Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Chân dung linh mục Việt Nam: Đức cha Jean Cassaigne

Đức cha JEAN CASSAIGNE (1895 – 1973)

Vị tông đồ truyền giáo cho anh chị em dân tộc Kơho

và sáng lập Trại phong Di Linh

Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc

Trong bản tường trình năm 1920, Đức cha Victor Quinton Giám mục Giáo phận Sài Gòn đã nói đến ý định truyền giáo cho người dân tộc trên cao nguyên Djiring – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực sự bắt đầu khi Đức cha Dumortier đặt cha Jean Cassaigne, một linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris đến Di Linh năm 1927. Đức cha Dumortier viết trong bản tường trình năm 1927 như sau:

“Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo cho người dân tộc. Tôi thấy cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm ngài vào công cuộc này”.

Thứ tư ngày 20-10-1926, cha Cassaigne lên đường đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Sài Gòn đến Phan Thiết, rồi từ Ma Lâm lên cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên ngài phải trở về Sài Gòn.

Cho đến ngày 24-1-1927, cha Cassaigne mới có thể từ Đà Lạt chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám mục Sài Gòn đã chuẩn bị cho ngài một căn nhà mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ sở lập thí điểm truyền giáo.

Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di Linh, cha Cassaigne đã nhìn thấy những người dân tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang qua nhà ngài. Ngài đã nhìn thấy những anh chị em dân tộc được trao phó cho ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi ngài. Để có thể gặp gỡ những người dân tộc rụt rè nhút nhát trước những người xa lạ, cha Cassaigne khởi sự bằng cách học nói tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ và không có chữ viết. Cha Cassaigne đã phải mày mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị thừa sai trẻ đầy nhiệt huyết. Vì thế, vào tháng 12-1929 cha Cassaigne đã xuất bản Từ điển Pháp – Kơho – Việt, đây là cuốn từ điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.

Tháng 12-1937 cha Cassaigne xuất bản cuốn: Phong tục tập quán người dân tộc Kơho, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người Kơho, một công trình giúp cho cha Cassaigne có thể hiểu và gặp gỡ được với những người dân tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938 cha cho xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.

Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập quán Kơho, cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành Ông tổ của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc, và cha đã thành công trong việc đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người dân tộc thuộc các buôn làng trong miền Cao nguyên Di Linh – Langbiang.

Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 7-12-1927, cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên nhận sự giúp đỡ của cha. Bà Maria Ka Trut qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang của người dân tộc Di Linh.

Tin Mừng của Chúa đã được người dân tộc đón nhận vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái yêu thương của cha Cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra cha Cassaigne yêu thương họ qua việc ngài yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con người bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể xác và tinh thần.

Ngày 17-2-1929, cha Cassaigne đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh. Ngài đã xây dựng Trại Phong thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.

Giám mục phong cùi của người phong cùi

Nhưng cuộc sống của cha Cassaigne sắp thay đổi một cách bất ngờ. Ngày 20-2-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò hỏi ngài! “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm giám mục”, ngài càu nhàu trả lời. Quả thật, Đức Giám mục Sài Gòn vừa qua đời năm vừa rồi và Tòa Thánh trong thời kỳ khó khăn này, tìm một người để kế vị và đã chọn vị linh mục của người phong cùi. Vị thừa sai phải rời bỏ Di Linh. Sự chia ly rất đau lòng cho cả hai phía: anh em Thượng và nhất là những bệnh nhân phong cùi mất người cha của họ; vị linh mục phải xa con cái ngài. Dù vậy vị thừa sai không do dự vâng lời Tòa Thánh với đức tin và lòng can trường. “Tôi là kẻ từng mơ thành một thừa sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, song chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi”. Khẩu hiệu “Bác Ái và Yêu Thương” do ngài chọn đã nói lên điều đó rất nhiều.

Ngày 24-6-1941, ngay từ 7 giờ sáng, chuông các nhà thờ Sài Gòn đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong Đức cha Cassaigne. Nghi lễ diễn ra ở Nhà Thờ Chính Tòa. Đám đông ken dày: có những bạn bè đến từ khắp nơi… và những anh em Thượng đi thành đoàn đại diện. Các anh em Thượng bận y phục ngày lễ; họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ phụng vụ dài, quá dài đối với anh em Thượng. Họ liền rời chỗ để đi tham quan tháp chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa và bị đám đông xô lấn khiến họ hoảng sợ, họ liền trèo lên cây cao để nhìn đám rước. Đức cha Cassaigne mỉm cười khi nhìn thấy họ.

Tân Giám mục bắt tay vào công việc. Đó là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám mục rộng mở tự do và bất cứ ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn nhớ lại đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu nghèo ở Sài Gòn. Ngài rong ruổi khắp địa phận rộng lớn của ngài.

Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm thụ phong linh mục của ngài, Đức cha Cassaigne dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng màu rượu. Khi Thánh Lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy: hoàn toàn không cảm thấy đau! Ngài hiểu đó là bệnh phong cùi. “Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy vật”, sau này ngài sẽ viết như thế. Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi, lại bị suy yếu, đến nỗi bệnh phong cùi nằm phục từ lâu, nay phát tác.

Đức cha Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho, đã làm ngài suy kiệt. Sẽ phải mau chấm dứt thôi! Vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 5-3-1955, ngài viết cho cha bề trên Hội Thừa sai Paris: “Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ”.

Lời cầu xin của ngài được chấp thuận và Tòa Thánh bổ nhiệm một giám mục kế vị ngài, Đức cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn phong trong Nhà Thờ Chính Tòa của ngài, ngày 30-11-1955. Ngày 2-12-1955, Đức cha Cassaigne trở về Di Linh.

Từ đây, Đức cha dành trọn cuộc đời còn lại để sống giữa những người con cái để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong Di Linh. Tháng 2-1973 Đức cha bị ngã gẫy xương bên đùi phải, và chính vì vết thương này mà ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Bên giường bệnh, Đức cha nói với người nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: “Suốt 47 năm dài (1926–1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”

Thứ bảy ngày 20-10-1973, Đức cha bắt đầu trở bệnh nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: “Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá”. Mười ngày trôi qua, vào lúc 10g00 đêm ngày 30-10-1973, Đức cha lãnh nhận bí tích Xức dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh và rạng sáng hôm sau Đức cha đã được Chúa gọi về hồi 1g25. Đức cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 5-11-1973.

Chứng từ

Cha Phanxicô Darricau, một linh mục MEP, đã viết về sự kiện Đức cha Cassaigne trở lại Trại Phong Di Linh như sau: “Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách Trại Phong hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn ăn. … Suốt trong sáu tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở Trại Phong. Nhưng trưa nào ngài cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. … Bao nhiêu sức lực còn lại ngài dành để phục vụ Trại Phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước kia, do những đau đớn của căn bệnh…”

Cha Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng của Trung tâm Thượng Di Linh (từ 1965 đến 1975), người đã gần gũi với Đức cha Cassaigne trong mười năm cuối cùng của ngài tại Trại Phong Di Linh, đã viết về Vị Tông đồ người phong cùi như sau: “Tôi được phúc sống mười năm gần Đức cha Cassaigne, vì thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo Thượng tại Di Linh. Tôi đã chứng kiến tình cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó, không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là nỗi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho Trại Phong…”

Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1938 tại Bắc Ninh đã đến viếng mộ Đức cha và để lại chứng từ: “Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di Linh từ năm 1975 đến 1983. Tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói… Dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề. Khoảng tháng 6 năm 1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức cha Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và tôi thưa với Đức cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức cha cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ; còn nếu không, thì xin Đức cha thêm sức cho con để con chịu đựng cơn bệnh này cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là được 24 năm con lành bệnh. Con xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ”.

Một chứng từ khác do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần mộ Đức cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ Giỗ năm 2007: “Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức cha, ba mẹ con đã can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm con Chúa.

Khi Đức cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi, với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức cha được bao nhiêu. Nhưng càng ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức cha đã hứa: Trên thiên đàng, cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.

Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức cha đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu bầu của Đức cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân của Đức cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức cha và nhờ những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại, điều vượt ra ngoài mơ ước của con.

Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức cha cố dành cho chúng con”.

GP Đà Lạt

xem thêm: VỊ GIÁM MỤC CỦA NGƯỜI PHONG CÙI

ĐỨC CHA JEAN CASSAIGNE : “ÔNG CỐ” GIÁM MỤC CÙI

Cha Của Những Người Cùi Di Linh

Cha Của Những Người Cùi Di Linh

Lòng nhân ái và gương hy sinh của Đức Cha Jean Cassaigne chăm sóc những bệnh nhân bị phong cùi tại Trại Cùi Di Linh, Việt Nam.

“Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.

Khi Giám Mục Jean Cassaigne từ trần tại Di Linh, Trung Tưóng Dương Văn Minh và Trung Tướng Nguyễn Khánh , đương kim Quốc Trưởng và Thủ Tướng VNCH  dự lễ cầu hồn Đức Cha tại Vương Cung Thánh Đường Saigon và truy tặng Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho vị Đức Cha đáng kính này.

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE
MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

Năm 1914, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, Jean phải đầu quân tham chiến, đến năm 1918 được thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh và từ chối mọi đề nghị hôn nhân. Năm 1920, Jean từ bỏ mọi vướng mắc thế sự, dâng hiến cuộc đời tại Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris ( Missionnaires Étrangères de Paris – MEP ) để nối gót các Thừa Sai đã ra đi vì Chúa. Năm 1925, ông thụ phong Linh Mục. Năm 1926, khi có tên trên danh sách 8 vị Thừa Sai được cử đi các nước Viễn Đông: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Lào, Linh Mục Cassaigne đã chọn Việt Nam, đất nước thân yêu của Giám Mục Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) để dừng chân.
Theo tài liệu của bác sĩ Gerard Chapuis, một người Pháp gốc Việt ngày 5.5.1926, tàu cập bến Sàigòn, cha Cassaigne được dưa về Cái Mơn học tiếng Việt, chọn tên tiếng Việt là Gioan Sanh. Sau đó, ông được Giám Mục Địa Phận Sàigòn Dumortier cử đến vùng rừng núi Di Linh, noi có nhiều người K’Ho. Lúc này bệnh phong đang hoành hành nơi đây. Một lần, cha Gioan đi tìm thăm bệnh nhân, gặp rất nhiều người bệnh nặng, thân xác héo tàn; từ đó ông quyết tâm dựng một mái nhà để chăm sóc những người bất hạnh này. Ông kêu gọi các bệnh nhân từ trong rừng đến đây cùng chung sống. Với sự hỗ trợ của nhiều người quen, ông mở được một nhà phát thuốc, băng bó, chữa trị cho các bệnh nhân. Lần ấy, ông cũng bị bệnh sốt rét rừng hành hạ, phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng.

Ngày trở lại Di Linh, công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Ông kể lại rằng, ngày đầu mới băng vết thương cho người cùi, vì chưa quen nên ông đã suýt ói mửa. Ông đã chạy vội vào lùm cây bên cạnh, nói là đi đại tiện. Ói xong lau mặt, ông trở ra tiếp tục băng bó. Làm như vậy để cho người cùi bớt tủi hổ vì thấy mình dơ bẩn. Ông rất mực thương yêu bệnh nhân, người giàu có hay nghèo đều đối xử như nhau, không quở mắng hay nặng lời với bất cứ bệnh nhân nào.
Một hôm vào dịp Tết, có hai anh say rượu đánh nhau, ông đến can, nhưng bị một anh xô té. Ông đứng dậy, cười tươi vỗ vai anh ta không chút giận hờn. Sợ rằng các Nữ Tu biết sẽ quở trách anh ta, ông đã giữ kín chuyện này. Sau này, có người kể lại cho một Nữ Tu. Sơ đã hỏi ông và ông trả lời: “Đâu có gì đáng trách với người bệnh hoạn tật nguyền. Con đừng để ý nữa. Cha muốn vậy. Tội cho cả cha lẫn họ.”
Lần khác, một bệnh nhân bị một Nữ Tu quở trách nặng lời vì đã phạm lỗi. Cha Cassaigne nghe thấy, liền lên tiếng trách sơ trước mặt bệnh nhân. Sau đó ông đi tìm xin lỗi sơ và nói: “Hôm qua cha trách con, cốt ý để cho bệnh nhân đừng tủi, mặc dầu con đã làm phải. Cha đến xin con đừng buồn. Chúng ta không thể làm Chúa Giêsu buồn thì cũng đừng làm cho người cùi buồn. Vì họ là con Chúa, là hình ảnh Chúa Cứu Thế đau khổ trên thập giá”.

Ba Nữ Tu người Việt tận tụy, trở thành cánh tay đắc lực giúp ông điều hành làng phong là các sơ Céleste Joséphine và Angélique. Cha Cassaigne hay nói với các Nữ Tu: “Cha là người Pháp, nhưng có trái tim Việt Nam”.

Ngày 24.12.1945, cha Cassaigne đột ngột được tin Tòa Thánh Roma bổ nhiệm ông làm Giám Mục Giáo Phận Sàigòn nên đành phải từ biệt những con người bệnh tật và mảnh đất ông yêu thương nhất. Thế rồi, như một định mệnh, ngày 26.3.1943. Ông đọc phiếu kết quả xét nghiệm xác nhận ông bị nhiễm vi trùng Hansen ( bệnh phong ). Ông cười nói: “Đây là quà mừng lễ quan thầy của tôi”. Ông nói với những người đang lo lắng ở xung quanh: “Không phải bị mà là được về Di Linh với đoàn con ! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.
Sau khi gửi thư cho Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Tổng Quyền Hội Thừa Sai Paris xin từ chức trở về Di Linh, đến năm 1954, cha Cassaigne được toại nguyện “hồi hương” về Di Linh. Năm 1970, các bệnh cũ của ông trở nặng, sốt rét, cột sống bị gặm nhấm và đau dạ dày. Cuối tháng 10 năm 1971, xương dùi của ông bị gãy và ông không rời khỏi giường được nữa. Nhiều người muốn đưa ông về Pháp chữa trị, nhưng ông đã từ chối: “Tôi là người Pháp nhưng trái tim tôi là của người Việt Nam. Tôi muốn sống trong đau khổ và chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”. Cha Cassaigne qua đời vào ngày 30 tháng 10 năm 1973. Ông được an táng cạnh Nhà Thờ, gần tháp chuông, giữa đàn con đáng thương của mình, đúng theo nguyện vọng sâu xa của ông.

Trong quyển sách “Lạc Quan Trên Miền Thượng” viết về cha Cassaigne, cha Giuse Phùng Thanh Quang đã kể lại chi tiết cuộc đời và công việc phục vụ của ông. Trong phần kết, cha Giuse đã viết: “Những ai được may mắn sống gần gũi với Đức Cha đều thường được dịp nghe Ngài nói: “Đời tôi chỉ có 3 ước nguyện: Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa và vì người anh em – Tôi ao ước được đau khổ như vậy lâu dài, suốt đời và được vững lòng chịu đựng – Tôi ao ước được an nghỉ giữa bầy con cái phong cùi của tôi”.

Bác sĩ Gérard Chapuis cho biết thêm: từ năm 1972, ở cuối Nhà Thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Người ta thấy có bức tượng một Giám Mục tay trái cầm Thánh Giá, tay phải ôm ngang vai một người cùi, dưới chân trái có một em bé khỏe mạnh, cả 3 đầu ngước mắt lên trời cao. Dưới bệ tượng có ghi: Đức Cha Gioan Cassaigne. Ngày nay, bức tượng không còn nữa, nhưng trên bức tường ngoài hiên của Nhà Thờ, có gắn nhiều bảng ghi: “Tạ ơn Đức Giám Mục Gioan Sanh”. Điều đó chứng tỏ Gioan Cassaigne Sanh vẫn còn sống mãi trong lòng người Việt.
Nếu một hòn đảo xa xôi ngàn trùng như Molokai đã hãnh diện vì có cha Damien Tông Đồ Người Hủi thì Giáo Dân nước Việt lại càng hãnh diện hơn vì có một Đức Cha Gioan Sanh phong cùi, tôi tớ của người hủi.

Trên thực tế, từ ngày 11.4.1929, làng phong được chính thức công nhận và được trợ cấp. Ngay từ những ngày đầu, số người bị bệnh phong tập trưng đã lên đến 21 người. Đến thàng 4 năm 1931, làng có một nhà nguyện nhỏ làm nơi cầu nguyện và Thánh Lễ đầu tiên được cử hành ngày 15.3.1936. Sang năm sau, làng được dời lên đồi (chỗ hiện nay) có kỹ sư người Pháp vẽ kiểu cho cả Nhà Thờ và tháp chuông. Ngày 22.5.1952, nhằm lễ Thăng Thiên, khánh thành làng phong mới, ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Trần trung Sáng
Kiến Thức Ngày Nay

BỎ THẦY, CON THEO AI? (Ga 6,68)

BỎ THẦY, CON THEO AI? (Ga 6,68)

Tôi nổi giận – Ngài bảo: HÃY THỨ THA!
Tôi run sợ – Ngài bảo: HÃY CAN ĐẢM!
Tôi nghi hoặc – Ngài nói: HÃY TÍN THÁC!
Tôi bồn chồn – Ngài nói: HÃY THINH LẶNG!
Tôi thích đi đường riêng của mình – Ngài bảo: HÃY THEO TA!
Tôi muốn lập kế hoạch riêng – Ngài bảo: HÃY QUÊN ĐI!
Tôi nhắm tìm của cải vật chất – Ngài bảo: HÃY BỎ LẠI ĐẰNG SAU!
Tôi muốn được bảo đảm – Ngài nói: TA CHẲNG HỨA HẸN GÌ!
Tôi thích sống ̣đời riêng – Ngài nói: HÃY TỪ BỎ CHÍNH MÌNH!
Tôi nghĩ mình tốt lành – Ngài bảo: TỐT LÀNH THÔI CHƯA ĐỦ!
Tôi thích làm chủ – Ngài nói: HÃY PHỤC VỤ!
Tôi thích ra lệnh – Ngài nói: HÃY HỌC VÂNG LỜI!
Tôi kiếm tìm tri thức – Ngài nói: HÃY TIN!
Tôi thích sự rõ ràng – Ngài nói bằng: DỤ NGÔN.
Tôi thích thi ca – Ngài nói: CHUYỆN THỰC TẾ.
Tôi yêu sự yên tĩnh của mình – Ngài lại muốn: TÔI BỊ QUẤY RẦY.
Tôi thích bạo lực – Ngài bảo: BÌNH AN Ở CÙNG CON!
Tôi rút gươm ra – Ngài bảo: HÃY TRA GƯƠM VÀO VỎ!
Tôi nghĩ đến trả thù – Ngài bảo: HÃY ĐƯA MÁ BÊN KIA!
Tôi nói về trật tự – Ngài bảo: TA ĐẾN ĐEM GƯƠM GIÁO!
Tôi căm ghét – Ngài bảo: HÃY YÊU KẺ THÙ!
Tôi muốn sự hoà hợp – Ngài nói: TA ĐEM LỬA XUỐNG THẾ GIAN!
Tôi thích làm người lớn nhất – Ngài bảo: HÃY HỌC LÀM TRẺ NHỎ!
Tôi muốn ẩn thân – Ngài nói: ÁNH SÁNG PHẢI CHIẾU SOI!
Tôi kiếm tìm chỗ nhất – Ngài bảo: XUỐNG CHỖ CUỐI CÙNG!
Tôi thích được quan tâm – Ngài nói: HÃY ĐÓNG CỬA MÀ CẦU NGUYỆN!

Không, tôi không hiểu Ông Giêsu này. Ngài khiêu khích tôi, làm tôi bối rối. Cũng giống như nhiều môn đệ khác, tôi muốn đi theo một ÔNG THẦY KHÁC, chắc chắn hơn và ít đòi hỏi hơn. Nhưng tôi cảm nhận như Phêrô: “Tôi không biết đến với ai, vì CHỈ MÌNH NGÀI mới có LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI” (Ga 6,68)

Cám ơn anh chị Thụ Mai gởi

Dấu hiệu cơn đột quỵ tim

Dấu hiệu cơn đột quỵ tim
December 23, 2013

nguoi-viet.com

Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà:www.bacsihongocminh.com

“Đau tim”, ở đây muốn nói đến tình trạng “đột quỵ tim”, hay “trụy tim”, tức “heart attack”, đa phần lại không làm đau đớn gì ở trái tim cả. Chỉ có một số trường hợp đột quỵ tim xảy ra thật bất ngờ với những triệu chứng dữ dội giống như được diễn xuất trong các tuồng kịch, cải lương hay phim truyện. Hầu hết những cơn đau tim xảy ra từ từ với những triệu chứng nhức mỏi, khó chịu, xâm xoàng mà thôi. Rất nhiều người đang bị đột quỵ tim nhưng không hay biết những gì đang xảy ra cho tới khi đã quá trễ. Đột quỵ tim là lý do gây ra tử vong số #1 cho phụ nữ, nhưng triệu chứng lại thường bị bỏ qua vì chủ quan cho là cảm cúm, ăn không tiêu, hay mệt mỏi vì lớn tuổi.
Dưới đây là một số dấu hiệu cần biết, cần quan tâm:

1. Thấy khó chịu, tức ngực: Hầu hết những cơn trụy tim bắt đầu bằng những triệu chứng khó chịu ở vùng ngực, với cảm giác như tức ngực, co bóp chung quanh ngực, đầy bụng, ợ chua, kéo dài khoảng vài phút, xen kẻ với những khoảng thời gian bình thường.

2. Cảm giác khó chịu lan qua những vùng khác của phần trên cơ thể: Những cảm giác khó chịu trên đây có thể lan qua hai cánh tay, lưng, cổ, cằm, hay bụng.

3. Thấy khó thở, như đã chạy bộ một đoạn đường dài, có khi không thấy đau đớn gì cả.

4. Những triệu chứng khác có thể tưởng lầm như bị cảm cúm bao gồm ra mồ hôi, chóng mặt xâm xoàng, buồn nôn.

Trên một triệu người Mỹ bị đột quỵ tim mỗi năm và hơn quá nửa là phụ nữ. Trung bình cứ 34 giây đồng hồ, có một người bị đột quỵ tim, khi máu tiếp liệu đến cơ tim bị giảm hay bị tắt nghẻn. Giống như đàn ông, phụ nữ bị đau tim có triệu chứng thông thường nhất là thấy tức ngực. Tuy nhiên so với đàn ông, phụ nữ còn có những triệu chứng khác không được rỏ ràng như khó thở, đau chấn thủy, khó tiêu, sình bụng, buồn nôn, đau lưng, hay đau cằm. Những triệu chứng này lại thường xảy ra trong mùa lạnh, mùa cảm cúm làm khó phân biệt. Khó xử hơn nữa, những triệu chứng khác lại giống như các bệnh liên quan đến hệ thống tiêu hóa, trùng hợp với mùa lễ Giáng Sinh, tết Tây, tết Nguyên Đán khi mà chúng ta, ai cũng ăn uống hơi nhiều một tí.

Đột quỵ tim xảy ra khi những động mạch vòng chung quanh trái tim bị nghẻn vì đóng vảy (plaque) bao gồm mỡ, cholesterol, chất vôi và những chất cặn bả khác v.v…Cục vảy, có một vỏ cứng bên ngoài, khi lớp vỏ này bị vỡ, có thể bị chảy máu và máu sẽ đóng cục lại chung quanh cục vảy làm cho đường kính mạch máu tim đã hẹp lại trở thành nghẻn cấp kỳ. Một khi các động mạch vành tim bị tắt nghẻn, lượng oxygen cung ứng cho trái tim sẽ giảm mau chóng làm cho các tế bào cơ tim ngừng hoạt động đưa đến tình trạng đột quỵ cơ tim.

Đột quỵ tim cũng gây ra bởi tình trạng động mạch vành tim bị co thắt bất thường (spasm) hay “hệ thống điện” điều chỉnh nhịp đập của tim bị rối loạn làm cho trái tim co thắt không đúng nhịp.

Một khi đột quỵ tim xảy ra, bệnh nhân chỉ có từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ để còn cứu chữa kịp thời bằng thuốc men và phương pháp thông tim khẩn cấp để mở chỗ nghẻn. Vì thế khi có triệu chứng đáng nghi ngờ, nên uống liền một viên ASPIRIN, không phải Tylenol, không phải Ibuprofen, hay những loại thuốc giảm đau nào khác, mà phải là Aspirin và gọi 9-1-1 ngay.

Khi đến bệnh viện, bác sĩ có thể cho thuốc loãng máu, thuốc làm giản nở mạch máu tạm thời, đo diện tâm đồ (ECG), thử máu để chẩn bệnh, làm siêu âm tim (echocardiography), hay quyết đinh soi, thông tim (cardiac catheterization) khẩn cấp để mở chỗ nghẻn nếu thuốc men không có hiệu ứng hay chỉ có tác dụng tạm thời.

Trên thực tế, không có thuốc chữa hay thuốc ngừa bệnh đột quỵ tim! Bệnh tim mạch là một tiến trình xảy ra trong một thời gian dài chịu ảnh hưởng bởi lối sống, tình trạng bệnh tật kinh niên, sức khỏe tổng quát, và yếu tố di truyền của mỗi người. Gần đây, Hội Tim Mạch Hoa Kỳ có đưa ra lời khuyên mới về ảnh hưởng của cholesterol đối với bệnh tim mạch. Theo tinh thần của lời khuyên mới này, chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về những yếu tố nguy cơ có thể đưa đến tình trạng đột quỵ tim mà trong đó cholesterol vẫn là một yếu tố không thể lơ là. Vì vậy ngay từ bây giờ, nên cải tổ thói quen, lối sống để có lợi cho hệ thống tim mạch, như bỏ hút thuốc lá, giữ liều lượng cholesterol thấp, kiểm soát bệnh tiểu đường và cao huyết áp. Và, nhất là phải tăng hoạt động thể dục thể thao để đạt được sức nặng lý tưởng song song với việc giảm áp lực đời sống (stress).

 

Người hành hương đến Bethlehem mừng lễ Giáng Sinh

Người hành hương đến Bethlehem mừng lễ Giáng Sinh

Giáo dân đốt nến trong nhà thờ Giáng Sinh ở Bethlehem

Giáo dân đốt nến trong nhà thờ Giáng Sinh ở Bethlehem

 

Robert Berger

24.12.2013

BETHLEHEM — Người hành hương từ khắp thế giới đã hội tụ về thị trấn Bethlehem trong bờ Tây để mừng lễ Giáng Sinh được nhà cầm quyền Palestine tổ chức. Thông tín viên VOA Robert Berger tường thuật từ Bethlehem.

Các hướng đạo sinh nam và nữ mở đầu ngày lễ Giáng Sinh với cuộc diễn hành ngang qua quảng trường Máng Cỏ ở Bethlehem.

Quảng trường được trang hoàng cho lễ hội với những cây Giáng Sinh khổng lồ, với các quả chuông, đèn và cờ Palestine.

Không khí trang trọng hơn ở phía bên trong Nhà thờ Giáng Sinh, một ngôi thánh đường cổ, khi hàng ngàn người hành hương đang xếp hàng để viếng hang đá, nơi mà theo truyền thuyết Chúa Giêsu đã ra đời.

Ông Shmuel Oluwa, một người hành hương đến từ Lagos, Nigeria nói rằng viếng hang đá trong dịp Lễ Giáng Sinh là một trải nghiệm về đức tin:

“Thật tuyệt vời! Cảm giác thật tuyệt vời! Một điều gì đó mà mỗi người Thiên Chúa giáo mong mỏi thực hiện. Nếu bạn cố gắng và thấu hiểu ý nghĩa của những gì đã diễn ra nơi đây, thì đó là một cảm giác kỳ diệu”.

Năm này có nhiều người đến mừng lễ nhờ các vụ bạo động giữa người Israel và Palestine tạm lắng.

Thị trưởng của Bethlehem bà Vera Baboun, người Palestine, nói rằng khách sạn không còn phòng trống:

“Tháng này chúng tôi dự kiến sẽ đón 300.000 du khách.

Bà cho biết:

“Chúng tôi có gần 4.000 phòng ở Bethlehem trong 33 khách sạn, tất cả đều được đặt trước. Ðiều này có nghĩa là thành phố đang thu nhận một lượng du khách cao nhất.”

Tuy vậy, người Palestine vẫn phàn nàn về bức tường lớn mà Israel đã dựng lên xung quanh Bethlehem vào khoảng 10 năm trước, tiếp theo sau làn sóng nổ bom tự sát chết người.

Các cư dân đã mô tả thành phố giống như một nhà tù lớn, thế nhưng Baboun nói rằng bức tường không thể dập tắt thông điệp hy vọng, tình yêu và hòa bình của Bethlehem được. Bà nói:

“Vẫn sẽ luôn là một Giáng Sinh Vui Vẻ bởi vì Giáng Sinh là niềm vui, bất chấp tất cả những khó khăn mà chúng tôi trải qua và sự bao vây thành phố, Giáng SInh vẫn là niềm vui”.

Chính quyền Israel và Palestine đang làm việc cùng với nhau để tạo thuận lợi cho những người hành hương từ Jerusalem đến Bethlehem, trong tinh thần của thiện chí Giáng Sinh.

Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh lễ trong đêm trước Lễ Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh lễ trong đêm trước Lễ Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành Thánh lễ tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, ở Vatican, 24/12/13

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành Thánh lễ tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, ở Vatican, 24/12/13

 

24.12.2013

Đức Giáo Hoàng kêu gọi 1,2 tỉ người Công giáo trên thế giới hãy vui mừng trong ngày Giáng Sinh này vì “Chúa Giêsu là ánh sáng xua tan bóng tối” và mang lại an bình.

Đức Thánh Cha giảng bài giảng đầu tiên về Giáng Sinh của ngài trong cương vị Giáo Hoàng trong buổi Thánh lễ tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican trong đêm trước Lễ Giáng Sinh hôm thứ Ba.

Bài giảng của ngài chú trọng vào hành trình cá nhân và lich sử của con người cho một vùng đất hứa và cứu rỗi và – theo lời ngài – “tinh thần của những kẻ đi tới để nhìn thấy ánh sáng vĩ đại.”

Đức Giáo Hoàng, người được biết tiếng đầy lòng khiếm tốn và phục vụ kẻ nghèo, nói rằng mỗi con người có đều trải qua cả hai “thời gian tươi sáng và đen tối, ánh sáng và bóng tối”. Ngài kêu gọi tín hữu hãy dấn thân trong cuộc hành trình với tấm lòng rộng mở và gạt bỏ lòng kiêu kỳ, giả dối và tư lợi.

Ngài nói rằng Thiên Chúa đã tỏ ân sủng, lòng nhân ái và tình yêu thông qua Chúa Giêsu, người dẫn dắt thế giới.  Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng với câu, “Chúa Giêsu là ánh sáng xua tan bóng tối. Người là sự an bình của chúng ta.”

Đức Giáo Hoàng sinh trưởng ở Argentina được bầu lên hồi tháng 3, một tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Benedict bất ngờ từ chức.

Tiếng tăm của vị Giáo Hoàng 78 tuổi từ đó lên cao và ngài được ca tụng đã giúp khôi phục hình ảnh Giáo hội.

Trong tháng này, tạp chí Time đã bầu ngài là Nhân Vật Trong Năm và ca ngợi lời ngài kêu gọi chữa lành cho những ai đau yếu, nghèo khó và bất ổn trong đời sống.

Các tổ chức nhân quyền kêu gọi Miến Điện thả hết tù nhân chính trị

Các tổ chức nhân quyền kêu gọi Miến Điện thả hết tù nhân chính trị

Tù nhân chính trị Miến Điện Win Thaw (trái) và Win Hla bên ngoài nhà tù Insein sau khi được trả tự do, ngày 23 tháng 7, 2013.

Tù nhân chính trị Miến Điện Win Thaw (trái) và Win Hla bên ngoài nhà tù Insein sau khi được trả tự do, ngày 23 tháng 7, 2013.

 

24.12.2013

Các tổ chức nhân quyền hối thúc Tổng thống Miến Ðiện có đường lối cải cách giữ lời hứa trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị vào cuối năm nay.

Hàng trăm tù nhân chính trị đã được trả tự do trong 2 năm qua trong một đợt ân xá theo lệnh của Tổng thống Thein Sein.

Nhưng hàng chục người bất đồng chính kiến vẫn còn bị giam giữ, và nhiều người chỉ trích là Miến Điện còn được gọi là Myanmar tiếp tục bỏ tù những người chỉ trích chính phủ.

Tổ chức theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch hôm nay cho hay chỉ có 39 người bị tù trong danh sách các tù nhân chính trị được một ủy ban duyệt xét của chính phủ cứu xét.

Nhưng con số này không bao gồm 200 người bị truy tố trong năm nay về các tội chính trị, nhiều người bị truy tố theo luật mới nghiêm nhặt hạn chế các cuộc biểu tình.

Tổ chức theo dõi Nhân quyền muốn Miến Điện trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và thực hiện cải cách tư pháp để ngăn ngừa những vụ bắt giữ tiếp diễn.

Ủy ban Duyệt xét Tù nhân chính trị do chính phủ bổ nhiệm đưa ra đề nghị tương tự trong một bức thư gởi đến Tổng thống trước đây trong tháng.

Các thành viên ủy ban dự trù họp với các giới chức cao cấp tại Naypidaw ngày hôm nay, hy vọng tất cả các tù nhân chính trị có thể được trả tự do trước ngày 31 tháng 12.

Trước đây trong năm, trong một chuyến đến thăm London, Tổng thống Thein Sein đã hứa sẽ trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị trước cuối năm nay.

Giam giữ tùy tiện các đối thủ chính trị là đặc điểm của nhà cầm quyền quân sự Miến Điện, đã cai trị nước này 5 thập niên cho đến năm 2011.

Ngoài việc trả tự do cho các tù nhân chính trị, chính phủ mới Miến Điện đã nới lỏng kiểm duyệt báo chí và cho phép lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi ra tranh cử Quốc hội thành công.

Cải cách tại Miến Điện nhận được sự ca ngợi của các chính phủ phương Tây, nhiều chính phủ đã nới lỏng các chế tài đối với quốc gia Đông Nam Á này.

CHÚA ĐÃ SINH RA

CHÚA ĐÃ SINH RA

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh đã gần kề, khắp nơi trang hoàng hoa đèn rực rỡ, phố phường vui nhộn, các nhà thờ tưng bừng với những lễ hội, những chương trình mừng lễ Giáng Sinh, các hội đoàn công giáo nhộn nhịp với các chương trình sinh hoạt và vui chơi. Đó là hình ảnh ở các thành phố lớn, nơi có nhiều phương tiện và tài chánh để thực hiện. Còn các vùng thôn quê và vùng sâu vùng xa thì sao ?

Năm trước (2012), tôi lên vùng cao nguyên phía tây đất nước, chia sẻ mục vụ với anh em tôi vào dịp Giáng Sinh. 12g00 trưa 24/12, ba anh em linh mục chúng tôi có bữa cơm trưa với một vài em dân tộc sống chung nhà, thực đơn là đĩa rau rừng luộc, chấm với nước mắm từ 1 cái đầu con cá kho đi kho lại một tuần rồi. Nghỉ trưa xong, một em người dân tôc đưa tôi lên đường lúc 16g00, bắt đầu hành trình dâng lễ đêm cho 3 điểm, rồi sẽ đi ngược trở lại dâng lễ sáng cũng ba điểm đó.

Ba điểm dâng lễ, một điểm có ngôi nhà nguyện nhỏ bằng tôn vách gỗ, một điểm là sân nhà một gia đình có đạo, sân không mái, một điểm ở giữa môt khu đất trống trong làng, không điểm nào có nhà vệ sinh, không điểm nào có tòa giải tội. Đứng ở gốc cây giải tội, rồi tế nhị đi tìm gốc cây khác để đi vệ sinh! Kể từ bữa cơm 12g00 ngày 24/12, sáng hôm sau 25/12 trở về đến Trung tâm lúc 9g00, bếp hoang lạnh vì các anh em kia đi dâng lễ ở các điểm khác xa hơn vẫn chưa về.

Chúng ta chỉ biết một vùng nhỏ, những vùng khác thì sao ? Không khác tí nào, có khi còn nghèo hơn, khó khăn hơn. Là người Kitô hữu chúng ta sẽ nghĩ gì trước sư chênh lệch lớn lao ấy, chúng ta có yên ổn để lên tiếng quảng bá về một máng cỏ trong thơ văn, trong nhạc kịch, trong ánh đèn muôn màu muôn sắc ? Ngày lễ Giáng Sinh năm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico sẽ đi đâu, thăm ai, và dâng lễ ở đâu? Tuần Thánh vừa rồi ngài vào nhà tù thăm tù nhân trẻ, rửa chân cho tù nhân trẻ, thậm chí hôn những bàn chân đó một cách cung kính. Ngay trong Giáo Hội chúng ta không được phép để sự giàu nghèo phân cách chúng ta quá đáng như vậy. Câu chuyện người giàu có và ông Lazaro nghèo khổ vẫn là một câu chuyên nhắc nhớ chúng ta về một sự công bằng Chúa mong muốn. Giàu có không là cái tội, tội ở chỗ sống giàu có mà quên người nghèo khó bên mình. Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Chúa cũng là Đấng công bằng vô cùng.

Sẽ là bài thánh ca tuyệt hảo, sẽ là một bài giảng sâu sắc, sẽ là một hang đá ấm cúng, sẽ là một cộng đoàn Kitô hữu đầy ánh sáng, sẽ là một chứng từ mặn muối nồng men khi chúng ta, kẻ đang sinh sống ở những thành phố giàu có dư đầy phương tiện, tìm đến chia sẻ với những nơi nghèo khổ, lạnh lẽo những ngày mùa đông rét mướt. Hãy bớt đi những ánh đèn giăng giăng đầy phố, để gởi đến những căn lều tối tăm tồi tàn một vài anh lửa đêm đông. Hãy bớt đi những đĩa đồ ăn thừa bứa, để gởi đến những mâm cơm chỉ có ngô (bắp) muối với rau rừng. Tôi đã có dịp gặp các anh chị em “dân oan” ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng – Hà Nội, mời anh em một bữa cơm có thịt, họ đã bị khó chịu ngay sau đó vì không quen ăn thịt, mấy ngày sau họ chỉ xin ăn cơm với muối vì đã quen như vậy, có cơm là quí rồi vì quanh năm chỉ có ngô (bắp) mà thôi.

Người ta đã biến ngày lễ Giáng Sinh trở thành ngày hội vui chơi của xã hội, người có lòng tin phải biết dừng lại để không bị cuốn vào làn sóng tục hóa như vậy. Sự thánh thiêng của Mầu Nhiệm Con Chúa làm người bị loại mất, còn lại chỉ là sự xa hoa, hào nhoáng của thế gian. Máng cỏ là máng cỏ thật chứ không phải là biệt thự giàu sang, Thiên Chúa làm người thật và làm người trong cảnh khó nghèo, chia cái nghèo với nhân loại. Chúng ta phải làm sao để thông truyền Tin Mừng một cách trung thực.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

20/12/2013

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Tâm thơ Mùa Giáng Sinh 2013 và Năm Mới 2014

Kính chúc quý Độc giả và Thân Hữu Website  “Kẻ Đi Tìm”

tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa, Năm Mới nhiều Sức Khoẻ và luôn Bình An.

Cách đây khoảng hai tuần Linh mục Trần Thiên Ân giảng tĩnh tâm tại Giáo Xứ

Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể đã có nói ” Mỗi sáng khi chúng ta thức dậy, thấy đôi chân mình còn bước xuống giường được. Chính đó là Hồng Ân vì biết mình vẫn còn sống.”

Xin gởi đến các bạn hai câu thơ cũ ai cũng biết, nhưng cũng xin được  gởi lại một lần nữa  gọi là chia sẻ tâm tình Khen ngợi, Chúc tụng và Tạ Ơn Thiên Chúa:

” Tạ Ơn Trời mỗi sáng mai thức dậy,

Cho Con còn ngày nữa để yêu thương.”

” Vì Tất Cả Là Hồng Ân”

BBT