có những dẫn dắt tới những thuyết không phù hợp với niềm tin Công giáo như thuyết luân hồi, đầu thai chuyển kiếp …. như trong phái nhân điện của Thầy Lương Minh Đáng chẳng hạn.

+ Bạn phải xét lại cách tập luyện của bạn nếu các tập luyện của bạn dẫn tới việc thôi miên trị liệu, nhớ lại tiền kiếp, tử vi, nhân điện, đồng bóng, Bói quả cầu pha lê, cái Pyramide: Kim tự Tháp,tấm giấy chứng nhận…các Bà Chúa, thấu thị, và các tập luyện huyền bí khác như kinh nghiệm từ bỏ huyền năng của bà Moira Noonan trong cuốn “Thế mạng cho Thần Tăm Tối”.

3. LÀM SAO THOÁT RA KHỎI CÁI ÁCH CỦA SA-TAN ?

Nếu bạn đã học “Nhân điện” hoặc “tập thiền”,Yoga… bạn hãy chân thành tự nghiệm xét nơi mình, bạn phải thực sự xét lại khi có sự trì trệ trong lòng tin, lòng mến, và bạn bị lôi cuốn bởi các đam mê xấu:

“Nhưng Ta trách ngươi điều này:
ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải ” (Kh 2,4-5).

Nếu bạn thấy những kinh nghiệm về “Nhân điện” và “tập thiền”  của những anh chị em (Cha Don Calloway, Cha Robert Thorn, anh Hải, Anh Chánh, bà Moira Noonan …) trong bài viết này soi sáng cho cách “tập thiền” và “nhân điện” của bạn; khi bạn nhận ra một “thần khí xấu” đang dẫn dắt bạn,  và  bạn muốn thoát ra khỏi cái  ách của Xa-tan và đón nhận cái ách êm  ái và nhẹ nhàng của Chúa Giê-su:
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29) ;
tôi xin chân thành đề nghị với bạn những cách sau:

3.1. Bạn hãy cầu nguyện và ăn chay

Cha Don Calloway cho chúng ta một kinh nghiệm xua trừ: Bạn phải bảo họ rằng những thứ đó (Wicca, New Age, Nhân Điện, Yoga , Thiền… ) chỉ có thể được xua trừ bằng cầu nguyện và chay tịnh:
“các môn đệ mới hỏi riêng Đức Giê-su: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người đáp: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9,28-29).

3.2. Bạn hãy đến với một Cộng Đoàn tràn đầy Thần Khí

Bạn xin cộng đoàn cầu nguyện cho bạn: Nếu Thần Khí vào,thì tà khí của ma quỉ phải đi ra thôi, khi Cộng Đoàn hiệp nhất trong Chúa Kitô, Ngài ở giữa họ và chính Chúa Giê-su xua trừ tà thần hoặc thần khí xấu ra khỏi bạn.

3.3. Bạn hãy đến gặp một linh mục tràn đầy Thần Khí

Bạn xin linh mục tràn đầy Thần Khí cầu nguyện và xua trừ ma quỉ ra khỏi bạn: như trường hợp Cha Robert Thorn trước khi làm linh mục ở Mễ Du.
Xin chúc bạn đi sâu vào cầu nguyện và thực sự gặp gỡ Chúa Kitô. Bạn sẽ cảm nhận “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí bạn được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (x. Pl 4,  )

Kinh Nghiệm qua các khóa học hỏi về Lòng thương xót Chúa do Cha JB Đinh T Sơn huấn luyện đã có nhiều trường hợp được chữa lành  trừ tà ma qủy hết tại chỗ qua ca ngợi thờ phượng trong Danh Giêsu, Cha đã mở các khóa ở các nhà dòng Xitô Vũng Tàu , Long Thành, Phan Thiết, nhà thờ Tân Định, Trung Tâm Mục Vu SàiGòn, Nữ Vương Hòa Bình, Gò Vấp,Thủ Đức, vùng U Minh, nhà thờ Đông Hòa Kiên Giang.

Tu Sĩ Giuse-Maria Trương Văn Trung XV

Gs Vũ Quốc Thúc đã cùng 24 tân tòng khác gia nhập Giáo Hội Công Giáo Tại Giáo Xứ Viêt Nam Paris

GS VŨ QUỐC THÚC ĐÃ CÙNG 24 TÂN TÒNG KHÁC GIA NHẬP GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ VIÊT NAM PARIS

nguồn: Vietcatholic.net

Paris, 08.04.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc.

Đây là một hồng ân nhưng không mà Chúa đã ban cho Giáo Xứ năm nay. Phải chăng Chúa muốn thưởng công bao nhiêu đóng góp thầm kín và kiên nhẫn của bao nhiêu hội đoàn, bao nhiêu giáo hữu trong giáo xứ ? Không ai dám khẳng định. Chỉ biết rằng dưới sự lãnh đạo của Ban Giám Đốc nhiệt thành và hăng say truyền giáo, rất nhiều công việc đã được thực hiện, khi thì công khai, khi thì kín đáo.

1. ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

Phúc Âm Gioan, đọc trong lễ Phục Sinh, ngày Gs Vũ Quốc Thúc lãnh nhận phép rửa, kể lại việc bà Maria Mácđala, ông Simon Phêrô và ông Gioan đã ra mộ tìm Chúa. Cả ba người đã thấy và đã tin.

Gs Vũ Quốc Thúc và các tân tòng khác cũng đã thấy và đã tin. Họ đã thấy gì ? Họ đã thấy một ân huệ Chúa ban, một nghĩa cử đáng phục, một người bạn đáng mến ? Hay một điều gì khác ?

Trước và sau nghi lễ rửa tội, người viết có dịp được nói chuyện với dăm ba tân tòng. Người viết hỏi họ xem lý do nào đã thúc đẩy họ gia nhập đạo công giáo. Một chị trả lời rằng : « Hai năm trước đây, em học xong, ra trường, tìm mãi, không được việc làm. Trong lúc chán nản, một người bạn rủ em đi Lộ Đức cầu nguyện. Em nghe theo. Mấy tháng sau, em tìm được việc làm. Em nghĩ rằng đó là ơn Đức Bà phù hộ. Em đến trình bày với cha Vinh và xin học đạo ». Một anh thanh niên kể rằng : « Cách đây đúng 4 năm, em không phải là công giáo, nhưng thích sinh hoạt và du lịch, đã ghi danh dự ngày JMJ Sydney. Em đã gặp được vài người bạn. Gương bác ái của họ làm em xúc động và suy nghĩ rồi quyết định đi sinh hoạt theo họ. Trong các sinh hoạt đó, em gặp được một thiếu nữ công giáo. Em muốn xây dựng cuộc đời lâu dài với nàng và để đảm bảo hạnh phúc lâu bền gia đình, em đã xin học giáo lý vào đạo ».

Trên bình diện tổng quát ở Giáo Xứ Việt Nam Paris, Đức Ông Mai Đức Vinh (1), người lo việc dạy giáo lý tân tòng trên ba chục năm nay (1977-2012), đã đặt câu hỏi và đã trả lời : « Những động lực nào đã thúc đẩy người Việt Nam xin học giáo lý để gia nhập đạo Công Giáo ? Xin thưa :

• Vì đã khấn hứa với Chúa và Đức Mẹ (đặc biệt khi rời Việt Nam,…) ;

• Vì đã lãnh nhận một ân huệ Chúa và Đức Mẹ ban (ơn khỏi bệnh, ơn thoát nạn, được việc làm,…) ;

• Vì muốn gia đình được hiệp nhất trọn vẹn và bảo đảm hạnh phúc lâu bền (các đôi bạn đã lập gia đình một số năm, hay sắp lập gia đình,…) ;

• Vì cảm mến đạo công giáo (thấy đạo công giáo quan tâm nhiều về bác ái nhân đạo, có những nhân vật nổi tiếng, như Mẹ Têrêxa Calcutta, Abbé Pierre, Đức Gioan Phaolô II, hoạt động bác ái của Giáo Xứ Việt Nam,…) ;

• Vì ảnh hưởng tốt của các bạn công giáo (ngoại quốc hay Việt Nam, có khi đã quen thân lâu năm, có khi những năm ở ca đoàn, trong một sinh hoạt, như JMJ, trại hè,…)

• Ngoài ra, Đức Ông còn nhắc đến một động lực khác nữa, thúc đẩy, lôi cuốn và đưa đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là ảnh hưởng của những người bạn đời hay bạn thân, có đời sống và liên hệ hằng ngày với các lương dân dự tòng, những người đồng hành lâu dài, những người giúp hiểu giáo lý, những người nhận đỡ đầu.

Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.

Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng « Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng » (2).

Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh » (3).

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Hôm nay, đã nhận Bí tích Rửa Tội, đã gia nhập Giáo Hội Tình Yêu, có lẽ Giáo Sư Jean-Paul Vũ Quốc Thúc và những tân tòng khác đã cảm nhận được những điều mà họ không thấy, nhưng cũng là những lực đưa đẩy họ tìm được Chúa, đi vào Đức Tin. Đó là những lời cầu nguyện và những sinh hoạt ; có khi âm thầm của nhiều tín hữu, của nhiều cá nhân, của nhiều hội đoàn, của nhiều đồng nghiệp, bạn bè thân quen của họ, hay những nguyện cầu, suy nghĩ, biên khảo của chính họ; có khi công khai tổ chức quy mô ở giáo xứ, giáo phận, giáo hội, như các chiến dịch trong các năm : 2012 « Liên đới Niềm tin », 2006 « Liên đới Tin Mừng », 2005 « Liên đới Truyền giáo », 2004 « Sống truyền giáo Tổng Giáo phận Paris»,…

Và hôm nay, đã nhận Bí tích Thêm sức, có lẽ họ cũng đã cảm nhận được sức thúc bách sống và biểu lộ đức tin, làm chứng nhân về Chúa Phục Sinh, rao giảng Lời Chúa và liên đới bác ái với mọi người, như lời Đức Phaolô VI đã nói trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu rằng : « Bản chất Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt : rao giảng Lời Chúa, cử hành các Bí tích, phục vụ bác ái. Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được » (4).

2. HỘI ÁI HỮU VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT CHÚC MỪNG

Nhân dịp này, trong niềm vui chung cho cộng đoàn Giáo xứ và đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại Học Đà Lạt đã tổ chức một bữa tiệc, vừa để chúc mừng Lễ Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc. Khoảng 70 người đã đến tham dự.

Mở đầu bữa tiệc, anh Phạm Trọng Khoát, chủ tịch hội Thụ Nhân, có đôi lời chúc mừng và dâng thầy Vũ Quốc Thúc bài thơ chúc thọ và mừng rửa tội :

«Trong đời sống hàng ngày của mỗi người, ai cũng có niềm tin. Bình thường niềm tin đó là những ước muốn, những tin tưởng, những hy vọng về vật chất hay cho thăng tiến trong xã hội. Tuy nhiên, còn có những niềm tin thiêng liêng cao cả, sâu đậm, thánh hóa, đó là niềm tin về tôn giáo. Hôm nay trong ngày lễ Phục Sinh, thầy Vũ Quốc Thúc đã chọn niềm tin vào Thiên Chúa, đón nhận bí tích rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo. Đại diện cho toàn thể Hội Ái Hữu Đại Học Dalat tại Âu Châu, chúng con xin cảm ơn Đức Ông, quý Cha, quý vị và quý anh chị đã đến để chứng kiến, và chia sẻ niềm vui này với thầy Thúc, là một người cha trong gia đình Thụ Nhân.

Thưa Thầy, đối với những người đã trưởng thành, mỗi quyết định gia nhập bất cứ tôn giáo nào, vì nhiều lý do khác nhau, đều là chính đáng. Con nhớ những lần Thầy kể cho chúng con nghe về những phép lạ, những ơn lành mà Thầy đã nhận được, chắc hẳn đó là một trong những lý do đã tạo được niềm tin của Thầy với Thiên Chúa.

Trong một bài giảng của một linh mục người Mỹ mà con được nghe, vị linh mục này nói:“Hãy đến với Thượng đế, chứ đừng dùng Thượng Đế như số 911, chỉ khi nào cần thì mới gọi, xong rồi thôi”. Thầy không vậy, sau khi tìm thấy được lòng tin vào Thiên Chúa, Thầy đã quyết định trở thành tín đồ để thờ phượng Ngài. Ở tuổi của Thầy, đây không phải là một quyết định dễ dàng, cũng như trước những phê bình, dèm pha của người đời, nhưng thưa Thầy, đức tin bao giờ cũng thắng.

Đây là một bài học “dấn thân” thứ hai của Thầy cho chúng con. Đọc tác phẩm“Thời Đại của tôi” của Thầy, con đã học được bài học dấn thân cho đất nước, một lần nữa, Thầy lại cho chúng con thấy, ở bất cứ tuổi nào, việc có khó khăn đến đâu, khi đã tin tưởng, Thầy sẽ dấn thân vào việc đó.

Chúng con không được nhiều dịp gặp Thầy đông đủ, cho nên mỗi lần có cơ hội như hôm nay, là một lần chúng con xin được phép chúc mừng thượng thọ Thầy. Chúng con xin có một bài thơ của anh Thông xin kính tặng Thầy:

Nắng mới vườn xuân thoảng sắc hương,
Thiều quang chợt đến lúc tinh sương.
Niên kỷ cửu thập tri quốc mệnh,
年 纪 九 十 知 國 命
Bách niên chi kế chí cương thường.
百 年 之 計 志 綱 常
Thượng đế ban ơn qua vận hạn,
Thiên thần giáng phúc thoát tai ương.
Mừng Thầy rửa tội mùa xuân mới :
Bách niên trường thọ phúc miên trường.
百 年 長 壽 福 綿 長

Chúng con xin thành thật cầu mong Thầy tiếp tục được ơn trên che chở, và tìm được sự bình an đạo, đời với đức tin mà Thầy vừa lãnh nhận » (5).

Sau đó, một chị đã dâng bon sai kính chúc thượng thọ thầy. Rồi anh Lê Đình Thông đã đích thân đọc bài Đường thi chúc mừng. Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh, bận đi làm lễ, không đến tham dự được, nhưng gửi biếu chuỗi tràng hạt do Đức Bênêdictô XVI làm phép. Cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách (thi sĩ Cung Chi) đã ghé chúc mừng Giáo sư Vũ Quốc Thúc và đề tặng một bài thơ.

Thầy Vũ Quốc Thúc có đôi lời cám ơn Đức Ông đã ban phép Rửa tội, phép Thêm sức, phép Mình Thánh Chúa và cám ơn Ngài đã trao tặng cỗ tràng hạt do Đức Bênêđictô XVI làm phép. Thầy cũng đã cám ơn cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách đã ghé thăm và chúc mừng. Rồi thầy kể lý do tại sao theo đạo, tại sao đã chọn Giáo Sư Lê Đình Thông làm bõ đỡ đầu và tại sao lại đã muốn công khai nhận phép rửa tội. Thầy cám ơn các cựu giáo sư và sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt hiện diện hôm nay, cám ơn chân tình và thịnh tình của họ, đã tổ chức tiệc mừng lễ rửa tội và chúc thọ. Việc anh chị em ăn mừng thượng thọ cho thầy vào ngày Phục sinh, thật chẳng khác chi nhắc nhở cho thầy rằng đời sống tinh thần không bao giờ chấm dứt, không bao giờ hết. Đặc biệt hôm nay thầy nhận ăn mừng thượng thọ bởi vì nó đem lại một niềm vui, phấn khởi ; đánh tan nỗi buồn man mác của những người tuổi đã xế chiều như thầy.

Thầy chúc cho mọi người theo gương văn hóa và giáo dục trong tinh thần THỤ NHÂN của Viện Đại Học Đà Lạt, đặc biệt là gương của ba vị Cựu Viện Trưởng : Lm Trần Văn Thiện (1957-1960), Lm Nguyễn Văn Lập (1960-1969) và Lm Giáo Sư Tiến sỹ Lê Văn Lý (1969-1975).

Paris, ngày 12 tháng 04 năm 2012

Trần Văn Cảnh