Tâm Linh Cây Cỏ & Con Người

Tâm Linh Cây Cỏ & Con Người

Nguyễn Mộng Khôi

Giữa thập niên sáu mươi, nhà Bác học Cleve Backster chế ra máy Dò Nói Dối, người Mỹ gọi là Lie Detector hay Polygraph, máy này có thể phát hiện những thay đổi về mạch đập, những bất thường của nhịp thở ..v..v… mà Backster cho rằng do tinh thần căng thẳng, không giữ được bình tĩnh khi người bị thẩm vấn có những điều uẩn khúc, những chuyện muốn dấu diếm. Cơ quan Trung Ương Tình Báo( CIA) dùng Lie Detector để điều tra những nghi can. Họ thấy máy này đem lại kết quả tốt nên năm 1986 Backster được CIA mời ra cộng tác và sau đó được cử làm Giám Ðốc Trường Huấn Luyện Dò Nói Dối và Sở Nghiên Cứu Backster (Polygragh Instruction School and The Backster Research Foundation) ở San Diego California. Từ đó, tên tuổi Ông được nhiều người biết đến, nhưng Ông chỉ thật sự nổi danh và được các khoa học gia thế giới cảm phục khi ông tình cờ tìm ra thảo mộc có tâm linh hay là cây cỏ có khả năng biết được ý định của con người.

Một buổi sáng được nghỉ, Ông ngồi ngắm những chậu hoa, những chậu cây trong nhà, như một nhân duyên, Ông chú ý đến một cây có lá to và dày như lá đa trong một chậu cảnh, đã một tuần không được tưới nước, đất khô, thân cây cũng khô. Ông bổng nẩy ra ý định:

– Thử cắm hai đầu dây của một điện kế(galvanometer) cực nhậy vào cái lá rồi tưới nước vào gốc cây.

Nước dần dần lên thân và lá, nhưng cây kim điện kế vẫn đứng im. Rồi một ý nghỉ khác đến với Ông:

– Hay là thử đốt chiếc lá này xem sao? Ông chỉ mới có ý nghĩ đốt chiếc lá tức thì kim điện kế bỗng nhẩy lên như bị điện dật. Ông tự hỏi, chẳng lẽ Ông nhìn lầm? Chẳng lẽ lá cây đọc được tư tưởng của Ông mà biểu lộ phản ứng sợ hãi hay sao?

Nghĩ như vậy Ông làm thử lần thứ hai. Tay cầm hộp quẹt như sắp sửa đốt chiếc lá, nhưng Backster tự nhủ sẽ không đốt; thì điện kế cũng không nhúc nhích.

Lần thứ ba ông nhất định sẽ đốt chiếc lá. Lúc đó trong phòng lặng gió kim điện kế đột nhiên nhẩy mạnh.

Nhìn chiếc lá bị đốt một phần Backster thấy sung sướng trong lòng vì sự tình cờ mà biết được linh tính lá cây. Sự khám phá này làm Ông thích thú hơn là phát minh ra máy Dò Nói Dối hồi ba thập niên trước. Ông muốn công bố ngay cho mọi người biết. Nhưng Ông kịp ngừng lại, thái độ đúng của nhà khoa học là phải thử nghiệm đầy đủ, khách quan để không đưa tới kết luận sai lầm, thiên kiến và chủ quan… rồi, Ông định phát triển, nghiên cứu sang nhiều loài thảo mộc khác. Có tới 25 loại cây cỏ được nghiên cứu gồm nhiều loại lá, loại quả và loại củ.

Sau những cuộc nghiên cứu thận trọng của Ông và  các cộng sự viên. Ông chính thức công bố rằng:

– Cây cỏ có trực giác tâm linh

Chúng không có mắt, tai, mũi, miệng; không có óc; không có thần kinh hệ… thì cái biết của chúng hẳn phải khác với cái biết của con người. Con người có giác quan nhưng không có trực giác tâm linh như chúng. Dù một bác sĩ tâm lý giỏi cũng không biết được ý định của một kẻ điên khùng sắp đốt nhà mình. Suy nghĩ như vậy làm cho Backster phấn khởi Ông mở rộng cơ sở nghiên cứu và càng khám phá ra những điều mới lạ. Từng mảnh lá tách rời cũng phản ứng như nêu ở trên và người ta gọi là Phản Ứng Backster. Nhà Sinh thực vật(biologist) Ingo Swann, theo dõi cuộc nghiên cứu của Backster và viết trong quyển The Real Story(chuyện có thật). Quyển sách được phát hành ngày 15-11-1998 trong đó có đoạn:

– Sự nghiên cứu(của Backster) khởi đầu chỉ là một khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng nhận thức và tự động đáp ứng những xúc cảm mạnh thuận theo ý chí con người … những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.(His research started with the 1996 almost accidental rediscovery that plants are sentient and respond to the spontaneous emotions and strongly express intentions of relevant humans… Your plants know what you are thinking).

Phản ứng Backster còn đi sâu xa hơn và cho biết thêm là cây cỏ phản ứng không phải trước những mối nguy do con người tạo ra, mà cả những bất trắc, không tạo ra bằng ý định. Một con chó bất thần bước vào phòng, một người vốn ghét cây cỏ đi tới cũng làm điện kế nhẩy. Những cử động của một con nhện tiến đến, cũng gây phản ứng cho cây. Ông Backster đã làm thí nghiệm và chứng minh những điều đó trước các sinh viên trường Ðại Học Yale(Hoa Kỳ) trong trường hợp trên, một khi có người tới đuổi nhện và ngay trước khi nhện chạy đi kim điện kế đã hạ xuống. Y như là trước khi nhện chạy thì cái quyết định rút lui của nó đã được cây tiếp nhận. Cây đã thấy hết nguy hiểm và không phản ứng nữa.

Một cuộc thí nghiệm khác chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây để ý canh chừng nhau sợ bị quấy rầy nhưng khi có một động vật tới gần, mối nguy gần hơn cây cỏ quay sang canh chừng động vật.

Những điều còn làm cho chúng ta kinh ngạc là cây có trí nhớ và tình cảm. Chúng nhận biết những kẻ chuyên phá hoại hoặc những người hay chăm sóc chúng. Ông Charles A. Lewis trong quyển Ý Nghĩa Của Cây Cỏ Trong Ðời Sống Chúng Ta(The Meaning of Plants in our Lives) viết:

– Sự say mê nghiên cứu về những liên kết giữa cây cỏ với tâm trí con người mà những tương tác làm tăng thêm hạnh phúc ở ngoại cảnh và môi trường có tác động đến đời sống con người(Fascinating research can lead to enhanced well-being and an appreciation of the environment).

Một gia đình an vui, hạnh phúc, cây cỏ trong nhà cũng tươi tốt. Khi người chăm sóc cây cối, cái tương tác tâm linh giữa Cây và Người làm cho cả hai đều khỏe mạnh hơn. Ðó là lý do tại sao những cây mọc gần nhà thường tốt hơn những cây mọc xa. Vậy chúng ta hãy nâng niu, trân trọng từng cọng cây chiếc lá. Hãy dành một chút thì giờ để chăm sóc cây cỏ và vườn tươi(lawn and garden) sức khỏe chúng ta có thể nhờ đó mà tốt hơn. Ngược lại những người thường xuyên chặt phá cây cối thường gặp điều kém may mắn hay nhuốm bịnh là vì khi cây bị xâm phạm, phản ứng tâm linh yếu ớt của cây đánh vào thủ phạm. Mỗi lần một ít, lâu dần người đốn cây sẽ bị bệnh nặng. Có thể  người xưa sống an vui, hạnh phúc vì cái thú Ðiền Viên chăng?

Các nhà sinh thực học thế giới rất hứng thú đang theo dõi công cuộc nghiên cứu của Backster, hiện đã có 7000 nhà bác học yêu cầu Ông thông báo cho biết kết quả nghiên cứu kèm theo các tài liệu khoa học. Những máy móc tối tân hơn được Ông thâu nhận, nhất là những máy ghi các nhịp luồng điện. Và cuộc nghiên cứu được tiến hành với kế hoạch tinh vi, được ghi chép đầy đủ. Các tài liệu được thu thập và xếp loại cẩn thận.

Nếu Backster chứng nghiệm được Tâm Linh Cây Cỏ thì kỹ sư Kirlian đã chụp được hào quang của chúng. Kirlian, tên đầy đủ là Semyon Davidovich Kirlian(1900-1980) sinh tại tỉnh Krasnoda, xứ Amenia nước Nga. Năm 1939 Ông cùng vợ là Valentina đã phát minh ra máy Chụp Hào Quang gọi là Kirlian Electrophotographic Camera(gọi tắt là máy Kirlian). Ông bà này đã áp dụng từ trường của điện vào thuật chụp hình của sinh thực vật (Bio Electrography ). Một tấm ảnh chụp chiếc lá của máy Kirlian hiện ra như một thế giới điểm sáng. Chung quanh nó là hào quang(Corona ). Những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi xa theo những kinh xác định. Không phải chỉ lá mới có hào quang. Cây càng lớn, càng già, hào quang càng rực rở và Trường Sinh Lực( bio field) càng mạnh. Trường Sinh Lực (TSL) chính là sức mạnh vô hình của thảo mộc. Có những tiều phu vừa đốn xong một đại thụ bỗng lăn đùng ra chết. Có thể người này đã chặt phải một linh mộc có TSL quá mạnh.

Trong tín ngưỡng nhân gian ta, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa già, thường có một cái miếu nhỏ, đặt bát hương, những chiếc bình vôi, để hương khói cho Thần Linh. Do kinh nghiệm của cha ông truyền lại thì cây lớn có Thần lớn. cây nhỏ có Thần nhỏ:

– Thần cây đa, ma cây gạo.

Trong kho tàng văn chương bình dân, ta còn thấy những câu tục ngữ xưa, có ý răn đe, những người chặt cây, phá rừng. Ðó là nghề nguy hiểm nhất:

Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.

Nhờ sự khám phá về năng lực sinh học và hào quang của thảo mộc. Một số khoa học gia người Nga thực nghiệm rằng, rau cỏ (vegetable) nào có hào quang càng sáng thì càng nhiều bổ dưỡng ẩm thực. Họ nói:

– Hào quang của rau cỏ giảm bớt khi bị nấu chín. Những tấm hình Kirlian cho thấy rau sống có hào quang chói sáng hơn rau luộc. (A Kirlian photogragh of a raw vegetable shows a brighter and more defined corona than a cooked one).

Nhiều bác sĩ Tây Phương gần đây cũng đồng ý và viết thành sách. Họ khuyên chúng ta nên dùng thực phẩm tươi. Một tờ báo ở Thụy sĩ ca ngợi bác sĩ Bircher Benner:

– Bác sĩ Bircher Benner, người đổi mới những bữa ăn điểm tâm không nấu chín thức ăn trong dưỡng đường của ông ở Thụy sĩ. Ông khuyên rằng thức ăn tươi luôn dùng trước bữa ăn đã nấu nướng, Ông tin chắc thức ăn tươi làm kích thích hoạt động điện của tế bào, vì vậy tăng cường sinh lực cũng như toàn bộ tiêu hóa được tốt hơn( DR. Bircher Benner innovator of Swiss Muesli for use in his clinic in Switzerland, advised that raw food always be taken first, before cooked meal. He believed that raw food stimulate the electrical activity of cells thereby enhancing the vitality as well as improving the rohole digestive process)

Ðộng vật cũng có trường sinh lực và tác động mạnh mẽ tới con người. Trong tạp chí y khoa Health Care số 2-2000 có ghi những điều đáng chú ý giữa con người và vật nuôi làm cảnh(Pet) như sau:

Những người yêu thích súc vật và nuôi làm cảnh trong nhà như: Chó, mèo, chim, cá, gà ..v..v.. thường có sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn. Những bệnh nhân bị áp huyết cao, bệnh đau tim, bệnh trầm cảm(depression) cũng lợi lạc hơn những người không nuôi một động vật nào. Các cuộc thử nghiệm của một số bác sĩ Tâm Bệnh Lý (Psychologist) Mỹ và Úc cho biết số người bị tắc mạch máu đã giảm đi hai lần và số người có chất mỡ (cholesterol) cao trong máu sẽ giảm đi nếu chủ nhà có nuôi vài con pets

Nhóm khoa học gia thuộc viện đại học U. S. C Tiểu Bang California còn đi xa hơn trong lãnh vực nầy. Họ bảo bệnh Alzheimer dường như phục hồi trí nhớ và cả đến nạn nhân của tử thần AIDS cảm thấy lạc quan và tỏ ra yêu đời hơn khi họ được làm chủ một con vật mà họ ưa thích.

– Con người cũng có Trường Tâm Linh, Trường Sinh Lực như thực vật và động vật. Kirlian đã chụp hình bàn tay và ngón tay đều có hào quang, giống như hào quang của chiếc lá. Hào quang nấy bước đầu cho biết về tình trạng sức khỏe của các sinh vật rồi tới tâm trạng của các sinh vật đó. Khi sức khoẻ hoặc tâm trạng thay đổi thì hào quang đó đổi thay theo. Nhiều bác sĩ người Nga khẳng định và viết trong sách Y Học của họ …

Trong quá khứ, hình chụp Kirlian được dùng vào nhiều mục liên quan tới diện mạo, thần sắc của sức khỏe và tâm/ sinh lý. Hình ảnh thật rỏ ràng trong sự tiên đoán những hiện trạng bệnh tật như nhiều hình thức Ung Thư, những bệnh về Bướu, Phong thấp, Xưng khớp Xương, bệnh Thần Kinh, bệnh Suy Nhược v..v… Họ tin chắc hình chụp Kirlian có thể tiên đoán những bệnh từ lúc khởi đầu ngay trước khi có những triệu chứng phát hiện nó là một dụng cụ rất ích lợi để đoán trước bệnh(… Kirlian photograghy has been used in the past for a variety of purpose relating to psycho/physiological aspects of health. It has been clearly shown to be effective in diagnosing conditions such as the various forms of cancer, Cystic, fibrosis, Rheumatoid, Arthritis, Schizophrenia, Depression and Others. It is believed that Kirlian photography can predict the onset of disease prior to symptoms showing, making it a useful tool in early diagnosis)

Một số thống kê mới đây cho thấy rằng, người độc thân mau chết hơn người có gia đình. Ban đầu các nhà y học đánh giá là do vấn đề sinh hoạt tình dục. Nhưng ngay cả những người độc thân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng vẫn chết sớm. Người ta lại cho rằng khi có gia đình ổn định, con người được chăm sóc tốt hơn nên sức khỏe cải thiện hơn. Thật ra đó chỉ là lý do phụ, lý do chính là tình thương yêu chân thật của vợ chồng đã tạo ra Năng Lực Tâm Linh( hay TSL) làm cho khoẻ hơn.

Những huyệt đạo (sensitive points of body) trong khoa châm cứu (Acupuncture) Ðông y hình như có liên quan đến vùng Không Gian Tâm Linh của con người. Ðến ngày nay Tây y đã công nhận huyệt đạo là có thật. Khi châm cái kim hoặc kích thích vào một huyệt đạo thì nó có tác dụng lên cơ thể. Ðiển hình nhất là Châm (punctuare) gây Tê (numb) trong giải phẩụ Y học Tây Phương phải dùng thuốc tê để làm tê liệt các thần kinh rồi mới mổ xẻ. Các nhà châm cứu Ðông Y chỉ việc châm một số huyệt vào phần cơ thể là họ có thể giải phẩu bình thường. Các tác dụng cụ thể của huyệt đạo buộc các Bác Sĩ Tây Y phải công nhận là có huyệt đạo. Nhưng nó nằm ở đâu thì không ai thấy. Các Bác Sĩ Tây y lấy dao mổ ra, họ không thấy gì ở trong và cũng không thấy một sự liên hệ của Huyệt Ðạo đó với các thần kinh chung quanh, Huyệt Ðạo Hoàn Toàn Không nhưng mà tác dụng của nó thì Có Thật và các huyệt đó nối nhau thành một hệ thống huyệt đạo (Ðường của những huyệt). Trong cơ thể con người có nhiều đường. Ðường Kinh Nhâm đi từ môi dưới xuống trước hậu môn. Ðường Ðốc Kinh đi từ hậu môn tới đỉnh đầu rồi đi về phía môi trên. Còn có Ðường Kinh khác như là Túc Thái Dương, Bàng Quang Kinh.. v..v… những hệ thống kinh Huyệt này chứng tỏ một cách chắc chắn rằng Cơ Thể Nầy Ngoài Cấu Trúc vật Chất, Còn Có Một Cấu Trúc Tâm Linh Vô Hình rất là thật mà qua các Huyệt mình mới hiểu được nó.

Qua những sự nghiên cứu của Backster, Swann, Lewis, Kirlians… chúng ta rút ra một hệ luận, không gian tâm linh tuy vô hình nhưng có tác dụng. Những ý nghĩ thầm kín của chúng ta vẫn lặng lẽ tạo nghiệp. Ðối với những người hiểu luật Nghiệp Báo, hiểu rỏ sức ảnh hưởng của Tư Tưởng và môi trường chung, họ sẽ giữ tâm hồn để không bị nhiễm bẩn bởi các dòng tư tưởng ác trong không gian, đồng thời họ chân thành cầu nguyện cho mọi người đều tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ con người, con thú đến tận cây cỏ lá hoa.

Nguyễn Mộng Khôi

Nguyên nhân “bịnh thành tích”

Nguyên nhân “bịnh thành tích”

Thiện Tùng

Trong đời mình chưa bao giờ tôi thấy xã hội ăn gian nói dối như ngày nay. Người ta đặt cho sự gian dối ấy với cái tên ngộ nghĩnh “bịnh thành tích”. Nói chứng bịnh đã có nhiều người, nhưng chưa thấy ai nói rõ xem nó xuất phát từ đâu. Theo tôi nguyên nhân chính từ “thi đua khen thưởng”.

Sau 1975, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, cả nước quản lý xã hội theo kiểu tập trung bao cấp. Tâm lý “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”, bịnh lười biếng… xuất hiện ngày càng sâu rộng. Có lẽ từ đó, Trung ương chủ trương các cấp thành lập Ban Thi đua Khen thưởng nhằm kích thích lao động, ổn định kinh tế, xã hội.

Về tâm lý, là con người ai không ham danh lợi – khen là được vinh danh, thưởng là được hưởng lợi. Thế là chủ trương thi đua khen thưởng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với mọi người, ai cũng lao vào, khiến cho thi đua trở thành ganh đua.

Người có tài năng hoàn thành xuất sắc công việc trên giao được khen thưởng chẳng nói mà chi, đàng này bất tài, không hoàn thành trách nhiệm, muốn không bị quở trách, được khen thưởng, không cách nào khác, phải “thêm mắm dặm muối” – báo cáo láo.

Báo cáo láo bị trên phát hiện thì sao? – Ít khi lắm, vì cùng có lợi. Cùng có lợi là sao? – Xin đơn cử, ngành Giáo dục chẳng hạn, trong phong trào “dạy tốt, học tốt”: Lớp tốt Trường mới tốt; Trường tốt Phòng mới tốt; Phòng tốt Sở mới tốt; Sở tốt Bộ mới tốt. Thế rồi, bất chấp nên hư, bằng mọi cách khích lệ nhau, làm cho dưới tốt để mình được tốt, cùng được khen thưởng bất chấp hậu quả.

Chính từ những vụ lợi ấy, nảy sinh “ngành ngành thi đua, người người thi đua, ta nhất định thắng, xã hội nhất định thua”.

Nói thế có chứng cớ gì không? – Sao không! Nhiều lắm, nghe chán chết, xin kể một số việc tôi nghe thấy ở xứ tôi:

1/- Khi phát động phong trào xây dựng ấp + khu phố, xã + phường văn hóa, phường tôi ở trung tâm thành phố, chợ búa, lắm khách vãng lai, người đông san sát, bao hỗn tạp diễn ra hàng ngày. Về mặt văn hóa không có gì nổi trội so với người ta. Có lẽ nhờ “khéo” báo cáo, nó được tỉnh công nhận là phường đầu tiên trong tỉnh đạt chuẩn “Phường văn hóa”. Ngoài được vinh danh, còn cấp bộ bàn ghế hội cho trường, thưởng tiền mở tiệc ăn mừng nhậu mệt nghỉ. Thế rồi từ đó nhân ra diện, cho đến nay, trên phạm vi toàn tỉnh, đi đến đâu đều thấy không phường, xã, cũng khu phố, ấp treo bản văn hóa. Đâu chỉ thế, người ta còn thi nhau cấp giấy chứng nhận gia đình văn hóa cho từng hộ, và còn “sáng kiến” vẽ bản gia đình văn hóa bán cho mỗi hộ treo trước cửa cho oai. Tất nhiên “đạt chuẩn” mới được treo bảng, mới được khen, mới được thưởng tiền mở tiệc ăn mừng,

Một bữa nọ, hẻm chật, nham nhở, tôi dựng xe đầu hẻm vào nhà người thân. Chủ hộ góc hẻm nhắc: “Khóa kỹ coi chừng mất”. Tôi chỉ bảng “khu phố văn hóa” căng trên đầu hẻm, nói đùa: “Mất tôi kiện khu phố trưởng. Đây là khu phố văn hóa mà”. Người ấy nói lại: “Ở đó mà văn hóa! Hở là nó chộp”.

2/- Bữa nọ tôi vào khoa nội cán (khoa nội dành cho cán bộ) thăm bịnh, đến giờ bác sĩ khám và cấp thưốc cho bịnh nhân, tôi và người cùng đi ra băng đá bên ngoài ngồi hút thuốc, bà trưởng khoa nhìn chúng tôi nói: “Các ông hút thuốc ở đây sẽ làm cho chúng tôi mất điểm thi đua!” – Phải chi bà trưởng khoa nói “Hút thuốc ảnh hưởng sức khỏe không chỉ cho riêng mình” thì tốt biết mấy.

3/- Sau bỏ phiếu bầu cử Quốc hội, anh P, đại tá Công an nghỉ hưu, trong Ban Tổ chức bầu cử phường, giám sát tổ bầu cử khu phố 2 đến tôi chơi. Tôi hỏi:

– Kết quả bầu cử tổ ở khu phố mình ra sao?

– Kết thúc trước giờ qui định, tỷ lệ đi bầu đạt 99% – Anh P trả lời.

– Dân ở chợ bận mua bán mà sao giỏi vậy, có bí quyết gì? – Tôi hỏi.

Xem chú như người trong nhà, tôi nóibí quyết”: Được phép bỏ thay cho người trong hộ / Cho khui thùng phiếu nhiều đợt – đến trước kiểm trước, đến sau kiểm sau / Họp tổ xử lý liền tại chỗ phiếu trắng, phiếu không hợp lệ chuyển thành hợp lệ, ưu tiên cho những chức danh chủ chốt theo cơ cấu.

Sao lại làm vậy? – Tôi hỏi.

Nếu không làm vậy, ngoài bị chê trách, xấu mặt xấu mày, còn mong gì được khen thưởng.

Trên biết được tới số? – Tôi lo ngại.

– Chẳng cần phải lo, “tốt lá tốt nem”, cùng có lợi mà. Cái chính là phải kín mồm kín miệng, đừng dại “thưa ông con ở lùm này”, v.v.

4/- Bí thư chi bộ ấp 4 xã T rỉ tai tôi: Chi bộ này họp kiểm tra tư cách đảng viên định kỳ (theo tiêu chuẩn 4 tốt), đem từng người ra mổ xẻ, cuối cùng chỉ có 54% đảng viên đạt chuẩn. Khi xem kết quả báo cáo của chúng tôi, Đảng ủy xã không ưng ý, cho người xuống kiểm tra. Qua bước “xào nấu” gia giảm, 88% đảng viên ấp này đạt chuẩn. Thế rồi xã tiếp tục “chiên xào” bằng cách nào đó, đảng bộ xã T có đến 94% đảng viên đạt chuẩn. Thế là đảng bộ xã T được biểu dương “làm tốt công tác xây dựng đảng”. Là bí thư, tôi cảm thấy áy náy về sự thiếu trung thực này, nhưng đành vậy!

Sẽ không công bằng, nếu tôi nói rõ địa danh, tên người…, vì những tệ hại này không chỉ xảy ra ở những nơi đây. Hãy kiểm lại xem, nó lan tràn trên cả nước?!.

Bịnh thành tích là bịnh nói dối. Lừa trên dối dưới trở thành dịch bịnh lan truyền cả nước. Nói dối một cách tự nhiên không chớp mắt, không biết ngượng là gì, nó trở thành nếp sống văn hóa, chưa có thuốc kháng.

Tôi nghĩ: Nên lấy lương làm động lực – chỉ cần trả lương xứng đáng với kết quả lao động. Ai không làm tốt chức phận, công việc… của mình thì cách chức, sa thải. Muốn trị được “bịnh thành tích” tốt nhứt là xóa bỏ chủ trương “thi đua khen thưởng”.

27/01/2013

T. T.

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

14012601

VRNs (28.01.2014) – Đồng Nai – Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.

Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ

Phong sắc hồng hào tâm thể khang an

Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng

Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ

Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể

Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây

Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây

Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay

Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp  yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.

Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Di sản Việt Nam cộng hòa

Di sản Việt Nam cộng hòa

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-01-28

Báo Tuổi Trẻ, tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất nước đã tung ra loạt bài kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng sa.

Báo Tuổi Trẻ, tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất nước đã tung ra loạt bài kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng sa.

Source TuoiTre online

Nghe bài này

Nhà nước VNCH đã chấm dứt sự tồn tại hữu hình của nó gần 39 năm. Thể chế ấy sau nhiều năm bị phủ nhận hoàn toàn bởi những nhà cai trị Việt Nam hiện tại, lại đang được nhắc tới trong thời gian gần đây. Kính hòa trình bày.

Thắm thoát đã 39 năm từ ngày nhà nước VNCH sụp đổ. Năm nay không phải là một năm chẳng cho biến cố tháng tư 1975, nhưng nhà nước ấy lại được nhớ đến bằng một sự kiện diễn ra hơn một năm trước đó, tháng giêng 1974, là lúc mà quần đảo Hoàng sa bị nước Trung quốc cộng sản đánh chiếm. 74 người lính hải quân của quân đội VNCH đã hy sinh trong trận chiến đó.

Việt Nam cộng hòa xuất hiện sau 40 năm

Bốn từ Việt Nam cộng hòa được nhắc lại khá nhiều trên cả phương tiện truyền thông của nhà nước Việt Nam hiện tại. Liên tục trong hơn nửa tháng đầu năm 2014, báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ, hai tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất nước đã tung ra loạt bài kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng sa. Những hoạt động kỷ niệm và biểu tình nhân sự kiện này dù không thành, như ở Đà Nẵng, hay bị dẹp đi như ở Hà nội, nhắc nhở rằng một định chế nhà nước cùng với cấu trúc chính trị và xã hội của nó bao phủ trên một nửa đất nước không thể dễ dàng bị quên lãng.

Di sản VNCH không phải đã bị cuốn đi trên những chiến trực thăng của tháng tư năm 1975, nó cũng không phải được mang đi hết bởi những người vượt biển ra đi trong những năm 70, 80 đầy bi kịch …mà nó tiềm ẩn trong những giá trị tinh thần như âm nhạc, quan hệ xã hội…

Trận hải chiến thất bại ở Hoàng sa là một phần trong di sản của chính thể ấy.

Di sản VNCH không phải đã bị cuốn đi trên những chiến trực thăng của tháng tư năm 1975, nó cũng không phải được mang đi hết bởi những người vượt biển ra đi trong những năm 70, 80 đầy bi kịch của thế kỷ trước. Nó không phải chỉ mang hình hài vật chất như những tòa nhà được trưng dụng làm công sở hay “phân phối cho cán bộ,” mà nó tiềm ẩn trong những giá trị tinh thần như âm nhạc, quan hệ xã hội, …hay một tinh thần báo chí mà hai tờ báo lớn Tuổi Trẻ và Thanh niên đã tiếp nhận không ít thì nhiều. Di sản ấy đi ngược ra cả miền Bắc qua những dòng văn học của các nhà văn Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, nhà báo Huy Đức.

Báo Thanh Niên, tờ báo có uy tín trong nước cũng cho ra loạt bài kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng sa.

Báo Thanh Niên, tờ báo có uy tín trong nước cũng cho ra loạt bài kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng sa. Source ThanhNien online

Một di sản cần trân trọng

Dưới chính thể VNCH hai cây đại thụ của âm nhạc Việt nam hiện đại là Trịnh Công Sơn và Phạm Duy đã đâm hoa kết trái, phần chắc là do tránh khỏi cái thời tiết khắc nghiệt của đấu tranh giai cấp trên miền Bắc, nơi mà người tiền bối của họ là Văn Cao đã im lặng trong hàng chục năm trời. Trịnh Công Sơn và Phạm Duy đã không hề suy suyển sau những chiến dịch “bài trừ văn hóa đồi trụy,” mà âm thầm lặng lẽ cất lên trên vỉa hè Sài Gòn, và cả Hà nội, để rồi hôm nay đường đường ngự trị một không gian lớn của âm nhạc VN bằng những bài hát đầy tính nhân văn của họ.

Tính nhân văn ấy nằm trong triết lý của nền giáo dục của chính thể VNCH: Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng. Hãy nghe Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang một trí thức bất đồng chính kiến tại Hà nội nói về nền giáo dục đó,

Chế độ VNCH ngày xưa có nhiều điểm ưu việt hơn chế độ chính trị của miền Bắc. Khi giải phóng vào thì tôi thấy là nền giáo dục của họ rất tốt, họ giáo dục cho trẻ em cái Lễ, chứ không phải là đấu tranh giai cấp. Con người ở miền Nam họ sống với nhau cũng có nghĩa hơn

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang

Chế độ VNCH ngày xưa có nhiều điểm ưu việt hơn chế độ chính trị của miền Bắc. Khi giải phóng vào thì tôi thấy là nền giáo dục của họ rất tốt, họ giáo dục cho trẻ em cái Lễ, chứ không phải là đấu tranh giai cấp. Con người ở miền Nam họ sống với nhau cũng có nghĩa hơn, chứ không phải như những con người giả dối, trong hội trường thì tung hô một nẻo, về nhà thì nói một nẻo. Rồi còn có báo chí, nhân quyền được tôn trọng hơn, có tự do ngôn luận hơn chứ không như ở miền Bắc là bưng bít, phải nói theo đảng làm theo đảng, không được phê bình đảng, không nói được nguyện vọng của nhân dân, của quần chúng,”

Triết lý Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng được trang báo mạng Vietnamnet nhắc lại trong một bài báo vào cuối năm 2013. Phải chăng sự bế tắc của nền giáo dục Việt nam hiện tại đã đánh thức nhiều người Việt hiện nay rằng có một di sản giáo dục cần trân trọng?

Sáng ngày 19/1/2014, dân Hà Nội đã có mặt tại  tượng đài Lý Thái Tổ – Hồ Gươm – Hà Nội để tham gia buổi Lễ tưởng niệm tri ân 74 quân nhân  Hải Quân VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến năm 1974 ở Hoàng Sa

Sáng ngày 19/1/2014, dân Hà Nội đã có mặt tại tượng đài Lý Thái Tổ – Hồ Gươm – Hà Nội để tham gia buổi Lễ tưởng niệm tri ân 74 quân nhân Hải Quân VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến năm 1974 ở Hoàng Sa

Trong xu hướng dân chủ hóa xã hội Việt Nam hậu cộng sản, nếu đồng ý rằng chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung cùng với bức tường Berlin hồi năm 1989, ngôn ngữ chính trị chính thống của nhà nước Việt Nam cũng nhẹ nhàng hơn. Trong một lần trao đổi với chúng tôi, một bạn trẻ từ trong nước cho biết,

Em có một thông tin là hồi em học lớp 12 thì cô giáo dạy sử của em có nhấn mạnh việc thay đổi cụm từ ngụy quyền bằng chính quyền Sài Gòn hay là Việt nam cộng hòa. Em nghĩ đó cũng là một hành động chứng tỏ trung lập hay hòa giải, ít nhất là như thế.”

Năm 2013 dường như đã chứng kiến nhiều cố gắng cho sự hòa giải ấy, như là việc ông Thứ trưởng bộ ngoại giao đến thắp hương ở nghĩa trang tử sĩ VNCH tại Biên hòa, và những ngày tháng đầu năm 2014 người đọc báo trên cả nước được nhìn thấy trong nhiều ngày bốn chữ VNCH.

Nhưng mọi thay đổi không phải là chuyện dễ dàng.

Lễ kỷ niệm được chuẩn bị một cách công phu tại Đà Nẵng đã bị hủy bỏ, và báo chí ngưng việc đưa tin về VNCH và Hoàng sa.

Bên cạnh đó cũng có những tiếng nói bực dọc trước bốn chữ VNCH. Một bài viết trên mạng mang tựa đề “Vài lời về hải chiến Hoàng sa 1974, những kẻ muốn vực dậy thây ma” công kích nhà báo Đỗ Hùng của báo Thanh Niên về những gì ông viết về 40 năm trận chiến Hoàng sa, với ngụ ý không công nhận bốn từ VNCH. Đây không phải là điều mới mẻ của “dòng lý luận chính thống,” vốn chỉ coi trọng những gì diễn ra dưới bóng che của đảng cộng sản mà thôi.

Theo tôi thì chúng ta cần kế thừa tất cả những tinh hoa của lịch sử để lại. Thực thể chính trị VNCH có những điều tốt, điều hay mà chúng ta cần phải chắt lọc, cần phải sử dụng…

Ông Lê Thăng Long

Song, hình ảnh của viên thiếu tá VNCH Ngụy Văn Thà, hy sinh trong trận hải chiến Hoàng sa, xuất hiện vừa qua tại Hà nội thủ đô một thời của cải cách ruộng đất và đấu tranh chống xét lại, một điều khó tưởng tượng ra chỉ cách đây vài năm, chứng tỏ rằng giới trẻ VN dường như đang bước ra khỏi cái dòng lý luận chính thống ấy.

Ông Lê Thăng Long một cựu tù nhân chính trị hãy còn trẻ, người mới đây tuyên bố xin gia nhập đảng cộng sản Việt Nam để giúp đảng này thoát qua cơn khủng hoảng hiện tại, nói với chúng tôi về di sản của VNCH,

“Theo tôi thì chúng ta cần kế thừa tất cả những tinh hoa của lịch sử để lại. Thực thể chính trị VNCH có những điều tốt, điều hay mà chúng ta cần phải chắt lọc, cần phải sử dụng. Và những cái gì trong quá khứ phía đảng cộng sản và chính quyền VN hiện nay có những sai lầm đối với chính thể VNCH thì cũng cần chính thức ngỏ lời xin lỗi, xét lại quá khứ và cùng nhau hướng tới một tương lai vì dân tộc VN hùng mạnh trong thời gian sắp tới.”

Năm 1975 đánh dấu sự thất bại của một thực nghiệm mô hình dân chủ đầu tiên trong lịch sử VN. Năm 1989 với sự sụp đổ của bức tường Berlin lại đánh dấu sự thất bại của thực nghiệm cộng sản trên toàn thế giới. Lịch sử là một dòng liên tục, không thể chỉ giới hạn trong một không gian chính thống muốn phủ nhận quá khứ. Quá khứ nối liền qua hiện tại để hướng đến tương lai. Có phải chăng đã đến lúc nhìn nhận một cách nhân bản di sản mà thực thể chính trị xã hội VHCH để lại trong lòng xã hội Việt nam, từ ý thức dân tộc cho đến những giá trị nhân văn của nó? Để tránh cái mà nhà văn xứ Dagestan bên Nga, Rasul Gamzatov, trích lời một hiền triết Arab viết rằng:

“Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn trả bạn bằng đại bác.”

Truyền hình Ả Rập lột mặt nạ bài Việt Nam của đối lập Cam Bốt

Truyền hình Ả Rập lột mặt nạ bài Việt Nam của đối lập Cam Bốt

Ông Sam Rainsy, lãnh đạo phe đối lập thường có luận điệu bài Việt - REUTERS /Samrang Pring

Ông Sam Rainsy, lãnh đạo phe đối lập thường có luận điệu bài Việt – REUTERS /Samrang Pring

Trọng Nghĩa

RFI

Trong không khí phấn khởi của phong trào đòi dân chủ và dân sinh tại Phnom Penh vào tháng 12/2013 và tháng 01/2014, với những cuộc biểu tình rầm rộ nhất trong lịch sử Cam Bốt, một khía cạnh đen tối đã xuất hiện : Khẩu hiệu và hành vi bạo động kỳ thị người Việt Nam nhiều khi được tung ra cùng với những lời kêu gọi cải thiện dân chủ và tăng lương đến từ phe đối lập. Đó là ghi nhận của đài truyền hình Ả Rập Al Jazeera trong một phóng sự ngày 24/01/2014 vừa qua.

Mang tựa đề « Biểu tình tại Cam Bốt phơi bày quan điểm bài Việt Nam », phóng sự của đài truyền hình Ả Rập đã nêu bật sự kiện nhiều người biểu tình đã hô vang những khẩu hiệu chống Việt Nam, phản ánh thái độ thù hằn Việt Nam mà lãnh đạo đối lập Sam Rainsy đã có từ lâu đối với Việt Nam – một tỳ vết dễ thấy giữa các thành tích đấu tranh cho nhân quyền của ông.

Theo Al Jazeera, về cuộc biểu tình của những người ủng hộ phe đối lập và công nhân may mặc tại khu phố Veng Sreng, vùng ngoại ô Phnom Penh ngày 03/01 vừa qua, báo chí đã nói nhiều về vụ cảnh sát quân sự đã bắn chết ít nhất bốn công nhân và làm bị thương hàng chục người khác.

Tuy nhiên, ít được nói đến hơn là sự kiện những người biểu tình đã gào thét những lời lẽ kỳ thị chủng tộc và xông vào cướp phá ít nhất là ba cửa hàng của người Việt Nam gần đó. Có tin cho là số cửa hiệu bị phá hủy còn nhiều hơn nữa. Nhiều người Việt cư ngụ trong khu vực đã phải bỏ chạy về Việt Nam.

Đài truyền hình Ả Rập đã trích lời anh Sok Min, 27 tuổi, chủ nhân một quán cà phê gần phố Veng Sreng đã bị những người biểu tình chống Việt Nam phá hủy, cho biết là anh đã bị thiệt hại khoảng 40.000 đô la trong vụ tấn công này và đã phải cho vợ và hai đứa con trong hoàn cảnh cực kỳ sợ hãi trở về Việt Nam vô thời hạn.

Khi được hỏi vào lúc đang xem xét cửa hàng bị hư hỏng ngay sau vụ tấn công, với hầu như toàn bộ đồ đạc bị cướp đi, trên sàn nhà vương vãi mảnh thủy tinh bị với và bao bì cà phê trống rỗng, Sok Min cho biết : « Họ đến để phá hủy tất cả mọi thứ… Họ nói rằng tôi người Việt và họ không thích điều đó. ».

Những tuyên bố đáng ngại

Nhân cuộc bầu cử tại Cam Bốt vào tháng 07/2013, đảng Cứu nguy Dân tộc do ông Rainsy lãnh đạo đã giành được nhiều thắng lợi lớn trước đối thủ là Thủ tướng Hun Sen, lên cầm quyền từ năm 1985, ít lâu sau khi quân đội Việt Nam đánh qua Cam Bốt vào năm 1979 để lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ. Việt Nam đã rút khỏi Cam Bốt vào năm 1989, nhưng Đảng Nhân dân của ông Hun Sen vẫn duy trì quan hệ thân thiện với nước láng giềng hùng mạnh hơn ở phía đông, một kẻ thù lịch sử nhưng đã trở thành đồng minh.

Về phần ông Sam Rainsy, nhân vật này từ lâu đã luôn luôn cáo buộc điều ông ta cho là Việt Nam chiếm đất Cam Bốt, một quan điểm bị nhiều người cho rằng cố chấp đáng ngại. Ông Sam Rainsy khẳng định rằng ông không kích động bạo lực nhắm vào người Việt Nam sinh sống ở Cam Bốt, nhưng những phát biểu của ông trong suốt hai chục năm làm chính trị vừa qua thường bao gồm những luận điểm gay gắt chống lại thiểu số người Việt không được lòng dân tại chỗ, kèm theo những lời hứa là những người này sẽ bị đuổi khỏi Cam Bốt.

Al Jazeera nhắc lại là nhân một chuyến viếng thăm Phnom Penh ngày 23/01/2014, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền tại Cam Bốt, ông Surya Subedi, đã có lời phê phán hiếm hoi nhắm vào phe đối lập, liên quan đến những luận điệu bài Việt Nam của đảng Cứu nguy Dân tộc và những vụ tấn công cửa hiệu của người Việt tại khu phố Veng Sreng.

Dùng từ yuon để gọi người Việt’

Để tìm hiểu thêm, đài truyền hình Ả Rập đã tìm gặp ông Ou Virak , một nhà hoạt động nhân quyền nổi bật tại Cam Bốt, đứng đầu Trung tâm Nhân quyền Cam Bốt. Nhân vật này đã lên tiếng tỏ ý lo ngại về việc ông Sam Rainsy đang lao vào một trò kích động thù hận dân tộc nguy hiểm. Ông Ou Virak đã lên án sự kiện lãnh đạo đối lập Cam Bốt thường xuyên sử dụng thường xuyên từ ngữ youn đầy tính miệt thị để chỉ người Việt Nam.

Tiếng nói phê phán nói trên tuy nhiên đã không lọt tai nhiều người. Theo Al Jazeera, trong tháng qua, ông Ou Virak đã phải chịu một loạt những lời chửi mắng trên mạng, thậm chí còn bị dọa giết. Tổ chức Đài Quan sát Bảo vệ Giới Đấu tranh cho Nhân quyền đã công bố một thông báo khẩn cấp về tình hình của ông Ou Virak, và kêu gọi Sam Rainsy chính thức lên án các lời đe dọa đó, điều chưa thấy lãnh đạo đối lập Cam Bốt thực hiện.
Đối với ông Ou Virak, đảng Cứu nguy Dân tộc đã tập trung vào việc bài xích người Việt Nam để đánh lạc hướng dư luận trước các vấn đề cấp bách hơn mà tất cả người dân Campuchia cần phải đối mặt, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng yếu kém, nạn phá rừng ồ ạt, tình trạng vi phạm nhân quyền tràn lan của chính phủ Hun Sen.

Khi được Al Jazeera hỏi là vì sao ông lại không lên án những lời đe dọa nhắm vào ông Ou Virak, lãnh đạo đối lập Sam Rainsy nói tránh đi rằng ông lên án mọi hình thức bạo lực. Ông Rainsy cũng nói thêm rằng những lời chỉ trích của đặc sứ Liên Hiệp Quốc Subedi đã dựa trên một « sự hiểu lầm và hiểu sai » về ngôn ngữ và văn hóa Cam Bốt.

Trả lời đài truyền hình Ả Rập, ông Sam Rainsy khẳng định rằng dân Cam Bốt nói chung, và đảng Cứu nguy Dân tộc của ông nói riêng « không xem bất cứ nước nào, bất kỳ dân tộc nào là thù địch… nhưng các chính sách hiện hành của chính phủ hiện thời ở Việt Nam đối với Cam Bốt không thân thiện và không xây dựng lắm ». Ông đã nêu lại những cáo buộc về việc Việt Nam lấn đất dọc theo biên giới, và việc các công ty Việt Nam được nhượng quyền khai thác rừng ở Cam Bốt.

Đối với Al Jazeera tuy nhiên, ngay cả khi lãnh đạo đối lập Cam Bốt lên án bạo lực, ông ta có thể là không hoàn toàn kiểm soát được tâm lý chống Việt Nam mà chính ông đã kích động trên đường phố. Trong các cuộc biểu tình, tiếng hô « bọn youn súc sinh » và « bọn youn chó má » rất thường được nghe thấy nhắm vào cảnh sát và lực lượng an ninh.

Quán cà phê của người Việt là ổ gián điệp

Phuong Sopheak, 27 tuổi, là một ủng hộ viên đối lập nhiệt tình, đã gia nhập đảng Cứu nguy Dân tộc vào tháng 06/2013, từng tham gia nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ, bao gồm cả cuộc biểu tình trên phố Veng Sreng. Trả lời đài Al Jazeera, một mặt xác nhận rất thích đề nghị của đảng Cứu nguy Dân tộc muốn giúp Cam Bốt phát triển nhanh hơn, nhưng một mặt khác thanh niên này cho biết rất tâm đắc với lập trường chống người Việt nhập cư của đảng.

Thanh niên này đoán chắc rằng nhiều quan chức chính phủ hàng đầu là người Việt giả mạo thành người Cam Bốt : « Họ gửi người của họ sang Cam Bốt và cài Hun Sen lên làm lãnh đạo… để có được lãnh thổ Cam Bốt ».
Đối với đảng viên đảng Cứu nguy Dân tộc này, các tiểu thương như trường hợp ông Sok Min thực sự là gián điệp : « Một số chủ tiệm cà phê là gián điệp được cử qua để có được thông tin từ Cam Bốt. Tất nhiên họ có thể khẳng định rằng Cam Bốt là một nơi tốt cho kinh doanh và sinh hoạt, nhưng tôi đã nhìn thấy chứng minh thư của họ và họ là công an Việt Nam ».

Theo Al Jazeera, Thủ tướng Hun Sen vẫn duy trì một mối quan hệ thân thiết với Việt Nam, một kẻ thù lịch sử của Cam Bốt, qua đó cung cấp một mục tiêu tấn công dễ dàng cho đảng Cứu nguy Dân tộc. Trong một chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông có bài phát biểu bằng tiếng Việt trôi chảy về tình hữu nghị giữa hai nước. Một clip video về sự kiện này được lưu truyền trên YouTube và nhanh chóng thu hút được hàng trăm ý kiến ​​tức giận.

Ngoài ra, chính quyền Phnom Penh cũng có phần lỏng lẻo trong việc thực thi luật nhập cư trong trường hợp các di dân kinh tế Việt Nam như ông Sok Min, nhiều người trong số này đổi lại đã thể hiện sự trung thành với đảng Nhân dân Cam Bốt.

Họ đã mất tất cả

Cheam Yeap, một dân biểu cấp cao trong đảng cầm quyền đã bảo vệ các chính sách của chính phủ đối với Việt Nam, cho đấy chỉ là một vấn đề hợp tác khéo léo với một người hàng xóm hùng mạnh. Theo nhân vật này, việc đảng Cứu nguy Dân tộc nêu bật Việt Nam như một kẻ thù và kỳ thị một quốc gia láng giềng là một trò « rất nguy hiểm, và tác hại mạnh mẽ đến lợi ích quốc gia của Cam Bốt » vì có tác dụng xua đuổi du khách và các nhà đầu tư Việt Nam.

Đối với chuyên gia David Chandler, giáo sư danh dự tại Đại học Úc Monash, từng nghiên cứu về Cam Bốt trong hàng chục năm, đã gọi các lời cáo buộc chống Việt Nam của ông Sam Rainsy là những « mưu mẹo ».
Chuyên gia này giải thích : « [Sam Rainsy] ít khi dẫn chứng cho các lời cáo buộc của ông ta. Điều chắc chắn là doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam đang gây hại ở Cam Bốt, nhưng cũng tương tự như những người Malaysia, Hàn Quốc, Trung Quốc ». Giáo sư Chandler không chắc rằng những người buôn bán nhỏ và người nhập cư kinh tế khác đến từ Việt Nam đã làm tổn hại đến lợi ích của Cam Bốt.

Phóng sự của đài truyền hình Ả Rập kết thúc bằng câu chuyện một phụ nữ Cam Bốt, bà Ben Daravy, phải bận rộn suốt tuần này để quét dọn cửa hàng tại phố Veng Sreng mà bà đang muốn cho người khác thuê. Người thuê trước đó, một phụ nữ độc thân người Việt, đã bỏ chạy về Việt Nam sau hôm mồng 03/01/2014 sau khi quán cà phê của bà bị một đám đông phá cửa xông vào, cướp đi tất cả đồ đạc cũng như dụng cụ làm bếp. Những kẻ này còn đe dọa sẽ đốt cháy căn nhà, khiến cho người phụ nữ đó cùng đứa con gái phải trốn đi bằng cửa sau và không bao giờ quay trở lại.

Bà Daravy không nén nỗi tức giận : « Họ mang xăng đến đòi đốt nhà, và họ đã có thể làm thật nếu không có một người hàng xóm ngăn cản, nói với họ rằng chủ thực sự của cửa hàng này là người Khmer chứ không phải là người Việt ».

Người phụ nữ Cam Bốt này đã tỏ ý rất thông cảm với người thuê cũ của mình : « Người Việt thuê nhà ấy đã mất tất cả mọi thứ, tôi cũng mất rất nhiều nên không thể giúp bà ấy điều gì cả ».

 

Thủ tướng Ukraine nộp đơn từ chức

Thủ tướng Ukraine nộp đơn từ chức

Thứ ba, 28 tháng 1, 2014

Tổng thống Yanukovych gặp lãnh đạo đối lập tối 27/1

Thủ tướng Ukraine Mykola Azarov nộp đơn từ chức nhằm chấm dứt các cuộc biểu tình trên toàn quốc.

Trong một thông cáo, ông nói bước đi nhằm tạo ra “sự thỏa hiệp xã hội và chính trị”.

Nếu tổng thống ký nghị định để thủ tướng từ chức, cả nội các sẽ từ nhiệm.

Họ vẫn có thể tiếp tục cương vị trong vòng 60 ngày cho đến khi có chính phủ mới.

Trong khi đó, quốc hội nước này đang có phiên thảo luận khẩn cấp.

Dự kiến quốc hội sẽ bỏ phiếu về việc xóa bỏ luật cấm biểu tình, mà tổng thống Viktor Yanukovych cũng đã chấp nhận bãi bỏ.

Ông Viktor Yanukovych cũng đề xuất ân xá cho người biểu tình, với điều kiện họ tháo dỡ các rào chắn và chấm dứt tấn công các tòa nhà của chính phủ.

Đề xuất trên đã được đưa ra trong cuộc gặp của ông tổng thống với ba lãnh đạo đối lập chính.

Người biểu tình từng yêu cầu bỏ điều luật gây tranh cãi, đồng thời muốn ông Yanukovych từ nhiệm.

Luật chống biểu tình được Quốc hội vội vã thông qua hôm 16/1.

Trong điều luật này có các điểm như cấm dựng lều trại trái phép tại các địa điểm công cộng, và truy tố trách nhiệm hình sự cho hành vi phỉ báng quan chức nhà nước.

Các phóng viên nói trong phiên họp đặc biệt vào thứ Ba 28/1 nhằm thảo luận khủng hoảng chính trị trong nước, điều luật này có thể sẽ bị xóa bỏ.

Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Yanukovych vào tối thứ Hai để bày tỏ ủng hộ của Washington cho cuộc đàm phán hiện tại với phe đối lập nhằm tìm ra giải pháp chính trị hòa bình cho cuộc khủng hoảng.

Ông Biden cảnh báo rằng đưa ra các biện pháp an ninh mạnh có thể khiến tình hình còn leo thang và thu hẹp khả năng giải pháp hòa bình.

Biểu tình lan rộng

Điều luật gây tranh cãi đã làm người biểu tình tức giận và khiến làn sóng biểu tình lan rộng trong nước Ukraine, thậm chí tới cả khu vực phía đông nói tiếng Nga vốn là nơi ủng hộ ông Yanukovych.

Người biểu tình, với xu hướng ủng hộ các đảng đối lập, đã nhằm vào các tòa nhà của chính phủ và chiếm trụ sở một số bộ ngành tại Kiev torng thời gian ngắn.

Ông tổng thống đã có cuộc gặp với lãnh đạo đảng Tổ quốc Arseniy Yatsenyuk, đảng Udar Vitali Klitschko, và lãnh đạo phe dân tộc chủ nghĩa Oleg Tyahnybok.

Trong một thông cáo đăng trên website của dinh tổng thống, Bộ trưởng Tư pháp Olena Lukash được dẫn lời nói “một quyết định chính trị đã được đưa ra để bãi bỏ điều luật thông qua hôm 16/1, vốn đã gây tranh luận”.

Bà Lukash cũng nói ông Yatsenyuk đã chính thức không chấp thuận chức thủ tướng mà ông được mời vào.

Hiện chưa có phản ứng từ các đảng đối lập.

Trong khi đó Cao ủy phụ trách đối ngoại của EU Catherine Ashton đã thay đổi lịch trình tới Ukraine và sẽ đến nước này hôm 28/1, trước kế hoạch hai ngày, để gặp ông Yanukovych và các lãnh đạo đối lập.

Bà nói bà “quan ngại” về các thông tin rằng chính phủ đang chuẩn bị đưa ra luật tình trạng khẩn cấp.

Trước đó giới chức Ukraine nói họ chưa có ý định làm điều này.

Khủng hoảng bắt đầu khi Tổng thống Viktor Yanukovych rút khỏi thỏa thuận thương mại với EU hồi tháng 11 năm ngoái để đổi lấy khoản trợ giúp 15 tỷ đôla của Nga.

 

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Vị Thánh Lỗi Lạc- Thánh Tôma-Aquina

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Ngày mai, 28 tháng 1, giáo-hội kính nhớ thánh Tôma Aquinô (Thomas Aquinas), một vị thánh lỗi lạc của giáo-hội trần thế.  Một tu sĩ Đa-Minh đã để lại cho hậu thế Bộ “Tổng Luận Thần-học”.

Thánh Tô-ma A-qui-na sinh năm 1225 tại thành Naples nước Ý Ðại Lợi trong một gia đình phú quí và đạo hạnh.  Ngài được hấp thụ một nền đạo đức sâu sắc, đặt căn bản trên đức tin và giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ.  Cha của Tô-ma là lãnh Chúa đảo Aquina.

Tuy danh vọng cao vời, nhưng gia đình cha mẹ của thánh nhân luôn biết kính sợ Chúa và giáo dục con cái theo luật Chúa và Giáo Hội.  Nhờ thế, thánh Tôma Aquina đã sớm tiến tới trong đường nhân đức, có một đức tin sắt đá và một nền học vấn uyên thâm để có thể hiểu và giải đáp được những vấn nạn trong xã hội cũng như những giải đáp cho thời đại đang tiến bộ.

Trong quá trình theo học, Tôma được gửi học ở tu viện Cassino do các Cha Bênêđitô điều khiển.  Một biến cố chính trị đưa đến việc giải tán tu viện sau 9 năm thánh nhân đã theo học với các cha Bênêđitô.  Sau đó, thánh nhân lại tiếp tục học ở Naples, nơi đây thánh nhân có dịp tiếp xúc với các cha dòng Ðaminh, Tôma say mê với lý tưởng sống cho người nghèo và làm việc trí thức để truyền bá cho những người khác chân lý, lý tưởng mà ngài đã ghiền ngẫm, đã suy nghĩ.

Lý tưởng của thánh Ðaminh đã đánh động ngài tới tận căn, nên ngài đã quyết định xin vào dòng thánh Ðaminh vào năm 1244.  Việc này làm phật ý thân mẫu Tôma vì bà luôn luôn muốn Tôma làm tu viện trưởng Cassino.  Thân mẫu của Tôma quyết định bắt Tôma về giam trong gia đình và dùng mọi mưu kế để cho Tôma trở về thế gian.  Mọi mưu chước của mẹ đều bị thất bại.  Sau cùng trong cơn mù quáng tột độ, bà đã dùng một cô gái trắc nết để quyến rũ thánh nhân, vì bà hy vọng Tôma sẽ bị ngã gục.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Tôma đã chiến thắng, đuổi cô gái hư ra khỏi nơi ngài ở.

Chúa đã yêu thương ngài, sai thiên thần đến cột giây trinh khiết cho ngài để biểu tỏ sự chiến thắng của ngài, đúng như lời sách đệ nhị luật đã viết:” Chúa ấp ủ và lo dưỡng dục (Tôma), luôn gìn giữ chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa” (trích sách Ðệ-nhị-luật 32: 10 ).  Thấy ý chí sắt đá, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa của Tôma, thân mẫu ngài đành làm ngơ để ngài trốn về lại tu viện.

Thánh Tôma lúc đó được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả uyên bác, nổi tiếng thời đó.  Năm 27 tuổi, thánh Tôma đã trở thành giảng sư đại học trẻ tuổi với một kiến thức sâu rộng tuyệt vời có thể hướng dẫn được giới trí thức đang say mê triết học Hy Lạp ngoại giáo.  Ngài đã viết bộ “Tổng luận thần học” đầy giá trị, để lại cho Giáo Hội và hậu thế.  Ngài nói ngài đã múc tất cả sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu qua suy niệm và cầu nguyện để viết nên “Tổng luận thần học” này.

Ngài qua đời đột ngột lúc mới có 49 tuổi, cái tuổi đang sung sức và việc dậy học đang nổi tiếng vào năm 1274.

Ðức thánh cha Gioan XXII phong ngài lên bậc hiển thánh năm 1328.

Năm 1567, Ðức Giáo hoàng Piô V lại cất nhắc ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh với tước hiệu “Tiến Sĩ Thiên Thần”.

Năm 1880, Ðức thánh cha Lêo XIII đặt ngài làm quan thầy các trường công giáo.

~^~

Lạy Chúa,

Chúa đã làm cho thánh Tôma trở nên một bậc thầy lỗi lạc,

vì đã ban cho ngài lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện,

và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu.

Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con

ngày càng hiểu biết điều ngài dạy,

và ra công bắt chước điều ngài làm.

Amen.

(Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).

Lm.  Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

From: ThiênKim

Kiêng cữ và Đức tin

Kiêng cữ và Đức tin

Chúa Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5:24).

Tiền nhân nói: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Tinh thần và thể lý có liên quan mật thiết với nhau, do đó mà việc kiêng cữ tốt cho cả tinh thần và thể lý. Ví dụ: Kiêng sử dụng chất béo để tránh béo phì, tránh được béo phì thì sống khỏe, sống khỏe thì tinh thần minh mẫn. Kiêng ăn chất béo không chỉ để giảm béo, mà còn giảm bệnh, giảm bệnh thì tính khí cũng thoải mái. Cũng vậy, tránh nghĩ đến điều xấu để tinh thần không bị cám dỗ, không bị cám dỗ thì bớt phạm tội.

Thái quá bất cập. Người ta kiêng cữ quá mức cũng không tốt, đến nỗi trở thành mê tín, dị đoan – nhất là trong vấn đề kiêng cữ thuộc lĩnh vực tinh thần. Cưới xin thì kỵ tuổi, tình cảm mà cũng bị người ta lạm dụng. Hai người yêu nhau mà tuổi thuộc “vùng” tứ hành xung thì chỉ có nước đợi… kiếp sau! Ngày nào cũng đủ 24 giờ, thế mà người ta cũng “tạo ra” giờ tốt và giờ xấu; hướng đi đã có đường sẵn mà người ta lại “biến hóa” thành hướng tốt và hướng xấu. Ví dụ cổng nhà hướng Đông, đi ra theo hướng đó không tốt, vậy phải chui “lỗ chó” mà đi ngang hoặc phía sau nhà cho hên sao? Mà có hên thật không? Có ai cưỡng lại được “mệnh trời” chưa? Đúng là “rách việc”, nhảm nhí hết sức!

Ai có thể biết giờ nào tốt? Vậy giờ chết và giờ sinh thì sao? Ai biết chắc? Nếu thực sự biết giờ nào tốt, sao không ráng chờ đến đúng giờ phút tốt rồi chết hoặc sinh, sao lại “quéo” người lại mà lo sợ? Người ta có chủ động chọn giờ tốt để “dọn chỗ” mà chết hoặc sinh? Còn nữa, ba ngày Tết phải cữ quét nhà vì “sợ” tiền của “đi ra”. Nghe nói mà đủ thấy “nóng mặt”. Rác rưởi bừa bộn, mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng sức khỏe không lo lại lo “bò trắng răng”!

Nuôi chó thì cho là tốt, là hên, vì chó sủa “gâu gâu”, người ta cố ý hiểu là “giàu”. Nuôi mèo thì cho là xấu, là xui, vì mèo kêu “meo meo”, người ta cố ý “dịch” ra là “nghèo”. Không phải là mê tín, dị đoan, mà là hủ tục và nhảm nhí! Kiêng cữ kiểu nhảm nhí như vậy thì chỉ có nước là không ăn gì, không uống gì, không đi đâu, không gặp ai, vậy là tốt nhất, hên nhất, chắc cú nhất! Có ai muốn như thế, có ai dám làm vậy?

KIÊNG CỮ

Tết đến, Xuân về, khoảng thời gian thanh thản nhất, chúng ta cùng “điểm” lại vài tục lệ kiêng cữ của dân ta, gọi là “nói chuyện vui đầu Xuân” để… lấy hên. Thôi kệ, xấu tốt gì cũng vô thưởng vô phạt, mà cũng có chuyện để nói cho vui.

1. Kiêng quét nhà – Theo quan niệm của Người Việt, nếu quét nhà trong 3 ngày đầu năm mới thì Thần Tài sẽ đi mất, tiền bạc sẽ không ở lại với gia đình, thậm chí còn mang lại điềm xấu. Có lẽ do một điển tích của Trung quốc: Trong “Sưu thần ký” có chuyện người lái buôn tên Âu Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo thì được Thủy Thần ban cho một người hầu tên Như Nguyệt. Sau vài năm, Âu Minh làm ăn phát đạt và trở thành người giàu có. Mồng Một Tết năm nọ, Âu Minh tức giận đánh Như Nguyệt. Nàng sợ quá chui vào đống rác và biến mất. Từ đó, nhà Âu Minh cứ nghèo dần đi. Theo đó, mọi người kiêng không dám quét nhà và không đổ rác trong mấy ngày Tết.

2. Kiêng mặc quần áo trắng hoặc đen – Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của tang tóc và chết chóc, thế nên không được dùng hai màu này vào ngày đầu năm. Thay vào đó, mọi người thường mặc các bộ trang phục có màu sắc tươi tắn như màu hồng, đỏ, vàng, xanh…

3. Kiêng khóc lóc, buồn rầu, nói điều không vui – Lỡ gặp chuyện buồn thì cũng ráng nhịn, chớ có khóc lóc, phải cố gắng kiềm chế để có thể hưởng thụ mấy ngày đầu năm mới cho trọn niềm vui bên người thân, bạn bè. Đồng thời, người ta còn phải kiêng nói những điều không vui, vì khi nói ra cũng có nghĩa là làm cho người khác “lây nhiễm” nỗi lo lắng, u buồn theo mình, gây không tốt trong những ngày đầu năm. Người ta còn phải kiêng nói to, kiêng cãi nhau, kiêng nói xấu, kiêng chửi rủa hoặc la mắng người khác.

4. Kiêng làm đổ, làm vỡ – Người ta cho rằng sự đổ vỡ vật dụng sẽ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa, là điềm gở cho cả năm. Vì thế, cần phải hết sức thận trọng khi sử dụng các đồ vật dễ vỡ như đồ thủy tinh, sành, sứ, gốm, pha lê,… Tất nhiên cũng phải tránh làm đổ chất lỏng tùm lum, vì như thế là xui xẻo.

5. Kiêng vay mượn tiền bạc, đồ đạc – Người xưa cũng quan niệm rằng, những ngày đầu năm mới, chúng ta không nên vay tiền hoặc mượn đồ dùng, vì làm vậy có thể khiến chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, cứ phải đi vay đi mượn.

6. Kiêng đi chúc Tết khi gia đình có tang – Nếu gia đình có đại tang thì người ta kiêng đi chúc Tết đầu năm. Người xưa quan niệm rằng nếu những người có tang đến chúc Tết gia đình ai đó thì sẽ mang nỗi buồn đến “chia sẻ” cho gia đình đó. Ngược lại, xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh ấy.

7. Kiêng đi chúc Tết vào sáng mồng Một – Người ta có tục lệ xông đất hoặc xông nhà đầu năm. Theo tục lệ này, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày mồng Một Tết chính là “người quyết định” sự may mắn hoặc xui xẻo đối với gia đình ấy suốt năm, người ta gọi là “hãm tài”. Vì thế, nếu không được gia chủ mời, nên tránh đi chúc Tết vào sáng mùng Một. Người được mời xông đất phải là người có uy tín, có thế giá, vị vọng hoặc giàu có.

8. Kiêng cho nước, cho lửa – Lửa và nước tượng trưng cho sự may mắn, sự thuận lợi. Nếu chúng ta cho lửa và nước vào mấy ngày đầu năm, nghĩa là gia đình sẽ không giữ được tiền bạc và may mắn trong cả năm, vì cho người ta hết.

9. Kiêng giặt giũ vào mồng Một và mồng Hai – Vì sinh nhật của Thủy Thần là ngày 1 và 2 tháng Giêng (âm lịch), do đó nên tránh giặt quần áo trong hai ngày này để đề phòng chuyện xui xẻo xảy đến với mình.

10. Kiêng mở tủ – Người ta còn có tục lệ kiêng mở tủ vào ngày mùng Một, vì họ tin rằng mở tủ lấy tài sản ra tức là “tống tiễn” tài lộc ra khỏi nhà. Do vậy, người lớn thường nhắc trẻ con cần gì thì lấy sẵn ra trước, bất cứ đồ gì (quần áo, của cải, đồ trang sức, dụng cụ,…), và phải lấy trước giờ giao thừa.

11. Kiêng xõa tóc – Tại các vùng quê Việt Nam và một số gia đình gốc Hoa, người ta kỵ việc xõa tóc của các thiếu nữ. Họ cho rằng tóc xõa rũ rượi gợi lên những hình ảnh ma quái thuộc cõi âm. Vì vậy, vào những ngày này, phụ nữ nên chọn các kiểu tóc buộc, tết, kẹp sao cho gọn gàng khi ra đường.

12. Kiêng ăn một số món – Dân miền Trung có tục lệ kiêng ăn trứng vịt lộn hoặc thịt vịt trong ngày Tết, và cả tháng Giêng. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ “gặp xui xẻo”. Tại một số vùng, người ta còn kiêng ăn tôm vì sợ “đi giật lùi như tôm”. Nếu ăn tôm trong ngày Tết, công việc trong năm mới sẽ không xuôi xắn, cứ giật lùi chứ không thể tiến tới. Vả lại, tôm còn là con vật mà người ta cho rằng “họ nhà tôm cứt lộn lên đầu”.

MÊ TÍN và CUỒNG TÍN

Thật là “mệt mỏi” với chuyện kiêng cữ. Không chỉ liên quan thể lý, việc kiêng cữ còn có phần liên quan tâm lý, tinh thần, thuộc phạm trù tâm linh. Ví dụ: Treo “vật may mắn” để lấy hên, treo “gương” trước cửa để trừ tà thần, treo một số lá cây để trừ tà khí, tránh bệnh tật,… Như vậy, việc kiêng cữ dẫn tới mê tín dị đoan.

Mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, nhảm nhí, không phù hợp với lẽ tự nhiên – tin vào bói toán, chữa bệnh bằng phù phép, ngoại cảm…, dẫn tới hậu quả xấu. Mê tín là tin suông một điều gì đó chứ không hề biết rõ nguyên nhân, chỉ tin theo kiểu a dua, hùa theo, thấy người ta tin thì mình cũng tin – tin tưởng theo cách u mê. Còn cuồng tín là tin điều gì đó một cách rồ dại, đến nỗi đầu óc không còn tỉnh táo và trở thành điên cuồng. Cuồng tín là phi tôn giáo.

Mê tín hoặc cuồng tín đều dẫn tới hệ lụy không tốt, nhưng mê tín có vẻ tệ hại hơn cuồng tín. Nguyên nhân dẫn tới mê tín và cuồng tín là do mong cầu điều gì đó thái quá mà hóa lú lẫn, hoặc do lo sợ xui xẻo quá mà “nhắm mắt, đưa chân”. Ít hay nhiều gì thì cũng có phần nào ảnh hưởng quan niệm về “luật nhân quả”, khiến người ta sợ hãi.

Một dạng “lú lẫn” cấp thấp hơn là thần tượng. Thần tượng ai đó cũng là một dạng thuộc phạm trù mê tín dị đoan hoặc cuồng tín, nhưng thần tượng không thuộc lĩnh vực tâm linh mà về phương diện hữu hình. Thần tượng là ngu xuẩn, tự đánh mất chính mình, không còn khả năng phân biệt cái gì “phải” hoặc “trái”, ngay cả cái sai của người ta mà mình cũng thấy là tốt. Thật là nguy hiểm!

Mê tín dị đoan, cuồng tín và thần tượng đều là mù quáng! Do kém hiểu biết, không biết mà lại cố chấp, thế nên dễ sinh ra bi kịch trong cuộc sống.

ĐỨC TIN

Các Kitô hữu là những người đã có niềm tin vào Đức Kitô, thế mà vẫn chưa “thoát” ra khỏi vòng kiềm tỏa của mê tín và cuồng tín. Đâu đó vẫn có những người mê tín khi thích “ngâm cứu” sách tử vi, tướng số. Ngay cả trong việc thực hành đức tin qua các kinh nguyện và lòng sùng kính, nhiều người vẫn còn ấu trĩ nên không hiểu (hoặc không muốn hiểu) rằng chính khi chúng ta tôn kính các ảnh tượng Chúa, mẹ và các Thánh, nếu không khéo thì cũng là thờ ngẫu tượng. Mà thờ ngẫu tượng chính là mê tín và cuồng tín. Đức tin cũng cần có lý trí, chứ không chỉ là cảm tính hoặc cảm xúc.

Kinh Thánh là Lời Chúa. Trong đó cũng có nhắc tới những điều kiêng cữ hoặc cấm kỵ.

Sách Công Vụ nói: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi” (Cv 15:28-29).

Chỗ khác, sách Công Vụ cho biết: “Còn về những người ngoại đã tin theo, thì chúng tôi đã viết thư thông báo những quyết định của chúng tôi, là họ phải kiêng: ăn đồ cúng cho ngẫu tượng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 21:25).

Sách Lê-vi nói: “Các ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en kiêng cữ khi bị ô uế, như vậy chúng sẽ không phải chết vì sự ô uế của chúng, khi chúng làm cho Nhà Tạm của Ta ở giữa chúng ra ô uế. Đó là luật về người bị bệnh lậu và người xuất tinh và bởi vậy ra ô uế, về người khó ở vì kinh nguyệt, về người đàn ông bị lậu hay người đàn bà bị rong huyết, cũng như về người đàn ông nằm với người đàn bà bị ô uế” (Lv 15:31-33).

Sách Thủ Lĩnh nói về vợ ông Ma-nô-ác, thuộc chi tộc Đan, là người son sẻ và không sinh con. Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: “Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh” (Tl 13:3-5).

Sau đó, Sứ giả của Đức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: “Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ. Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ” (Tl 13:13-14).

Trong diễn từ của ông Gia-cô-bê có câu: “Tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa, nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết và kiêng ăn tiết” (Cv 15:19-20).

Thánh Phaolô nói với dân Côrintô: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1 Cr 9:25).

Thánh Phaolô nói với Giám mục Timôthê: Họ cấm không được kết hôn và bắt phải kiêng một số thức ăn; thật ra, những thức ăn này là những thứ Thiên Chúa đã tạo dựng để các tín hữu, những kẻ đã nhận biết chân lý, được dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ (1 Tm 4:3).

Cuối cùng, điều kiêng cữ quan trọng và độc đáo nhất của các Kitô hữu là Thập Giới của Thiên Chúa, tức là Mười Điều Răn. Đây là những điều không chỉ NÊN mà còn PHẢI kiêng cữ suốt đời, nhờ đó mà hồn an và xác mạnh, cuối cùng được tận hưởng Mùa Xuân Bất Diệt tại Thiên Quốc cùng với Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, Chư Thần và Chư Thánh, mãi tới muôn đời muôn kiếp.

Năm Giáp Ngọ, chúc mọi người khả dĩ phi nhanh như Ngựa trên đường nhân đức để mau “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48) và sớm đạt Đích Cứu Độ.

Happy New Year – Chúc Mừng Năm Mới!

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

” Ngân hàng VN đang ngoài vòng pháp luật “

” Ngân hàng VN đang ngoài vòng pháp luật “

Thứ hai, 27 tháng 1, 2014

Huỳnh Thị Huyền Như nhận án tù chung thân.

Tòa tại Việt Nam vừa tuyên án tù với hàng chục bị cáo trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, được gọi vụ lừa đảo lớn nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam.

Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành bình luận về phán quyết này cũng như tình trạng mà ông gọi là hệ thống ngân hàng Việt Nam đang hoạt động ngoài vòng pháp luật.

BBC: Ông có ngạc nhiên khi tòa ra phát quyết trách nhiệm cá nhân thay vì trách nhiệm ngân hàng với lập luận là ngân hàng “không biết” [hoạt động lừa đảo]?

Theo tôi thì ngân hàng [VietinBank] hoàn toàn có trách nhiệm chứ làm sao nói rằng đó là chuyện cá nhân được. Ngân hàng phải có nhiệm vụ quản lý nhân sự của mình. Một người thực sự là giám đốc của một chi nhánh mà làm những việc như thế thì thanh tra kiểm tra ở đâu mà để xảy ra những việc như vậy. Bây giờ nói là việc cá nhân là không được. Nền tư pháp Việt Nam phải làm tốt hơn nữa.

“Việt Nam thì nói là không có tam quyền phân lập. Thế thì nghĩa là tư pháp phải nghe theo lệnh của ông khác để xử.”

Sẵn đây cũng nói là hiện ở Việt Nam cái việc tổ chức nhà nước chưa được hoàn chỉnh. Việt Nam thì nói là không có tam quyền phân lập. Thế thì nghĩa là tư pháp phải nghe theo lệnh của ông khác để xử lý thì như vậy sao được.

Tư pháp, hành pháp và lập pháp không thực sự phân lập ra để khi xử lý một việc lớn thì có tính khách quan trong đấy. Tòa án ở Việt Nam có nhiều vấn đề lắm, không riêng gì vụ này. Tòa án Việt Nam chưa có hoàn toàn độc lập. Còn riêng về vụ này mà các ông xử thế thì các ông nên suy nghĩ lại, nghiên cứu lại về cơ sở pháp l‎ý về hoạt động của ngân hàng chứ còn nói như vậy là không có chính xác.

BBC: Nhìn rộng ra VietinBank cũng chịu sự quản lý và kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thì phải chăng NHNN cũng có trách nhiệm liên đới?

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm theo dõi đôn đốc quản lý của các ngân hàng thương mại, không chỉ riêng VietinBank mà còn bao nhiêu ngân hàng thương mại khác đều chịu sự kiểm soát, kiểm tra thanh tra của NHNN, mà các nước khác gọi là ngân hàng trung ương, thì việc đấy rõ ràng là có vấn đề. Vai trò ngân hàng trung ương quản lý ở đâu. Còn Vietinbank là ngân hàng lớn thì anh làm sao lại để việc lớn như vậy xảy ra với nhân viên của anh. Ra tòa anh từ chối thì chuyện từ chối trách nhiệm là chuyện không thể chấp nhận được. Cho nên phải xem lại cả hệ thống ngân hàng chứ không riêng gì VietinBank.

Trong 10 năm nay hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn không có sự quản lý chặt chẽ. Lãi suất huy động mười mấy, hai chục phần trăm, rồi cho các doanh nghiệp vai tới hai mươi mấy phần trăm là không thể chấp nhận được. NHNN phải quản lý mặt bằng lãi suất như thế nào cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững chứ không thể bơm lãi suất độc hại như thế để giết chết doanh nghiệp, do đó phải nghiêm túc và nhanh chóng hoàn chỉnh việc quản lý hệ thống ngân hàng.

BBC: Thủ tướng Việt Nam cũng nói về điều ông gọi là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam thì theo ông động thái đó có đi đến điều mà người ta mong muốn hay không?

“Trách nhiệm ở Trung ương là thế nào, trách nhiệm của Chính phủ là sao, trách nhiệm của nhà cầm quyền tối cao là Bộ Chính trị là như thế nào? Anh có biết hay anh không biết? Nếu anh không biết thì cực kỳ nguy hiểm và nếu anh biết mà anh vẫn để xảy ra như thế thì lại còn nguy hiểm hơn”

Chuyên gia Tài chính Bùi Kiến Thành

Tôi là chuyên gia chứ không phải chính trị gia. Ông Thủ tướng nói thế là với tính chất Thủ tướng Chính phủ, một nhà chính trị lãnh đạo của một đất nước. Hai việc đấy nó khác nhau. Còn nếu hỏi tôi về phương án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam như hiện nay thì tôi có thể trả lời thẳng thắn, với tư cách là một chuyên gia, là chúng ta chưa làm một cái gì cả, chúng ta chưa đạt được cái gì cả. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang hoạt động ngoài vòng pháp luật, không tôn trọng điều khoản của luật về vấn đề lãi trần cho vay, vân vân.

Mọi chuyện rất đáng trách, NHNN ở đâu mà không xử lý các việc vi phạm của cả hệ thống ngân hàng như thế? Đưa đến nợ xấu tràn lan, chiếm tới 15%-17% tổng dư nợ là như thế nào. Đồng thời tạo điều kiện để giết chết hàng vạn, hàng chục vạn doanh nghiệp với lãnh suất độc hại hai mươi mấy phần trăm là như thế nào?

Tức là anh có biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của một ngân hàng trung ương hay không? Hay là anh không biết? Không thể nào lại có ngân hàng trung ương mà để xảy ra hoạt động trong hệ thống ngân hàng thương mại mà chúng ta thấy như thế trong cả 10 năm nay được. Do vậy quản lý ngân hàng ở Việt Nam nó có vấn đề từ gốc của nó chứ không phải là một trường hợp riêng lẻ.

BBC: Giới quan sát nói rằng một trong các nhóm lợi ích chính là ngân hàng vì ngân hàng đẻ ra ra các công ty hay doanh nghiệp “sân sau” hay còn gọi là sở hữu chéo. Vậy nếu không xử lý những vấn đề nhùng nhằng thì làm sao có thể giải quyết được bình ổn kinh tế vĩ mô?

“Ở Việt Nam ai chẳng biết có sở hữu chéo, ai chẳng biết những ngân hàng nhỏ nhỏ đang làm loạn lên và đưa nền kinh tế đến suy thoái kinh khủng”

Tình trạng ấu trĩ của hệ thống ngân hàng Việt Nam là một. Việc thiếu nghiêm túc, thiếu thanh tra kiểm tra của ngân hàng nhà nước thì mới để xảy ra những việc như thế thì chúng ta phải xem lại xem trách nhiệm ở đâu và phải xử lý người nào có trách nhiệm đấy.

Ở Việt Nam ai chẳng biết có sở hữu chéo, ai chẳng biết những ngân hàng nhỏ nhỏ đang làm loạn lên và đưa nền kinh tế đến suy thoái kinh khủng.

Tất cả các việc đấy là việc của NHNN quản lý mà anh lại không quản lý để đưa đến tình trạng kinh tế bất ổn rồi đấm lưng nhau rồi vỗ ngực nhau khen thưởng nhau trong lúc cả nền kinh tế đang chết thì thế là như thế nào. Phải xem lại các việc làm từ mấy năm nay và cần coi lại tại sao để lãi suất cao ngất ngưởng như vậy. Và từ cấp tối cao cho những cấp ở dưới phải xem lại tại làm sao để có những việc như thế.

Ai chịu trách nhiệm? Trách nhiệm ở đâu? Trách nhiệm ở Trung ương là thế nào, trách nhiệm của Chính phủ là sao, trách nhiệm của nhà cầm quyền tối cao là Bộ Chính trị là như thế nào? Anh có biết hay anh không biết? Nếu anh không biết thì cực kỳ nguy hiểm và nếu anh biết mà anh vẫn để xảy ra như thế thì lại còn nguy hiểm hơn.

Do đó chúng ta nên nhân cơ hội này đặt lại cả vấn đề là trách nhiệm của ai trong việc hoạt động không có tôn trọng luật pháp, không tôn trọng qui định của thế giới về hoạt động ngân hàng, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam rằng họ cần phải phát triển. Anh để xảy ra những việc như thế là sao? Ai trách nhiệm đây? Đó là những vấn đề ta cần phải suy nghĩ và đặt câu hỏi.

“Chuyện lạ” đầu năm

“Chuyện lạ” đầu năm

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-27

1-294-305.jpg

Đội thi công cưa đá dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ sáng 19/1/2014 nhằm giải tán những người dân đến tưởng niệm trận hải chiến Hoàng sa

Photo by Nguyễn Hữu Vinh

Khi còn vài ngày nữa là tới Tân Niên Giáp Ngọ 2014 thì tại Hà Nội xảy ra “chuyện lạ” mà blogger Hiệu Minh cho là “sáng tạo”, còn blogger Người Buôn Gió gọi đó là “một điều cũng rất vĩ đại”.

Qua bài “Chuyện viên đá bị cưa dưới tượng Lý Thái Tổ”, blogger Hiệu Minh “quyết định” bình chọn bức ảnh anh Kiên, phó công an phường Tràng Tiền, Hà Nội, đã giả làm “thợ cưa đá” ngay dưới chân tượng Đức Lý Thái Tổ, với “sức sáng tạo có một không hai trên thế giới” nhằm giải tán những người biểu tình yêu nước! Nhà báo Hiệu Minh nhận xét:

Sau “trốn thuế”, “hai bao cao su đã qua sử dụng”, và nhiều “mưu” khác, nay đến đá và cưa. Chuyện xảy ra sáng 19-1-2014, nhân kỷ niệm 40 năm Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc, một đoàn biểu tình nhỏ tiến tới chân tượng Lý Thái Tổ nhằm dâng hoa và dâng hương các chiến sỹ ngã xuống vì biển đảo, thì gặp một cách giải tán biểu tình theo mẹo (hạ cấp). Đó là nhóm các nhân viên an ninh giả vờ làm công nhân cưa đá, bụi mù và gây tiếng ồn để đoàn biểu tình phải bỏ đi.Các Thủ tướng Campuchia, Thái Lan và Ukraine nên sang Việt Nam học mẹo giải tán biểu tình này vì ba vị đang nhức đầu với hàng chục vạn dân đổ ra đường chống chính phủ.

Tác giả nhân dịp này bỗng nhớ về thuở học trò hồi thập niên 1970 khi thầy bắt phải phân tích bài thơ “Tức cảnh Pắc Pó” của cụ Hồ viết về bàn đá, nơi ông dịch sử đảng năm 1942:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Và, blogger Hiệu Minh phát giác ra rằng, sau hơn 7 thập kỷ, con cháu Bác đã dùng bàn đá trước tượng vua Lý Thái Tổ để viết nên một trang sử khác của đảng CS Việt Nam – không phải bằng bút mà bằng cưa điện gắn kim cương để “viết” nên “trang sử nham nhở”.

” Một ngày đầu năm 2014, cách bài thơ Hòn Đá của Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ, các học trò của Hồ Chí Minh, một lần nữa, lại đưa hình tượng hòn đá đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng một cách khoa học hơn.
– Người Buôn Gió “

Chuyện “viết sử nham nhở” ấy khiến tác giả liên tưởng đến cách đây hàng ngàn năm, khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010 và lên ngôi vua, mang lại thái bình, an lạc cho thiên hạ qua chính sách “thân dân”, nhiều lần miễn thuế vì thương thần dân của Ngài. Ba năm sau đó, Ngài mang quân chinh phục quân Man nổi dậy ở Diễn Châu, khi về bỗng trời đất tối sầm, cuồng phong, sấm sét ầm ầm dữ dội, nên đốt hương và khấnTrời. Sau khi Vua Lý Thái Tổ khấn xong, giông tố sấm sét dần trở nên yên lặng. Từ sự việc như vậy, blogger Hiệu Minh thắc mắc:

2-262-300x217-250.jpg

Những viên đá bị cưa nham nhở. Photo by Nguyen Huu Vinh

Hôm rồi, vua Lý Thái Tổ đứng trên bục, nhìn xuống thấy cảnh dân biểu thị lòng yêu nước ngay dưới chân mình, giữa thủ đô Hà Nội, dân bị giải tán và đàn áp, liệu Ngài có nghĩ rằng, thế hệ lãnh đạo ngày nay có biết khấn vái trời đất hay không ?

Chuyện con cháu Bác cắt đá thành “trang sử nham nhở” cũng khiến blogger Người Buôn Gió liên tưởng đến “Hòn đá to và hòn đá nhỏ”, nhớ về bài thơ “Hòn Đá” của chủ tịch HCM quả “là một trong những bài thơ trác tuyệt nhất từ xưa đến nay”, nhất là vì những vầng thơ đơn giản ấy lại “ẩn chứa một bí kíp võ lâm” để một thời đòan kết được thiên hạ – thành quả mà đến giây phút gần lâm chung, Bác còn dặn các “đồng đảng” – nói theo lời Người Buôn Gió – phải giữ sự đoàn kết như giữ con ngươi trong mắt mình. Nhưng sao lại “Hòn đá” trong thơ Bác ? Bởi vì, theo nội dung bài thơ “trác tuyệt” đó,  chuyện đánh Tây, đánh Mỹ khó khăn như một hòn đá nặng mà nếu không có nhiều người xúm lại chung tay thì khó mà nhấc được hòn đá ấy. Rồi Người Buôn Gió nhận thấy:

Một ngày đầu năm 2014, cách bài thơ Hòn Đá của Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ, các học trò của Hồ Chí Minh, một lần nữa, lại đưa hình tượng hòn đá đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng một cách khoa học hơn. Có lẽ thời Bác ngồi hang Pắc Pó chưa có dụng cụ cắt đá cầm tay chạy điện như bây giờ. Ngày hôm nay, với khoa học tân tiến, học trò của Bác đã chứng minh một điều cũng rất vĩ đại không kém phần triết lý là “cắt nhỏ hòn đá ra sẽ nhấc lên dễ hơn”… Hòn đá này được cắt nhỏ bởi một đảng viên có chức vụ, nơi cắt diễn ra tại chân tượng đài tiền nhân Lý Thái Tổ, giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Phải chăng ngày hôm nay, xẻ nhỏ lòng đoàn kết yêu nước ra là giữ được đất nước ?

“Đảng vẫn chưa trưởng thành”

Khi Xuân Giáp Ngọ 2014 đang đến với quê hương, dân tộc thì từ Hà Nội, LS Nguyễn Văn Đài nhớ lại đây cũng là lúc kỷ niệm lần thứ 84, ngày đảng CSVN được thành lập ở Quảng Châu, Trung Quốc. Và dù đảng đã trải qua chừng ấy năm, nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối, từng “đánh Tây đánh Mỹ”, LS Nguyễn Văn Đài nhận thấy, “Đảng vẫn chưa trưởng thành”, ““vẫn như một đứa trẻ chậm hiểu”, “chưa biết tự bảo vệ quyền lực của mình bằng bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, uy tín” ; LS Nguyễn Văn Đài phân tích tiếp, “Sự tồn tại của đảng CSVN vẫn phải dựa vào nòng súng, bạo lực và nhà tù của quân đội và công an, như nhạc sĩ lão thành Tô Hải từng cảnh báo:

Quan trọng nhất là bộ máy đàn áp. Việc đàn áp vì tư tưởng và đàn áp đúng nghĩa của đàn áp thì ở nước ta kinh lắm! Ở nước ta bất cứ chuyện gì cũng trở thành tội phạm. Tôi xin nói rằng bây giờ họ không có ngại gì cả. Về quân đội và công an thì tôi xin nói đó là những con người được chế độ chìu chuộng số một, chiều chuộng về lương bổng các thứ. Do đó các bộ phận đó tuyệt đối trung thành vì không có đảng là họ mất hết. Cho nên họ nêu khẩu hiệu là “còn đảng còn mình”. Cái bộ máy đàn áp đó quá đầy đủ, quá sung sướng nên họ bảo vệ đến cùng chế độ.

bolapquechoa-200.jpg

Anh Kiên, phó công an phường Tràng Tiền, Hà Nội, đã giả làm “thợ cưa đá” ngay dưới chân tượng Đức Lý Thái Tổ

Trở lại bài “Đảng vẫn chưa trưởng thành”, LS Nguyễn Văn Đài cũng không quên lưu ý rằng đảng CSVN chưa thể duy trì hoạt động của mình bằng sự đóng góp đảng phí của các đảng viên, mà vẫn phải dựa vào tiền thuế của nhân dân để tồn tại”. LS Đài khẳng định:

Rất rõ ràng là đảng CSVN chưa đủ bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, lương tâm và hệ tư tưởng dân chủ tiến bộ để lãnh đạo đất nước xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Ngoài ra, cái mà đảng CSVN đang thiếu đó là văn hóa dân chủ, thiếu đạo đức chính trị để ứng xử với những công dân và tổ chức đối lập.

Trong khi đó, blogger Phạm Đình Trọng nhận xét rằng “ Chưa cần nhắc đến sai lầm, ảo tưởng của chủ nghĩa Cộng sản, chưa tính đến sự man rợ mất tính người của chuyên chính vô sản mà đảng Cộng sản Việt Nam đã thực thi suốt gần một thế kỉ qua gây nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam. Chỉ nhìn hình ảnh đảng Cộng sản Việt Nam trong hiện tại đã thấy rõ ‘thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích’ cướp bóc của dân, tàn phá đất nước”.

” Hòn đá này được cắt nhỏ bởi một đảng viên có chức vụ, nơi cắt diễn ra tại chân tượng đài tiền nhân Lý Thái Tổ, giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Phải chăng ngày hôm nay, xẻ nhỏ lòng đoàn kết yêu nước ra là giữ được đất nước ?
– Người Buôn Gió “

Trong giai đọan sắp tới ngày Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy cái hình ảnh thực tại đó là cả nước có 63 tỉnh thì 15 tỉnh phải xin nhà nước cấp gạo cứu đói gấp, phát xuất từ nền “kinh tế nhà nước chủ đạo” khiến người dân chỉ hưởng “những từ ngữ lấp lánh vàng mã và sáo rỗng” trong khi, nhà văn Phạm Đình Trọng bức xúc, “Sức mạnh vật chất của đất nước là của nổi của chìm, là nền kinh tế, Hiến pháp 2013, đã trao cho đảng Cộng sản Việt Nam; Sức mạnh bạo lực của đất nước là quân đội và công an, Hiến pháp 2013 cũng trao nốt cho đảng Cộng sản Việt Nam”. Nhắc tới hiến pháp, MS Nguyễn Trung Tôn từ Thanh Hóa cảnh báo:

Bản hiến pháp mới vừa ra đời, họ tiếp tục duy trì điều 4 Hiến pháp và khẳng định quyền lực của đảng CSVN. Đó là, một lần nữa, họ muốn thông qua hiến pháp để củng cố quyền lực đối với người dân cũng như tạo uy tín đối với thể giới. Điều thứ hai là họ cũng muốn thông qua hiến pháp để phô trương với quốc tế rằng VN đã có bản hiến pháp tiến bộ hơn, đó là quyền con người được đưa lên những chương hàng đầu, quyền con người được tôn trọng hơn, được quy định ở trong văn bản, giấy tờ nhằm đánh lừa quốc tế để tìm vị thế tốt hơn hay cao hơn trong mối quan hệ quốc tế. Nhưng thực ra, hiến pháp không thể đi sâu vào cuộc sống của người dân. Người dân VN vẫn không có cơ hội để tìm hiểu hoặc tiếp cận với hiến pháp. Mặc dù đảng CS vẫn nói là đưa hiến pháp vào cuộc sống, nhưng thường ở VN, luật pháp được phổ biến tới người dân về mặt nghĩa vụ mà thôi, tức người dân chỉ được nghe về những nghĩa vụ mà họ phải thực hiện, còn về quyền lợi thì người dân hầu như chẳng bao giờ biết họ có được những quyền gì.

Cũng nhân thời điểm mừng năm mới này, Thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với tuyên bố “thay đổi thể chế” khiến blogger Việt Hòang không khỏi thắc mắc qua bài “‘Thay đổi thể chế’ là thay đổi cái gì? Ai thay đổi?”. Và tác giả lưu ý:

Nước Việt Nam có lịch sử gần 4000 năm và trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử với bao triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn… Những vị vua và anh hùng dân tộc trong lịch sử đã có công rất lớn trong việc dành lại độc lập và đánh đuổi ngoại xâm. Hậu thế ghi nhận công lao của họ và lịch sử không bao giờ quên ơn họ nhưng không thể vì thế mà con cháu họ lại có quyền thừa kế…đất nước Việt Nam. Đảng cộng sản cũng không thể là ngoại lệ. Nếu có công họ sẽ được lịch sử ghi nhận. Nếu họ muốn tiếp tục cầm quyền và lãnh đạo đất nước thì họ phải có chính danh trong hiện tại. Chính danh đó chỉ có được nếu họ được đa số người dân Việt Nam lựa chọn thông qua một cuộc bầu cử dân chủ, công bằng và minh bạch với sự tham gia của tất cả các đảng phái khác nhau.

Nông dân Lào biểu tình chống bán đất cho doanh nghiệp Trung Quốc

Nông dân Lào biểu tình chống bán đất cho doanh nghiệp Trung Quốc

Sòng bạc Kings Romans tại Đặc khu Kinh tế Tam giác vàng ở tỉnh Bokeo, miền Bắc Lào.

Sòng bạc Kings Romans tại Đặc khu Kinh tế Tam giác vàng ở tỉnh Bokeo, miền Bắc Lào.

DR

Tú Anh

RFI

Trong chương trình « phát triển » vùng Thượng Lào, khoảng 1000 hecta ruộng đồng của nông dân ở tỉnh Bokeo sẽ biến thành phi trường phục vụ khu sòng bạc do doanh nhân Trung Quốc đầu tư. Bất bình vì tiền bồi thường quá thấp, hơn 50 nông dân đã quyết liệt bảo vệ đất đai làm cho lực lượng công an phải lùi bước.

Theo bản tin của Asia News, bằng hành động « bất phục tùng dân sự » hiếm hoi tại nước Lào, hàng chục gia đình nông dân đã dứt khoát chống cự lại công an võ trang thi hành quyết định cưỡng chế.

Tuần qua, công an Lào đã đến huyện Tonpheung, tỉnh Bokeo (miền Bắc Lào) đọc lệnh cưỡng chế, buộc nông dân phải nhượng đất lại cho tập đoàn mang tên Dok Kham Ngiew. Khu vực này từ lâu nay là trung tâm xung khắc giữa nông dân và chính quyền địa phương từ khi một công ty Trung Quốc, được chính quyền Lào ủng hộ, dành quyền khai thác để xây phi trường và « đặc khu kinh tế » gồm khách sạn hạng sang và khu giải trí, cờ bạc để phục vụ khách hàng Trung Quốc.

Ngày 25 vừa qua, nông dân Lào đã nắm tay lập hàng rào người, ngăn chận trước đầu các xe ủi đất. Tập đoàn Trung Quốc phải gọi công an can thiệp. Tuy nhiên, khi lực lượng an ninh võ trang tiểu liên AK 47 kéo đến thì gặp phải sự kháng cự ôn hòa nhưng quyết liệt.

Bị nông dân chất vấn : « Tại sao công an cảnh sát Lào không bảo vệ nhân dân của mình mà lại tuân theo lệnh của bọn phản quốc bán đất cho Trung Quốc ? Một khi họ lấy hết đất trồng lúa thì chúng ta còn gì ?», cuối cùng lực lượng công an phải rút lui để tránh xung đột với nông dân.

Theo nguồn tin của AsiaNews, các nhà nông ở khu cưỡng chế, tổng cộng gồm 6 ngôi làng, thay phiên nhau canh chừng ruộng đất ngày và đêm bên cạnh một chiếc đồng hồ.

 

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

VRNs (27.01.2014) – Sài Gòn – Hồi ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột nhập Huế…

Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy hữu.

* * *

14012707

Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt. Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán nản.

– Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.

Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ chống lại những quả đạn cối bắn trộm.

Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.

Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.

– Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu, sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.

Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước, được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột đợi sáng để trở về đơn vị.

Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.

Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật vì trình diện trễ.

Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.

Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi. Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.” Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm, Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại chẳng có lúc phải cần tới nó.”

Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.

Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau . Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.

Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián:

– Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo âu.

Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi, tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào thế bao vây của chúng.

Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn – Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác, đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.

Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó, ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng xích xe tăng đang nghiến mặt đường.

Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn. Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào, nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.

Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng “xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi. Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.

Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo. Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người, từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.

Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu. Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.

– “Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây”, tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.

Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần thiết để tự vệ.

Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng, đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào:

– “Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.”

Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại. Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào, im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay, đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi. Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.

Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn mai phục đâu đây.

– “Anh là Tỉnh phó ? ” Hắn hỏi, giọng cấp bách.

Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua. Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định. Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :

– Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?

Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.

– Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.

– Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.

– Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.

Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ tôi chợt nhìn thấy.

– Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.

Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng. Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.

Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.

Tôi tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói, ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết. Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).

Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết. Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong quan hệ đối xử với đồng minh.

Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.

Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ. Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.

Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương, gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi, ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.

Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã chiến đến canh ở cổng.

Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.

Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều. Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết cũng không phải là dễ.

Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong. Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?

Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể. Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ hành quyết tại chỗ.

Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.

Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi nước đã mất thì nhà không còn…

Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào. Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.

Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên, giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn, trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo gió mà không gặt bão.

Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm, chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.

Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.

Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai, tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.

Hồng Châu