Lời cầu xin còn sót lại

Lời cầu xin còn sót lại

By John Toai

Ngày Chúa nhật hôm đó có một bà lão  đến gặp nó trước giờ lễ , bà dúi vào tay nó một phong thư có một ít tiền lẻ trong đó, với một lời gửi gắm: ‘xin cha cầu nguyện cho con gái con, sắp sửa đến ngày sanh đứa cháu ngoại đầu tiên, xin cho hai mẹ con được mẹ tròn con vuông’.  Nó trả lại phong thư cho bà không dám nhận, nói với bà rằng, đây là bổn phận của con mà, bà cầm đi để về mua thuốc  bổ cho con bà! Nhưng bà nhất quyết không chịu, bà nói, cha ơi con dâng cho Chúa, để giúp những người đói khổ khác chứ đâu có cho cha! con muốn dùng cơ hội này để xin cha cầu nguyện cho con và đứa cháu tương lai của con….

Thế là thánh lễ đó nó đã thật sốt sắng  cầu nguyện cho người mẹ trẻ ấy. Đúng một tuần lễ sau, người mẹ già lại đến gặp nó trước giờ lễ, lần này trông nét mặt của bà có vẻ lo lắng hơn nhiều, rồi bà cũng dúi vào tay nó một bì thư, nó vừa nhìn bà vừa hỏi, con bà đã sanh chưa? Bà trả lời với nét mặt đầy nỗi lo âu, thưa cha, xin cha cầu nguyện cho cháu con, mẹ nó vừa sanh non, và cháu đang  yếu lắm… nó cầm phong thư mà lòng ngổn ngang, chẳng lẽ Chúa đã không nhận lời của người Mẹ đó? phải chăng Chúa cũng từ chối lời cầu nguyện của nó trong thánh lễ? Rồi thánh lễ hôm đó nó cũng dâng thật là sốt sắng, xin Chúa cho đứa trẻ được khoẻ mạnh và bình yên…

Ngày Chúa nhật kế tiếp lại đến, nó đã trông ngóng để gặp người giáo dân ấy, hy vọng biết thêm thông tin về sức khoẻ của cháu bà ta, và rồi cũng đúng sát giờ lễ bà xuất hiện, không đợi bà lên tiếng nó vồn vã hỏi thăm, bà ơi cháu bà sao rồi? Với hai hàng nước mắt lăn dài rút trong bóp ra một bì thư khác, xin cha cầu nguyện cho linh hồn cháu con tên thánh là ….. nó khựng lại, tự nhiên nó cảm thấy mọi thứ xung quanh trở nên tối tăm bất thường. Nó dúi phong thư lại tay bà, thôi bà cầm đi, con sẽ cầu nguyện cho cháu của bà! nó nói với tâm trạng vừa buồn, vừa trống vắng vừa chao đảo trước một hoàn cảnh mà nó không bao giờ nó nghĩ mình sẽ đối diện… bà lão đã liên tiếp cầu xin Chúa, và bà có xin gì cho riêng mình đâu, chỉ là cho đứa cháu và con gái mình… một lời cầu xin quá đỗi bình thường, quá chân thành, và xứng đáng, vậy mà đã không được nhậm lời, nhưng nếu bà không có gì sai trong lời cầu xin này, chẳng lẽ là nó đã có gì sai? chẳng lẽ nó không xứng đáng trước mặt Chúa??  Nhưng bà lão cũng nhất định bắt nó nhận phong thư đó với lời nói quả quyết,cháu con mất rồi, cha coi đây là món quà con thay cháu gửi đến những đứa trẻ mất mẹ nhe cha…

Và nó đã dâng  thánh lễ ngày hôm ấy, đó là thánh lễ buồn nhất của nó, nó cảm thấy bất lực trước Chúa, xấu hổ trước bà lão vì mình không thể giúp bà được gì ngay cả lời cầu xin đơn sơ…  nó cảm thấy mình giống như một vị linh mục kém cỏi nhất của thế gian này, rồi trong kinh nguyện của ngày hôm đó nó có phần oán trách Chúa, Chúa ơi tại sao lại là con, tại sao… tại sao Chúa đã im lặng? …  buổi tối hôm nó với phong bì của bà lão và tất cả số tiền xin lễ nó nhận được lang thang vào trong bệnh viện như một người mất hồn, gặp chị nữ tu điều dưỡng mà nó vẫn thường cộng tác với chị, gửi tất cả những gì nó đang có trong tay cho chị:  ‘có người nhờ em gửi cho chị, để chuyển cho những ai đang cần chị nhe’ rồi nó lầm lũi ra về như một tên trộm…

Thế đó, sáng ngày hôm sau, nó nhận được tin của vị nữ tu trực đêm trong bệnh viện: thưa cha, con nhờ Cha chuyển lời cám ơn cho vị ân nhân đó, nhờ số tiền đó mà đã giúp được một em bệnh nhân người dân tộc cần truyền máu và nằm viện có tiền chi trả và còn mua được hai hộp cơm cho hai mẹ con họ nữa…

Nó mừng quá, hy vọng tuần lễ sau có dịp gặp bà lão ấy để cảm ơn và dùng tin này để an ủi bà, thế nhưng nó không còn thấy bà đi lễ nữa, suốt một hơn một năm trời sau đó, thánh lễ nào nó cũng cầu xin Chúa gìn giữ đức tin của gia đình bà….

Phải chăng có người cầu nguyện Chúa trả lời, có người không? Theo nó thì không phải vậy, Chúa sẽ luôn luôn đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta! Nhưng liệu chúng ta có nhìn ra điều đó hay không?

Còn nhớ hình ảnh bà goá cầu nguyện đòi công bằng trước một ông quan toà vô tâm trong Phúc âm thánh Luca,  và rồi ông quan toà cũng phải đáp lại đòi hỏi của bà ta! Ngày xưa nó từng nghĩ rằng Chúa muốn dùng  cách làm của bà goá để ám chỉ việc phải cầu nguyện để Chúa nghe nhiều quá mệt mà đáp lời như vị quan toà kia!

Nhưng thật ra Chúa không hề dùng ông quan toà vô tâm để mô tả cho hình ảnh của  Chúa, cho bằng việc Chúa muốn dùng ví dụ bà goá ấy đã cầu nguyện không ngừng với Chúa khi bà đi đòi lại công bằng cho mình…việc đòi lại công bằng là đối với quan toà, việc cầu nguyện là đối với Chúa,chính cầu nguyện đã làm cho bà có đủ can đảm và kiên nhẫn để đi đến cùng, để rồi từ một người không có tiếng nói trước công chúng và quan toà  ( đồng nghĩa với goá phụ thời xưa ), bà đã dùng  tiếng nói trong kinh nguyện của bà để làm thay đổi lòng dạ vô tâm của ông quan toà ấy… và đem lại lẽ công bằng cho bà.

Cầu nguyện liên lỉ mở lòng chúng ta ra với Chúa, chúng ta không còn là một khối tách biệt với Chúa nhưng được thông phần, được kết hiệp trái tim mình với trái tim Chúa, đến một mức độ mà đời sống chúng ta được nuôi dưỡng bởi sức mạnh và lòng thương xót của Chúa, và từ đó dần dần chúng ta trở nên giống Chúa trong cảm thức và trong hành động của mình, đến mức độ mà mình có thể hy sinh và yêu thương như Chúa yêu thương.

Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, không phải qua đó để thay đổi ý Chúa Cha, không phải để làm cho quân lính gục ngã trước chân Ngài, nhưng qua cầu nguyện Ngài đi đến cùng trên  con đường mà Chúa Cha đã đã muốn Ngài đi qua… các môn đệ lúc bấy giờ, đã không cầu nguyện liên lỉ và do đó, họ thay vì đi theo Chúa, đã bỏ Chúa và trốn Chúa và chối Chúa.

Rồi đến ngày  nó phải chia tay cộng đoàn của nhà thờ đó để chuyển công tác khác, sau thánh lễ hôm đó có nhiều giáo dân đến chào chia tay nó, có một người phụ nữ trẻ đến trao cho nó phong thư để xin lễ, rồi vì quá đông người nó không kịp nói gì hơn ngoài lời chào và cám ơn cô ấy.

Trên đường đi xa, nó tình cờ phát hiện  phong thư ấy vẫn còn nguyên trong một ngăn cặp , mở ra thì thấy dòng chữ quen thuộc nguệch ngoạc của bà lão năm nào: –  ‘thưa cha chân con không khoẻ, nên con nhờ con gái con đến gặp cha để xin hai thánh lễ tạ ơn,  con xin một lễ tạ ơn cho con gái con đã quay lại với Chúa, sau nhiều năm nó bỏ Chúa, chắc cũng nhờ cú shock bị mất con, nó mới biết mình cần Chúa, con xin một lễ nữa cho cháu con cũng vừa mới chào đời cách đây  hai tháng nhờ hồng ân Chúa, cuối cùng nó cũng sinh được mẹ tròn con vuông …. con chúc cha đi bình an “

Đến lúc này, nước mắt trên má lăn dài, nó phát hiện ra rằng chính lời cầu nguyện của bà lão, đã thay đổi chính nó… làm cho nó biết khiêm tốn hơn và biết trông đợi vào Chúa, biết lắng nghe Chúa theo cách của Ngài …và nó tin rằng cầu nguyện không phải là để thay đổi Chúa mà là để thay đổi chính mình để  mình  có thể nghe được Chúa, nhận biết Chúa và trở nên một với trái tim yêu thương của Ngài. Amen

From: terengocnga

 

Tranh chấp quyền lực

Tranh chấp quyền lực

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Nguyễn Hưng Quốc

22.10.2013

Lâu nay, ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc, hầu như ai cũng biết sự mâu thuẫn gay gắt giữa ba người đứng đầu bộ máy cầm quyền tại Việt Nam: Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng; Trương Tấn Sang, chủ tịch nước; và Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng. Những mâu thuẫn ấy được bộc lộ rõ rệt qua các cuộc tranh chấp quyền lực kéo dài nhiều năm, thậm chí, như trong trường hợp giữa Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, kéo dài nhiều thập niên, lúc cả hai còn là những cán bộ lãnh đạo cấp địa phương. Chúng không có gì bí mật cả. Mọi người đều biết.

Tuy nhiên, liên quan đến các mâu thuẫn ấy, có một khía cạnh đáng chú ý hơn: Cách xây dựng và củng cố quyền lực của mỗi người. Có lẽ, một lúc nào đó, khi những người trong cuộc lên tiếng, chúng ta sẽ có bức tranh đầy đủ hơn về điều này. Còn bây giờ, nhìn từ bên ngoài, điều chúng ta có thể thấy được là những chiến lược chung.

Chiến lược ấy, ở Nguyễn Phú Trọng, là nhắm đến việc tập hợp các lực lượng bảo thủ và giáo điều trong đảng, những người còn tin tưởng vào sức mạnh và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội (so với chủ nghĩa tư bản); ở Nguyễn Tấn Dũng, là ban phát ân huệ để mua sự trung thành của quân đội và công an (bằng nhiều cách, trong đó, có cách phong tướng cho thật nhiều người, ví dụ, riêng cuối năm 2012, có đến 49 tướng công an mới!)  và các giám đốc công ty quốc doanh, những nơi làm ăn béo bở nhất hiện nay.

So với Nguyễn Phú Trọng, chiến lược củng cố quyền lực của Nguyễn Tấn Dũng coi bộ có hiệu quả hơn. Điều đó có thể thấy dễ dàng qua các cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai bên trong mấy năm vừa qua: Nguyễn Phú Trọng chỉ thắng ở vòng tranh chấp thuộc Bộ Chính trị (gồm, trước, 14 người; hiện nay, 16) nhưng lại thua Nguyễn Tấn Dũng ở cấp Trung ương đảng (bao gồm 175 người). Thua từ cuộc vận động thi hành kỷ luật đối với Nguyễn Tấn Dũng trong hội nghị Trung ương 6 (tháng 10/2012) đến cuộc vận động đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị trong Hội nghị Trung ương 7 (tháng 5/2013).

Thế còn Trương Tấn Sang? Trước, khi còn là Thường trực Ban Bí thư Trung ương đảng, có vẻ như ông khá được lòng giới trí thức. Nhiều người cho ông có tâm huyết và viễn kiến, khao khát làm một cái gì đó hữu ích cho đất nước. Tuy nhiên, từ sau Đại hội XI, khi ông lên làm chủ tịch nước, dường như niềm tin ấy dần dần nguội lạnh. Người ta không còn hy vọng hay chờ đợi gì ở ông nữa. Trương Tấn Sang cũng không thể cạnh tranh với Nguyễn Phú Trọng trong việc tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng giáo điều vốn từ lâu vẫn nghi ngờ ông. Ông càng không thể cạnh tranh với Nguyễn Tấn Dũng ở hai mặt trận: một, với các cán bộ trong quân đội, công an và doanh nghiệp vì trong tư cách chủ tịch nước, vốn chỉ là hư vị, ông không có gì để ban bố ân huệ cho họ; và hai, với dân chúng miền Nam, quê gốc của ông, ông cũng bị Nguyễn Tấn Dũng, cũng là người miền Nam, tranh giành quyết liệt. Ngay cả khi Trương Tấn Sang có liên minh với Nguyễn Phú Trọng, ông cũng không thể thắng.

Bởi vậy, không có gì lạ khi mấy năm gần đây Trương Tấn Sang chuyển hướng sang vận động quần chúng, những người dân bình thường. Ông thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ với cử tri, chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh. Ở các cuộc gặp gỡ ấy, bao giờ ông cũng tập trung vào một đề tài chính: chống tham nhũng. Khi hô hào chống tham nhũng, có lúc ông không ngần ngại chĩa mũi dùi thẳng vào Nguyễn Tấn Dũng, dưới cái tên đã đi vào lịch sử: “đồng chí X”. Hơn nữa, hầu như bao giờ ông cũng kêu gọi quần chúng chủ động và tích cực hơn nữa trong trận chiến chống lại tham nhũng – đôi khi được hiểu là chống lại “đồng chí X”.

Với những mục tiêu và chiến lược củng cố quyền lực khác nhau như vậy, khẩu khí của ba người lãnh đạo Việt Nam cũng khá khác nhau. Nguyễn Phú Trọng thường xuất hiện trong các hội trường với thính giả là các đảng viên, ở đó, ông lè nhè đọc các bài diễn văn cũ rích vốn thường được nghe trong mấy thập niên về trước, lúc chế độ Cộng sản chưa bị sụp đổ ở Liên xô và Đông Âu. Nguyễn Tấn Dũng thường xuất hiện trong các hội nghị với các cán bộ vừa có quyền vừa có tiền để huênh hoang báo cáo về các thành tích họ đã đạt được. Còn Trương Tấn Sang thường xuất hiện trong các cuộc họp mặt ở địa phương với áo sơ mi trắng có vẻ rất hiền lành và giản dị để nói về những thao thức của ông trước những vấn đề nghiêm trọng của đất nước.

Thật ra, trong cái gọi là “những vấn đề nghiêm trọng của đất nước” ấy, Trương Tấn Sang hoàn toàn né tránh những vấn đề bức thiết như quan hệ với Trung Quốc và vấn đề dân chủ hay nhân quyền ở Việt Nam. Ông chỉ tập trung chủ yếu vào một khía cạnh: tham nhũng.

Đóng vai tiên phong trong mặt trận chống tham nhũng, Trương Tấn Sang thường lặp đi lặp lại một số điểm: Một, ông hiểu và thông cảm với những bức xúc của quần chúng; hai, bản thân ông cũng bức xúc và sẽ sẵn sàng vứt bỏ mọi chức tước, trở về làm dân thường, sống một cách giản dị như mọi người khi ông cảm thấy không có cách nào thực hiện được ý nguyện của mình; và ba, kêu gọi mọi người tiếp sức với ông bằng cách can đảm tố giác bọn tham nhũng.

Nhắm vào các điểm ấy, có khi Trương Tấn Sang khá thành thực. Thành thực ít nhất ở hai điều. Thứ nhất, thừa nhận nạn tham nhũng đang tràn lan ở Việt Nam. Hình ảnh không phải chỉ một con sâu mà là “cả một bầy sâu” tham nhũng là của ông. Cách nói “làm gì cũng ăn hết trọi, loang lổ chỗ nào cũng có tiêu cực” cũng là của ông. Thứ hai, thừa nhận là đảng đã bế tắc trong việc chống tham nhũng: Họp hành, rất căng; chỉ thị, rất nhiều, nhưng tham nhũng vẫn hoàn tham nhũng; cuối cùng, ông kêu gọi: “mọi người cũng cần phải ra tay, chứ không còn cách nào”.

Dĩ nhiên, việc chuyển giao trách nhiệm chống tham nhũng từ các cơ quan chức năng sang quần chúng chỉ là một hình thức mị dân. Dân chúng tố cáo tham nhũng nhưng không có ai giải quyết hết thì sao? Hơn nữa, làm sao bảo vệ những người dân dám tố cáo tham nhũng? Thấp cổ bé miệng, mỗi lần tố cáo là một lần đối đầu với tai họa. Trương Tấn Sang cũng thừa biết, ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không có cơ chế nào để bảo vệ người dân trong nỗ lực chống tham nhũng cả. Biết vậy, tại sao ông vẫn kêu gọi dân chúng vào một mặt trận mà ông biết chắc chắn sẽ vô hiệu? Thật ra, ông chỉ cần được lòng dân chúng mà thôi. Điều ông nhắm tới không phải là chống tham nhũng mà là tập hợp lực lượng cho ông.

Trước, không phải trong nội bộ giới lãnh đạo đảng không từng có các cuộc tranh giành quyền lực. Có. Hầu như lúc nào cũng có. Nhưng phần lớn chỉ tập trung trong nội bộ đảng viên, đặc biệt đảng viên cao cấp. Do đó, chúng nằm ngoài tầm mắt của dân chúng. Còn bây giờ, phạm vi để tranh thủ rộng hơn, không chỉ giới hạn trong Trung ương đảng mà lan ra mọi đảng viên, và thậm chí, cả quần chúng. Khi phạm vi tranh thủ mở rộng như thế, các thủ đoạn chính trị cũng trở thành lộ liễu hơn.

Trong chính trị, các thủ đoạn càng lộ liễu bao nhiêu càng mất tác dụng bấy nhiêu. Trong đó, cái mất lớn nhất là niềm tin.

Jessica Cox – Người phụ nữ lái máy bay bằng chân đầu tiên của thế giới

Jessica Cox – Người phụ nữ lái máy bay bằng chân đầu tiên của thế giới

Hồng Hoa

19.10.2013

 

Vào năm 1983 tại Sierra Vista, bang Arizona, một bé gái ra đời không có cánh tay. Cô bé có thể sống lây lất, trong tình huống không ai đặt nhiều kỳ vọng nơi cô. Nhưng 14 năm sau, bé gái ấy không chỉ sống khỏe mạnh mà còn giành được đai đen Taekwondo của Liên hiệp Taekwondo Quốc tế. Sau đó trong thời gian theo học ngành tâm lý tại trường đại học Arizona, cô trở thành người không tay đầu tiên giành được đai đen Taewkondo của Hiệp hội Taekwondo Hoa Kỳ. Vào ngày 10 tháng 10 năm 2008, cô gái đặc biệt này đã có được bằng lái máy bay và vào năm 2011, tổ chức Kỷ lục Thế giới Guinness công nhận cô là người đầu tiên lái máy bay bằng chân. Hiện nay, bé gái sơ sinh không tay năm nào nay đã trở thành một diễn giả quốc tế đã đặt chân tới 20 quốc gia xuyên suốt sáu châu lục với hy vọng chia sẻ những thông điệp truyền cảm hứng sống cho mọi người trên khắp thế giới. Cô gái ấy là Jessica Cox. VOA Tiếng Việt đã may mắn có cơ hội được trò chuyện với cô gái phi thường này qua Skype. Xin mời quý vị cùng theo dõi bài phỏng vấn với cô Jessica Cox do Hồng Hoa thực hiện.

VOA: Xin chào chị Jessica. Chân thành cảm ơn chị một lần nữa đã nhận lời phỏng vấn với đài VOA. Được biết, hiện chị là một diễn giả quốc tế có những bài diễn thuyết truyền thông điệp cảm hứng trên khắp thế giới và chị cũng có một tổ chức hoạt động mang tên chị nhằm đem lại động lực sống cho mọi người. Vậy khi còn nhỏ, điều gì hay ai là nguồn cảm hứng, động lực sống của chị?

Chị Jessica Cox: Cha mẹ tôi ủng hộ tôi rất nhiều trong mọi việc. Mẹ tôi thường nói với tôi rằng Thượng đế dành cho con một kế hoạch riêng và con có thể làm bất cứ điều gì con muốn. Bà nói với tôi điều đó mỗi khi tôi nổi giận hay không chắc chắn về bản thân mình. Bà đã khích lệ tôi, và phần nào giúp tôi trở thành con người tôi ngày hôm nay. Bà là nguồn động lực, nguồn cảm hứng cho tôi như thế.

Còn cha của tôi là người đã tạo ra cho tôi một nền tảng cơ bản là hãy biết chấp nhận. Bạn sẽ không bao giờ thấy tôi là một nạn nhân. Ông là người truyền cho tôi sức mạnh để tin tưởng một điều rằng tôi không phải là nạn nhân của một tật nguyền nào đó, mà đơn giản đó là con người thật của tôi. Vì thế mà cha tôi đã cho tôi sự tự tin mạnh mẽ này, còn mẹ tôi luôn nói với tôi là tôi có thể làm bất cứ điều gì.

VOA: Vậy việc trở thành một phi công cũng do cha mẹ chị khuyến khích chị hay đó là ước mơ của riêng chị?

Chị Jessica Cox: Thực tế thì cha mẹ tôi không có khuyến khích tôi trở thành một phi công, mà đó là điều mà tôi tự mình quyết định. Thực ra trong gia đình tôi, không có ai làm phi công cả. Tôi chưa bao giờ ngồi trong một chiếc máy bay động cơ đơn trong đời cho tới khi tôi có trải nghiệm ngồi trong đó, và chỉ tới lúc đó tôi mới có quyết định trở thành một phi công. Lúc đó tôi lên 21 tuổi. Tôi đã sống suốt 21 năm mà không hề biết cảm giác ngồi trong một chiếc máy bay cỡ nhỏ nó như thế nào cho tới giây phút đó.

VOA: Trong cuộc sống hàng ngày, khi đó chị đã phải đối mặt với những khó khăn gì?

Chị Jessica Cox: Điều khó khăn rõ ràng nhất là tôi khác biệt với những người còn lại và phải đối phó với những bạn nhỏ khác, những người luôn đặt ra cho tôi những câu hỏi không phải lúc nào cũng lịch sự, đôi khi rất xấu. Những thử thách mang tính tinh thần cũng là những điều tôi phải đối mặt. Một vài thách thức bên ngoài như tự mình mặc quần áo, thật không đơn giản cho nhiều người nếu phải tự mặc quần áo bằng chân. Đó đã trở thành một hành trình của riêng tôi xuyên suốt 10 năm, tự mình tìm cách trở thành một con người độc lập.

Khi còn nhỏ, tôi sống gần trường tiểu học nên có lúc tôi đi bộ, có lúc cha mẹ đưa tôi tới trường. Đến năm tôi lên lớp 8, tôi bắt đầu đi xe buýt đi học cho tới hết năm lớp 9. Sau đó khi học cấp 3 thì tôi đi học cùng anh trai nên chúng tôi cùng lái xe tới trường.

Bạn biết không, điều ngạc nhiên là có rất nhiều bạn nhỏ đã rất tò mò, một cách bản năng thôi, là tại sao tôi bị mất tay, trong khi thực ra tôi chưa bao giờ có tay từ khi tôi chào đời cả. Vì thế mà có nhiều lúc mà chúng tò mò và muốn hỏi tôi. Một số người thì cũng không lịch sự cho lắm. Có những đứa nhỏ khá ồn ào và cũng không lễ phép. Chúng có chọc ghẹo tôi. Nhưng ngoài những điều đó thì phần lớn, tôi phải nói là tôi rất may mắn vì có được những người bạn tốt dám đứng lên bảo vệ tôi. Khi tôi đi học bằng xe buýt, tôi có gặp được nhiều người bạn tốt mà tôi nghĩ là khi bạn có ít nhất một người bạn, chuyện gì cũng có thể trở nên dễ dàng hơn.

VOA: Được biết là chị đã đi nhiều quốc gia để diễn thuyết, vậy chị có thể kể tên một vài quốc gia chị đã từng tới được không?

Chị Jessica Cox: Tôi đã từng đến Sri Lanka, Malaysia, Italy, Hy Lạp, Vatican, El Savador, Guatamala, Canada, Mexico. Tôi vừa đến Hàn Quốc năm nay. Ngoài ra còn có Ethiopia, Kenya, Ghana. Như vậy tôi đến châu Phi ba lần rồi.

VOA: Đã đi diễn thuyết nhiều như vậy nên có lẽ chị cũng đã có nhiều trải nghiệm đáng nhớ trong mỗi lần diễn thuyết. Vậy câu chuyện nào khiến chị ấn tượng nhất?

Chị Jessica Cox: Một trong những bài diễn thuyết mà tôi sẽ không bao giờ quên đó là lần tôi diễn thuyết ở Ghana, Châu Phi. Lý do mà tôi sẽ không bao giờ quên lần đó là vì có một người phụ nữ đã tới gặp tôi trên sân khấu. Cô ấy cũng là một người sinh ra mà không có tay. Khi cô ấy kể cho tôi nghe câu chuyện của cô ấy và đó là một câu chuyện buồn. Khi cô ấy sinh ra, cộng đồng nơi cô ấy sống nghĩ rằng cha mẹ cô ấy nên bỏ rơi cô ấy. Lúc còn là một đứa trẻ sơ sinh, người ta khuyến khích mẹ cô đem cô vào rừng và bỏ cô ấy ở đó vì họ không nghĩ là cô ấy có cơ hội sống sót. Quả thực rất khó khăn khi nghe chuyện của cô ấy. Nhưng mẹ của cô đã quyết định không nghe theo mọi người mà bỏ rơi cô. Bởi vì có một người qua đường nói với mẹ cô rằng bà không nên bỏ rơi mà nên tiếp tục nuôi dưỡng con, nên cho cô ấy một cơ hội sống. Và bà đã làm như vậy. Bà ấy lén lút nuôi cô con gái Louise của mình, và Louise giờ đã đã trở thành một cô giáo mầm non. Cô ấy thường dạy những đứa trẻ rằng khác biệt không có vấn đề gì cả. Cho dù không có tay, nhưng cô ấy vẫn tiếp tục sống và tạo ra sự khác biệt cho thế hệ kế tiếp, và hy vọng rằng chúng có thể thay đổi suy nghĩ về những người khuyết tật.

Câu chuyện này đã truyền cảm hứng rất nhiều cho tôi và cũng tác động rất lớn đến tôi vì tôi đã may mắn sinh ra ở đây, được tiếp tục sống cho dù không có tay. Nhưng ở những nước khác, không phải ai cũng may mắn có được cơ hội này. Nếu có người bị tật nguyền ở một bộ phận nào đó, đôi khi họ sẽ bị bỏ rơi cho đến chết hay bị đem đến một trại mồ côi hay một viện chăm sóc nào đó. Đây quả là một trải nghiệm giúp tôi mở mang được thêm nhiều điều.

VOA: Nếu có ai một ai đó sống ở một nước kém phát triển hoặc đang phát triển nói với chị rằng bởi vì chị vốn đã được sinh ra và lớn lên ở Mỹ, một quốc gia phát triển, nên chị có nhiều cơ hội tốt hơn họ như việc được đi học, được thực hiện những giấc mơ của mình, hay làm bất cứ điều mà chị muốn. Vậy chị sẽ nói với họ điều gì?

Chị Jessica Cox: Tôi cho rằng câu nói đó là đúng khi tôi nhận được nhiều cơ hội tốt. Nhưng bây giờ, tôi sẽ là người tận dụng cơ hội của mình, là được sống trong một nền dân chủ, góp tiếng nói của mình để một công ước về người tàn tật sẽ được thông qua. Công ước này về cơ bản sẽ giúp tất cả mọi người ở khắp nơi trên thế giới, dĩ nhiên từng nước cũng sẽ phải thông qua công ước đó, nhưng về cơ bản công ước này sẽ bảo vệ quyền lợi và tạo ra cơ hội đồng đều cho tất cả những người tật nguyền ở khắp mọi nơi. Vì thế tôi đang tiếp tay vận động để công ước này được thông qua, để nếu có ai sinh ra cũng như tôi, nếu họ không sống ở Mỹ mà ở một nơi khác, thì họ cũng sẽ được hưởng những quyền lợi mà tôi có khi ở nước Mỹ này.

Khi tôi tới nhiều nước diễn thuyết, tôi không chỉ muốn đem lại hy vọng, cảm hứng cho những người như tôi, mà còn hy vọng thay đổi suy nghĩ của bản thân những người khuyết tật rằng họ có thể thay đổi được thái độ của những người khác về họ, và còn cho cả thế giới thấy rằng nếu ai đó bị khuyết tật, không có nghĩa là không thể làm được những gì mà họ muốn.

VOA: Ước mơ khi chị còn nhỏ là được trở thành một phi công và bây giờ chị đã làm được điều đó. Vậy ước mơ, nguyện vọng tiếp theo của chị là gì?

Chị Jessica Cox: Chúng tôi đang thực hiện một bộ phim tài liệu với hy vọng là có thể ảnh hưởng tới nhiều người hơn nữa, ngoài những người mà tôi đã có cơ hội được gặp. Với bộ phim tài liệu này, chúng tôi hy vọng sẽ được tiếp cận hàng triệu người khác, sẽ truyền cảm hứng cho họ theo cách mà tôi đã làm khi diễn thuyết trên sân khấu. Bộ phim này được thực hiện để giúp tôi đến với những người ở những nơi mà tôi không bao giờ có cơ hội tới thăm, bởi vì dù sao tôi cũng chỉ là một người thôi và tôi không thể đến gặp mọi người ở khắp nơi trên thế giới được. Chúng tôi đang thực hiện bộ phim tài liệu này và đang hy vọng sẽ nhận được thêm nhiều sự ủng hộ về tài chính, dù ít dù nhiều, để có thể biến ước mơ đưa bộ phim tới mọi người trên khắp nơi trở thành hiện thực. Chúng tôi đã thực hiện hết các cảnh quay và đang trong giai đoạn hậu kỳ để có thể hoàn thành bộ phim trọn vẹn và đem bộ phim đó tới thế giới.  Vì vậy, nếu có ai quan tâm muốn tìm hiểu thêm về bộ phim này thì có thể ghé thăm website của tôi ở địa chỉ Rightfooted.com

VOA: Trong số rất nhiều điều mà chị đã chia sẻ với những khán giả của mình, điều gì là quan trọng nhất mà chị muốn họ ghi nhớ?

Chị Jessica Cox: Có nhiều người thấy những gì mà tôi đã làm được, và họ nhận ra rằng không có gì là không thể. Nhưng trên tất cả, tôi nghĩ, thông điệp quan trọng tôi muốn gửi tới mọi người là sự chấp nhận. Tất cả mọi người, cho dù là có khuyết tật hay không, đều cần phải chấp nhận con người thật của chính họ. Đó là điều mà tôi hy vọng mọi người có thể hiểu là họ cần phải chấp nhận những thử thách riêng mà cuộc sống dành cho họ và bản thân họ. Và đó cũng chính là điều mà tôi cũng phải học cách chấp nhận, đương đầu với nó trong suốt cuộc đời. Không phải lúc nào tôi cũng là một con người tràn đầy tự tin, nhưng tôi phải chấp nhận con người của tôi và phát triển sự tự tin của mình. Và đó là điều mà tôi hy vọng có thể chia sẻ với mọi người. Thông điệp của tôi đó là không có giới hạn nào cho chúng ta cả mà chỉ có chúng ta giới hạn khả năng của chính chúng ta thôi. Một thông điệp quan trọng khác đó là phải chấp nhận con người thật của chúng ta và hãy luôn yêu thương chính mình.

VOA: Một lần nữa xin chân thành cảm ơn những chia sẻ của chị Jessica đã dành cho VOA. Xin chúc chị những điều tốt đẹp nhất trong sự nghiệp bao gồm việc phát hành bộ phim tài liệu và những chuyến đi diễn thuyết khắp thế giới, và trong cuộc sống.

Jessica Cox-Người phụ nữ lái máy bay bằng chân đầu tiên của thế giới.

httpv://www.youtube.com/watch?v=FkJrARxnRhc&list=PL0Xd6_vQV82LGqYrOqa6-XgJVKN8VpJcN

Tượng Chúa Jesus khổng lồ ở Syria

Tượng Chúa Jesus khổng lồ ở Syria

Tượng Chúa Jesus ở Syria – Ảnh:  The Moscow Times

(TNO) Một bức tượng chúa Jesus bằng đồng cao hơn tượng Chúa Cứu thế ở Rio de Janeiro (Brazil), đã xuất hiện tại Syria, báo The Moscow Times đưa tin ngày 22.10.

Bức tượng mang tên “Tôi đến để cứu thế giới” là công trình của ông Yury Gavrilov, một người Nga đang điều hành Quỹ St. Paul và St. George, một tổ chức ở London (Anh).

Dự án được Nhà thờ Chính thống Nga và Chính phủ Nga ủng hộ.

Nga đang đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết khủng hoảng tại Syria và có một căn cứ hải quân tại quốc gia này.

Bức tượng do một nhà điêu khắc Mỹ tạc tại Armenia. Bức tượng được an vị vào ngày 14.10, trên một đỉnh núi gần thành phố Saidnaya và gần Tu viện Cherubim nhìn xuống một tuyến đường hành hương lịch sử đến Jerusalem từ độ cao hơn 2.000 m so với mặt nước biển.

Bức tượng có chiều cao 39 m bao gồm bệ tượng, cao hơn 1 m so với tượng Chúa Cứu thế ở Brazil. Công trình này có thể được nhìn thấy từ các nước và nhà nước láng giềng như Li Băng, Jordan, Palestine và Israel.

Mọi hoạt động quân sự tạm ngưng tại khu vực trong thời gian bức tượng được lắp đặt. Dự án bức tượng này đã được xúc tiến từ năm 2005 và không liên quan gì đến cuộc khủng hoảng hiện tại ở Syria, theo Komsomolskaya Pravda.

Quỹ St. Paul và St. George của ông Gavrilov hy vọng công trình này sẽ góp phần đem lại hòa bình cho khu vực.

Trùng Quan

Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc

Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2013-10-23

10232013-ha-tinh-pro-swar-chi.mp3

Những biệt thự của đại gia Trung Quốc ở Hà Tĩnh

Những biệt thự của đại gia Trung Quốc ở Hà Tĩnh

RFA

Nghe bài này

Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh vốn là một huyện nổi tiếng “chó ăn đá gà ăn muối” trong những năm trước đây. Thế rồi ngành du lịch phát triển, với địa hình tương đối cao ráo, có bờ biển chạy dọc quốc 1, cách mặt đường từ 700m đến 1km, một địa hình khá lý tưởng để phát triển du lịch.

Ngành du lịch vào cuộc, các điểm du lịch mọc lên dọc bờ biển Kỳ Anh, giá đất tăng vùn vụt… Đây cũng là lúc người Kỳ Anh đối diện với nhiều nguy cơ, trong đó, đáng kể nhất là nguy cơ đất đai lọt về tay người Trung Quốc và thanh niên bị nghiện ngập

Đầy rẫy người Trung Quốc

Một người lái taxi tại thành phố Hà Tĩnh, quê gốc Kỳ Anh, cho chúng tôi biết: “Đó, quá nguy hiểm, sợ nó (người Trung Quốc) cài kiết cái gì vào(các công trình của Trung Quốc tại Kỳ Anh – Hà Tĩnh). Hôm nọ tôi chở ba bốn chục người đi hát karaoke. Thấy người Việt Nam mình nói nó khắt khe lắm, hở động một tý là nó đuổi việc ngay, họ bảo thằng này khó tính lắm, động một tý….

“Tất cả cũng do hám tiền, đói tiền, cái đất Hà Tĩnh này, toàn thanh niên hư hỏng hết, cha mẹ chiều, bán đất cho con cái ăn chơi, đua đòi…Thanh niên ở đây có làm gì đâu, có buôn bán gì đâu, toàn thanh niên nơi khác tới làm.

Một người lái taxi”

Tất cả cũng do hám tiền, đói tiền, cái đất Hà Tĩnh này, toàn thanh niên hư hỏng hết, cha mẹ chiều, bán đất cho con cái ăn chơi, đua đòi. Vay tiền ngân hàng mua xe này xe nọ cho con cái.Thanh niên ở đây có làm gì đâu, có buôn bán gì đâu, toàn thanh niên nơi khác tới làm. Tụi nó đập đá loạn xạ, nó tự chế bài hát của nó, nó bảo trai Hà Tĩnh không biết đập đá, không biết ăn chơi  không phải là trai Hà Tĩnh.”

Theo chân người lái taxi này, chúng tôi thăm huyện Kỳ Anh và hết sức bàng hoàng khi chứng kiến cảnh tượng đập vào mắt mình là hàng trăm nhà hàng có bảng hiệu viết bằng chữ Trung Quốc, thậm chí có nhiều nhà hàng không tiếp khách Việt Nam.Chủ của nhà hàng là những người Trung Quốc sang mua đất, mở doanh nghiệp, mở nhà hàng và mở nhiều dịch vụ khác phục vụ cho khách vip người Việt và ưu tiên phục vụ cho người Trung Quốc ở Hà Tĩnh.

Một công ty Trung Quốc ở Kỳ Anh. RFA

Một công ty Trung Quốc ở Kỳ Anh. RFA

Một người dân Kỳ Anh yêu cầu giấu tên, buồn bã nói với chúng tôi rằng dân Kỳ Anh đã thật sự đánh mất mình, họ không còn là chủ của mảnh đất cũng như cảm giác là người dân bản xứ cũng không còn mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giàu có và hách dịch của người Trung Quốc. Đặc biệt, tuy mới sang Kỳ Anh sống chưa bao lâu nhưng các nhóm người Trung Quốc ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằng.

Người dân bản xứ cũng không còn mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giàu có và hách dịch của người TQ. Đặc biệt, tuy mới sang Kỳ Anh sống chưa bao lâu nhưng các nhóm người Trung Quốc ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằng”

Họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở Kỳ Anh. Cho dù các ban ngành an ninh, công an ở Kỳ Anh vẫn hoạt động nhưng hình như họ chẳng xem ra gì bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh.

Ông này nói thêm rằng hiện tại, huyện Kỳ Anh trong mắt ông cũng giống như một tiểu khu đặc biệt của người Trung Quốc, ở đó, mọi thứ quyền lợi và quyền lực dồn về tay họ, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở Kỳ Anh tỏ ra lép vế và xu phụ, xun xoe người Trung Quốc. Với đà này, chẳng bao lâu nữa, người Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh mặc dù chẳng ai muốn thế nhưng đành phải thế vì họ đã có mọi thứ cần có của một ông chủ trên đất Việt Nam.

Thanh niên hư hỏng

Một bà mẹ yêu cầu giấu tên, cho chúng tôi biết thêm là ở Kỳ Anh, có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện ngập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm. Vì phần lớn những gia đình bán đất cho người Trung Quốc, chơi thân với người Trung Quốc đều có con làm việc cho người Trung Quốc và đều là đầu mối của sự hư hỏng ở các thanh niên đồng trang lứa.

Một cơ sở sản xuất nhỏ của Trung Quốc ở Hà Tĩnh. RFA

Một cơ sở sản xuất nhỏ của Trung Quốc ở Hà Tĩnh. RFA

Nghĩa là những thanh niên chơi thân với người Trung Quốc thường dắt người Trung Quốc về xóm chơi, lân la và rủ thanh niên các xóm đi chơi, ban đầu thì đi chơi bình thường, nhưng sau vài tháng, những thanh niên này lâm vào nghiện xì ke, ma túy, không cách nào gở ra được nữa. Lúc đó, sẵn tiền bán đất của gia đình, họ bắt đầu ăn chơi sa đọa. Cách đây không lâu, có một thanh niên Kỳ Anh đã lên thành phố Hà Tĩnh đâm đầu vào xe tải tự tử. Trước khi chết, anh ta để lá thư lại cho người mẹ với nội dung rằng anh đã hết đường, anh đã nợ người Trung Quốc một số tiền quá lớn và họ luôn đe dọa anh. Nhưng với danh dự của một người đàn ông, anh không thể để mình tiếp tục sai lầm nên chọn con đường chết.

“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện ngập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm.

Một người dân Hà Tĩnh”

Người mẹ vừa kể chuyện nói thêm rằng dù rất buồn khi nghe tin người thanh niên nghiện ngập đáng tuổi con của bà bị chết một cách vô lý, oan uổng. Nhưng dẫu sao bà cũng hy vọng cái chết của anh thanh niên này giúp cho nhiều thanh niên khác tỉnh ngộ ra, thoát khỏi con đường nghiện ngập.

Một người tên Hùng, là cha của hai thanh niên đang nghiện ngập, đau xót nói với chúng tôi rằng ông quá bàng hoàng và tuyệt vọng trước cơn nguy biến của gia đình. Đùng một cái, mảnh đất Kỳ Anh hiền hòa, nghèo khổ và chân chất bỗng dưng trở nên chộn rộn, nhặn xị, chẳng đâu vào đâu. Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc.

Vì trước khi người Trung Quốc có mặt ở Kỳ Anh, thanh niên ở đây không biết gì về rượu chè, đến khi họ sang làm ăn, níu kéo thanh niên Kỳ Anh chơi bời, nghiện ngập, thậm chí thanh niên Kỳ Anh bây giờ còn có một bài hát riêng với nội dung đã là thanh niên Kỳ Anh mà không biết đập đá, hút hít, chích choác thì không phải là con người, không phải là thằng đàn ông, không phải là dân Hà Tĩnh. Và cứ trên đà như thế, càng ngày, thanh niên Kỳ Anh càng hư hỏng.

Thế hệ tương lai hỏng tận gốc. Thế hệ già ngã xuống, mọi thứ ở Kỳ Anh sẽ nhuộm màu Trung Quốc. Và rồi đây, Kỳ Anh sẽ thành một tiểu khu của người Tàu.

Câu nói của ông Hùng làm chúng tôi bàng hoàng sực nhớ ra ở trên biển Đông, người Trung Quốc đã lấn lướt, bắt bớ, đánh đập, hành hạ ngư dân Việt, dọc các bờ biển đã có mặt người Trung Quốc và ở tít tận cao nguyên, các vùng trọng điểm cũng đã có mặt người Trung Quốc.

Một dự cảm chẳng yên lành khi chúng tôi tạm biệt Kỳ Anh.

NÂNG MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG

NÂNG MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG

(Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật 30 thường niên)

“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giê-su đề cập nhiều lần trong Tin Mừng bằng nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)

Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giê-su nêu lên hai nhân vật.

Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”

Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”

Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng ông không nhận được ơn lành của Thiên Chúa vì ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ cho Chúa rót ân sủng vào.

Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”

Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ… nên anh đã được Thiên Chúa rót đầy tình yêu thương và sự thứ tha.

Với dụ ngôn nầy, Chúa Giê-su ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18,14)

Mẹ Maria cũng đã cảm nghiệm được bài học quý báu nầy và nhắc nhở chúng ta: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường.” Chúa làm như thế không phải vì Chúa thiên vị người nầy chê bỏ kẻ kia, nhưng vì, cũng như người ta không thể rót thêm nước vào một ly đã đầy tràn, thì Thiên Chúa cũng không thể rót thêm ân sủng cho những tâm hồn kiêu căng tự mãn.

Đầy thì đổ

Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?

Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.

Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học  trung dung, một cách ấn tượng.

Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: “virtus in medio – nhân đức nằm ở mực trung.” Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.

Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.

“Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,

Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,

Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy.” (Thái Trạch)

Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:

“Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu,

Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp.”

Bậc thông minh uyên bác thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng bằng cách sống như người nhát sợ…

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng ( như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối. (Luca 14, 7-11.)

Xin cho chúng con biết khiêm nhường như Chúa để được rót đầy ân sủng và yêu thương.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Luca 18, 9-14

9 Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế.11 Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.14 Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – CHIA SẺ 17 ĐẾN 20

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – CHIA SẺ 17 ĐẾN 20

Tác giả: Lm. TTT. Võ Tá Khánh
LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ: HAI BẢN THÔNG CÁO 1965 VÀ 1974

Theo dõi loạt bài của chúng tôi, hẳn nhiều độc giả muốn đọc nguyên văn những chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục (Miền Nam) Việt Nam. Để tiện dụng cho độc giả tham khảo, chúng tôi xin trích lại đây nguyên văn thông cáo 1965 (theo www.simonhoadalat.com) và thông cáo 1974 (theo www.dongten.net )

Thông cáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên

Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.

Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:

I. Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc

1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).

2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).

3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.

Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)

Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông cáo này.

II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est

1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.

Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ…) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.

2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.

Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).

3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.

Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.

Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.

Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965

Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492

§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.

§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.

Quyết nghị về Lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên

Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:

“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).

1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.

2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.

6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.

Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974

Ký tên:

– Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế

– Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho

– Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long

– Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ

– Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang

– Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột

– Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – Chia sẻ 17 – TÂM TƯ NGƯỜI LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ

Dấn thân tìm cách đem Tin mừng của Chúa đến cho người đồng tộc, tôi được biết một đại biểu nọ được Ban Chấp hành Dòng họ Tỉnh giao trách nhiệm chuẩn bị Đại hội Dòng họ tại địa bàn huyện. Ông vận động rất nhiệt tình nhưng lắm người nghi ngại không tham gia. Ông dẫn chứng rằng đây là một sinh hoạt đang được đồng tộc cả nước quan tâm, cả những người Công giáo cũng đang nhập cuộc. Một người phản bác:

– Coi chừng lại bị mấy anh Công giáo “phỉnh” theo đạo.

Câu nói đặc thù rất phổ biến và khá tiêu biểu. Hình như anh chị em người lương dị ứng, xem việc tin theo Chúa như một việc tệ hại cần đề phòng!

Sự kiện ấy dễ hiểu. Thử hình dung xem, một kẻ ác ý nào đó dùng tin nhắn điện thoại phát đi liên tục những điều vu khống bịa đặt về bạn một cách có hệ thống và bạn không thanh minh biện hộ gì cả. Mà dù muốn thanh minh biện hộ cũng chẳng biết những điều bôi nhọ ấy đã phát tán tới tận những ai. Có thể càng thanh minh, chuyện càng gây chú ý ầm ĩ, bạn đành thinh lặng. Chỉ sau một tháng thôi, cả thôn cả xã xầm xì đủ điều về bạn. Bạn chẳng bị thân bại danh liệt thì cũng thấy mặc cảm đủ điều. Đàng này những chuyện bịa đặt bôi nhọ Đạo Chúa kéo dài từ cuối thế kỷ XIX đến nay với đủ thứ thêu dệt truyền miệng thật hấp dẫn, thậm chí còn diễn thành tiểu thuyết và phim ảnh. Dân chúng chỉ được nghe mãi một chiều, “mưa dầm thấm lâu”, họ sẽ nghĩ gì về Đạo Chúa? Tôi đề nghị tổ chức ngày truyền thống từng dòng họ và mời anh chị em lương dân tới chính là để họ có thể thấy tận mắt mọi sự ngược hẳn điều họ đã hiểu lầm từ tấm bé.

Không kể những sách báo phim ảnh bài xích Kitô giáo đã gây ấn tượng lệch lạc sâu đậm trong tâm trí người dân, việc truyền giáo ào ạt và hời hợt cuối thập niên 1950 đầu 1960 có thể đã khiến quần chúng như bị chích vác-xanh “phòng dịch”, đẩy lùi sự xâm nhập của hạt men Kitô giáo. Cả việc dạy giáo lý dự tòng vội vã chiếu lệ nhiều nơi hiện nay cũng đang gây nên tác dụng hiểu lầm ấy.

Rất nhiều người tẩy chay, từ chối không cầm đến sách vở và băng đĩa Công giáo. Ý thức tình trạng ấy, tôi không phân phát sách vở Công giáo hàng loạt. Chỉ một số người đã có tình thân hoặc cảm tình rồi, tôi mới tặng sách. Ngoài ra, chỉ những ai xin, tôi mới tặng. Nếu thấy họ có vẻ muốn đọc, tôi gợi ý để họ xin rồi mới tặng. Chính Chúa Giêsu đã ân cần dặn môn sinh phải dè dặt, đừng tạo cớ cho người ta giày đạp “của thánh” và “ngọc quý” (x. Mt 7,6).

Tuy nhiên, tôi lại cũng có một ghi nhận khác. Đang khi từ chối sách vở và băng đĩa Công giáo thì người ta lại trân trọng tấm lòng. Có thể lúc đầu họ ngập ngừng, nhưng sau khi đã trắc nghiệm và thấy rõ sự chân thành của ta, họ rất quý mến. Người ta quý mến vì thấy tôi không chăm chăm nói chuyện Đạo, chỉ nói chuyện họ hàng. Tuy nhiên, khi được mời thắp hương thì tôi cho họ thấy lòng tin Kitô giáo của tôi. Tôi ghi dấu thánh giá chậm và rõ, rồi cầu nguyện lớn tiếng. Tôi nguyện kinh Lạy Cha và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, xin Ngài ban ơn lành cho bà con đồng tộc tại địa phương. Sau đó, tôi dâng lời cầu nguyện với các bậc Tổ tiên đồng tộc tại từ đường, xin các vị bầu cử trước nhan Thiên Chúa Tạo Hóa cho con cháu được mọi điều may lành.

Ở một số trường hợp, sau khi tôi cầu nguyện như thế, người ta đã nêu những câu hỏi và tôi trả lời. Đúng là tôi không tuyên truyền về đạo nhưng chỉ trả lời thắc mắc của họ.

Cũng có một cơ hội thường gặp khác mà tôi có thể dựa theo để nói lên quan điểm Kitô giáo cách hồn nhiên. Đó là khi người ta than phiền về tình cảnh suy đồi đạo lý, với những bản tin cụ thể, lặp lại từ báo, từ đài… Tôi chia sẻ với họ rằng đây chính là lý do khiến tôi dấn thân cho trào lưu nối kết dòng họ. Là linh mục, tôi xác tín rằng cần phải kết hợp mọi lời kêu gọi thành một bản hợp ca. Có nhiều cơ quan đoàn thể lên tiếng, các gia tộc lên tiếng và chức sắc các tôn giáo lên tiếng. Dù tất cả đều lên tiếng cùng một lúc nhưng không có sự đồng thuận và hỗ trợ lẫn nhau thì sẽ không tạo được kết quả. Chẳng khác nào nhiều người đơn ca cùng một lúc, mà mỗi người hát một bài riêng hay một kiểu riêng, thì tất cả chỉ tạo nên một tạp âm gây khó chịu cho người nghe. Có thể số người hát ít hơn nhưng phối hợp hài hòa với nhau thì sẽ tạo được âm hưởng tốt, thông điệp sẽ mạnh mẽ hơn.

Để phát triển xã hội, Singapore bắt đầu từ giáo dục và Bộ Giáo dục Singapore yêu cầu mỗi học sinh phải theo một trong năm tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Tựa như phong trào Hướng Đạo quốc tế, đạt được kết quả giáo dục cao là nhờ luôn đòi hỏi mỗi đoàn viên đều phải thực hành một tôn giáo. Nam Hàn cũng đang làm điều tương tự. Họ đã phát triển nhờ dân chúng có lòng tin tôn giáo sâu sắc: Phật giáo, Tin lành, Công giáo. Để mọi người dân đều tích cực xây dựng quê hương đất nước, Nam Hàn không những phát huy tinh thần dân tộc qua Thái Cực Đạo mà còn hỗ trợ các tôn giáo đóng góp hữu hiệu vào công cuộc giáo dục.

Việt Nam không có Thái Cực Đạo nhưng có tinh thần uống nước nhớ nguồn, đồng tộc yêu thương đùm bọc, biết nhắc bảo nhau, và đồng thời cũng có tôn giáo. Trước thảm trạng nền đạo đức đang lao nhanh xuống vực thẳm, muốn phục hồi lại lòng tốt, muốn tái tạo lại lương tâm, chỉ riêng dòng tộc hay chỉ riêng tôn giáo thôi không đủ. Cần kết hợp cả hai.

Những lý do thời cuộc khiến nhiều người ngại nói đến hai chữ truyền giáo, nhưng theo tôi, đã đến lúc cần mạnh dạn nêu rõ sự cần thiết của yếu tố tôn giáo trong việc giáo dục lương tâm cho người dân, cách riêng là các bạn trẻ.

Với những tâm tư ấy, tôi viết loạt bài chia sẻ này không riêng cho các linh mục và anh chị em đồng đạo nhưng chung cho hết mọi người Việt Nam đang tha thiết với việc phục hưng tấm lòng cho đồng bào, cách riêng là cho lớp trẻ. Ước gì mọi người Công giáo đều nhập cuộc tìm hiểu lại Đạo Hiếu cách nghiêm túc và ước gì mọi anh chị em ngoài Kitô giáo hãy một lần cầm lấy Kinh Thánh, đọc và nghiền ngẫm, để hiểu rõ và xác tín rằng cả đôi bên đang cùng bước chung một đường.

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – Chia sẻ 18: NGỎ LỜI VỚI BẠN ĐỌC NGOÀI KITÔ GIÁO

Có thể bạn, người đang đọc những bài này, là một người ngoài Kitô giáo. Nếu thế, tôi xin được gửi đến bạn một lời chào chúc đặc biệt. Thân ái cầu chúc bạn sớm nhận ra tình Cha của Thiên Chúa. Tôi không giấu giếm rằng tôi đang khao khát và nôn nóng muốn chia sẻ với bạn niềm hạnh phúc chúng tôi đang có, niềm hạnh phúc được làm con Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao, Chí Thánh, Nhân Hiền và Hằng Sống.

Tôi đang chia sẻ với bạn một Tin mừng, một niềm vui. Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang làm công tác truyền giáo thì cũng chẳng sao. Bởi lẽ truyền bá một tôn giáo tốt lành thì chẳng có gì xấu xa. Lắm người làm như thể khi chúng tôi bảo nhau truyền giáo là chúng tôi đang âm mưu làm một chuyện gì đen tối, bậy bạ, chẳng khác nào đang lén lút rủ nhau phạm những tội ác gì quái gở! Ô không, bạn thấy đó, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ với mọi người một thông tin quan trọng và hữu ích: Đó là, tất cả chúng ta đều có chung một người Cha là Thiên Chúa Tạo Hóa, chẳng phải vì chúng ta xứng đáng gì để được làm con Ngài, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã tặng ban người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta, đến làm Anh Cả của nhân loại, cho tất cả chúng ta thành em của Người Anh Cả ấy và thành con cái của Cha trên trời.

Có thể những Kitô hữu bạn gặp là chúng tôi đây còn có rất nhiều khuyết điểm, nhiều điều đáng trách, không xứng danh là con cái Thiên Chúa. Dù vậy, chúng tôi vẫn luôn cố gắng đổi mới chính mình và, trong nỗ lực ấy, chúng tôi chân thành chia sẻ với bạn về Đấng là Cha chung của chúng ta.

Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để những ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ Ngài mà được trở nên con cái Thiên Chúa. Những ai nghĩ rằng đó là chuyện đùa, sẽ không bao giờ biết được sự thật. Còn những ai nhận biết được sự thật này, sẽ vô cùng hạnh phúc. Có những người cảm thấy sung sướng được làm con một thủ trưởng, một thủ tướng, một vị vua… Nỗi sung sướng ấy làm sao sánh được với hạnh phúc của bạn khi nhận ra mình là con của Thiên Chúa… Nếu tới đây bạn vẫn chưa nhận ra điều ấy thì bạn nên dành vài phút thật thinh lặng, gạt bỏ hết mọi suy nghĩ và âu lo, rồi khẽ thưa với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa Tạo Hóa, nếu quả thật Ngài là Cha của con, xin hãy tỏ cho con biết điều đó”. Mỗi tối, hãy dành dăm phút thinh lặng để ngỏ lời như thế, rồi bạn sẽ thấy… Đừng sợ mất dăm phút để đổi lấy một cuộc đời, hơn nữa, đổi lấy cả một cuộc sống đời đời…

Khi đi tìm những cội nguồn nhân loại, người ta quý từng trang viết chắp vá, từng chi tiết nhặt nhạnh đây kia, từng dấu vết mờ nhạt của người xưa. Quyển sách nói về cội nguồn chung của nhân loại, là bộ Kinh Thánh, hình thành từ thế kỷ XIII trước Công nguyên đến cuối thế kỷ I của Công nguyên, cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn nội dung thuở ban đầu. Bạn hãy thử đọc một lần để nhận ra sự thật kỳ diệu về cả nhân loại và về chính mình… Tại sao không?

Nhiều trường hợp con cháu không biết tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp vị thủy tổ có ghi trong gia phả, hoặc vì do kiêng cữ hay là do tôn trọng không dám nhắc đến, hoặc vì lười lĩnh không bao giờ chịu mở gia phả. Bộ gia phả của gia tộc là thế mà bộ sách viết về Thiên Chúa cũng thế. Nếu ta không bao giờ đọc đến thì cũng chẳng thể nào biết được Thiên Chúa là ai và Ngài đã làm gì cho ta.

Toàn bộ Kinh Thánh được tóm tắt nơi câu chuyện Người Cha nhân hậu ở sách Tin Mừng theo Thánh Luca 15,11-32: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình… Thế nhưng rồi giữa đau thương buồn tủi, anh ta nhận ra lỗi của mình và đã quay về với Cha.”

Một khi bạn đã nhận ra mình là con của Trời Cao, bạn hãy thưa chuyện với Cha theo lời kinh mà chính Chúa Giêsu Kitô là Con Duy Nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha đã dạy:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”

Được làm con cái Trời Cao là ước mơ sâu thẳm tận đáy lòng mọi người và là điều đã được Con Một của Trời Cao là Chúa Cứu Thế Giêsu đến loan báo và thực hiện cho nhân loại. Thế nhưng có người không dám tin vì vinh dự ấy đòi hỏi họ phải sống một cuộc sống mới. Cũng có người tin nửa vời, chỉ mang danh nghĩa con cái Thiên Chúa mà không thực sự sống như thế. Nhận biết tình Cha của Thiên Chúa là một ơn lớn của Chúa ban, do đó, ta cần tha thiết xin Chúa ban cho ta ơn ấy.

Được biết Thiên Chúa là Cha, bạn sẽ sung sướng nhận ra rằng người Cha ấy ôm ấp trong lòng Ngài cả bản thân bạn và Tổ tiên bạn. Bạn trả lời cho tôi xem, mỗi khi nghĩ đến Ông Bà Tổ Tiên, bạn hình dung thấy họ ở đâu? Ở với Nguồn Cội nào? Nơi họ ở tối tăm hay rực sáng? Nếu rực sáng thì ánh sáng ấy do đâu?

Phần tôi, nhờ được Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, tôi biết chắc chắn không sợ sai lầm chút nào, tôi biết rất rõ rằng: “Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Khải huyền 22,4-5). Mỗi lần gặp thử thách trên đường phục vụ, tôi mau chóng tìm lại được bình an khi nhớ đến Chúa và tất cả những người đã đi trước tôi đang ở trong Chúa và đang đợi chờ tôi nơi nhà đời đời của Thiên Chúa. Tôi nghĩ đến chị Hai tôi, các em dâu tôi, Cha tôi, các Chú Thím, Cậu Mợ, Cô Dì, những Linh mục đàn anh và các Bạn hữu… đã hoàn tất cuộc đời và đang được no thỏa, mỗi người một vẻ, trong nhà Cha Chung trên trời. Tôi thấy tràn ngập mến thương và mong sớm tới ngày đoàn tụ với tất cả. Trong tôi như có một nỗi giằng co êm dịu, một đàng mong sớm về Nhà Cha là quê hương đích thật, một đàng lại khao khát được mãi mãi hiến dâng cuộc sống để đem biết bao anh chị em chưa nhận biết Thiên Chúa về với Tình Cha muôn thuở.

Mời bạn tiếp tục đọc các bài chia sẻ của tôi. Không riêng tôi, nhiều người đang nghĩ đến bạn và đang nguyện xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành cho bạn và gia đình. Cầu chúc bạn ngày càng nhận ra mình là con của Trời Cao và sống thật xứng với danh nghĩa ấy.

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – Chia sẻ 19: ĐÀO TẠO NGƯỜI CHỨNG TRẺ

Xin được trở lại với các độc giả Công giáo.

Chúa dạy hãy đi khắp thế giới loan báo Tin mừng. Do đó, việc loan Tin mừng không khép kín lại với một nhóm người cùng Dòng họ, nhưng nhóm người ấy chỉ đóng vai một nhúm men giúp cả khối bột dậy men. Gạch nối để Tin mừng lan từ họ này sang họ khác là những người con dâu và con rể, những người có quan hệ thông gia.

Các gia đình cũng như cộng đoàn giáo xứ cần quan tâm đào tạo cho con em mình có một đức tin đầy bản lãnh, thấm đều mọi mặt cuộc sống, để khi họ lên đường về nhà chồng hoặc nhà vợ, họ thực sự là những chứng nhân của Hội Thánh Chúa. Nhiều cha mẹ người lương thích cho con cái lập gia đình với người Công giáo bởi họ thấy đa số người Công giáo chung thủy trong hôn nhân. Thế nhưng đã có một số trường hợp rất đáng tiếc, chính bên người Công giáo gốc thiếu thiện chí, khiến hôn nhân tan vỡ. Những trường hợp đau lòng ấy đòi hỏi chúng ta phải nghiêm túc kiểm điểm lại việc giáo dục đào tạo của chúng ta. Cần giúp bạn trẻ đi sâu vào cầu nguyện để có được đức tin, đức cậy và đức mến nồng nàn mãnh liệt, nhờ đó, dù phải qua đau thương thử thách tới đâu vẫn quyết một lòng trung thành với Luật Chúa dạy và làm chứng cho Chúa.

Thực tế của quá khứ cho thấy rất đông những người theo Đạo để lập gia đình có một đức tin không sâu và không bền, khiến nhiều phụ huynh Công giáo ái ngại khi thấy con em mình thương người ngoài Công giáo. Tuy nhiên không thiếu những trường hợp những người trở lại trong dịp kết hôn lại có một đời sống đức tin còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo đạo dòng. Sự khác biệt thật ra là do cách đào tạo và chăm sóc. Thành kiến xem thường ơn đức tin của người trở lại nhân dịp kết hôn, có thể khiến người ta dạy giáo lý cách sơ sài vội vã cho xong chuyện. Nhiều bậc phụ huynh cố ngăn cản tình duyên của con cái mình, cho tới lúc không ngăn cản được nữa, nhượng bộ cho con cái thì thời giờ học giáo lý không còn nhiều. Thêm vào đó, chuyện tin ngày giờ tốt xấu, kiêng kị tuổi tác nhiều khi cũng khiến người ta tiến hành hôn nhân vội vã, không kịp học giáo lý cho thật sâu.

Chúng ta cần nhìn vấn đề dưới ánh sáng đức tin. Nếu  một sợi tóc trên đầu ta rơi xuống không ngoài ý Chúa thì sự kiện ánh sáng Tin mừng đến với rất đông bạn trẻ qua con đường hôn nhân không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là những nén bạc quý báu Chúa đang trao cho Giáo hội ở thời đại này, mọi thành phần Dân Chúa đều cần biết trân trọng góp phần sinh lợi, không để một nén bạc nào bị vùi lấp oan uổng.

Các bậc làm cha mẹ cần biết tin cậy vào tình thương Thiên Chúa, trân trọng ơn đức tin Chúa đang ban cho người con dâu hay con rể của mình và tôn trọng sự chọn lựa của con cái, để ứng xử sát thực tế hơn. Một khi thấy con cái đã quyết, cha mẹ cần sớm chấp thuận và hướng dẫn cho việc học giáo lý được tươm tất và đức tin kịp thấm sâu và nẩy nở.

Các vị dạy giáo lý cần vững tin vào ơn Chúa, dù thời gian rất ngắn cũng đừng vội vã. Hãy bước những bước đầu thật chính xác và chắc chắn. Hãy mở đầu bằng việc giúp học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha, và cứ như thế cho tới lúc họ thực sự cảm nghiệm rằng Cha đang ở trong họ, đang ủ ấp họ và đang dẫn dắt họ trên mọi bước đường. Đức tin đến từ sự gặp gỡ Thiên Chúa cách thân tình và đầy yêu mến, chứ không đến do sự nhồi nhét một mớ hiểu biết. Những hiểu biết giáo lý rất quan trọng và cần thiết, nhưng ta đừng vội. Một khi học viên bắt đầu nếm cảm được Chúa, chính họ sẽ kiếm tìm và chỉ một khám phá nhỏ họ nhận được dưới ánh sáng của Chúa đủ khiến họ miệt mài trên đường theo Chúa. Các vị hãy sớm trao Kinh Thánh vào tay học viên và giúp họ khám phá từng chút một bằng sự suy nghĩ, cầu nguyện và đổi mới đời sống theo Lời Chúa. Cũng hãy mạnh dạn khuyến khích học viên chia sẻ ơn họ đang nhận được với đồng bạn trong lớp giáo lý và cả với những người chưa tin. Một đức tin được chia sẻ sẽ tựa như lửa, cháy lan và cháy bùng lên.

Một thiếu sót lớn của cộng đồng Công giáo Việt Nam là hiện chúng ta không có những sách vở cần có cho các dự tòng và tân tòng. Sách vở Công giáo Việt Nam ngày nay phát triển hỗn độn, đang khi có những thứ thừa mứa thì sách cho trẻ em và sách cho những người muốn tìm hiểu Đạo Chúa lại quá thiếu. Cả Kinh Thánh, chúng ta có những bản dịch tốt, những sách in rất trang trọng, nhưng tìm một quyển Tin mừng theo Thánh Luca in rời để trao cho dự tòng thì không có.  Chúng ta đã có bản Tân Ước loại chữ lớn, ước gì sẽ có cả 11 chương đầu Sáng thế ký, in rời, với những chú dẫn thích hợp với người muốn tìm hiểu.

Tệ hơn nữa, khi các bạn trẻ muốn mua một quyển sách thích hợp để tặng cho bạn trai hoặc bạn gái của họ, thì không biết tìm ở đâu. Giáo hội Phật giáo có một tổ in ấn và phát hành thuộc thành hội TPHCM và từ đó sách vở Phật giáo lan tỏa đến mọi miền đất nước. Giáo hội Cao Đài cũng có một hệ thống phát hành tương tự. Phải chi Giáo hội Công giáo Việt Nam có một cơ sở tổng phát hành, rồi mỗi Giáo hạt có một bộ phận cung ứng sách cho các giáo xứ trong Hạt, các bạn trẻ sẽ dễ dàng trao tặng cho bạn bè của họ những băng đĩa và sách vở giới thiệu Tin mừng với hình thức thích hợp với tuổi trẻ. Họ có thể thành tông đồ cho những người bạn chưa tin, rồi những người bạn này khi đã được ơn đức tin, lại thành chứng nhân giữa gia đình và gia tộc của mình. Đây là trách nhiệm của các hội doanh trí tại các giáo phận. Điều Dân Chúa đang mong chờ nơi các hội doanh trí có lẽ không chỉ là đóng góp xây thêm nhà thờ nhưng là sự suy tư, động não và tích cực góp phần thiết thực để đào tạo cho Giáo hội những chứng nhân trẻ giàu tâm huyết và khả năng, mà trước mắt là cung ứng dồi dào thức ăn tinh thần cho họ. Nếu quý vị băn khoăn tìm một dự án tông đồ mang tính trí thức, tôi nghĩ dự án ưu tiên nhất cần được chọn là xây dựng cho Giáo phận của quý vị một hệ thống phát hành sách.

Tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất trong việc đào tạo người chứng trẻ thuộc về các mục tử. Khi một cha sở giành lấy cho mình việc chăm sóc những tín hữu mới, chắc hẳn ngài sẽ có hàng ngàn sáng kiến. Năm 1990 khi được gặp Đức Cha Phaolô Maria Phạm Đình Tụng tại Bắc Ninh, rồi mấy năm sau được thăm ngài tại Tòa Tổng giám mục Hà Nội, tôi rất cảm kích vì chính ngài đích thân lo cho các dự tòng trí thức. Tôi cũng gặp được một bản sao y hệt nơi người kế vị ngài là Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Cả hai vị đều là bản sao của nhóm 12 Giám mục thuở ban đầu, và hơn nữa, bản sao của chính Chúa Kitô, Đấng đã thức thâu đêm để trao đổi với một người trí thức là Nicôđêmô. Rồi cả khi đã mỏi mệt vì đường xa, ngồi bệt bên bờ giếng, Ngài không ngại dành bận tâm cho một phụ nữ đến lấy nước ở đó. Điều an ủi là cả hai đều đã trở thành những chứng nhân cho Ngài…

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ – Chia sẻ 20: DẠY GIÁO LÝ THEO KINH LẠY CHA

Tiếp tục đề tài đào tạo những người chứng trẻ trên đường loan Tin mừng cho Dòng họ, tôi xin lưu ý quý giảng viên giáo lý thêm một chút về việc dùng sách giáo lý, để học viên thấy rõ mình đang được đón nhận một Tin mừng tươi mới và diễm phúc, thay vì xem việc học giáo lý như một gánh nặng bất đắc dĩ.

Ngày nay khoa sư phạm giáo lý dự tòng đã đúc kết được những lược đồ khác nhau cho tiến trình dạy/học giáo lý dự tòng: lược đồ kinh Tin kính, lược đồ Lịch sử cứu rỗi, lược đồ Phụng vụ, lược đồ Tin mừng. Đó là những kinh nghiệm thuận lợi cho việc đào tạo đức tin. Đang khi ấy, các bản hỏi đáp, cũng gọi là sách bổn (sách phần, sách thiên) hay sách giáo lý xưa nay thường chia nội dung giáo lý thành bốn phần: tín lý, luân lý, bí tích và cầu nguyện. “Bản hỏi thưa Giáo lý Hội Thánh Công Giáo” do Ủy ban Giáo lý Đức Tin thực hiện năm 2013 cũng thế. Cấu trúc ấy dễ khiến người ta hiểu lầm rằng dạy/học giáo lý cũng giống như dạy/học những kiến thức. Việc chia thành bốn phần rất thuận lợi để dùng sau khi học xong giáo lý, để ghi nhớ những điều đã học theo một hệ thống có thứ tự lớp lang, nhưng nó không được sắp xếp theo những bước phát sinh và nẩy nở của đức tin. Muốn giúp đức tin nẩy nở và lớn lên cách thuận tự nhiên, nên trình bày theo những giáo trình biên soạn cho các dự tòng, không nên dạy tuần tự từng câu theo sách hỏi đáp. Nói cách khác, nên trình bày theo từng bài trong sách dự tòng rồi cuối bài cho ghi nhớ bằng các câu tương ứng trong sách giáo lý hỏi đáp.

Bốn sách Tin mừng là bốn quyển giáo lý đầu tiên của Hội Thánh cho thấy rõ việc dạy giáo lý không phải là truyền đạt kiến thức nhưng phải là đào tạo cho người tín hữu mới có được một đức tin sâu xa.

Với bối cảnh văn hóa nặng tính Đạo Hiếu tại Việt Nam, thiết tưởng lược đồ của sách Tin mừng Luca, cũng có thể gọi là lược đồ Kinh Lạy Cha, dễ giúp người tín hữu mới tiếp cận và đào sâu giáo lý Đạo Chúa cách hồn nhiên, và sau đó dễ chia sẻ lại với anh chị em và bà con trong dòng họ. Thật vậy, Tin mừng Luca khởi đầu với khung cảnh gia đình và gia tộc (x. Lc 1,5.36.39-45.57-66), với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Tối Cao (x. Lc 1,35), Đấng đến để lo việc của Chúa Cha và ở lại trong nhà Cha (x. Lc 2,49), Đấng thuộc về đại gia đình nhân loại, gia phả Ngài phăn ngược lên đến tận cội nguồn đầu tiên (x. Lc 3,23-38), Ngài luôn sống đẹp lòng Cha, Ngài nêu rõ bước tiến từ quan hệ huyết thống đến quan hệ Nước Trời (x. Lc 8,19-21; 9,57-61; 12,51-53),  Ngài dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha (x. Lc 11,1-4),  dạy ta tin tưởng vào tình Cha quan phòng của Thiên Chúa (x. Lc 12,22-32). Nổi bật nhất là câu chuyện về tình Cha (x. Lc 15,11-32) và tâm tình của Chúa Giêsu trên thập giá phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha (x. Lc 23,46).

Dạy giáo lý theo Kinh Lạy Cha có nghĩa là mời gọi học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha ngay từ khi mới tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Ngài, như con nhỏ thưa chuyện cùng Cha mình, với hết tình con thảo. Phần tín lý là câu chuyện tình thương của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, dành cho chúng ta. Câu chuyện này được kể chủ yếu với Tin mừng theo Thánh Luca và bổ sung bằng các sách khác: Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn (Lc 10,21), Chúa Cha và Chúa Con (Lc 10, 22), Tình Cha quan phòng (Lc 12,22-32), giàu lòng thương xót và tha thứ (Lc 15,12-32). Ngài là Cha Đức Giêsu Kitô (Lc 21,41-44), đã trao Vương quốc cho Con mình (Lc 22,28-30), Đấng luôn làm theo ý Cha (Lc 22,41-44), phó thác mọi sự trong tay Cha (Lc 23,46) và là Đấng đã làm cho Đức Giêsu từ cõi chết sống lại (Lc 24,46) và ban Thánh Thần cho môn đệ (Lc 24,48). Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại để quy tụ Gia đình con cái Thiên Chúa là Hội Thánh.

Đời sống luân lý tập trung vào nghĩa vụ của người con Thiên Chúa, với điều răn lớn nhất là mến Chúa yêu người (Lc 10,25-28), và “hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 7,36). Một khi biết được có Đấng Tuyệt Đối đang âu yếm dõi nhìn ta mọi nơi mọi lúc, thì dù không được ai ở đời này khen thưởng hay nhìn nhận, ta vẫn luôn sống xứng đáng là con cái của Ngài. Với sự quảng đại ấy, dần dần người ta sẽ được ơn nhận biết rằng “vị Thiên Chúa ấy đã yêu thế gian đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài để tất cả những ai tin vào Người Con ấy thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời” (Tin mừng theo Thánh Gioan 3,16). Chính Người Con ấy đã đến trần gian để dạy ta biết làm con cái trong gia đình trần thế và làm con của Trời Cao. Từ chỗ là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Ngài đã trở nên “Con của người”, “Con của nhân loại” và cũng là người con hiếu thảo trong một gia đình (x. Luca 2,51) để ban cho nhân loại Tinh Thần của ơn nghĩa tử, tức là Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng dạy cho mỗi người biết sống như con thảo của Cha trên trời. Bốn biển chỉ có thể là anh em một nhà khi cùng nhìn nhận một Người Cha duy nhất, quy tụ quanh một Người Con duy nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha, là Đức Giêsu Kitô, được Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời (x. Thư Hípri 13,8).

Các bí tích là những nhịp sống của người con Thiên Chúa, từ khi được tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Lc 3,16) cho tới ngày trở về với Thiên Chúa.

Trong chương trình Giáo lý Dự tòng, sau khi nói về mạc khải, nên trình bày ngay bài học về Đạo Hiếu và việc thờ cúng Ông Bà theo quan điểm Công giáo, để hóa giải thắc mắc về điểm này ngay từ đầu, trước khi đi vào toàn bộ mạc khải.

Tác giả: Lm. TTT. Võ Tá Khánh

Khói mù bao phủ một thành phố Trung Quốc qua ngày thứ ba

Khói mù bao phủ một thành phố Trung Quốc qua ngày thứ ba

Giao thông trên đường phố ở Đại Khánh, tỉnh Hắc Long Giang, ngày 21/10/2013. Cảnh báo đỏ đã được ban hành vì ô nhiễm không khí nặng tạo một số thành phố trong tỉnh Hắc Long Giang.

Giao thông trên đường phố ở Đại Khánh, tỉnh Hắc Long Giang, ngày 21/10/2013. Cảnh báo đỏ đã được ban hành vì ô nhiễm không khí nặng tạo một số thành phố trong tỉnh Hắc Long Giang.

22.10.2013

Một làn khói mù dày đặc bao phủ thành phố Cáp Nhĩ Tân miền đông bắc Trung Quốc sang ngày thứ ba, khiến nhiều chuyến bay phải hủy bỏ và một số xa lộ chính phải đóng cửa.

Dù tình hình trong thành phố 10 triệu dân này đã cải thiện một ít kể từ ngày hôm qua, mức ô nhiễm vẫn cao hơn 15 lần mức an toàn theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới.

Ngày hôm nay nhiều trường học và văn phòng vẫn đóng cửa.

Hầu hết các chuyến bay bị hoãn lại hoặc bị hủy bỏ. Truyền thông nhà nước cho biết ô nhiễm cao đến nỗi ngày hôm nay tất cả các xa lộ phải đóng cửa.

Tân Hoa Xã nói rằng tình trạng khẩn cấp này xảy ra là do  hệ thống sưởi công cộng của thành phố được mở vì mùa đông đến.

Đài truyền hình nhà nước CCTV nói sương mù sẽ tan vào cuối ngày hôm nay.

Ô nhiễm do phát triển nhanh và sử dụng than đá tràn lan tại Trung Quốc, khiến cho các nhà lãnh đạo nước này phải hứa sẽ tìm cách cải thiện.

Chính phủ Trung Quốc đã hứa trong nhiều năm là sẽ giải quyết vấn đề ô nhiễm, nhưng chỉ có một ít tiến bộ.

Kinh Sách Của Nước Vệ

Kinh Sách Của Nước Vệ

Phạm Lưu Vũ

Khổng Tử và các đệ tử.

Hình ảnh chỉ là minh họa.

Kinh sách của nước Vệ

(Trích Luận ngữ tân thư)

Nghe nói đến viếng nhà có tang thì cơm không được ăn no, rượu không được uống cạn. Về đến nhà rồi thì hết ngày không ca hát, không cười cợt, quần áo phải thay ra, ba ngày không được gần thê thiếp… Người đang có tang thì cả năm không đi dự giỗ chạp, khai trương, cưới hỏi… của bất cứ nhà ai… Chắc không chỉ vì “Lễ“ quy định phải như vậy. Lại nghe nói sinh khí thuộc về dương, tử khí thuộc về âm. Người thông minh, sáng suốt thuộc về dương, kẻ u mê, lú lẫn thuộc về âm. Người lương thiện, tử tế thuộc về dương, kẻ bất lương, đểu cáng thuộc về âm. Quân tử thuộc về dương, tiểu nhân thuộc về âm. Cả đến thiện, ác; chân, ngụy cũng phân biệt như vậy, thiện thuộc về dương, ác thuộc về âm, v.v… Thánh nhân đặt ra phép cúng tế quỷ thần, quy định “Lễ“ đối xử với người chết chắc không phải vì Thánh nhân mê tín dị đoan. Chính vì sợ sẽ diễn ra cái buổi âm thịnh, dương suy trên cõi trần (gian) này vậy…

Vẫn “Lời tựa“ trong Luận ngữ Tân thư. Sau đây lại xin trích một phần của bộ sách đó:

Khổng Tử một hôm giảng về Lễ (phép tắc, pháp luật…). Lễ của Ngài bao trùm cả cái nhẽ sinh tử của cuộc đời. Hết “sinh“ rồi đến “tử“.  Riêng “Lễ“ về “tử“ của Ngài thì chung quy chỉ bốn bài sau đây là gồm hết.

Thứ nhất: Có cái chết là sự tiếp tục của những đạo lý lớn trong thiên hạ (“Tử vi Thánh nhânchết thành Thánh nhân, như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Văn Vương, Chu công …).

Thứ hai: Có cái chết là sự tiếp tục của một sự nghiệp trong đời (“Tử vi hiền nhânchết thành hiền nhân, như Cơ Tử, Tỷ Can, Tử Văn, Quản Trọng…).

Thứ ba: Có cái chết đơn giản là sự trở về cõi vĩnh hằng (“Tử vi sa trầnchết thành cát bụi, lành như cát bụi, lẽ thường của vạn kiếp sinh linh). Song để đạt được những điều đó, thì tất cả những người chết đều phải được người sống đối xử sao cho đúng với “Lễ“.  Thuận theo Lễ thì cát (gặp được yên ổn). Nghịch theo Lễ thì hung (gặp phải hiểm họa), có khi hậu quả không biết thế nào mà lường được. Cái đó gọi là: “Tử phù đạo tặc“ (cái chết giúp rập cho trộm cướp).

Tài tử Hồng Kông Châu Nhuận Phát trong vai Khổng Phu Tử (movie about Confucius)

Giảng đến bài này, Ngài nói: “Bản thân cái chết không có lỗi gì. Chính những kẻ đang sống mới cố tình làm cho cái chết ấy biến thành một hiểm họa trong đời đấy thôi“.  Nói đến đó, Ngài bỗng trầm ngâm, chưa biết phải lấy thí dụ thế nào cho các học trò hiểu thì vừa lúc ấy, gia nhân báo có người muốn xin vào gặp để biếu kinh sách. Khổng Tử mừng rỡ nói:

“May quá! Kẻ mang cái thí dụ sinh động ấy đến vừa kịp lúc, vừa kịp lúc“.

Học trò nhìn nhau ngơ ngác, chưa hiểu Ngài nói thế là có ý gì thì thấy một người ôm một chồng sách khệ nệ bước vào. Người ấy mặt chuột tai lừa, đầu đội mũ cánh chuồn, trang phục cũng ra dáng kẻ sĩ, chỉ tội ánh mắt hết sức u tối. Cẩn thận đặt những cuốn sách mạ vàng lên một chiếc đôn, người ấy bước đến trước mặt Khổng Tử vái dài một cái. Chưa kịp nói gì thì Khổng Tử đã hỏi ngay:

“Tiên sinh từ nước Vệ tới đây có phải không?“.

Người ấy giật nảy mình, trợn mắt kinh ngạc, hỏi:

“Cớ sao Phu Tử lại biết tôi là người nước Vệ?“.

Khổng Tử trả lời:

“Trên người tiên sinh có mùi tử khí. Vì thế mà tôi biết“.

Người đó hoảng sợ rùng mình một cái. Vội vàng hỏi tiếp, giọng có vẻ hơi bất bình:

“Chẳng hay Phu Tử muốn rủa tôi, mong cho tôi chết sớm hay sao? Tôi đường đường đại diện cho kẻ sĩ của cả nước Vệ, còn đang sống khoẻ mạnh, minh mẫn thế này. Tại sao Phu Tử lại bảo tôi có mùi tử khí?“.

Khổng Tử vẫn thản nhiên nói:

“Tất cả người nước Vệ hiện thời đều có mùi tử khí hết. Vì thế, trong nước không ai ngửi ra đấy mà thôi. Khâu (tên tục của Khổng Tử) này nghe nói tử thi thì phải được chôn xuống đất hoặc đốt thành tro bụi. Nếu để quá một tuần (mười ngày), thì âm khí sẽ ám đến phạm vi một thành. Quá trăm ngày, âm khí sẽ càng loang rộng ra, ám đến phạm vi châu, quận… Hôm trước Khâu này xem thiên văn, trông về hướng địa giới nước Vệ, thấy âm khí đã ám đến tận trời, trùm khắp cả bờ cõi. Tất trong nước có tử thi đã để quá ba năm chưa chôn“.

Người đó nghe nói thì sợ toát mồ hôi. Bèn nghĩ lại việc nước mình. Quả vua Vệ là Linh Công chết đã lâu, nhưng đám con cháu chỉ mải lo giành nhau ngôi báu, lại thấy cứ để như thế xem ra còn có cớ mà tha hồ bịp bợm. Vì thế nhất quyết không chịu đem chôn. Thật là những kẻ vì lợi mà sẵn sàng quên cả hiếu. Có biết đâu cái món âm khí ấy nó lại ghê gớm đến thế. Bèn hỏi:

“Vậy bây giờ Phu Tử bảo phải làm thế nào?“.

Khổng Tử nói:

“Lại còn làm thế nào ư? Sở dĩ âm khí đã dâng lên trùm kín cả bờ cõi, bởi nước Vệ của tiên sinh bây giờ, tất cả những gì thuộc về âm đều đang thịnh, tất cả những gì thuộc về dương đều đang suy, danh và thực đều loạn, thật và giả đều lẫn lộn. Điều ấy chỉ có lợi cho bọn ăn cướp mà thôi. Đó chính là thời vận cực thịnh của lũ tiểu nhân và những kẻ chuyên nghề trộm cắp, bịp bợm. Nay người chết thì phải đem chôn, thế thôi. Có điều, đã nhiễm phải âm khí nặng như vậy thì người nước Vệ đời nay tất bị u mê, lại hay trí trá lắm, khó mà tiếp thu được đạo lý. Cứ tiếp diễn mãi như thế này, e rằng thế gian ngày nay không tìm đâu ra một qui tắc nào khả dĩ có thể áp dụng cho người nước Vệ được. Có lẽ phải đợi đến những đời sau may ra…“.

Kẻ sĩ người nước Vệ tất nhiên chẳng đời nào chịu công nhận những điều đó. Bèn hướng cặp mắt u tối về phía Khổng Tử mà cãi:

“Nước Vệ tôi xưa nay rất chú trọng đến việc dạy dân. Những kẻ sĩ danh giá đi lại ngoài đường, ngoài chợ đông như rắc trấu, ai ai cũng có thể làm ra văn chương, thi phú, chính sự được ca tụng hết lời, pháp luật mỗi ngày mỗi đẻ ra những cái mới. Trăm họ yên ổn làm ăn, không ai nói ngược lại cái điều mà kẻ bề trên muốn nghe. Lại có một nền giáo dục hoành tráng, vẫn thường tự đánh giá là cao nhất nhì thiên hạ. Sao Ngài lại bảo người nước Vệ tôi u mê, trí trá, không tiếp thu được đạo lý?“.

Khổng Tử trả lời người kia mà như muốn nói với cả các học trò của mình:

“Dạy học mà không hề thấy dạy cách làm người, chỉ dạy cách làm tiền. Chưa học làm người đã bổ làm quan chỉ vì chạy chọt hoặc là con ông, cháu cha. Thậm chí khối kẻ làm quan rồi mới đi học. Lại còn tha hồ mua bán danh hiệu, quan tước… Thì đó là cái nền giáo dục gì vậy? Dạy dân bằng đức hơn là bằng lệnh. Huống chi nước Vệ bây giờ chỉ ra sức chú trọng đến việc nhồi nhét cho học trò những kiến thức sặc mùi âm khí, dùng bịp bợm làm quốc sách giáo dục, lấy đen làm trắng, lấy không làm có, lấy ác làm thiện… Kẻ trên leo lẻo dối trá không biết ngượng mồm, kẻ dưới uốn mình nịnh hót không biết xấu mặt. Lại tùy tiện đẻ ra cái gọi là pháp luật để lừa mị, cưỡng ép người ta phải công nhận mình. Lại nhân danh trăm họ để thi hành bạo ngược, không cho ai có quyền được nghĩ tới chân lý, không cho phép ai được nói ra sự thật, khiến cho người người u mê, nhà nhà lú lẫn, nhìn gà hóa cuốc, nhìn kẻ cướp hóa người ngay, đánh đồng lưu manh với lương thiện… Từ đó con người sinh ra thói nhịn nhục, đớn hèn, nhất nhất chỉ biết chạy theo của cải, hư danh… Dạy dân như thế thì khác nào ngu dân có chủ ý, ngu dân bằng mọi giá, mọi thủ đoạn. Cái gọi là nền giáo dục ấy càng “hoành tráng“ bao nhiêu thì càng hỏng nặng bấy nhiêu. Làm hỏng một nhà đã phải ăn năn, sám hối. Đằng này lại làm hỏng cả một nước thì tội lỗi để đâu cho hết. Thế mà không gọi là u mê, trí trá thì gọi là cái gì?“.

Kẻ sĩ người nước Vệ kia nghe Khổng Tử thuyết liền một hồi như vậy mà vẫn không cho làm phải, nét mặt vẫn có vẻ ấm ức, không phục. Quả là sự u mê đã ngấm đến tận xương tuỷ. Phải cái tội y đang ở vào địa vị là khách, chẳng lẽ lại cãi nhau mãi với bậc Thánh nhân đã nức tiếng thiên hạ này. Song nghĩ bụng cũng phải cố vớt vát thêm vài câu để giữ thể diện quốc gia. Y bèn chỉ vào đống sách mang theo và nói:

“Phu Tử bảo người nước Vệ tôi hiện toàn những kẻ u mê, trí trá. Vậy sao lại có thể viết ra những cuốn kinh sách, những bộ giáo khoa mạ vàng như thế này được. Chính tôi được sai mang sang đây tặng Phu Tử, để Phu Tử bổ sung vào kho tàng kinh sách của Ngài cho thêm phần phong phú đấy“.

Khổng Tử nghe y nói thì vội vàng dùng một tay kéo vạt áo lên che mặt, tay kia xua lấy xua để mà bảo:
“Mang về ngay đi. Mang về ngay đi. Những thứ gọi là kinh sách với lại giáo khoa gì đó của nước ngài càng nặng mùi âm khí lắm. Nước Lỗ ta từ lâu đã vứt hết vào sọt rác rồi. Không tin ngài cứ ra ngoài bãi rác mà bới thử xem. Hãy tìm trong những mớ giấy lộn ấy, may ra vẫn còn sót một ít đấy“.

Kẻ sĩ người nước Vệ đành tiu nghỉu ôm đống kinh sách của nước mình ra về. Bài giảng của Khổng Tử về “Lễ“ đến đó cũng vừa chấm dứt.

Hôm ấy, trong số các học trò ngồi nghe Khổng Tử nói, có Tử Lộ (Trọng Do) là người cũng không hẳn tin rằng nước Vệ lại hỏng đến mức ấy, bèn quyết chí sang bên đó làm quan một phen xem sao. Tử Lộ những tưởng với đức độ, học vấn và cái dũng của mình, thì có thể cứu được dân chúng nước Vệ thoát khỏi mê muội, gian xảo chăng! Kết quả việc không thành. Tử Lộ chưa kịp thi thố điều gì thì đã bị chết bất đắc kì tử tại ngay chính nước Vệ. Thế mới biết cái thứ âm khí ấy ở nước Vệ quả là rất độc đối với người quân tử. Thương thay! Có lẽ từ câu chuyện trên mà về sau, các nhà chép sử thường ca ngợi nước Lỗ là một nước có “Lễ“ sáng sủa nhất thiên hạ thời bấy giờ chăng?

Phạm Lưu Vũ

Vụ Án xét lại chống đảng – phần 1

Vụ Án xét lại chống đảng – phần 1

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-10-22

10222013-xetlaichongdang-1-ml.mp3

033_ria04-025846_3000-305.jpg

Chủ tịch Hội đồng Liên bang Xô viết Nikolai Kosygin (bên phải), Chủ tịch Đảng lao động Việt Nam Đảng Hồ Chí Minh (giữa) và Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Phạm Văn Đồng (phải) tại Hà Nội ngày 06/02/1965.

AFP photo

Cho tới nay vụ án mang tên “Xét lại chống đảng” vẫn chưa bao giờ được chính thức nhìn nhận trong hệ thống chính trị Việt Nam mặc dù gần ba trăm nạn nhân của nó đã lên tiếng bằng nhiều cách.

Mặc Lâm tìm hiểu hồ sơ vụ án qua lời kể của nhân chứng, nạn nhân trực tiếp trong vụ án này nhằm soi rọi phần nào các oan khuất mà chế độ vẫn cố che dấu. Loạt bài được chia làm 4 phần, phần thứ nhất mang tên: Khi tượng đài bị đạp đổ.

Khi tượng đài bị đạp đổ

Ngày 16 tháng 10 năm 2013, ông Bela Biszku, Bộ trưởng nội vụ Hungary, 92 tuổi bị tòa án Hungary truy tố tội “đồng lõa với những hành vi tội ác” vì đã ra lệnh hay bao che cho những hành động đàn áp sau khi quân Liên Xô dập tắt cuộc nổi dậy của nhân dân Hungary giết chết hơn 50 người, đa số là sinh viên.

57 năm trước khi phiên tòa xử biến cố đẫm máu này, ngày 23 tháng 10 năm 1956 vào lúc 9 giờ 30 sáng nhân dân Hungary đã lật đổ tượng đài Stalin trước khi cuộc nổi dậy chống Liên Xô bị xe tăng Liên Xô dìm trong biển máu.

Bốn tháng sau đó, một tượng đài khác của Stalin bị lật đổ ngay tại quê hương của lãnh tụ khát máu này. Nhưng lần này thì không phải là tượng đài bằng đồng ngoài công viên hay quảng trường Kremlin của Liên Xô mà là tượng đài trong lòng người cộng sản vốn bị nhồi sọ tâm lý tôn sùng lãnh tụ.

Cụm từ “tệ sùng bái cá nhân” được mang ra trước đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 tổ chức vào ngày 25 tháng 2 năm 1956 bởi Nikita Sergeyevich khrushchyov Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô đọc trong một cuộc họp kín, tố cáo sự sùng bái Stalin do lợi ích cục bộ và bên cạnh đó Khrushchyov cũng mạnh mẽ lên tiếng xác định lập trường sống chung hòa bình với các nước tư bản mà trước đó Stalin luôn coi là kẻ thù cần phải đấu tranh chống lại bằng mọi phương tiện.

Sống chung hòa bình, một cải tổ khó chấp nhận

033_RIA10-730814_3544-200.jpg

Hà Nội kỷ niệm ngày sinh Lê Nin năm 1970. AFP photo

Ý tưởng mới mẻ này đã lan nhanh trong thế giới cộng sản và bốn năm sau đó, tháng 11 năm 1960 Đại hội Quốc tế Cộng sản tổ chức tại Liên Xô có 81 đảng cộng sản tham dự thì 70 đảng ủng hộ đường lối này của Khrushchyov, còn lại 10 đảng không đồng tình, dẫn đầu là Đảng Cộng sản Trung Quốc, và đảng duy nhất đứng giữa không theo bên nào là Việt Nam lúc ấy còn giữ danh xưng Đảng Lao Động Việt Nam.

Đại tá Bùi Tín nguyên Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân cho biết hoàn cảnh lúc ấy:

Trong đại hội quốc tế đó thì mới bắt đầu chia rẽ. Tại đại hội đó có 70 đảng theo Liên-xô, gần 10 đảng theo Trung Quốc. Lúc đó đảng Lao động Việt Nam đứng giữa, rất thận trọng, tính đứng ra hòa giải chứ không chia rẽ nên không tuyên bố. Trong thời kỳ đầu ông Hồ Chí Minh tham gia có ý ngả về Liên-xô nhưng khi trở về năm 61-62 thì ngày càng bị Mao Trạch Đông rồi Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ lôi kéo. Viện trợ của Trung Quốc sau Điện Biên Phủ vẫn còn rất lớn cho nên theo quan điểm của ông Trường Chinh thì có phần ngả về Trung quốc.


“Viện trợ của Trung Quốc sau Điện Biên Phủ vẫn còn rất lớn cho nên theo quan điểm của ông Trường Chinh thì có phần ngả về Trung quốc.
– Đại tá Bùi Tín”

Trước những chuyển biến có tính cách bước ngoặc ấy, Trường Chinh đã giao cho ông Hoàng Minh Chính lúc ấy đang là chủ tịch Viện Triết học soạn thảo văn kiện đi dự đại hội Cộng sản quốc tế còn được gọi là Đại hội 81. Bà Lê Hồng Ngọc vợ ông Hoàng Minh Chính kể lại chi tiết về việc này:

Hồi anh Chính ở bên Liên Xô về thì anh ấy theo quan điểm của Khrushchyov. Khi anh ấy đang làm ở Viện Triết thì ông Trường Chinh gọi lên nói rằng Hoàng Minh Chính đi học ở bên ngoài về và bây giờ trong Bộ chính trị đang tranh cãi nhau về Liên Xô và Trung Quốc rằng có nên đi dự đại hội 81 của Đảng Cộng sản không? Bây giờ giao cho Hoàng Minh Chính tập hợp tài liệu viết một số ý kiến để trình bày với Bộ chính trị. Sau đó ông Chính về mời ông Hà Xuân Trường là thông gia của nhà tôi với ông Trần Minh Việt ( Phó bí thư thành ủy Hà Nội ) ba ông họp nhau lại cùng bàn bạc viết bài đó để mà trình bày cho Bộ chính trị về năm quan điểm của Khrushchyov và của Mao chống nhau như thế nào, và tại sao lại nên theo quan điểm của Khrushchyov.

Ông Trường Chinh hỏi rằng chuyện này có tiền lệ không? Ý ông ấy muốn hỏi là muốn giành độc lập tự do mà không cần đánh nhau, đổ máu, thì ông Chính trả lời là có. Mấy hôm sau họp Bộ chính trị với bài của ông Chính và Bộ chính trị nhất trí với bài viết này và chuẩn bị cử người tham dự đại hội đảng 81. Nhưng không ngờ chỉ ít lâu sau quan điểm ấy lại bị bác và quay lại với quan điểm của Trung Quốc.

Trở mặt với đồng chí

000_SAPA990218235100-250.jpg

CT Hồ Chí Minh (thứ 2 từ phải) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (trên, trái) bàn về một chiến dịch quân sự ở Việt Nam vào năm 1950. AFP photo

Trước khi Đại hội 81 khai mạc thì phe theo Trung Quốc đã lập được Nghị quyết 9 với nội dung “Ðường lối đối nội, đối ngoại của đảng và nhà nước là thống nhất về cơ bản với đường lối đối nội đối ngoại của đảng và nhà nước Trung Quốc.”

Vốn là người ủng hộ nhiệt tình tư tưởng xét lại theo kiểu Liên Xô, Hoàng Minh Chính không chấp nhận sự Bắc thuộc này và ông đã nhanh tay tuồn văn kiện của ông viết có tên: “Về Chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” cho nhiều người ngay trong Hội nghị Trung ương 9, trong ấy có những bản được chuyển tới cho một số ủy viên Trung ương đảng.

Bà Lê Hồng Ngọc vợ của ông Hoàng Minh Chính nhớ lại việc này như sau:

Sau khi đi học Liên Xô về anh cũng có kể cho tôi nghe vài câu chuyện là anh rất tin tưởng vào đảng Cộng sản Liên Xô và muốn đảng mình theo đảng Cộng sản Liên Xô để đổi mới. Anh ấy cho rằng đảng mình sẽ có sự thay đổi cho nên là anh nói từ khi anh học ở Liên Xô cho đến khi về trong nước anh vẫn kiên trì nói lên cái quan điểm mà anh cho là đúng. Anh chống Trung Quốc, không bằng lòng với Trung Quốc.


“Sau khi đi học Liên Xô về anh cũng có kể cho tôi nghe vài câu chuyện là anh rất tin tưởng vào đảng Cộng sản Liên Xô và muốn đảng mình theo đảng Cộng sản Liên Xô để đổi mới.
– Bà Lê Hồng Ngọc “

Trước chủ trương hoà hoãn, sống chung hòa bình với thế giới tư bản của Khrushchyov, Việt Nam đứng giữa hai chọn lựa, nếu theo Liên Xô sẽ không hướng đến việc tham gia cuộc chiến với miền Nam bằng chiến tranh giải phóng, với xương máu và có thể làm cho Mỹ tham gia cuộc chiến. Nếu chọn Trung Quốc có nghĩa sẽ chọn học thuyết cứng rắn của Mao Trạch Đông tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam càng sớm càng tốt.

Phe theo Trung Quốc gồm Lê Duẩn, Tổng bí thư, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam, Lê Đức Thọ, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, cũng là người vẽ ra học thuyết chống chủ nghĩa xét lại của Liên Xô, Trần Quốc Hoàn Bộ trưởng Công an.

Trong khi đó nhóm lớn hơn ngả theo khuynh hướng thân Liên Xô như: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ chính trị, chủ tịch Quân ủy, bộ trưởng Quốc phòng. Nguyên Ngoại trưởng Ung văn Khiêm, Ủy viên Bộ chính trị Dương Bạch Mai, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Minh Việt, Bùi Công Trừng, Hoàng Minh Chính.

Thanh trừng hay xử lý nội bộ?

Năm 1967, hơn 40 nhân vật quan trọng bị bắt ở Hà Nội với cáo buộc đã theo đuổi chủ nghĩa xét lại. Việc bắt giữ Thứ trưởng Bộ quốc phòng Nguyễn Văn Vịnh và tướng Đặng Kim Giang để ép hai ông này cung khai tội danh phản quốc áp đặt lên đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giáng một đòn nặng nề lên những người thân cận với ông. Vụ thanh trừng này được ông Nguyễn Minh Cần, Ủy viên Thành ủy Hà Nội và là Phó chủ tịch Ủy ban hành chính Hà nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà nội, một người chọn ở lại Liên Xô khi vụ án diễn ra cho biết:

“Ông Võ Nguyên Giáp có phải đâu là người phản quốc, chống đảng. Ông là người rất có công với Đảng và rất có công với đất nước nhưng ông ấy không tán thành đường lối của Trung Quốc.
– Ông Nguyễn Minh Cần”

Ông Võ Nguyên Giáp có phải đâu là người phản quốc, chống đảng. Ông là người rất có công với Đảng và rất có công với đất nước nhưng ông ấy không tán thành đường lối của Trung Quốc. Nhưng ông khéo lắm vì ông biết cái thế của ông. Vậy mà người ta cũng tìm cách gạt ra. Có thời kỳ ông phải đi làm cái việc mà người dân gọi là Đại tướng mà đi đặt vòng…họ đưa những người dưới tay của ông ấy lên để chỉ huy và kềm kẹp ông.

Vụ án vẫn không thể khép lại sau cái chết của Tướng Giáp vào ngày 4 tháng 10 năm 2013 vì sau lưng ông vẫn còn nhiều người còn sống cần được minh oan, mà lớn nhất là cái chết của ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và người con trai của ông là nhà văn Vũ Thư Hiên đã ngậm đắng nuốt cay nhiều năm trời trong các nhà tù mà không biết mình phạm tội gì đối với nhân dân, đất nước.

*Quý vị vừa theo dõi phần đầu của Vụ án xét lại chống đảng, mới quý vị theo dõi tiếp phần hai có tựa “Chống Đảng hay chống Tướng”trong phần kế tiếp.

VINH QUANG VĨNH CỬU

VINH QUANG VĨNH CỬU

“Đây là tất cả những gì cần thiết để trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu; đó là từ chối chính mình, và từ bỏ những gì con người mình ưa thích.  Chúng ta có mong muốn được hưởng ơn Cứu Độ không? Như vậy thì chúng ta cần phải chinh phục tất cả để được đảm bảo tất cả.  Tồi tệ nhất là một linh hồn cho phép thân xác hướng dẫn nó bằng tình yêu tự kỷ!

Hãm mình có hai cách: bề trong(interior) và bề ngoài (exterior).  Hãm mình bên trong thì chinh phục được đam mê, và đặc biệt là những đam mê chiếm hữu chúng ta nhiều nhất.  Ai không thể vượt qua được những đam mê ấy thì có nguy cơ bị mất.  Ngược lại, ai chinh phục được nó sẽ dễ dàng chinh phục được tất cả những yếu điểm còn lại.  Tuy nhiên, có một số người bị ảnh hưởng bởi những điểm yếu khác, nhưng họ nghĩ họ là những người tốt vì họ không bị ảnh hưởng bởi những điều xấu mà họ thấy nơi người khác.  “Nhưng những gì sẽ ảnh hưởng đến điều này?”  Thánh Cyril nói: “một khe hở nhỏ cũng đủ để đánh chìm con thuyền.”  Lắm lúc chúng ta dùng biện pháp vô ích và nói “Tôi không thể tránh tật xấu này,” một ý chí kiên quyết sẽ vượt qua tất cả, khi chúng ta biết dựa vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, điều mà chúng ta chẳng bao giờ thiếu.”
– Thánh Alphonsus Maria de Liguori –

Trong thơ của Thánh Phaolô gởi Timôthê (Tm 2:8-13), ngài nói đến Lời Chúa chẳng bao giờ là xiềng xích trói buộc con người, nhưng Lời Chúa dẫn chúng ta đến một vinh quang vĩnh cửu.  Chính Chúa Giêsu sẽ là người dẫn chúng ta đến vinh quang vĩnh cửu ấy.  Vậy, chúng ta hãy dừng lại chốc lát và ngồi lại với chính mình để cảm nhận trong con tim của mình xem “vinh quang vĩnh cửu” đó có ý nghĩa gì với mỗi người chúng ta.  Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều về “vinh quang vĩnh cửu;” tuy nhiên, chúng ta có thể đã nghe nhiều nhưng có bao giờ cảm nghiệm được ý nghĩa của lời đó bao giờ chưa?  Hay chúng ta có bao giờ thắc mắc về ý nghĩa của sự “vinh quang vĩnh cửu” mà Giáo Hội luôn nhắc đến không?  Chúng ta có thể nghe lời dạy đó bằng tai, biết bằng trí óc, nhưng sự hiểu biết về những điều Chúa dạy thật sự đến từ con tim của chúng ta.  Chỉ có Chúa mới dạy cho chúng ta hiểu những gì Ngài dạy trong con tim của mình.

Nói như vậy thì “vinh quang vĩnh cửu” có phải là một cái gì đó mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận được khi chúng ta lìa trần, hay là chúng ta có thể cảm nhận được điều đó ngay khi chúng ta còn sống? Khi nói đến “vinh quang”, chúng ta có lẽ nghĩ đến ánh sáng chói ngời.  Chúng ta nghĩ đến những vinh dự trước đám đông hay được tôn vinh.  Còn “vĩnh cửu” thì trường tồn hay bất diệt. Để giúp chúng ta hiểu về sự “vinh quang vĩnh cửu”, chúng ta hãy dùng câu chuyện sau đây:

Có một câu chuyện thần bí về một giáo sĩ Do Thái và các học trò của ông.  Một ngày kia khi thầy trò đi dạo, người thầy hỏi, “Làm thế nào chúng ta có thể biết được lúc nào là bình minh – lúc mà đêm kết thúc và ngày bắt đầu?”

Không ai dám trả lời câu hỏi ấy ngay, và họ tiếp tục đi.  Một trong những đệ tử trả lời: “có phải khi mình có thể phân biệt được giữa con sói và con cừu từ một khoảng cách không xa lắm không?
“Không,” người thầy trả lời.  Một khoảng thinh lặng dài tiếp theo.
“Có phải khi chúng ta có thể phân biệt được cây nho và bụi gai,” một người học trò khác mạnh dạn trả lời.
“Cũng không phải,” vị thầy trả lời.
“Hãy dạy cho chúng con biết câu trả lời ấy,” một học trò lên tiếng, “Làm sao có thể biết được lúc nào là bình minh đã xua tan bóng đêm?”
“Bình minh đến với mỗi người chúng ta,” người thầy già khôn ngoan nói, “khi chúng ta nhìn vào khuôn mặt của một người khác và – nhờ ánh sáng đến từ bên trong chúng ta – nhận ra rằng ngay cả một người lạ cũng là anh chị em của chúng ta.  Cho đến khi đó, nó vẫn là đêm.  Cho đến khi đó, đêm vẫn còn ở với chúng ta.”

Thứ ánh sáng tự bên trong mà có thể xua tan bóng đêm ấy trong câu chuyện chính là ánh sáng chiếu rọi từ “vinh quang vĩnh cửu” của Đấng đã chiến thắng sự tối tăm và đang hiện diện trong chính mỗi người chúng ta qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể.  Bởi thế sự “vinh quang vĩnh cửu” không phải là một cái gì đó mà chúng ta phải đợi để có thể nhận ra được khi lìa trần nhưng chúng ta có thể sống ngay từ bây giờ, và qua ánh sáng đó chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa trong mỗi người.  Ánh sáng đó chính là bình minh trong con tim của chúng ta.  Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ khi chúng ta còn sống cũng là Thiên Chúa chúng ta mong mỏi được gặp khi chúng ta lìa trần, và Ngài luôn chia sẻ tất cả những gì là của Ngài cho tất cả mọi tạo vật, kể cả “vinh quang vĩnh cửu” ấy của Ngài.

Nhưng để được hưởng ánh sáng chiếu rọi từ “vinh quang vĩnh cửu” ấy, chúng ta cần phải từ bỏ con người mình (chết đi cái tôi), từ bỏ ánh sáng đến tự chính mình vì thứ ánh sáng ấy không phải là ánh sáng thật và tinh tuyền vì nó mang nhiều màu sắc.  Những màu sắc ấy là những gì chúng ta thâu lượm được trên con đường làm người của mình, chẳng hạn như những ham muốn có được những gì chúng ta muốn, hoặc thấy những ai mình ưa thích thì tốt còn những ai làm gì đến mình thì mình gọi họ bằng những lời lẽ không xứng đáng, hoặc chúng ta nhìn người khác mầu da bằng những ánh mắt khinh chê, hoặc chúng ta nhìn người khác với sự đam mê thầm kín.

Như chúng ta cũng đã biết, ánh sáng mang mầu sắc luôn che khuất ánh sáng thật mặc dầu ánh sáng thật luôn hiện diện ở đó, và ánh sáng thật chỉ có thể được lộ diện khi mọi màu sắc được tắt đi.  Thật sự màu sắc không phải là thật, vì nếu không có ánh sáng, thì không có màu sắc vì màu sắc là phản ánh của ánh sáng.  Thánh Phaolô nói “nếu chúng ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta” – nếu chúng ta còn để ánh sáng màu sắc của mình chiếu rọi thì ánh sáng tinh tuyền của Thiên Chúa sẽ bị che lấp; “nếu chúng ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín vì Người không thể từ bỏ chính mình” – ánh sáng thật của Thiên Chúa luôn hiện diện mặc dù lắm lúc chúng ta chọn để cho màu sắc của chúng ta chiếm hữu lấy tâm hồn mình hoặc dùng ánh sáng của chính mình để tự toả sáng và lấp đi ánh sáng của Chúa, nhưng Thiên Chúa không có thể rút Ngài ra khỏi những gì Ngài đã tạo dựng vì chính Ngài là ánh sáng thật duy trì mọi tạo vật, và không có Ngài thì không có gì hiện hữu, không có Ngài sẽ không có ánh sáng, không có bình minh trong lòng con người.

Vì thế, chúng ta cần xin ơn để được chết đi chính con người mình để chúng ta được sống trong sự “vinh quang vĩnh cửu” của Thiên Chúa, để chúng ta được sống trong ánh sáng của Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.  Ước gì chúng ta biết từ bỏ chính mình và những gì mình ưa thích, qua đó chúng ta biết tắt đi những màu sắc bằng cách không nhìn người khác với những đam mê riêng tư hoặc thành kiến của mình, nhưng nhìn mọi người bằng ánh sáng thật phản ánh từ “vinh quang vĩnh cửu” của Thiên Chúa.

Củ Khoai, 10/2013

From: langthangchieutim