Bà Diana Nyad thực hiện thành công giấc mơ bơi từ Cuba sang Mỹ
Bà Diana Nyad thực hiện thành công giấc mơ bơi từ Cuba sang Mỹ
Bà Nyad về đến Key West, mỏm cực nam của tiểu bang Florida vào 2 giờ chiều thứ Hai, hoàn tất đoạn đường dài 177 km sau 53 tiếng đồng hồ.
02.09.2013
Vận động viên bơi lội đường dài người Mỹ 64 tuổi Diana Nyad đã thực hiện được giấc mơ của cuộc đời, trở thành phụ nữ đầu tiên bơi ngang vùng biển nguy hiểm từ Cuba sang Mỹ mà không có lồng bảo vệ chống cá mập.
Bà Nyad đã về đến Key West, mỏm cực nam của tiểu bang Florida vào 2 giờ chiều thứ Hai, hoàn tất đoạn đường dài 177 km sau 53 tiếng đồng hồ.
Bà có vẻ mệt mỏi và cháy nắng, hai môi sưng phồng. Ngay khi lên bờ, bà đã được đưa lên băng ca để chăm sóc và vô nước biển.
Hàng trăm người đứng trên bờ đã theo dõi và hoan hô bà.
Đây là lần thứ 5 và cũng là lần cuối cùng bà định thực hiện giấc mơ của mình, kể từ lần đầu tiên vào năm 1978, khi bà 28 tuổi.
Lần mới nhất là vào năm 2010, bà phải hủy vì kiệt sức, bị sứa cắn, và trời muốn bão.
Lần này, bà mang một mặt nạ được thiết kế đặc biệt để làm các con sứa sợ hãi, cùng với bộ trang phục đặc biệt, có bao tay và giày.
Vận động viên bơi lội Susan Maroney, người Australia, đã hoàn tất đoạn đường này vào năm 1997, lúc 22 tuổi, và có lồng bảo vệ chống cá mập.
Syria: Vatican giải thích lý do Đức Giáo hoàng từ chối can thiệp quân sự
Syria: Vatican giải thích lý do Đức Giáo hoàng từ chối can thiệp quân sự
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi đến Quảng trường Thánh Phêrô, ngày 04/09/2013.
Reuters
Sáng nay, 05/09/2013, Vatican đã triệu tập các đại sứ toàn thế giới tại Tòa Thánh để giải thích với họ lý do vì sao Đức Giáo hoàng Phanxicô chống mọi can thiệp quân sự vào Syria.
Cuộc họp hôm nay được triệu tập sau khi Đức Giáo hoàng mở cuộc vận động ngoại giao nhằm ngăn chận một cuộc can thiệp quân sự vào Syria, 10 năm sau khi cố Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị vận động chống cuộc chiến tranh Irak do Hoa Kỳ phát động.
Vatican và Đức Giáo hoàng đã quyết định dùng mọi phương tiện, kể cả các trang mạng xã hội, để huy động người Công giáo, cũng như tín đồ các tôn giáo khác và những người không tín ngưỡng, tham gia một ngày nhịn ăn và cầu nguyện vào thứ bảy tới ở khắp nơi trên thế giới nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh ở Syria. Đích thân Giáo hoàng sẽ chủ trì một buổi cầu nguyện tối thứ bảy trên quảng trường thánh Phêrô.
Chủ nhật vừa qua, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã dùng những lời lẽ rất cứng rắn để lên án việc sử dụng vũ khí hóa học ở Syria và đã thẳng thừng bác bỏ mọi can thiệp quân sự của nước ngoài. Ngài tuyên bố: “Việc sử dụng bạo lực không bao giờ dẫn đến hòa bình. Chiến tranh sẽ kéo theo chiến tranh”. Lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng đã nhận được sự ủng hộ của lãnh đạo các tôn giáo khác.
Cafe Cộng & Nghị định 72
Huy Đức
Quyết định cho an ninh điều tra quán cafe Cộng và việc áp dụng Nghị định 72 cho thấy, cho dù có ăn bò Kobe và xài I-phone, tư duy của những người cầm quyền vẫn không thoát ra khỏi vỏ bobo của thời bao cấp.
Không phải tự nhiên mà Cafe Cộng có thể trở thành chuỗi. Chủ nhân của nó đã thành công khi nhìn thấy tính hữu dụng của những món đồ vứt đi. Nếu chính quyền tự tin thì phải biết ơn óc hài hước của các nhà kinh doanh. Làm gì có bộ máy tuyên truyền nào có thể đưa những người mà ý tưởng của họ trở thành cơ sở lý luận cho những kẻ độc tài đày đọa loài người vô được quán ngồi cùng với những người tử tế.
Cafe Cộng là một ý tưởng kinh doanh chứ không có khả năng “âm mưu”. Quy kết vội vàng của Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội Tô Văn Động thể hiện não trạng của hệ thống, não trạng chỉ nhận biết khía cạnh “an ninh chính trị” trong sự muôn mặt của cuộc sống bình thường. Não trạng ấy còn chi phối tiến trình lập pháp của Nhà nước hiện nay, Nghị định 72 về internet bắt đầu có hiệu lực trong tuần này là một trong rất nhiều ví dụ.
Internet không chỉ là một phương tiện truyền thông mà còn là một không gian sống, một không gian kinh doanh. Việc xâm phạm bản quyền đã có Công ước Berne và Luật Sở hữu Trí tuệ lo. Tác giả nào thấy website khác lấy bài của mình thì kiện ra tòa. Hà cớ gì chính phủ phải dùng quyền hành chính để điều chỉnh những hành vi dân sự.
Bắc loa ra giữa làng hay viết bài trên Facebook vu khống, xúc phạm danh dự, quyền lợi của tổ chức, nhân phẩm của cá nhân đều đã được quy tội và định danh trong Bộ Luật hình sự Việt Nam kể cả những tội danh phi pháp và vi hiến như Điều 88 và Điều 258…
Làm báo, báo giấy hay báo online, phải được coi như những hành vi kinh doanh. Ở các quốc gia mà người dân có quyền tự do, từ những cậu học sinh trong trường phổ thông cho đến các doanh nhân, ai muốn ra báo thì cứ ra, chỉ khi họ sử dụng những tờ báo đó để bán, để đăng quảng cáo lấy tiền thì mới phải đăng ký kinh doanh và nộp thuế.
Tại sao Nghị định 72 lại phải quy định “các loại hình thông tin trên mạng như trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội”; tại sao lại chỉ có “5 loại trang tin tổng hợp”; tại sao Nhà nước lại phải can thiệp vào “năng lực tài chính, nhân lực, kỹ thuật” của những người làm “trang tin”; tại sao “trang tin điện tử tổng hợp phải do tổ chức…”?
Tổng thống Mỹ không phải là tác giả nhãn hiệu Starbucks Coffee. Độc tài như Hitler cũng không thể đẻ ra chiếc xe Wolkswagen. Làm sao Nhà nước lại đóng khung khả năng sáng tạo của doanh nhân Việt Nam trong khuôn khổ được lập ra bởi những cái đầu hành chính, quan liêu.
Mãi tới năm 2006, Tuổi Trẻ mới được ra nhật báo cho dù một thập niên trước đó tờ báo này đã có đủ bạn đọc và tiền bạc để tăng kỳ. Và, chỉ vì sự thiếu hiểu biết của Bộ Thông tin, thương hiệu Tuổi Trẻ Chủ Nhật (tờ tuần báo rất có uy tín) đã phải đổi thành Tuổi Trẻ Cuối Tuần với lý do Tuổi Trẻ đã có một số báo ra ngày chủ nhật.
Cũng trong hơn hai thập niên qua, khi thị trường báo chí bắt đầu hình thành, những người làm báo tử tế hết sức khổ sở, muốn tăng trang quảng cáo cũng phải chạy ra Thủ đô, muốn tăng kỳ cũng phải ban, sở, bộ, ngành lạy lục. Từ manchette cho đến khổ báo, số trang… đếu phải xin phép thay vì tùy thuộc vào thị trường bạn đọc mà các chủ nhân kinh doanh tự chọn.
Làm sao Larry Page và Sergey Brin có thể kiến tạo nên Google; làm sao Mark Zuckerberg có thể nghĩ ra Facebook nếu như họ chỉ có thể “vùng vẫy” trong “5 loại trang tin tổng hợp”.
Năm 2005, 4 người Mỹ tự lập ra một dạng website – blog có tên là Huffington Post để đưa tin, bình luận… Website của họ có lúc thu hút lượng truy cập cao hơn cả New York Time. Năm 2011 Huffington Post được AOL mua lại với giá lên đến 315 triệu dollars. Cho dù không thể so sánh với Huffington Post về quy mô nhưng nếu không bị “tường lửa” và liên tục tấn công, cho dù không phải vì mục tiêu kiếm tiền, các chủ nhân của các trang Bauxite, Ba Sàm và Quê Choa… hoàn toàn có khả năng thu hút hàng chục triệu người đọc và trở nên giàu có.
Chỉ vì bị chính trị hóa, báo chí và internet không còn là một ngành kinh tế, một lĩnh vực kinh doanh tiềm năng. Đành rằng, nếu để tự do báo chí và internet thì chế độ không còn một mình một chợ sử dụng truyền thông nhà nước để tự tụng ca và huyễn hoặc mình. Nhưng, không lẽ chỉ vì lợi ích của một nhóm nhỏ mà phải bóp nghẹt khả năng sáng tạo của người Việt Nam, hy sinh phương tiện khai trí cho cả quan lẫn dân, đánh mất cơ hội vươn lên của quốc gia, dân tộc.
H.Đ.
Nguồn: facebook.com
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Em còn nhỏ làm sao mà biết được
Đăng bởi lúc 5:00 Sáng 4/09/13
VRNs (04.09.2013) – Úc Đại Lợi – Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 23 Thường niên năm C 10.9.2013
“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,
ta oặn mình trong những khổ tâm riêng.”
(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Lc 14: 25-33
Với nhà thơ, làm sao biết được sự đời vì tuổi nhỏ. Nhỏ về tuổi, nhưng vẫn có nỗi khổ tâm riêng, rất oặn mình. Với nhà Đạo, tuổi đời của ai đó tuy có nhỏ, nhưng nếu người tuổi nhỏ biết lắng nghe và thực hiện lời Chúa, thì đời mình rồi cũng sẽ vui.
Lời Chúa hôm nay thánh Luca ghi, là Lời nhắn mọi người hãy từ bỏ giàu sang bạc tiền, của cải. Lời Chúa, vẫn là bí quyết để sống vui, sống đẹp, sống thanh thản như Ngài từng khuyên. Từ bỏ của cải/bạc tiền vẫn là chuyện dĩ nhiên. Dĩ nhiên, cho người tuổi nhỏ và dĩ nhiên cho cả người đi Đạo những biết phải bỏ rời cả mẹ cha và quá khứ, để theo Chúa.
Bỏ và rời, người nhỏ tuổi đôi lúc cũng chơi trò thương-ghét/ghét-thương cả mẹ cha đến độ khép kín cuộc đời lành, để mải miết với thú vui tạm bợ, sống lạc lõng. Lớp người tuổi nhỏ ở đâu cũng có, chẳng bao giờ mãn nguyện với hiện tại, nhưng vẫn kiếm tìm những thứ mới lạ và khác biệt, coi đó là lý tưởng cho riêng mình.
Lý tưởng mà người tuổi nhỏ hằng kiếm tìm bao giờ cũng đẹp, nhưng đôi khi vẫn là những thứ và những sự khó đối mặt để cùng sống. Những thứ và sự ấy, nhiều lúc kiếm tìm mãi vẫn không gặp, khiến người người chẳng biết đi hoặc đến nơi đâu mà tìm kiếm. Lắm lúc như có cảm giác mọi sự đã hiện diện trong con người mình mà không biết, nhưng lại cứ lùng tìm chiếm đoạt nó cho bằng được.
Người tuổi nhỏ có lý tưởng, tuy chưa đạt những thứ và những sự mình hằng ước, nên mới xác tín rằng: những thứ ấy luôn hiện hữu và nghĩ: mình được “phép” tận hưởng mọi thứ theo cách tưởng tượng. Và, vì chưa đạt được những gì mình tìm kiếm, nên người tuổi nhỏ vẫn tìm kiếm mãi. Kiếm và tìm, như thiên đường được báo trước. Cuối cùng, người người lại triển khai niềm tin riêng tư bằng quả quyết: chắc chắn có thiên đường. Đó là niềm tin. Là, xác tín của mọi người dù lớn nhỏ. Đó, là huyền-nhiệm tuy không định nghĩa được, nhưng ta vẫn muốn có, dù chưa gặp.
Trình thuật, nay đề cập chuyện “cởi bỏ” giàu sang, bạc tiền hiểu theo nghĩa rộng, tức: những thứ và những sự mà mọi người dù lớn/nhỏ vẫn cần rũ bỏ. Đó, chính là nỗi khó cho người tuổi nhỏ khi chưa đạt được những gì mình kiếm tìm. Chưa đạt, nên khó mà rũ bỏ. Tuy nhiên, Lời Chúa vẫn dạy mọi người cần rũ bỏ những gì là năng lượng chìm sâu trong quyết tâm đưa mình vào thứ gì khác lạ. Thứ gì khác, là khả năng suy nghĩ về sự sống; về cả khả năng vấn nạn mọi sự trong cuộc sống.
Đi vào cuộc sống, là kiếm tìm niềm tin. Kiếm tìm, một lý tưởng nào đó khiến người người thuộc mọi văn-hoá, lứa tuổi cũng như giai tầng xã hội đều thực thi trong xã hội. Xã hội ngoài đời gồm những vị trưởng giả cũng như giới nghèo/hèn ở cấp thấp vẫn kiếm tìm “thiên đường hạ giới” nơi cuộc đời. Kiếm tìm mãi, mới khám phá ra rằng: thiên đường mình tìm để sống không là chốn miền ao ước, mà là trạng huống sống có tình thương-yêu, giúp đỡ lẫn nhau. “Thiên đường hạ giới”, là diện mạo trần thế của niềm tin, chứ không là chốn vui chơi, sa đà.
Cuộc sống người Công giáo các thập-niên qua, nhiều người lại đã nhận ra rằng: dù vẫn tin, nhưng niềm tin của ta ra như còn mang tính chất của “người tuổi nhỏ”, dù đã lớn. “Tuổi có nhỏ”, nhưng bằng vào cách nhìn về Hội thánh như giấc mơ. Mơ, rằng: cả trong lý tưởng để sống cuộc sống “thiên đường hạ giới”, người người vẫn có nhiều hạn chế. Mơ, còn vì Hội thánh ta chẳng khi nào trưởng thành được nếu không thực hiện điều Chúa nhắc nhở.
Hội thánh ta sẽ chẳng thể nào tìm ra được “thiên-đường-cửa-hẹp” như Chúa nói, nếu không biết cởi bỏ tình huống khép kín, đóng khung, chia cách. Trái lại, nên hiệp thông, yêu thương, giùm giúp nhau. Yêu thương giùm giúp trên đường tìm kiếm cách-thế trưởng thành trong san-sẻ “thiên-đường-cửa-hẹp” có niềm tin sâu sắc. Nhiều thập-niên qua, người Công giáo vẫn cứ ngồi lì trong tình-huống rất “tuổi-nhỏ”, lại chưa đạt tình-trạng trưởng-thành của văn-hoá sự sống, rất đúng nghĩa. Sống, có tin và yêu thương lẫn nhau như người anh người chị cùng một cha, một mẹ.
Chín-chắn/trưởng thành, nằm trong hy-vọng cũng như niềm tin. Hy vọng và tin-yêu như tín-hữu cộng-đoàn tiên-khởi thời của thánh Luca từng sinh sống, dẫn dắt. Cộng-đoàn khi ấy cũng có yêu và có ghét. Yêu người cùng giòng giống, ghét đế quốc La Mã thời trước từng bách hại cộng đoàn mình. Tuy nhiên, cộng đoàn thánh Luca cũng đã kinh qua các giai đoạn khó sống, để rồi tỉnh thức trỗi dậy đi vào một thế giới khác biệt, quyết trở thành tín-hữu của Chúa, đã đổi mới. Thánh Luca tin tưởng điều ấy và tìm cách huấn-dụ dân con đồng Đạo đi vào “thiên-đường-cửa-hẹp”, Chúa muốn đi.
Cộng-đoàn Luca cũng kiếm tìm nhiều, đã nhận ra chân lý, nên thấy được rằng: muốn trở thành dân con đích thực của Chúa, ta đừng quá bận tâm vào chuyện kiếm tìm “thiên-đường-cửa-hẹp” mà làm gì. Bởi, trước khi ta tìm ra Chúa, thì Ngài đã tìm ta và thấy ta. Ngài đón nhận ta làm con của Ngài, ngay từ đầu. Đó, chính là huệ-lộc Chúa ban cho ta một cách nhưng-không. Ta chẳng cần kiếm hoặc tìm mà chỉ cần duy trì quà tặng bằng quyết tâm tin, yêu, hy vọng vào tình Chúa vẫn thương ban.
Huệ-lộc Chúa tặng ban, ta không có khả năng tự mình rút tỉa, nhưng đó là quà nhưng-không, Chúa biếu không ngay từ đầu. Huệ-lộc, biến thành thứ gì đó rất trừu-tượng trừ phi nó được Chúa tặng ban cho ta, không cần đến bàn tay ta dính vào. Điều tuyệt vời, là ở chỗ: quà ân-huệ “đã” được Chúa tặng ban cả vào lúc trước khi ta kiếm tìm nữa. Cũng như thể, ta cứ nghĩ: mình cần thứ ân-huệ-cộng-thêm cho những gì hiện giờ ta chưa có. Nếu nghĩ thế, ắt cho huệ-lộc đây chỉ là thứ quà cáp Chúa tặng ban sau khi suy đi nghĩ lại, chứ không phải từ đầu. Không. Không phải thế. Huệ-lộc Chúa ban không là quà tặng vào giai đoạn cuối đời, mà là quà tặng Chúa cưu mang, ngay từ buổi đầu.
Huệ-lộc cũng không là thứ gì đó chẳng ai trông chờ. Không là món nợ Chúa còn thiếu, nên mới trả cho ta. Quà Chúa tặng, không là phần thưởng Chúa hứa hẹn cho người sống tốt lành, hạnh đạo, chỉ một ít. Huệ-lộc, là quà có sẵn bên trong bản thể con người. Là người, ta đã được tặng ban huệ-lộc “nhưng-không” ở phần thâm-sâu của bản thể; nhờ đó, ta được thấy Chúa, ngay từ đầu. Bản thể “người”, tự thân, đã hàm-ngụ thứ khả-năng được thấy Chúa ngay từ lúc đầu. Đây không là văn/thơ, kịch bản đầy diễn-xuất, nhưng lại là cung-cách Chúa tạo-dựng nên ta. Chúa thẩm-thấu vào chính bản-thể “người” của ta, ngay từ đầu.
Nói cách khác, không phải là ta khởi đầu tìm Chúa khi tìm kiếm huệ-lộc; nhưng, Chúa đã sở đắc và tặng ban huệ-lộc cho ta trước. Chính Ngài yêu thương ta trước. Nên, đó chính là lý do khiến hữu-thể-tạo-vật-là-ta không chỉ mới vừa xuất hiện hoặc đang trên đường tìm kiếm, nhưng đã hiện hữu trong Chúa; đã được tìm thấy trong Chúa. Chúa và hữu-thể-tạo-vật-là-ta ở trong nhau, và với nhau. Ta hiện hữu ở đây là để cảm-tạ Chúa, ngay từ đầu, Ngài đã kiếm tìm ta và thấy ta, trong Ngài. Tóm lại, chính Chúa tìm ta trước vì Ngài thương ta ngay từ đầu và Ngài đã có ta trong bản-thể cao cả của Ngài. Đó chính là chân lý. Đó, mới là điểm son trong quan hệ giữa Chúa và ta.
Trong cảm nghiệm mối tương-quan mật thiết ấy, cũng nên ngâm lời thơ còn bỏ dở:
“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”
“ta oặn mình trong những khổ tâm riêng.”
Em còn nhỏ làm sao mà biết được,
Đời buồn hiu như lá rụng, ban đêm.”
(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)
Viết đâu thì viết, đời người đâu nào đã buồn hiu vì lá rụng ban đêm. Đời người/đời ta vẫn không buồn dù ngày hay đêm, một khi đã biết và hiểu rằng Chúa đã có ta và ta đang ở trong Chúa, rất mừng vui.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá luợc dịch
‘Tội diệt chủng’ với quản giáo cộng sản Romania
‘Tội diệt chủng’ với quản giáo cộng sản Romania
Thứ ba, 3 tháng 9, 2013
Ông Visinescu không bình luận gì sau khi bị truy tố.
Công tố viên ở Romania truy tố một quản giáo thời cộng sản vì tội diệt chủng.
Tội danh với ông Alexander Visinescu là lần truy tố đầu tiên kể từ cuộc cách mạng 1989 dẫn đến việc tử hình lãnh tụ cộng sản Nicolae Ceausescu.
Ông Visinescu, 88 tuổi, có thể chịu án tù chung thân nếu bị tòa kết tội. Ông từng là trưởng trại giam Ramnicu Sarat từ 1956 đến 1963.
Bên công tố nói các tù nhân chính trị ở đó bị đánh đập, bỏ đói, và không được chăm sóc y tế.
Viện điều tra tội ác cộng sản của Romania (IICCMER) liệt ông này vào danh sách 35 viên chức mà họ xem là vi phạm nhân quyền.
Viện này nói chế độ nhà tù ở Ramnicu Sarat đem lại điều kiện “phi nhân đạo, dẫn đến cái chết của nhiều tù nhân chính trị”.
Hơn 600,000 người bị án tù chính trị ở Romania từ 1945 đến 1989, theo Viện Bảo tàng Nạn nhân Cộng sản của Romania.
Tại Romania đã xảy ra cuộc nổi dậy đẫm máu lật đổ chế độ cộng sản.
Nhà độc tài Nicolae Ceausescu và vợ bị kết tội diệt chủng năm 1989 trong một phiên tòa chóng vánh.
Họ bị hành quyết ngày 25/12 năm 1989.
Nhưng kể từ đó, Romania chưa kết tội một quản giáo thời cộng sản nào.
Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?
Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?
Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-09-02
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (P) và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 05 Tháng 8 năm 2013.
AFP photo
Việc luật gia Lê Hiếu Đằng “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” để “tính sổ cuộc đời” và rồi đề xướng lập “Đảng của những người bỏ đảng” nhằm mang lại sinh hoạt chính trị cho đúng nghĩa, hình thành xã hội dân sự cũng như xúc tiến dân chủ hóa xã hội VN khiến, cho tới giờ, khoảng 20 bài viết trên báo lề đảng như Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Đại Đòan kết, Saigòn Giải phóng…đồng loạt công kích.
Bất công khắp nơi
Lên tiếng với phóng viên Gia Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:
Có thể nói đầu tiên khi tôi đặt ra những vấn đề đó thì thật ra đó là những vấn đề đi vào yếu huyệt của đảng cộng sản, của chế độ; thành ra quí vị đó phản ứng hơi mạnh. Tôi nghĩ đó là điều tất nhiên thôi. Mà vấn đề đó là vấn đề cốt tử hiện nay bởi vì một xã hội phát triển bình thường phải có những đảng chính trị đối lập để giám sát, chế ước lẫn nhau. Điều đó là xu thế trên thế giới…Bất cứ chính quyền nào, cộng sản hay không cộng sản mà ‘một mình, một chợ’, không có giám sát của xã hội dân sự cũng sẽ trở thành hư đốn, lộng quyền và lạm quyền thôi…
Khi nhận thấy “hàng lô những nhà lý luận cung đình”, chuyên hay thời vụ, quy chụp ông Lê Hiếu Đằng là “thay lòng đổi dạ”, phản bội lại lý tưởng mà ông đã theo đuổi, thì blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên câu hỏi rằng “Ai thay lòng đổi dạ?”.
Qua bài blog với tựa đề như vừa nói, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý rằng số bài viết chỉ trích luật gia Lê Hiếu Đằng thì nhiều nhưng “luận điệu phản biện thì giống hệt nhau, nghèo nàn và xơ cứng, đi lại cũng hô các khẩu hiệu: Con đường đi lên CNXH là chọn lựa duy nhất của dân tộc VN, đảng độc quyền lãnh đạo là tất yếu lịch sử, đảng đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xương máu của hàng triệu đảng viên (?) góp phần làm nên thắng lợi nên đảng đời đời độc quyền lãnh đạo là đương nhiên, dân chủ VN theo kiểu của VN…”. Vẫn theo blogger Hùynh Ngọc Chênh, các “tác giả lý luận cung đình” lề đảng ấy lại lặp lại cung cách của “dân nơi chợ búa” vẫn làm khi muốn “phản biện ” đối thủ của mình, đó là “thóa mạ, quy chụp, chửi bới về nhân thân cũng như động cơ của ông Lê Hiếu Đằng”.
Người nhà ông Đoàn Văn Vươn kêu oan cho ông trước TAND Hải Phòng hôm 02/4/2013. AFP photo
Sau khi “thử hỏi lý tưởng mà ông Đằng đã theo đuổi suốt cuộc đời của mình, từ hồi trai trẻ còn cắp sách đến trường cho đến lúc gần đất xa trời, là gì ? Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh cho biết đó là “đấu tranh chống bất công, chống áp bức, chống xâm lược nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc”, và blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên vấn đề là “ai rời bỏ lý tưởng đó ? Đảng CS hay những người đã và sắp bỏ đảng như ông Lê Hiếu Đằng ?”. Tác giả hỏi tiếp rằng dưới sự lãnh đạo của đảng CS, nước VN thống nhất trong 38 năm qua đã có được những gì: Độc lập? Tự do? Dân chủ ? Hạnh phúc thực sự hay chưa ? Xã hội có công bằng không ? Và tòan dân có ấm no không ? Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý:
Nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, ông Lê Hiếu Đằng đã đưa ngay câu trả lời. Đảng lãnh đạo hầu như lệ thuộc vào đảng Trung Quốc từ lý luận đến thực tiễn hành động. Đất nước thì bị đe dọa mất chủ quyền bởi vòng kim cô “4 tốt, 16 chữ vàng” để bị kẻ thù phương Bắc bao vây trên nhiều phương diện: Quân sự, ngoại giao, kinh tế và cả văn hóa nữa. Kinh tế thì suy sụp, xã hội thì đảo điên, áp bức bất công khắp mọi nơi, nạn tham nhũng thì càng ngày càng phát triển đến mức không còn cách để ngăn chặn…
“Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.
– Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh”
Điều gì đã đưa đất nước đi đến thực trạng như vậy? Ông Lê Hiếu Đằng cũng như nhiều trí thức nhân sĩ trong và ngoài đảng đều có chung một nhận định: Do đảng lãnh đạo đã liên tục mắc vào các sai lầm mà không hề đúc kết rút kinh nghiệm để sửa sai. Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.
Trong những ngày qua, một loạt những bài viết lề đảng “đấu tố” luật gia Lê Hiếu Đằng khiến blogger Phạm Đình Trọng liên tưởng đến “những bài viết rầm rộ, đồng loạt, tới tấp đánh Nhân Văn Giai Phẩm trên các báo ở miền Bắc hồi những năm 1956, 1957”, nó “sao giống khẩu khí, giọng điệu, giống cả thái độ quyền uy lấn lướt, giống cả sự hằn học nhỏ nhen, muốn làm sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng thời đánh NVGP đến thế”.
Hiện trạng đất nước
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy trước kia, NVGP bị đánh theo “lệnh công khai phát ra từ chót vót trên cao” khi những “bài viết và nói nảy lửa” của “thi bá” Tố Hữu phát ra từ phát súng lệnh của “cung đình nhà Đỏ”, thì ngay lập tức, “các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ ào ào nhảy vào đánh túi bụi những mục tiêu đã được chỉ định. Đánh để cố tách xa mình ra khỏi NVGP, để bày tỏ lòng trung thành với đảng, để lập công với đảng nên không thiếu một tên tuổi nào, không sót một tờ báo nào trong cuộc đánh hội đồng này”.
Còn ngày nay, theo Đại tá Phạm Đình Trọng, chỉ có “dăm tờ báo với vài người viết tên tuổi lạ hoắc có thể coi là vô danh” mượn cớ đánh bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” của ông Lê Hiếu Đằng để, qua đó, đánh phá luôn cả phong trào đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước. Nhưng nhà văn Phạm Đình Trọng nhấn mạnh rằng dù mức độ đánh phá có khác, qui mô và khí thế có khác, còn nội dung thì “hoàn toàn là sự tái hiện vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét Lại Chống Đảng trong quá khứ, là quyền uy độc tài đánh phá ngăn chặn đòi hỏi tự do dân chủ, là lực lượng chuyên chính về tư tưởng bảo vệ quyền uy, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của Nhà nước đảng trị chống trả lại tiếng nói vì dân vì nước”.
Giữa lúc thời nay đang “sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng của thời đánh NVGP ”, nhà văn Phạm Đình Trọng cũng không quên cuộc đấu tố “địa chủ” trong chiến dịch cải cách ruộng đất diễn ra kiểu “cánh đồng giết người” như bên xứ Chùa Tháp, khi những kẻ đấu tố “càng tỏ ra sôi sục căm thù”, tìm cách vạch ra cho được nhiều “tội ác” của nạn nhân bị gán cho là “địa chủ” thì càng được đánh giá là có “giác ngộ giai cấp”, càng được đảng tin cậy, cất nhắc. Do đó, theo nhà văn Phạm Đình Trọng, người đấu tố phải cố “lên gân” lập trường giai cấp, phải “tưởng tượng ra đủ các tội vu oan giá họa làm cho một nông dân hiền lành chỉ nhờ biết tổ chức làm ăn, chịu khó cần cù khuya sớm và tằn tiện ki cóp mà có đủ ruộng cày cấy và có cuộc sống tạm đủ ăn cũng trở thành địa chủ cường hào gian ác phải nhận bản án tử hình”.
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy bài viết “Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng chỉ là một sự tiếp nối tiếng nói NVGP nửa thế kỉ trước đòi tự do dân chủ thật sự cho quê hương mà thôi.
Hà Nội sau một trận mưa lớn hôm 08/8/2013. AFP photo
Đại tá Phạm Đình Trọng nhân tiện lưu ý rằng những nhà viết lịch sử đảng, những nhà lí luận, những cán bộ tuyên huấn của đảng suốt mấy chục năm qua đều “một giọng cường điệu hóa, anh hùng ca hóa công tích của đảng Cộng sản Việt Nam mà không chịu nhìn vào thực tế là những sai lầm liên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác”. Những thảm họa đó là:
“Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.”
“Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.”
“Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội… Cải tạo tư sản đã hủy hoại, xóa sổ cả một nền sản xuất công nghiệp tự chủ đang lớn mạnh của người dân, của đất nước.”
“Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lượng ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển.”
“Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi
– Đại tá Phạm Đình Trọng “
“Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu”!
“Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!”
“Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi”.
“Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày, Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam”.
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhân tiện cảnh báo rằng một đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi “từ thảm họa này đến thảm họa khác”, một đảng đã “cắt cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên” cho phương Bắc, một đảng đang “lún sâu trong tham nhũng”, dùng bạo lực chuyên chính vô sản “bóp chết những tiếng nói chính đáng đòi tự do dân chủ”, “kìm hãm sự phát triển của xã hội, của đất nước”, thì, theo blogger Phạm Đình Trọng, “ đó là một tội ác! Những tội đó còn ghi khắc mãi trong lịch sử đau thương của đất nước này”.
LS Hà Huy Sơn qua bài “Hãy tuân theo quy luật để tồn tại và phát triển” khẳng định rằng “một nhà nước dưới sự lãnh đạo của một đảng thì nhà nước đó không bao giờ là nhà nước của mọi công dân”, hay nói cách khác, nó không phải là một nhà nước “ của dân, do dân, vì dân”, cả về nguyên lý lẫn thực tiễn.
Có lẽ trước tình cảnh như vậy, nhà thơ Lang Thang “cảm tác” thành vầng thơ:
Lúc nào đảng cũng thắng, dân thua
Thì hỏi đảng vì dân hay vì đảng?
AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN
AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN
Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi. Tôi chọn ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự đó…
Tiếc thay, không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình.
Những cuộc tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ. Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Nơi nào có hai người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.
Giữa một thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự khiêm, tự hạ. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.
– Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.
– Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Abraham là một mẫu gương khiêm nhường. Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành Sôđôma. Giêrêmia đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.
– Nhiều người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Nhưng chấp nhận sự thật là điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.
– Khiêm nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa.
– Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng.
– Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý… Tha nhân ấy không phải chỉ là người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.
Nơi lời chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.
Nếu tôi khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ. Những ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm phong phú.
“Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.”Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm sâu. Thánh Phanxicô Borgia viết: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.”
Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.
****************************************
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Trích từ ‘Manna’
Đức Khiêm Nhường
Đức Khiêm Nhường
Khiêm tốn vẫn được coi là một đức tính tốt ở mỗi người. Điều đó ai cũng hiểu nhưng làm sao để có được đức tính ấy?.
Trên chuyến xe lửa chạy từ ngoại ô vào trung tâm thủ đô Pari. Trong toa xe, có một ông già ngồi bên cạnh một chàng sinh viên trẻ. Khi tàu xe chạy được một đoạn thì ông già từ tốn lấy ra trong túi một chuỗi hạt và chỉ ít phút sau ông đã chìm vào trong sự cầu nguyện. Anh sinh viên liếc nhìn tỏ ra khó chịu. Thời gian trôi đi, anh ta vẫn thấy ông già vẫn im lặng, thành kính, say mê lần hạt. Anh sinh viên khó chịu quá thốt lên: Này ông! Đến bây giờ ông vẫn còn tin vào sự vơ vẩn này ư?
Ông già từ từ nhìn lên và nhè nhẹ gật đầu: Vâng, tôi vẫn tin, nhưng còn anh? Anh sinh viên cười khoái trí và trả lời rằng: hồi nhỏ tôi cũng có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin được, khi khoa học đã mở mắt cho tôi khám phá ra những chân trời mới và cống hiến cho nhân loại với biết bao nhiêu điều tốt đẹp.
Ông già giơ tay ngắt lời anh sinh viên. Này anh, anh vừa nói là khoa học đã khám phá ra những chân trời mới, vậy anh có thể cho tôi biết chân trời mới ấy là thế nào không?
Anh sinh viên sôi nổi quả quyết: Vâng, nếu ông muốn biết, thì cứ cho tôi biết địa chỉ của ông, tôi sẽ gửi đến cho ông một cuốn sách. Khi đọc xong cuốn sách ấy, ông sẽ tức khắc bỏ những niềm tin vơ vẩn này đi ngay.
Ông già điềm tĩnh lấy ra tấm danh thiếp đưa cho anh sinh viên. Anh sinh viên đọc tấm danh thiếp, thoáng nhìn ông, bỗng ngượng tái mặt lẳng lặng bỏ sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp của ông già chỉ ghi vỏn vẹn có mấy chữ: Louis Pasteur – Viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học Pari.
Mẫu chuyện này có thể mang lại cho chúng ta một triết lý và kinh nghiệm sống. Đồng thời, nó nói lên tính tự mãn của con người khi người ta quá đề cao về thành tụ của khoa học mà thiếu vắng niềm tin nơi Thiên Chúa. Câu ngạn ngữ cổ Hy Lạp viết:“Kiêu căng là đặc quyền của kẻ khờ dại”. Còn trong sách Huấn ca thì dạy rằng: ” Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng và vô phương cứu chữa” (Hc 13,18-28).
Nối kết với bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng đưa ra bài học rất thực tế về cách đối nhân xử thế. Ngài dùng dụ ngôn bữa tiệc để khuyên dạy dân chúng cần có thái độ khiêm nhường trong cách quan hệ xã giao. Thái độ này phù hợp với con cái Thiên Chúa trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Bởi lẽ, có nhiều kẻ muốn được ngồi trên những hàng ghế vị vọng, muốn được người ta kính trọng, muốn trèo lên những vị trí hàng đầu. Đó cũng là cách thức mà người đời thường đánh giá về nhau qua địa vị, thành tích và ảnh hưởng xã hội về bản thân, họ tự cho mình là quan trọng, là bậc nhất, không ai có thể thay thế được.
Có lẽ, điều Chúa Giê-su nói với dân chúng không chỉ ở cái ghế ngồi, mà đằng sau cái ghế vị vọng đó còn có một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là bữa tiệc của Nước Trời. Bữa tiệc mà mọi người được tham dự, thì sẽ không đánh giá qua địa vị và chức tước. Đối với Thiên Chúa, mọi người đều như nhau khi chúng ta ra khỏi đời này về bên Chúa thì sẽ có nhiều điều bất ngờ. Có khi một bà cụ già hiền lành, một kẻ ăn xin vô gia lại được đứng trước những kẻ vị vọng cao sang quyền quý… Điều quan trọng và cần thiết hơn là làm sao chúng ta được bước vào Nước Chúa, thì không còn là địa vị chức tước nữa, mà là thái độ của lòng khiêm nhường để nhận ra chân lý, nhận ra con người đầy khiếm khuyết và tội lỗi của chúng ta, vì Nước Trời không dành cho những kẻ kiêu căng tự phụ. Lời Chúa nói: “Phúc cho ai có lòng khiêm nhường vì Nước Trời là của họ”.
Cho nên, đức khiêm nhường không những được coi là một phẩm đức tốt mà còn là nền tảng của đạo đức, là cả một đạo lý. Với Lão Tử, khiêm tốn được khái quát lên thành cái “Đạo” của con người thông minh, cái đạo không thể thiếu trong xử thế. Lão Tử viết: “Kiêu Ngạo, ham muốn, nộ khí, ý nghĩ lệch lạc quá nhiều, chỉ có hại mà thôi”. Thật vậy, khi sống với người kiêu ngạo tự phụ, chúng ta sẽ thấy kẻ ấy chỉ lo cho bản thân mình, luôn tìm cơ hội để tiến chức, để được tán thưởng của người đời. Họ sợ thất bại, lo lắng sự đời đến chỗ giận dữ thái quá, ghen ghét, hận thù, và tìm cách hạ bệ người khác, cho mình là nhất, là hơn người, đó là một thái độ tự cao, tự đại của kẻ kiêu căng, nó đi ngược lại với đức khiêm nhường. Một thánh nhân đã từng nói: “Kẻ nào giàu có nhân đức mà thiếu đức khiêm tốn thì cũng giống như người cầm nắm cát đứng trước gió”.
Lạy Chúa, xin cho con đủ khiêm tốn để biết nhận ra con người thật của mình một cách chân thành và trung thực, đừng chạy theo sự giã dối và tự lừa dối mình. Xin cho con khiêm tốn đủ để đón nhận những điều tốt đẹp của người khác, cũng như những yếu đuối tội lỗi của mình. Nhất là bỏ đi tính kiêu căng tự phụ để trở nên con người hiền từ và khiêm nhường trước mặt Chúa và anh chị em con. Amen.
Đoạn kết buồn của một mối tình Ucraina – Việt Nam
Đoạn kết buồn của một mối tình Ucraina – Việt Nam
Tôi và anh quen nhau tại Kiev. Chúng tôi lấy nhau và sinh được hai đứa con tuyệt vời – con trai Andrei và con gái Maia. Lúc đầu, mẹ tôi phản đối kịch liệt quyết định lấy chồng của tôi. Thứ nhất, vì chồng tôi – Hà – là người Việt Nam bán hàng ngoài chợ. Thứ hai, vì anh hơn tôi đến 16 tuổi đời. Nhưng mặc cho những linh cảm của mẹ, chúng tôi đã cùng chung sống với nhau suốt 8 năm trời hòa hợp và hạnh phúc. Hầu như chúng tôi chưa bao giờ có những bất đồng lớn. Chồng tôi rất yêu lũ trẻ và sẵn sàng giúp tôi làm mọi việc trong nhà, từ nấu nướng đến dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống tưởng đâu cứ mãi như vậy. Cho đến một ngày, Hà nhận được tin bố ốm nặng, có thể không qua khỏi. Anh lập tức bay về Việt Nam. Một thời gian sau, anh gọi điện sang và bảo mẹ con tôi sang Việt Nam với anh. Thực tâm tôi không muốn đi cho lắm, vì đường xa mà hai con còn nhỏ – con trai tôi sáu tuổi, còn con gái mới có một năm bốn tháng. Nhưng Hà động viên tôi rất nhiều và nói chỉ ở Việt Nam vài tháng là cùng. Chủ yếu là anh muốn giới thiệu mẹ con tôi với gia đình, họ hàng bên nội. Thế là tôi quyết định lên đường, mang theo hai con mà lòng không hề nghĩ có những gì đang chờ đợi mình ở phía trước.
Ấn tượng về làng quê Việt Nam
Mẹ con tôi sang Việt Nam khi bố chồng tôi đã mồ yên mả đẹp. Ngày đầu ở nhà chồng, chúng tôi đã đưa hai con đi thăm mộ ông nội. Nghĩa địa nằm ngay gần nhà, nhưng thực sự mà nói, nó khác xa với hình ảnh quen thuộc của những nghĩa trang ở Ucraina. Người Việt Nam có một phong tục rất đặc biệt: ba năm sau khi chôn cất người quá cố, họ lại đào lên, lấy xương mang đi chôn lại(!) Lần thứ hai này mới là lần chôn cất vĩnh viễn.
Quê chồng tôi là một ngôi làng gồm khoảng 400 nóc nhà, nằm không xa thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, ở đó không hề có đường ống khí đốt. Mọi người chủ yếu nấu thức ăn bằng bếp rạ. Chỉ có một số gia đình khá giả mới dám nấu ăn bằng bình gas, vì đó là một điều xa xỉ đối với những người nông dân. Dân làng nghèo đến nỗi, khi ai đó mua sắm bất kỳ vật gì cũng đều trở thành sự kiện của cả làng. Làng mạc ở Việt Nam cũng có nhiều điểm giống với làng quê ở Ucraina, chỉ có điều đường xá không trải nhựa, mà đổ bằng bê tông. Có lẽ bê tông chịu nóng tốt hơn so với nhựa đường. Xung quanh mỗi ngôi nhà đều có rãnh thoát nước. Lúc đầu, tôi không hiểu tại sao phải làm như vậy. Sau đó, tôi đã hiểu – vì vào mùa mưa, dù có rãnh thoát nước nhưng nhiều lúc vẫn phải lội nước đến tận đầu gối! Khó chịu nhất là áo quần giặt xong phơi cả tuần cũng chẳng chịu khô cho.
Món bánh xoài
Ngày thứ hai ở nhà chồng, Hà đột ngột tuyên bố rằng chúng tôi sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Hành động của anh làm tôi hết sức ngỡ ngàng, vì anh đã tự quyết định mà không hề bàn với tôi lấy một tiếng. Tôi không thể ngờ rằng người chồng đã từng chung sống suốt tám năm trời lại có thể xử sự với tôi như vậy! Ở Việt Nam, anh đã trở thành một con người khác hẳn: anh hầu như không âu yếm, chuyện trò với tôi bao giờ, và thường tự quyết định mọi việc, kể cả những việc có liên quan trực tiếp đến tôi và các con.
Dù rất buồn trước sự thay đổi của Hà, nhưng trong một giai đoạn nào đó, tôi đã buộc mình phải chấp nhận điều đó… Vì dù không muốn, tôi cũng chẳng có con đường nào khác, tiền quay về cũng không có luôn. Nhưng dù sao, trong thâm tâm tôi vẫn luôn hy vọng sẽ thuyết phục được chồng cho mẹ con tôi trở lại Ucraina.
Thật ra, không thể nói là mọi người đối xử không tốt với tôi, nhưng có quá nhiều khác biệt trong cách sống của người Việt Nam và người Ucraina. Chẳng hạn, tôi không thể hiểu tại sao người Việt Nam có thể sống được mà không cần đến các sản phẩm sữa? Bò ở Việt Nam nuôi chỉ để lấy thịt, vì vậy thậm chí mọi người chẳng hề có khái niệm về bơ, sữa hay phó mát gì cả. Con gái Maia của tôi vẫn quen ăn cháo sữa, vì vậy tôi đã phải mua sữa đặc có đường, có lúc cả sữa đậu nành, để nấu cháo cho con. Mẹ chồng tôi không thể hiểu nổi khi thấy tôi cho sữa vào cháo. Có lẽ đối với họ, đó là một món ăn hổ lốn đáng sợ?!
Còn với tôi, có lẽ đáng sợ nhất là nhà trẻ ở quê chồng. Lịch làm việc ở đó đã rất đặc biệt: sáng 5 giờ đưa trẻ con đến (trước khi đến phải cho ăn sáng ở nhà), đến 10 giờ phải đón về cho ngủ trưa ở nhà! Các lớp được phân chia không theo lứa tuổi, mà theo nguyên tắc “ai đăng ký trước vào trước”. Vì vậy trong một lớp có thể có cả trẻ sơ sinh mới mấy tháng trời, cùng những cháu đã 5-6 tuổi. Cửa sổ các phòng không đóng bao giờ, cánh cửa ra vào cũng không có luôn. Trẻ nhỏ nằm trên chiếu trải dưới nền nhà, còn lũ lớn hơn thì chạy lăng quăng xung quanh. Nói chung, có người trông hộ trẻ con để bố mẹ đi làm đồng là tốt lắm rồi!
Thời gian đầu, mọi người định dạy tôi làm ruộng, nhưng tôi phải thú thật là chẳng hề có khái niệm gì về công việc đó cả. Tôi cũng đã từng cùng mọi người trong gia đình nhà chồng lội ruộng cấy lúa, nhưng đến khi biết rằng dưới làn nước bùn đỏ quạch đó còn có cả những con rắn nữa, thì tôi phát hoảng. Mọi người thông cảm, không bắt tôi lội ruộng nữa, mà bảo tôi học sử dụng máy tuốt lúa. Nhưng tôi làm chẳng ra hồn, khiến cho mọi người phát chán. Nhiều người trong gia đình, họ hàng nhà chồng tôi tỏ rõ vẻ thất vọng vì sự lóng ngóng trong công việc đồng áng của tôi.
Bù lại thì sự hiện diện của tôi cũng phần nào làm phong phú thêm đời sống dân làng. Nhất là trong công việc bếp núc. Người Việt Nam chỉ quen ăn khoai tây nấu canh, vì vậy, mọi người rất ngạc nhiên trước món khoai tây nghiền do tôi làm ra, khi nếm thử ai cũng khen ngon. Món bánh xèo truyền thống của người Ucraina cũng được đón nhận nhiệt tình (mọi người gọi đó là món bánh mì ngọt). Tôi đã dạy cho mọi người làm một số món ăn như món bít tết và thịt băm viên. Món bánh xèo nhân xoài do tôi “sáng tạo” ra thật sự ngon miệng và hợp khẩu vị nên ai cũng thích.
Ước muốn trở về
Hà tìm được việc làm ở Hà Nội. Anh bỗng dưng sinh ra nghiện cờ bạc, bao nhiêu tiền làm ra đều nướng hết vào trò chơi đỏ đen. Hồi ở Ucraina, tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy. Mẹ chồng tôi không biết về điều này, nên sinh ra nghi ngờ tôi giữ hết tiền lương của anh. Từ sự nghi ngờ đó, bà bắt đầu soi mói tôi từng ly từng tý – từ việc tôi mua gói băng vệ sinh, cho đến cái kẹo cho trẻ con, đều bị bà để ý và cự nự vì tốn tiền vô ích. Càng ngày, cuộc sống càng trở nên tồi tệ đến mức ngột ngạt.
Con trai của tôi dù mới 6 tuổi đầu nhưng đã phần nào hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh, có lần nó bảo mẹ dành tiền để về Ucraina. Tôi chỉ còn biết thở dài thương con, vì vé máy bay quay về cho ba mẹ con ít nhất cũng phải hai nghìn đô la, trong khi trong tay tôi không có nổi lấy một trăm! Andrei hứa sẽ giúp tôi kiếm tiền. Những ngày sau đó, con trai tôi đã tự động làm mọi cách, từ câu cá, hái quả mang đi bán, cho đến thu nhặt vỏ chai… để mong kiếm được chút tiền đưa về cho mẹ.
Tôi không có đủ can đảm để tâm sự thật hoàn cảnh của mình với mẹ tôi. Nhưng có một lần, khi đã không thể chịu nổi, tôi viết một bức thư cho bạn gái ở Ucraina, và cô bạn Tania đã kể lại mọi việc cho mẹ tôi. Người nhà và bạn bè tôi bắt đầu tìm mọi biện pháp để giúp mẹ con tôi trở về, thậm chí đã nhờ Bộ Ngoại giao can thiệp qua Đại sứ quán Việt Nam ở Kiev.
Vào một ngày, có một người công an đến nhà và nói có thông tin cần kiểm tra. Tất nhiên, anh ta không nói được tiếng Nga, còn tôi thì chưa đủ vốn tiếng Việt để giải thích cặn kẽ mọi việc. Chồng tôi đã lợi dụng ngay tình thế đó để nói tất cả những gì có lợi cho bản thân anh ta.
Một lần, tôi đã quyết định bỏ trốn. Mang theo hai con cùng một số quần áo, tôi bỏ chạy khỏi nhà mà chẳng biết sẽ đi đâu. Cuối cùng thì chồng tôi đuổi kịp và đưa ba mẹ con lên xe tắc xi. Đến trung tâm Hà Nội, anh ta cho mẹ con tôi xuống xe và bảo: đấy, muốn đi đâu thì cứ đi! Giữa lúc bơ vơ, tôi gặp một người đàn ông tốt bụng, sau khi hỏi han tình cảnh, biết tôi là người Ucraina (người dân Việt Nam rất quý những người từ các nước thuộc Liên Xô cũ), đã cho ba mẹ con tôi ăn và đưa đến đồn công an trình báo. Chồng tôi buộc phải đến đón chúng tôi về, kèm theo lời cảnh cáo của chính quyền: sẽ không để yên, nếu còn xảy ra sự việc tương tự. Sau lần đó, Hà không chỉ lạnh nhạt với tôi, mà cả với các con cũng vậy. Có lúc, cả nhà ăn cơm mà chẳng gọi mẹ con tôi.. Một người chị em của chồng tôi thấy vậy, thương chúng tôi nên đã mang đồ ăn đến cho chúng tôi ăn.
Cuối cùng thì dịp may cũng đến. Ông trưởng phòng lãnh sự Đại sứ quán Ucraina tại Việt Nam đã đến tận nhà thăm mẹ con tôi. Được dịp, tôi đã kể hết với ông về tình cảnh của mình, kể cả việc bị đay nghiến vì mua một tuýp thuốc đánh răng mới, cả việc mẹ chồng tôi giấu kỹ bột giặt, chỉ cấp cho tôi mỗi lần một thìa con! Đến giờ, tôi đã quên mất họ tên của ông, nhưng luôn nghĩ đến ông với lòng kính trọng và biết ơn đặc biệt, vì ông đã quan tâm rất nhiều đến chúng tôi. Ông nói, Đại sứ quán hiện không có tiền để giúp mẹ con tôi, nhưng hứa sẽ giúp đỡ bằng mọi cách. Lần sau đến, ông mang cho chúng tôi rất nhiều thứ, từ bột giặt cho tôi, chiếc xe đạp cho con trai tôi, đến các loại đồ chơi, bánh kẹo, nước ngọt… Thậm chí ông còn cho tôi tiền nữa. Chỉ có điều, sau khi ông về, tôi lại cảm thấy cay đắng hơn bao giờ hết – tôi không phải là một đứa ăn mày, vậy mà đã phải ngửa tay nhận của một người không quen biết từ gói bột giặt trở đi…
Cuộc trở về của Maia
Ông trưởng phòng lãnh sự đã tổ chức một chiến dịch vận động quyên góp tiền trong cộng đồng người Ucraina đang có mặt ở Việt Nam để giúp đỡ ba mẹ con chúng tôi. Ở Kiev, gia đình tôi cũng tìm mọi cách để dồn tiền để gửi sang cho tôi. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của mọi người, chúng tôi đã có đủ tiền để mua vé máy bay về Ucraina.
Gia đình chồng tôi tỏ ra khá hờ hững với việc mẹ con chúng tôi quay về. Có thể, họ thậm chí đã vui mừng vì thoát được một cô con dâu vô dụng như tôi. Tôi đã trở về Ucraina sau 11 tháng trời sống ở Việt Nam như vậy đó.
Tôi và con trai Andrei bay về Kiev, còn con gái Maia phải để lại cho chồng nuôi theo quyết định của tòa. Điều đó làm cho tôi day dứt khôn nguôi. Thậm chí, tôi không biết có khi nào được gặp lại con gái bé bỏng của mình không nữa…
Sự dằn vặt đeo đuổi tôi suốt ba năm trời. Tôi biết, gia đình chồng tôi sẽ không ngược đãi cháu, nhưng dù sao con sống xa mẹ cũng là một điều bất hạnh.
Một lần, Hà gọi điện cho tôi. Anh ta báo tin sắp cưới vợ mới, và vợ sắp cưới của anh ta đang mang thai. Anh ta nói cho phép tôi đón Maia về, nhưng với một điều kiện: phải đưa cho anh ta 3 nghìn đô la! Mặc dù đã từ lâu tôi không còn chút tình cảm nào đối với người đàn ông này nữa, nhưng vẫn hết sức bất ngờ, vì không bao giờ nghĩ anh ta có thể trở nên ích kỷ đến như vậy.
Thế là tôi lại phải đi xin tiền khắp họ hàng, bạn bè một lần nữa. Mỗi người cho tôi từng nào có thể cho được, nhưng gia đình tôi thuộc dạng nhà nghèo, nên cũng chẳng có người quen nào giàu có cả. Kết quả là tôi chỉ có đủ tiền để mua vé máy bay đi và về. Tuy nhiên, tôi không hề tiết lộ với Hà điều này, mà vẫn hứa là sẽ nộp đủ 3 nghìn đô la như anh ta đòi hỏi.
…Khi tôi vừa bước vào nhà, mẹ chồng tôi gần như đổ gục xuống chân tôi mà xin lỗi. Nước mắt bà chảy lã chã trên khuôn mặt già nua. Sau khi tôi rời Việt Nam, bà đã hiểu ra rằng người có lỗi không phải là tôi, mà là Hà. Người con dâu mới không giúp gì được mẹ chồng, thậm chí bà còn phải san xẻ cả số tiền lương hưu ít ỏi của mình cho con trai và con dâu. Mọi việc trong nhà bà vẫn phải tự mình làm hết, mặc dù đã gần 90 tuổi. Mẹ chồng tôi hiểu rằng giữa chúng tôi và bà chỉ có những khác biệt về văn hóa. Giá như không có sự thay đổi của chồng tôi, biết đâu tôi và bà đã trở thành những người thân thật sự trong cùng một nhà, như trong những gia đình bình thường khác?
Hà, chồng tôi, tất nhiên chỉ quan tâm đến tiền. Tôi buộc phải nói dối rằng không tin tưởng vào sự trung thực của anh ta, nên sẽ chỉ giao tiền ở sân bay, khi đã chắc chắn một trăm phần trăm là con gái tôi sẽ cùng tôi quay về Ucraina.
Đến ngày lên đường. Trong xe tắc xi ra sân bay, chồng tôi lại hỏi tiền. Tôi lại hứa sẽ đưa tiền cho anh ta khi tới sân bay. Đến khi hai mẹ con tôi đã vào trong vùng kiểm soát an ninh, Hà còn gọi với theo: “Lena, thế tiền đâu?” Tôi quay lại và… vẫy tay chào từ biệt!
Bây giờ tôi đã thực sự hạnh phúc bên hai đứa con mình. Andrei rất ham bóng đá. Còn Maia đã quen với nhà trẻ mới và dần dần học lại tiếng mẹ đẻ. Chẳng mấy người biết rằng tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân đặc biệt như vậy.
Elena Elovikova
Chiếc nhẫn cưới
Chiếc nhẫn cưới
ngulãonhân
Cần Thơ – Cô Lệ là hoa khôi của Trường Trung học Russey Keo, tại Phnom Penh, thủ đô của đất nước Chùa Tháp. Một lần đi học về, cô đang chạy chiếc velo solex đổ dốc trên cầu Chroy Changvar (bây giờ là cầu hữu nghị Miên Nhật), thì xe của cô bị nổ lốp. Cùng lúc ấy, phải tránh một chiếc xe ben chạy ngược chiều, cô không làm chủ được tay lái, đụng thẳng vào sau lưng một người thanh niên đi bộ. Anh chàng ngã sấp mặt xuống đất, còn cô chỉ thấy một cú va chạm mạnh, đầu óc choáng váng, trời đất tối sầm lại. Cô không biết gì nữa… Lúc tỉnh lại, cô biết mình đang nằm trong nhà thương. Chăm sóc cô là một anh chàng lạ hoắc. Hỏi thăm mãi, cô mới biết đó chính là người cô đụng phải trên dốc cầu Chroy Changvar.
Họ quen trong hoàn cảnh éo le như vậy. Rồi họ yêu nhau. Cả hai người đều gốc gác ở Cù Lao Giêng, đều là bổn đạo gốc. Cuối năm ấy, họ trao ban bí tích hôn nhân cho nhau tại nhà thờ Russey Keo. Chỉ một năm sau nữa, họ có đứa con trai đầu lòng.
Người chồng cô Lệ là một ngư phủ, đầm đậm người, có nước da bánh mật, tay chân cuồn cuộn những đường gân và bắp thịt. Thân hình anh rắn chắc, đẹp đến nỗi nhìn anh cởi trần kéo lưới cùng đám dân chài, người ta thường nghĩ ngay đến pho tượng David của Michel Ange. Anh cùng đám vạn chài ngược xuôi, ngang dọc, rong ruổi đuổi theo những đàn cá nhiều không kể xiết, trên khắp biển hồ Tonlê Sap. Anh đã từng uống nước thốt nốt lên men tự nhiên đến say ngất ngưởng ở Kampong Thom, đi săn hươu, nai, heo rừng, đến cả voi, cọp với đám thợ săn người bản địa mãi trên Siem Reap, lang thang suốt ngày dưới bóng râm tĩnh lặng nơi đền Angkor Thom, Angkor Wat, ngồi hàng giờ trong những quán bar ngắm nhìn những cô gái người Khmer tóc đen môi đỏ ở Kampong Chhnang… Niềm đam mê của anh là chiếc tàu đánh cá 100 mã lực, được trang bị tân tiến nhất lúc bấy giờ. Nó làm anh tự hào. Nhưng anh còn tự hào hơn về người vợ đẹp người, đẹp nết, hết lòng thương yêu anh, và nhất là về thằng Duyên, đứa con trai của anh, bây giờ đã hơn hai tuổi, tóc hoe vàng, đôi mắt trong vắt như pha lê, long lanh như ánh sao đêm. Anh đặt tên con là Nguyễn Vũ Lương Duyên vừa để nhắc nhớ đến mối tình đối với anh, là đẹp nhất trần gian của hai vợ chồng anh, vừa để tạ Ơn Trên đã ban cho họ mối duyên lành. Mỗi lần thằng bé gọi anh: “Ba! Ba!…” rồi ôm chầm lấy anh, đưa tay xoa xoa hàm râu lởm chởm của anh là anh quên hết mệt nhọc sau một chuyến đánh cá lâu ngày. Khi nó khanh khách cười, tiếng cười của nó như một cơn gió mát lau khô hết mồ hôi trên người anh. Nó có đôi mắt rất giống mẹ, ấy thế mà ai cũng bảo nó giống ông nội nó như hai giọt nước, làm lòng anh rộn rã niềm vui. Nhưng vui nhất, phải là những ngày Chúa Nhật, anh chở vợ con đi nhà thờ, bằng chiếc xe Honda SS 50 cc đời 67, đen bóng, sang trọng, thanh lịch không tả nổi, anh mua bằng giá cả chục lượng vàng.
Anh bằng lòng, thậm chí hài lòng với cuộc sống. Với anh, thế là đủ, quá đủ… Nhưng rồi chiến tranh lan rộng, tràn tới như một cơn bão tàn phá hết mọi thứ. Cũng như mọi người, anh chỉ như một chiếc lá nhỏ nhoi bị cuốn đi, nhấn chìm trong cơn bão lửa. Rồi Lon Nol, Sirick Matak làm đảo chính khi quốc trưởng Norodom Shihanouk đang công cán nước ngoài. Rồi nạn cáp Duồn. Cô Lệ không sao quên được cái đêm kinh hoàng, khủng khiếp ấy. Giữa đêm, họ phá cửa vào nhà, cướp sạch, phá sạch, đốt sạch…, lôi cổ anh đi. Cô bế con lén chạy theo. Họ bắt những người dân vô tội, không một tấc sắt trong tay, lùa đến một bãi cỏ ở một cánh rừng ven sông. Dưới ánh đèn manchon vàng vọt, cô tìm thấy anh. Thằng bé Duyên thét lên: “Ba! Ba!…”. Anh buột miệng: “Con”. Chỉ có thế cũng đủ tố cáo anh là người Việt, là Duồn. Anh nhận bản án tử hình. Bản án được thi hành ngay tức khắc. Tên lính Miên gầy như một bộ xương khô, cặp môi đỏ tái như hai miếng thịt trâu ôi, hàm răng trắng ởn, da đen như quỷ hỏa ngục, lấy hết sức mình dùng cái cuốc nhà binh có in trên cán hàng chữ Made in USA, bổ thẳng xuống, lưỡi cuốc ngập vào đầu anh. Anh chỉ kịp kêu lên một tiếng “Giêsu” rồi đổ xuống, máu phun ra như vòi nước máy. Cô Lệ không sao quên được cảnh tượng chồng mình giãy giụa trong vũng máu. Cả khi anh coi như đã chết rồi, mười ngón tay vẫn còn cựa quậy theo một phản xạ tự nhiên của cơ thể, như cầu cứu, như thay lời nói vĩnh biệt cô… Cô như người mất trí, nhưng rồi cô nghe thấy tiếng máy bay trực thăng phành phạch trên đầu, cùng với tiếng súng nổ như bắp rang từ phía bờ sông. Bọn lính Miên dáo dác rồi bỏ chạy. Đám dân vô tội được cứu sống. Cô thoát chết, nhưng cô đã bỏ lại căn nhà cháy, bỏ lại xác người chồng không được chôn cất, bỏ lại tất cả. Trong một đêm, cô mất hết, không còn bất kỳ một chút của cải nào, ngoài bộ quần áo trên người, một chiếc nhẫn cưới 5 phân vàng 18 carat, một đứa con thơ và một cõi lòng tan nát. Lúc ấy là đầu năm 1970. Sau đó, cô trải qua hết trại tỵ nạn này tới trại tỵ nạn khác, hầu hết là ở các trường Tiểu học Cộng đồng và những túp lều dã chiến bằng vải bạt dựng lên sơ sài ở các sân vận động. Cuối năm, cô là một trong những người của 170 gia đình Công giáo Việt kiều Campuchea hồi hương, được chính quyền lúc bấy giờ do bác sĩ Phan Quang Đán khi đó là Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang, lập ấp đưa đến địa bàn ấp Mỹ Thạnh, xã Mỹ Xuân định cư. Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Đạo, cũng là Việt kiều hồi hương, gốc giáo phận Phnôm Penh, được lệnh Tòa Khâm Sứ đến đây, thành lập giáo xứ Thanh Phong (bây giờ thuộc giáo phận Bà Rịa).
Mỗi gia đình trong giáo xứ được chia cho một nền nhà 5 x 25 m. Sau cơn hoạn nạn, người ta sống hết lòng với nhau. Mỗi người một tay, họ giúp đỡ nhau, chặt cây rừng, cắt cỏ tranh, dựng những mái nhà tạm bợ nhưng ở được. Lúc đầu, nhờ có cứu trợ, rồi nhờ trồng khoai sắn, họ sống được qua ngày. Cuộc sống, đã có muôn vàn khó khăn thì đến biến cố 30/4, càng khó khăn hơn. Cô Lệ dắt con đi bán vé số, mua ve chai lông vịt, đi cưa củi, vác cây búa 6 kg cùng đám thanh niên đi đập bê tông lấy sắt vụn đem bán… Tất cả đều vượt quá sức lực, quá khả năng chịu đựng của một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Cô phải “ăn bữa trưa, lo bữa tối”, phải “vắt mũi bỏ miệng”, những hai cái miệng.
Cô bị cái chết của chồng ám ảnh. Chẳng mấy đêm cô không mơ thấy anh. Chẳng trong giấc mơ nào mà anh không nhìn cô với đôi mắt buồn buồn, nhưng chan chứa yêu thương. Cô biết rằng cùng với cái chết kinh hoàng của chồng, trái tim cô cũng đã chết. Cô không thể yêu được bất cứ một người đàn ông nào nữa… Nhưng cuộc vật lộn với miếng cơm manh áo làm cô kiệt sức. Đã có lúc, cô nghĩ: “Nói cho cùng, muốn hay không thì mình cũng chỉ là một con người, một người đàn bà. Mà người đàn bà nào không cần có một bờ vai để tựa đầu, một vòng tay để chia sẻ buồn vui?! Cũng lại nói cho cùng, thử hỏi có tâm hồn nào không cần đến một tâm hồn, có trái tim nào không kêu gọi và đáp trả một trái tim? Người chết đã chết, đành phận người chết; người sống vẫn phải sống”. Khi ấy, cô đã yếu lòng, toan đầu hàng số phận, nghĩ tới chuyện đi bước nữa. Nhưng những giấc cô mơ, với cái nhìn buồn buồn nhưng chan chứa yêu thương của chồng, cùng với lời kinh cầu hàng đêm, với chiếc nhẫn cưới trên tay, và với Ơn Chúa, cô đã trụ được. Mấy mươi năm trời, cô ở vậy, “thờ chồng nuôi con”. Thờ chồng, đó không những là nén hương thơm thắp lên từng buổi tối, những lời kinh sớm chiều, những thương nhớ khôn nguôi, mà còn là một tấm lòng trung trinh son sắt… Nuôi con, không chỉ là thắt lưng buộc bụng cho ăn cho mặc, cho học cho hành, mà còn dạy dỗ nên người, lại là người Kitô. Cô những hy vọng thằng con của cô sẽ là chiếc gối êm ái cho cô kê lưng dựa đầu khi tuổi đời xế bóng. Nhưng không ngờ (ai ngờ được Ý Chúa?!), sau khi tốt nghiệp cao đẳng, thằng Duyên dự thi, rồi được Bề Trên tuyển chọn vào Đại Chủng Viện. Tám năm sau, thầy Duyên thụ phong linh mục.
“Năm ngắn, ngày dài”. Một ngày lam lũ, vất vả trôi đi dài lê thê, nhưng ngó đi, chưa kịp ngó lại đã hết một năm, rồi nhiều năm, rồi một đời người. Cô hoa khôi của Trường Trung học Russey Keo ngày xưa, nay đã già, đã:
“Gánh đời mẹ nặng oằn vai,
Tháng năm bạc tóc, run tay, lưng còng”.
Bà Lệ đã là bà cố. Ngày con trai mình về quê dâng Thánh Lễ Tạ Ơn, bà run run xỏ vào ngón tay út của cha Duyên chiếc nhẫn cưới của bà (phải xỏ vào ngón tay út vì chiếc nhẫn chật quá). Bà nói phều phào qua hàm răng rụng quá nửa:
-Quà của cha con. Mẹ chẳng có gì đáng giá tặng cho tân linh mục của mẹ…
Cha Duyên ôm chầm bà cố:
-Mẹ ơi! Mẹ đã cho con cả cuộc đời rồi còn gì?!
Người ta thấy cả bà cố Lệ và cha Duyên cùng rưng rưng nước mắt.
ngulãonhân
Anh Nguyễn v Thập gởi
Lễ Kết Thúc Hồ Sơ Án Phong Chân Phước – Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
Lễ Kết Thúc Hồ Sơ Án Phong Chân Phước – Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
httpv://www.youtube.com/watch?v=kUk3lwBTyXU&feature=player_embedded