PHÊRÔ CHỐI THẦY

PHÊRÔ CHỐI THẦY

Phêrô đang ở dưới sân, một người đầy tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói:

– Cả bác nữa, bác cũng ở với cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!

Ông liền chối:

– Tôi chẳng biết, chẳng hay cô muốn nói chi!

***************************************

Chối lần thứ nhất:

Nhìn kỹ đoạn văn trên, ta thấy những chi tiết sau:

Một – Chỉ có một, không phải hai.

Ðứa tớ – Ðầy tớ, không phải người địa vị.

Gái – Tớ gái, không phải trai.

Như vậy, kẻ Phêrô gặp mặt tối đó là người mang địa vị thấp nhất trong xã hội bấy giờ.  Chỉ một đứa, lại là đứa đầy tớ, mà lại là tớ gái!  Thế mà Phêrô hoảng sợ.  Làm sao lại có thể sợ hãi trước một người không quyền hành, không địa vị gì như thế?  Chỉ là một tớ gái!

Cung cách của Phêrô chối nữa, ông chối bằng ngôn ngữ rất đặc biệt:

Tôi chẳng hay chẳng biết chị muốn nói chi!

Chợt nghe câu đó, người nghe xem ra như ông đâu có chối.  Ông chối rất nhẹ nhàng.  Ông làm bộ như không rõ chuyện gì.  Ngôn ngữ hôm nay, người ta bảo là kiểu nói đánh trống lảng.

Chối lần thứ hai:

Tin Mừng kể tiếp:

Rôì ông bỏ đi ra phía tiền đường.  Bấy giờ có tiếng gà gáy.  Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó:

– Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.

Ông Phêrô lại chối.

Qua đoạn văn trên, người đọc thấy sau khi chối lần thứ nhất xong, ông không còn ngồi chỗ đó nữa. Ông đi ra phía ngoài cổng.  Như vậy, đối với khoảng cách trong không gian là ông xa Chúa thêm một khúc đường rồi.  Chối lần thứ nhất ông còn ở giữa sân, còn gần Chúa.  Bây giờ bỏ đi ra ngoài.  Cái xa cách không gian ấy diễn tả một khoảng xa hơn trong tâm hồn.  Nó là một khoảng tội nặng hơn.

Lúc nẫy ông chỉ đối diện với một đứa tớ gái thôi.  Bây giờ đứa tớ gái nói với “những người có mặt”. Như thế, ông đối diện với nhiều người.  Chối Chúa lúc nẫy trước mặt một người, tội nhẹ hơn trước mặt nhiều người chứ.  Hai lần chối không mang mức độ giống nhau.  Lần này xa hơn, nặng hơn.  Ông chối Chúa công khai hơn.

Chối lần thứ ba:

Lần thứ ba này Tin Mừng Máccô cho biết những chi tiết cuộc chối bằng ngôn ngữ rất tinh vi, rất chính xác.  Chính xác trong chi tiết để diễn đạt cái tang thương của Phêrô.  Tin Mừng kể:

Một lát sau những người đứng đó lại nói với ông:

– Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!

Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa mà thề:

– Tôi thề là không hề biết người các ông nói đó. (Mc 14:70-71).

Ở đây có bốn điểm chú ý, người đọc cần ghi nhận trong lần chối thứ ba này:

1. Không phải là một người tố cáo nữa mà là “những người có mặt” đều tố cáo.  Một người tố cáo, ít nguy hiểm hơn nhiều người.

2. Tố cáo này xác đáng vì đi vào chi tiết lịch sử của Phêrô, họ nhận ra giọng nói của ông là người Galilê, họ biết rõ gốc gác, còn chối vào đâu?

3. Vì hai lý do trên, lần này Phêrô không chối nhẹ nhàng như lần đầu, ông lấy lời “độc địa mà thề”.

4. Câu ông thề là: “Tôi không hề biết con người đó là ai”.

Như thế, ông quyết liệt công khai chối bỏ liên hệ với Ðức Kitô để cứu lấy mạng sống.  Bây giờ ông không cần biết con người ấy là ai nữa.  Ông chỉ biết làm sao thoát thân trong lúc này.

Xét trong ba lần chối, người đọc thấy rõ tiến triển của ba lần khác nhau.  Mỗi lần nặng thêm chứ không phải ba lần giống nhau.  Ba lần chối như ba nấc thang của một con dốc xuống vực sâu.  Mỗi lần là một bực sa xuống sâu hơn, sâu hơn nữa.

Giờ đây nhìn lại đời Phêrô, ta thấy thảm cảnh bi đát của thân phận một con người.  Con người này làm được gì?  Cả đời ông toàn là lỗi lầm.  Cứ mỗi lúc ông lại lỗi nặng hơn.  Lầm lỗi ngay khi theo Chúa ba năm trước ở biển hồ Galilê cho đến ba năm sau, giây phút sau cùng trước khi Chúa chết vẫn cứ lầm lỗi.

***************************************

Bi kịch trên là thảm cảnh não nề cho đời Phêrô.  Bi kịch ấy cũng là thảm cảnh não nề cho Ðức Kitô, một Rabbi mà có một môn đệ kém như thế.  Nhưng đàng sau bi kịch này, đâu là mối dây liên hệ của hai người?  Ta hãy tìm hiểu.

Chắc chắn Phêrô thương Thầy.  Sau khi Chúa bị bắt, các môn đệ khác bỏ chạy.  Phêrô cũng thế, nhưng không chạy xa.  Không biết Thầy mình ra sao, ông trở lại, lẻn vào dinh thượng tế nghe ngóng. Nếu ông bỏ Ðức Kitô chạy xa thì đâu xảy ra nông nỗi này.  Tội nghiệp cho ông vì ông thương Chúa.

Chiều sâu phía bên kia lỗi phạm của Phêrô vẫn có tình thương.  Nói về tình thương sâu kín này, ta hãy ngoảnh lại nhìn một chút về chuyện Phêrô bị mắng lần thứ hai xem sao.  Lần đó, Chúa mắng Phêrô “ngu tối”.  Giả sử hôm đó Phêrô lặng im đừng hỏi thì đâu bị mắng.  Lời xin của Phêrô: “Thưa Thầy xin giải thích dụ ngôn đó cho chúng con” đã đưa Phêrô vào tròng.  Lời xin ấy nói rằng Phêrô chậm hiểu.  Vì lời xin đó, ông bị mắng.  Ðàng sau lời xin, cho ta thấy chiều sâu trong trái tim, ông quý lời của Chúa.  Không hiểu, ông hỏi chứ không im lặng bỏ qua.  Có thể vài môn đệ khác cũng không hiểu. Nhưng đối với Phêrô, ông quý lời của Chúa.  Ông không để lời đó trôi đi.  Bằng chứng khi có người bỏ Chúa, Chúa hỏi các môn đệ có bỏ Chúa không.  Phêrô là người thưa trước tiên: “Thưa Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy có Lời ban sự sống” (Yn 6:68).  Ta thấy tội nghiệp Phêrô.  Ông có yếu đuối, lỗi phạm nhưng luôn có trái tim.

Ðối với Chúa, Chúa phải mang cái bi thảm của một môn đệ chậm hiểu, kém tin, hành động lung tung.  Nhưng Chúa không bỏ môn đệ này trong yếu đuối, người môn đệ này có một tâm hồn.

Phêrô chối Ðức Kitô vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu.  Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường trốn.  Nhưng trước yếu đuối ấy Phêrô đã khóc.  Nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông òa khóc nức nở.

Ðời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mạnh, giữa trọn vẹn và dang đở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. T rái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Ðời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại, có lên cao gặp vực sâu.

Theo sát lời tường thuật của Phúc Âm, ông lầm lỗi và bị mắng nhiều quá.  Tuy nhiên, có điều trong trái tim ông, Chúa có một chỗ đặc biệt.  Trong tất cả trăn trở ấy, tim ông có một ước mơ.  Cho dù yếu đuối, ông vẫn có một ước mơ.  Cho dù chơi vơi giữa dòng nước, ông vẫn có một ước mơ.  Ông thương Thầy mình.

Ðức Kitô không đếm chân ông đã bước được những bước thánh thiện nào.  Ngài cũng không chối từ vì ông đã bước sai bao nhiêu bước.  Ngài chỉ nhìn vào ước mơ trong trái tim ông.  Và ở ước mơ đó, Thầy trò họ gặp nhau.

***************************************

Lạy Chúa, Chúa không lầm khi chọn người môn sinh yếu đuối.

Chúa không sa thải lúc người môn sinh lỗi phạm.

Chúa lấy kiên nhẫn dẫn đi.

Chúa là Thầy dạy lấy tình thương chịu đựng.

Chúa nhận thập giá về phía mình để người môn sinh được nâng lên cao.

Chúa không lầm khi gọi Phêrô.

Lúc nào trong tim con có mơ ước theo Chúa, Chúa sẽ không nhìn đến yếu đuối của con, chỉ nhìn vào ước mơ ấy trong tim con thôi.

LM. Nguyễn Tầm Thường

Trích trong “Cô Đơn và Sự Tự Do”

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đức Giáo hoàng Francis sẽ rửa chân cho tù nhân.

Đức Giáo hoàng Francis sẽ rửa chân cho tù nhân.

Đức Giáo hoàng bỏ nhẫn vàng, chọn nhẫn bạc.

Giáo hoàng Francis tiếp tục cho thấy sự giản dị khi ông vừa bỏ qua truyền thống cũ, với việc chọn chiếc Nhẫn Ngư phủ bằng bạc thay vì bằng vàng.

 

Chiếc Nhẫn Ngư phủ bằng bạc mà Giáo hoàng Francis đeo trong lễ đăng quang. Ảnh: AFP

Chiếc nhẫn bạc được mạ vàng, một trong những biểu tượng của người đứng đầu Vatican, sẽ được trao cho Giáo hoàng Francis trong thánh lễ đăng quang của ông. Chiếc nhẫn này được làm theo mẫu của một chiếc nhẫn do nhà điêu khắc người Italy, Enrico Manfrini, thiết kế cho Giáo hoàng Paul VI.

Manfrini, qua đời năm 2004 và là người có biệt danh nhà điêu khắc của Giáo hoàng, đã thiết kế nên những đồ vật mang tính tôn giáo cho một số người đứng đầu Tòa thánh trước đây, như các Giáo hoàng Pius XII, Paul VI và John Paul II.

Chiếc nhẫn giản dị, thường được đeo trên tay phải của các Giáo hoàng, có hình Thánh Peter cầm trong tay một cặp chìa khóa. Đó là lúc mà Thánh Peter được giao những chiếc chìa khóa dẫn tới thiên đường.

Giáo hoàng Francis đã chọn chiếc nhẫn bạc trong số ba mẫu nhẫn mà ông nhận được, AFP dẫn lời người phát ngôn Federico Lombardi của Vatican.

Ban đầu, chiếc Nhẫn Ngư phủ có vai trò vừa là biểu tượng cho người đứng đầu Giáo hội vừa là một con dấu. Tuy nhiên, ngày nay, Giáo hoàng có một con dấu riêng để dùng cho việc đóng dấu vào các văn bản.

Có nhiều lời đồn đoán được đưa ra có liên quan tới loại nhẫn mà Giáo hoàng Francis chọn, sau khi ông quyết định từ chối chiếc thánh giá bằng vàng để tiếp tục đeo chiếc thánh giá giản dị của ông trong lần xuất hiện đầu tiên sau khi được bầu là người đứng đầu Giáo hội.

“Đây không phải là lần đầu tiên một Giáo hoàng chọn một chiếc nhẫn bằng bạc”, Claudio Franchi, thợ kim hoàn đã tạo ra chiếc nhẫn của cựu giáo hoàng Benedict XVI nói.

Vatican hôm qua cũng công bố huy hiệu và khẩu hiệu mà Giáo hoàng Francis sẽ sử dụng. Đó đều là huy hiệu và khẩu hiệu mà ông từng dùng khi còn là tổng giám mục tại Buenos Aires, Argentina.

Đức Giáo hoàng Francis sẽ rửa chân cho tù nhân

Tân Giáo hoàng sẽ tổ chức thánh lễ vào tuần tới bằng cách đích thân rửa chân cho những thanh niên tại một trại giam ở Rome.

 

¢nh: AFP

Trong bức ảnh chụp năm 2008, Tổng giám mục Bueno Aires, Jorge Bergoglio, nay là Giáo hoàng Francis, làm lễ rửa chân cho những người nghiện ma túy. Ảnh: AFP

“Khi còn là Tổng giám mục của Buenos Aires, Hồng y Bergoglio từng tổ chức thánh lễ trong nhà tù, bệnh viện hay nhà tế bần cho người nghèo hoặc những người ở dưới đáy xã hội”, Washingtonpost dẫn lời Vatican cho biết.

Tòa thánh cho rằng, bằng việc lựa chọn đến một nhà tù giam giữ người vị thành niên, Giáo hoàng Francis đã quyết định tiếp tục con đường này và duy trì phong cách sống đơn giản.

Thông thường, các buổi lễ rửa chân vẫn được tổ chức trước dịp lễ Phục Sinh tại Vatican hoặc một pháp đình ở Rome. Tuy nhiên, vào Thứ Năm Tuần thánh tới (28/3), buổi lễ rửa chân sẽ được tổ chức trong trại giam Casal del Marmo tại Rome, và Giáo hoàng Francis sẽ đích thân rửa chân cho những thanh niên bị giam giữ. Giáo hoàng Benedict cũng từng thực hiện nghi thức này tại chính nơi đây năm 2007.

Lễ rửa chân vào ngày thứ Năm trước lễ Phục Sinh là một truyền thống của đạo Cơ Đốc, bắt nguồn từ thời Chúa Giêsu. Trong ngày lễ, Giáo hoàng sẽ rửa và hôn lên chân của 12 người để tái hiện một hình ảnh miêu tả trong Kinh Thánh, về hành động đầy nhún nhường của Chúa Giêsu đối với 12 tông đồ trong đêm cuối cùng, trước khi Chúa bị đóng đinh.

Phong cách giản dị của Giáo hoàng mới, nhấn mạnh vào sự nhún nhường, phục vụ và cam kết đối với người nghèo, đã nhận được sự ủng hộ của báo giới. Một số người e ngại phong cách quá thực tế của Giáo hoàng có thể làm giảm giá trị của chức vụ này, nhường chỗ quá nhiều cho văn hóa hiện đại. Tuy nhiên, hình ảnh về một Giáo hoàng với tinh thần phục vụ rõ ràng đã cải thiện hình ảnh của Giáo hội Công giáo.

Những người ủng hộ ông trên mạng đã vui mừng loan báo những tin tốt về Giáo hoàng mới. Các bức ảnh chụp hồng y Bergoglio rửa chân cho những bệnh nhân AIDS trẻ tuổi, hay hôn chân những trẻ sơ sinh đã được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội.

Đức Giáo hoàng Francis thời trai trẻ

Người đứng đầu Tòa thánh Vatican sinh ra trong một gia đình di dân từ Italy. Ông học ngành hóa học trước khi lựa chọn đi theo con đường của Chúa.

 

Undated handout picture provided by Bergoglio family of Pope Francis (L) in his young years with his brother Oscar Bergoglio

Giáo hoàng Francis sinh ngày 17/12/1936. Trong ảnh là Giáo hoàng (trái) và em trai Oscar Bergoglio thời còn học tiểu học.
Undated handout picture provided by Bergoglio family of Pope Francis in his young years
Từ thời trẻ, Giáo hoàng Francis đã gây ấn tượng bởi đôi mắt sáng và nụ cười tươi.
 

Undated handout picture provided by Bergoglio family. From L to R, up: Pope's sister Maria Helena, Pope's mother Regina Sivori, Pope's brother Alberto, Jorge Bergoglio Pope Francis, Pope's brother Oscar, Pope's sister Martha, Pope's stepbrother Enrique Narvaja. Sitting from L to R: Pope's grandfather Juan   Bergoglio, Pope's grandmother Maria and Pope's father Mario

Các thành viên trong gia đình của Bergoglio. Giáo hoàng Francis đứng thứ hai từ trái sang ở phía sau. Mẹ ông, bà Regina Sivori ngồi ở thành ghế sofa, thứ hai từ trái sang. Người cha Mario Oscar Bergoglio ngồi ở ghế, đầu tiên từ phải sang.
 

n this undated picture courtesy of journalist Sergio   Rubin, the then Cardinal Jorge Mario Bergoglio (back row 2-L), poses for a picture with his family.

Giáo hoàng Francis, đứng thứ hai hàng sau từ trái sang, trong một bức ảnh gia đình thu gọn. Cha ngài là công nhân đường sắt, mẹ ở nhà nội trợ.
 

Undated picture released by Clarin's journalist Sergio Rubin of Jorge Mario Bergoglio (R) posing with unidentified   schoolmates in Buenos Aires, Argentina.

Giáo hoàng Francis (đầu tiên, bên phải) chụp ảnh kỷ niệm cùng các bạn học ở Buenos Aires, Argentina. Ngài học ở trường công lập trước khi theo học chuyên ngành hóa học.
 

In this undated picture courtesy of Argentine journalist Sergio Rubin, Cardinal Jorge Mario Bergoglio celebrates the holy mass in an undetermined   church.

Jorge Mario Bergoglio chủ trì một thánh lễ. Ngài được thụ phong linh mục vào năm 1969.
 

Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma

Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô

của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma

VATICAN. 200 ngàn tín hữu cùng với đại diện chính quyền 132 quốc gia cũng như nhiều phái đoàn các Giáo Hội Kitô và liên tôn đã tham dự thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ĐTC Phanxicô từ lúc 9.30 sáng ngày 19-3-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Lúc 8 giờ 45, ĐTC Phanxicô đã đi trên chiếc xe díp màu trắng, mui trần, không có kiếng chắn đạn, tiến ra Quảng trường thánh Phêrô. Ngài tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, reo vui, vẫy cờ quốc gia của họ. Có một lúc ĐTC truyền dừng xe lại, ngài xuống xe ôm hôn một người khuyết tật, và những lúc khác, ngài ôm hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài.

Trước thánh lễ, lúc 9 giờ 20 phút, ĐTC đã xuống hầm dưới bàn thờ chính của Đền Thờ Thánh Phêrô và đến trước mộ của Thánh Tông Đồ trưởng. Tại đây, cùng với 10 thủ lãnh các Giáo hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương, trong đó có 4 vị Thượng Phụ Giáo Chủ, 4 vị Tổng Giám Mục trưởng, trong số này 4 vị là Hồng Y, ngài cầu nguyện và xông hương trên mộ Thánh Nhân. Từ mộ thánh Phêrô, hai thầy Phó tế đã lấy hai chiếc đĩa: một đựng dây Pallium và một đựng nhẫn Ngư Phủ của ĐTC, để tháp tùng ngài trong đoàn rước tiến ra lễ đài trên thềm đền thờ thánh Phêrô.

Thành phần tham dự

Đi trước ĐTC trong đoàn rước là 180 vị đồng tế, hầu hết là các Hồng Y, trong phẩm phục màu trắng vàng, trong khi ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát kinh cầu các Thánh xin các vị phù giúp Đức tân Giáo Hoàng.

Trong đoàn đồng tế, đặc biệt cũng có 2 LM đó là Cha José Rodriguez Carballo người Mêhicô, và Cha Aldolfo Nicolás Pachón, người Tây Ban Nha, Bề trên Tổng quyền dòng Tên. Hai vị được mời đồng tế trong tư cách là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam.
Việc giúp lễ do 15 tu sĩ Phanxicô thuộc Đền thánh La Verna ở miền trung Italia, nơi thánh Phanxicô Assisi nhận 5 dấu thánh, đảm trách với sự phụ giúp của 4 thầy thuộc dòng Phanxicô Viện Tu ở Roma. Phần thánh ca trong buổi lễ do Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh gồm 65 ca viên do Nhạc trưởng là Đức ông Massimo Palombella điều khiển, cộng thêm với Ca đoàn tổng hợp gồm 80 ca viên.

Bên trái bàn thờ là 200 GM và 33 phái đoàn của các Giáo Hội Kitô anh em, đứng đầu là Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople bên Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng được coi là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính Thống giáo. Các vị lãnh đạo các Giáo Hội Tin Lành, Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, và cả thầy Alois Loeser, tu viện trưởng tu viện Đại kết Taizé bên Pháp.

Cũng ở bên trái nhưng xuống phía trước bàn thờ là phái đoàn của các tôn giáo bạn, từ Do thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, Jaina và Ấn Giáo. Sau đó là 1.200 LM và chủng sinh.

Bên hông phải bàn thờ là chỗ dành cho 132 phái đoàn chính thức của các nước, đứng đầu là Tổng thống Cộng hòa Italia, ông Giorgio Napolitano, Bà Tổng thống Cristina Fernández de Kirchner của Argentina, 6 vị vua, 32 vị Tổng thống, 3 thái tử, phần còn lại là các thủ tướng chính phủ, phu nhân Tổng thống, hoặc Phó tổng thống, trong đó có Ông Joseph Biden của Hoa Kỳ.

Chính quyền thành Roma đã bố trí một số màn hình khổng lồ tại khu vực quảng trường Thánh Phêrô và đường Hòa Giải để dân chúng có thể tham dự thánh lễ.

ĐTC tiến ra lễ đài trước sự vỗ tay vang dội của mọi người. Nhiều lá cờ quốc gia cũng được các tín hữu phất lên, dưới bầu trời đẹp.

Nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Phủ

Nghi thức khai mạc sứ vụ Phêrô, theo qui định của ĐTC Biển Đức 16, nay được cử hành liền trước thánh lễ, vì không phải là bí tích. Nghi thức này gồm phần trao dây Pallium Giáo Hoàng và trao nhẫn Ngư Phủ.

Dây Pallium được trao cho ĐTC là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình Thánh Giá màu đỏ, khi được đeo vào cổ, có một phần dài ở phía trước ngực và một phần dài ở sau lưng. Đây là biểu hiệu cổ kính nhất của Giám Mục. Simeon thành Tessalonica viết: “Dây Pallium chỉ Chúa Cứu Thế khi gặp chúng ta như chiên lạc đàn, Ngài vác lên vai, và khi nhận lấy nhân tính con người trong cuộc nhập thể, Ngài thần hóa nhân tính ấy bằng cái chết của Ngài trên Thánh Giá, Ngài dâng chúng ta cho Chúa Cha, và qua cuộc phục sinh, Ngài nâng chúng ta lên cao”.
Vì thế dây Pallium nhắc nhớ vị Mục Tử nhân lành (cf Ga 10,11), vác trên vai con chiên lạc (cf Lc 15,4-7), và 3 câu trả lời yêu mến đáp lại 3 câu Chúa Giêsu Phục Sinh hỏi thánh Phêrô, và Chúa dạy thánh nhân hãy chăn các con chiên con và chiên mẹ của Ngài (cf Ga 21,15-17).

3 vị Hồng Y là Angelo Sodano, niên trưởng HY đoàn, trưởng đẳng GM, ĐHY Godfried Danneels, nguyên TGM Bruxelles bên Bỉ, trưởng đẳng HY Linh Mục, và ĐHY Jean Louis Tauran, người Pháp, trưởng đẳng HY Phó tế lần lượt tiến lên trước mặt ĐTC. ĐHY Tauran cầu xin Thiên Chúa của hòa bình ban cho ĐGH dây Pallium đã lấy từ bàn thờ tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô Tông Đồ, là Đấng mà Mục Tử nhân lành đã truyền chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài, và ngày hôm nay ĐTC kế vị thánh nhân. Xin Thánh Thần Chân Lý ban ơn soi sáng và phân định cho sứ vụ của ĐTC củng cố các anh em trong đức tin duy nhất.

Rồi ĐHY trưởng đẳng Phó tế tiến lên đeo dây Pallium vào cổ Đức tân Giáo Hoàng, tiếp đến ĐHY trưởng đẳng LM Danneels kết thúc với lời nguyện: ”xin Thiên Chúa chúc lành và củng cố ơn Thánh Linh để sứ vụ của Đức tân Giáo Hoàng tương ứng với sự cao cả của đoàn sủng mà Chúa đã ban cho Người.”

Sau đó là nghi thức trao nhẫn Ngư Phủ. Ngay từ ngàn năm thứ I, nhẫn là biểu hiệu riêng của Giám Mục. Chiếc nhẫn Ngư Phủ được trao cho ĐTC Phanxiô bằng bạc có hình thánh Phêrô đang cầm chìa khóa, có nghĩa đó là nhẫn chứng thực thực đức tin và nói lên nghĩa vụ được ủy thác cho thánh Phêrô là củng cố các anh em mình (cf Luca 22,32). Nhẫn này được gọi là Nhẫn Ngư Phủ vì thánh Phêrô là Tông Đồ Ngư Phủ (cf Mathêu 4,18-19). Sau khi tin vào lời Chúa Giêsu (cf Luca 5,5), thánh nhân đã thả lưới và kéo vào bờ mẻ cá lạ lùng (cf Gioan 21,3-14).

ĐHY Angelo Sodano, trưởng đẳng GM, nói: ” Kính thưa Đức Thánh Cha, chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Mục tử và là Giám mục của các linh hồn chúng ta, Đấng đã xây dựng Giáo Hội trên đá tảng, ban cho ĐTC Nhẫn này, ấn tín của Thánh Phêrô Ngư Phủ, Người đã sống niềm hy vọng trên biển Tiberiade và Chúa đã trao cho Người chìa khóa nước trời. Ngày hôm nay, ĐTC kế vị Thánh Phêrô trong Giám mục đoàn của Giáo Hội này, làm đầu trong tình hiệp thông hiệp nhất theo giáo huấn của Thánh Phaolô Tông Đồ. Xin Thánh Thần tình yêu được phú vào tâm hồn chúng ta làm cho ĐTC được tràn đầy sức mạnh và sự dịu dàng để giữ gìn các tín hữu Chúa Kitô, qua sứ vụ của ĐTC, trong sự hiệp thông duy nhất”.

Rồi ĐHY Sodano trao Nhẫn Ngư Phủ cho ĐTC, giữa tiếng vỗ tay vang dội của cộng đoàn.

Tiếp đến là nghi thức tuân phục. Hồi ĐGH Biển Đức 16 khai mạc sứ vụ, ngoài các Hồng y còn có các đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, tổng cộng là 12 người, nhưng lần này chỉ có 6 HY đại diện, mỗi đẳng GM, LM và Phó tế 2 vị. Hai vị đứng đầu là ĐHY Giovanni Battista Re và ĐHY Bertone.

Trong nghi thức này không có đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân vì họ sẽ cử hành nghi thức tuân phục trong buổi lễ ĐTC Phanxicô sẽ cử hành trong mùa Phục Sinh khi đến nhận Nhà thờ chính tòa giáo phận Roma của ngài là Đền thờ thánh Gioan Laterano.

Thánh lễ kính Thánh Giuse với kinh nguyện và các bài đọc đi kèm bắt đầu sau nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Phủ của ĐTC.

Bài Tin Mừng được hát bằng tiếng Hy Lạp kể lại sự tích thánh Giuse sau khi thấy Đức Maria có thai, thì toan tính âm thầm bỏ rơi Người, nhưng đã được Sứ thần Chúa hiện ra trong giấc mộng và dạy hãy đón nhận Đức Maria về nhà mình.

Bài giảng của ĐTC

Anh chị em thân mến,

Tôi cảm tạ Chúa vì được cử hành Thánh Lễ này, khai mạc sứ vụ Phêrô trong ngày lễ trọng kính Thánh Giuse, Hôn Phu của Đức Trinh Nữ Maria, và là Bổn Mạng của Giáo Hội: đây là một dịp trùng hợp đầy ý nghĩa và cũng là lễ bổn mạng của Vị Tiền Nhiệm Đáng Kính của tôi: chúng ta gần gũi ngài trong kinh nguyện, đầy lòng quí mến và biết ơn (vỗ tay).

Tôi thân ái chào các anh em Hồng y và Giám Mục, các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và tất cả anh chị em giáo dân. Tôi cám ơn các đại diện của các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội khác hiện diện nơi đây cũng như các đại diện của cộng đồng Do thái và các cộng đồng tôn giáo khác. Tôi gửi lời chào nồng nhiệt đến các vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ, các phái đoàn chính thức của bao nhiêu nước trên thế giới và ngoại giao đoàn.

Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng rằng “Giuse làm như Thiên Thần Chúa đã truyền và đón nhận hiền thê của mình” (Mt 1,24). Trong những lời này có gồm tóm sứ mạng mà Thiên Chúa ủy thác cho Giuse, sứ mạng làm người canh giữ. Nhưng canh giữ ai? Thưa là canh giữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu, nhưng đó là một sự canh giữ được nới rộng cho toàn thể Giáo Hội, như Chân phước Gioan Phaolô 2 đã nhấn mạnh: ”Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Đức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Thánh Giuse thi hành công việc canh giữ ấy như thế nào? Thưa một cách kín đáo, khiêm tốn, trong thinh lặng, nhưng với một sự hiện diện liên lỷ và trung tín hoàn toàn, cả khi Ngài không hiểu. Từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Đền thờ Jerusalem , Ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của Ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Đền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazareth, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.

Thánh Giuse đã sống ơn gọi gìn giữ Mẹ Maria, Chúa Giêsu và Giáo Hội như thế nào? Thưa trong sự luôn quan tâm để ý tới Thiên Chúa, cởi mở đối với những dấu hiệu của Chúa, sẵn sàng đối với dự phóng của Chúa, không phải tới điều riêng của mình, nhưng điều mà Thiên Chúa yêu cầu Vua Davít, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ I; Thiên Chúa không mong ước một nhà do con người làm ra, nhưng Chúa muốn lòng trung thành với Lời Ngài, với kế hoạch của Ngài; và chính Thiên Chúa xây dựng căn nhà, nhưng bằng những viên đá sống động nhờ Thánh Thần của Ngài. Và thánh Giuse là người ”canh giữ”, vì Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân càng nhạy cảm hơn đối với những người được ủy thác cho Ngài, biết đọc các biến cố một cách thực tế, chú ý đến những gì ở chung quanh và biết đưa ra những quyết định khôn ngoan hơn. Các bạn thân mến, chúng ta thấy thánh Giuse đáp ứng ơn gọi của Chúa như thế nào, với thái độ sẵn sàng, mau mắn, nhưng chúng ta cũng thấy đâu là trung tâm điểm ơn gọi Kitô, là chính Chúa Kitô! Chúng ta hãy gìn giữ Chúa Kitô trong đời sống chúng ta, để giữ gìn những người khác, để giữ gìn thiên nhiên, công trình sáng tạo.

“Nhưng ơn gọi của người canh giữ không phải chỉ liên hệ đến các tín hữu Kitô chúng ta mà thôi, nhưng còn có một chiều kích đi trước và nhân bản, liên hệ tới tất cả mọi người. Đó là việc bảo tồn toàn thể thiên nhiên, vẻ đẹp của công trình tạo dựng, như được trình bày cho chúng ta trong Sách Sáng Thế và như thánh Phanxicô Assisi đã chỉ cho chúng ta; đó là tôn trọng đối với mỗi thụ tạo của Thiên Chúa và môi trường trong đó chúng ta sinh sống. Đó là giữ gìn con người, chăm sóc tất cả mọi người, mỗi người, với tình yêu thương, đặc biệt là các trẻ em, người già, những người yếu đuối hơn và thường ở ngoài lề tâm hồn chúng ta. Đó là chăm sóc lẫn nhau trong gia đình: vợ chồng gìn giữ nhau, và trong tư cách là cha mẹ, họ chăm sóc con cái, rồi với thời gian cả con cái cũng trở thành những người gìn giữ cha mẹ. Đó là sống những tình bạn chân thành, là một sự gìn giữ nhau trong sự tín nhiệm, trong sự tôn trọng và trong thiện ích. Xét cho cùng, tất cả đều được ủy thác cho sự gìn giữ của con người, và đó là một trách nhiệm liên hệ tới tất cả chúng ta. Anh chị em hãy trở thành những người gìn giữ hồng ân của Thiên Chúa.

“Và khi con người thiếu sót trách nhiệm của mình, khi chúng ta không chăm sóc công trình tạo dựng và các anh chị em chúng ta, thì khi ấy xảy ra sự tàn phá và con tim trở nên chai đá. Rất tiếc là trong mỗi thời đại, đều có những “vua Hêrôđê” đề ra những mưu đồ chết chóc, hủy hoại và bóp méo khuôn mặt của con người nam nữ.

Tôi muốn xin tất cả những người đang nắm giữ các vai trò trách nhiệm trong lãnh vực kinh tế, chính trị hoặc xã hội, tất cả những người thiện chí: “Chúng ta hãy trở thành những người gìn giữ công trình tạo dựng, gìn giữ kế hoạch của Thiên Chúa được ghi khắc trong thiên nhiên, giữ gìn tha nhân, môi sinh; chúng ta đừng để cho những dấu hiệu tàn phá và chết chóc tháp tùng hành trình của thế giới chúng ta! Nhưng để ”gìn giữ” thì chúng ta cũng phải chăm sóc chính mình! Chúng ta hãy nhớ rằng oán ghét, ghen tương, kiêu ngạo làm cho cuộc sống bị nhơ bẩn! Gìn giữ có nghĩa là canh chừng những tâm tình chúng ta, con tim chúng ta, vì chính từ đó nảy sinh những ý hướng tốt hay xấu: những ý hướng xây dựng và những ý hướng hủy hoại! Chúng ta không được sợ sự tốt lành, và cũng đừng sợ sự dịu dàng!

“Và ở đây, tôi muốn ghi nhận thêm điều này: chăm sóc, giữ gìn, đòi phải có sự tốt lành, đòi phải được sống với sự dịu dàng. Trong các sách Phúc Âm, thánh Giuse xuất hiện như một người mạnh mẽ, can đảm, chuyên cần làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài trổi vượt một sự rất dịu dàng, đây không phải là đức tính của kẻ yếu, trái lại, nó chứng tỏ một tâm hồn mạnh mẽ và có khả năng chú ý, cảm thương, thực sự cởi mở đối với tha nhân, yêu thương. Chúng ta không được sợ sự tốt lành và dịu dàng!

“Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân GM Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm một quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có 3 lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn giắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mathêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (Xc Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!

Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nói về Abraham, người ”đã tin, kiêm vững trong niềm hy vọng bất chấp mọi nghịch cảnh” (Rm 4.18). Kiên vững trong niềm hy vọng, bất chấp mọi nghịch cảnh! Cả ngày nay, đứng trước bao nhiêu chân trời đen xám, chúng ta cần thấy ánh sáng hy vọng và chính chúng ta trao ban hy vọng. Giữ gìn công trình tạo dựng, mỗi người nam nữ, với cái nhìn dịu dàng và yêu thương, đó chính là mở rộng chân trời hy vọng, là mở ra một luồng sáng giữa bao nhiêu mây mù, là mang sức nóng hy vọng! Và đối với tín hữu, đối với các tín hữu Kitô chúng ta, như Abraham, như thánh Giuse, niềm hy vọng mà chúng ta mang có chân trời của Thiên Chúa được mở rộng cho chúng ta trong Chúa Kitô, được xây dựng trên đá tảng là Thiên Chúa.

“Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến điều Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!

“Tôi cầu khẩn sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, của Thánh Giuse, của thánh Phêrô và Phaolô, thánh Phanxicô, xin Chúa Thánh Linh tháp tùng sứ vụ của tôi, và tôi nói với tất cả anh chị em rằng: xin cầu nguyện cho tôi! Amen
Các ý nguyện
Bài giảng của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì những tiếng vỗ tay của các tín hữu, lần đầu khi ngài chúc mừng lễ Bổn mạng của Vị Tiền nhiệm và mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Người.

Trong phần lời nguyện phổ quát, đã có 5 ý nguyện được xướng lên là tiếng Nga, Pháp, Arap, Swahili bên Phi châu và tiếng Hoa, lần lượt cầu cho Giáo Hội: Xin Thiên Chúa toàn năng nâng đỡ mọi người, các mục tử và tín hữu, sống tuân phục vô điều kiện đối với Tin Mừng; xin Chúa gìn giữ ĐGH Phanxicô trong việc thi hành sứ vụ của Người Kế Nhiệm Thánh Phêrô và Chủ Chăn của toàn thể Giáo hội; cầu cho các người cầm quyền: xin Chúa soi sáng tâm trí và hướng dẫn họ trong việc xây dựng nền văn minh tình thương; cầu cho những người nghèo khổ trên trái đất: xin Chúa bồi dưỡng, an ủi và ban cho họ niềm hy vọng nhờ lòng bác ái của các tín hữu Kitô; sau cùng là cầu cho gia đình của Thiên Chúa đang tụ họp trong thánh lễ: xin Chúa biến đổi cuộc sống của tất cả các tín hữu nên giống Chúa Giêsu.
Để rút ngắn thời gian buổi lễ, không có phần tiến dâng lễ vật, và ĐTC cũng không đích thân cho rước lễ, nhưng một thầy Phó tế đã làm thay. Trong khi đó có 500 LM mang Mình Thánh Chúa phân phát cho các tín hữu tại khu vực hành lễ. Sau thánh lễ, ở bên trong Đền thờ Thánh Thánh Phêrô, ĐTC đã chào thăm các vị thủ lãnh của 132 phái đoàn chính thức do chính phủ các nước gửi đến dự lễ. Bắt đầu là bà tổng thống Cristina Kirchner của Argentina và tổng thống Giorgio Napolitano của Italia.

Lễ khai mạc sứ vụ của ĐTC kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ và được nhiều tín hữu trên thế giới theo dõi qua truyền hình.

G. Trần Đức Anh OP

Khoảng 300 000 tín đồ công giáo dự lễ đăng quang Giáo Hoàng Phanxicô

Khoảng 300 000 tín đồ công giáo dự lễ đăng quang Giáo Hoàng Phanxicô

Quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, trong lễ đăng quang của Giáo Hoàng Phanxicô, 19/03/2013

Quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, trong lễ đăng quang của Giáo Hoàng Phanxicô, 19/03/2013

REUTERS/Alessandro Bianchi

Huê Đăng / Tú Anh

nguồn: RFI

Tại Roma, trong ánh nắng ấm, khoảng 300 000 tín đồ công giáo đã đứng chật quảng trường Thánh Phêrô vào sáng nay, 19/03/2013. Trong lễ đăng quang, vị Giáo Hoàng đầu tiên xuất thân từ châu Mỹ la tinh nhấn mạnh đến yếu tố con người và môi trường. Ngài kêu gọi « bảo vệ sự sống cho muôn loài » và « yêu thương » người nghèo.

Tân Giáo Hoàng giải thích « quyền lực thật sự » của một vị giáo chủ là « phụng sự và phụng sự một cách khiêm tốn và cụ thể » . Giáo Hoàng Phanxicô còn kêu gọi phải tranh đấu chống lại mọi « dấu hiệu tàn phá » và phải « bảo vệ » môi trường.

Từ Roma, thông tín viên Huê Đăng tường thuật :

Tờ mờ sáng sớm hôm nay, một số trục lộ chung quanh khu vực Tòa Thánh đã được cảnh sát giao thông phong tỏa theo kiểu “nội bất xuất ngoại bất nhập”, xe cộ ùn tắc, không được phép vào các khu vực gần Tòa Thánh. Người dân thành phố Roma lại thêm một phen lận đận với những hàng xe bus dài cả mấy cây số chở giáo dân từ khắp nơi đổ về Quảng trường Thánh Phêrô. Hàng ngàn cảnh sát an ninh, các lực lượng đặc biệt phòng chống khủng bố của Ý đã được huy động để bảo vệ an ninh chung quanh các khu vực gần Tòa Thánh.

Khoảng trên dưới 300 000 giáo dân cùng với các phái đoàn của các nguyên thủ quốc gia, của chính phủ Nhà nước của 132 nước, cùng với đại diện của các phái đoàn giáo hội và các dòng xứ đã tụ tập trong Đại sảnh đường của Tòa Thánh và trước Quảng trường Thánh Phêrô để tham dự Thánh lễ khai mạc sứ vụ giáo chủ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Đúng vào lúc 8h45, tân Giáo Hoàng đứng trên xe jeep trắng mui trần, không có kiếng an toàn chắn đạn, đã tiến vào Quảng trường Thánh Phêrô trước những tiếng reo hò nồng nhiệt của giáo dân chào vị giáo chủ mới đến từ “nơi tận cùng thế giới”. Tấm tình nồng nhiệt của giáo dân đã khiến có lúc Giáo Hoàng Phanxicô đã phải cho xe ngừng lại để Ngài xuống xe, ôm hôn những người khuyến tật hay bồng lấy các em bé được cha mẹ rối rít truyền đến tay của Đức Giáo Hoàng.

Trước khi chính thức khai mạc Thánh lễ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xuống tầng hầm của đại sảnh đường của Tòa Thánh để cầu nguyện trước Thánh mộ của Thánh Tông Đồ trưởng. Từ mộ Thánh Phêrô, hai mục sư Phó tế đã dâng lên Giáo Hoàng hai chiếc đĩa: Một đĩa đựng khăn bào Pallium (khăn làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình Thánh Giá màu đỏ, coi như biểu tượng của Giáo Hoàng, sẽ được Đức Giáo Hoàng quàng vào cổ trong những nghi lễ chính thức của Giáo hội),và đĩa kia đựng chiếc nhẫn Ngư Phủ của Giáo Hoàng.

Trong bài diễn văn khai mạc Thánh lễ, những câu chữ đầu tiên tân Giáo Hoàng dành cho người tiền nhiệm của mình: “Hôm nay là ngày Thánh San Giuseppe, cũng là tên Thánh ngày của cựu Giáo Hoàng Benedicto XVI”. Trong bài diễn văn, Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở giáo dân “đừng do dự hay lo âu khi phải thực hiện những điều tốt lành, thậm chí khi cần phải có những cử chỉ chăm sóc ân cần …. Quyền lực thực sự phải được thể hiện qua tinh thần giáo vụ, nhất là đối với những thành phần nghèo khó và yếu kém trong xã hội ”.

Đám đông tín đồ trước quảng trường đã nhiều lần tung hô “vạn tuế Phanxicô” và giương cao biểu ngữ với nhiều thứ tiếng khác nhau để chúc mừng Giáo Hoàng mới.

Các phóng viên của các hãng thông tấn có mặt ở quảng trường đã phỏng vấn giáo dân, và đại đa số đều rất hồ hởi trước một Đức Giáo Hoàng đầu tiên là người Nam Mỹ, và mọi người đều xem như là một sự kiện mới, có tín hiệu thay đổi trong hàng Giáo hội.

Sau khi Thánh lễ chấm dứt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đón tiếp để chào mừng và cám ơn các phái đoàn của các quốc gia đã đến dự thánh lễ. Trong các nhân vật trọng yếu của các quốc gia, người ta ghi nhận sự hiện diện của Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden, bà Thủ tướng Đức Angela Merkel, Thủ tướng Pháp Jean-Marc Ayrault, vua Bỉ Alberto II và Hoàng hậu Paola, Hoàng tử Alberto II của vương quốc Monaco.

Về phía Nhà nước Ý có sự hiện diện của Tổng thống Giorgio Napolitano và Thủ tướng Mario Monti.

Nguyên thủ quốc gia đầu tiên là Tổng thống Achentina Cristina Kirchner đã có những lời chúc mừng nồng nhiệt đến Đức Giáo Hoàng, dù rằng theo một số báo chí Achentina thì quan hệ giữa Tổng Giám mục Bergoglio và Tổng thống Cristina trước đây không hề đơn giản.

ĐGM Kontum: Việt Nam cần một Hiến pháp không chống trời, cũng chẳng chống người

ĐGM Kontum: Việt Nam cần một Hiến pháp không chống trời, cũng chẳng chống người

Categories Tin Công Giáo

7

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (18.03.2013) – Kontum – “Việc nước, mỗi người quan tâm một cách! Có người thì năng nổ, có người thì lơ là, bịt tai che mắt! … Trong chỗ riêng tư bạn bè thì kêu ca trách móc, nói hành nói xấu nhà hữu trách?! Ra trước công chúng thì im hơi lặng tiếng, có khi còn đóng kịch giả hình tán thưởng ngay cả những sai trái?!… Vì sợ đủ thứ, nhất là sợ đủ kiểu mũ chụp trên đầu như “chống phá cách mạng”, như “âm mưu lật đổ chính quyền”…

Kể từ cái ngày lịch sử, 01.03.2013, ngày Ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam công bố “Bản sửa đổi Hiến pháp Việt Nam”, một luồng gió mới đã thổi vào đầu, vào tim, vào phổi đông đảo anh chị em chúng ta! tất cả đều đồng tình, phấn khởi, tin tưởng và nồng nhiệt hưởng ứng lời kêu gọi của các giám mục”.

Trên đây là một đoạn trích từ Thư mục vụ mùa Chay 2013 của Giáo phận Kontum, do Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, giám mục chánh tòa ấn ký và công bố ngày 08.03.2013, cùng với sự hiệp thông của Đức nguyên giám mục Phêrô Trần Thanh Chung. Điều quan trọng, các Đức giám mục thuộc vùng truyền giáo Kontum mong muốn là làm sao toàn thể giáo dân ăn chay, hãm mình, cầu nguyện hướng về việc xin Chúa ban cho đất nước Việt Nam một bản Hiến pháp “không chống trời, chẳng chống người, thể hiện linh khí dân tộc, mang nét đẹp văn hóa truyền thống khiến anh linh các bậc tiên tổ, các vị anh hùng tử sĩ cũng được hỉ hoan”.

VRNs xin trân trọng giới thiệu toàn văn Thư mục vụ này.

Giáo Hoàng chuyện trò thân mật, giáo dân thích thú

Giáo Hoàng chuyện trò thân mật, giáo dân thích thú
Đức Giáo hoàng Phanxicô đến chào tín hữu tại Vatican, Chủ nhật ngày 17 tháng 3.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đến chào tín hữu tại Vatican, Chủ nhật ngày 17 tháng 3.

17.03.2013

nguồn:VOA

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chào đón khoảng 150.000 người đứng chật quảng trường Thánh Phêrô bằng bài nói chuyện thân mật của ngày Chủ nhật đầu tiên sau khi lên ngôi được 4 hôm.

Khác với thông lệ, Ngài nói bằng tiếng Ý và ít khi nhìn vào giấy soạn sẵn. Ngài bắt đầu bằng “buon giorno,” chào một ngày vui vẻ và chấm dứt bằng “buon pranzo,” chúc mọi người có bữa ăn trưa ngon miệng.

Cách nói chuyện tự phát và pha chút khôi hài nhẹ nhàng của Đức Giáo hoàng đã khiến mọi người trong quảng trường thích thú.

Trước khi xuất hiện vào trưa Chủ nhật đầu tiên, Đức Giáo hoàng đến giáo xứ Thánh Anna, một giáo xứ nhỏ ở Vatican để giảng đạo trước mấy trăm giáo dân ở đây, đa số là công nhân.

Sau thánh lễ, Ngài bắt tay với giáo dân và ôm hôn các em bé.

Khi có hai tu sĩ được giới thiệu với Ngài, hai người này định quỳ gối thì Ngài đã nhanh tay đỡ họ đứng yên.

Đức Giáo hoàng cũng đăng tin tweet đầu tiên trên tài khoản @Pontifex do người tiền nhiệm để lại. Trong tweet này Ngài viết “Các bạn thân mến, tôi cảm tạ các bạn từ đáy lòng và tôi xin các bạn tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Giáo hoàng Phanxicô.”

SỐNG VÀ CHẾT

SỐNG VÀ CHẾT

nguồn:conggiaovietnam.net

Một mùa Phục Sinh nữa lại đến trong cuộc đời tôi – một đứa con trở về muộn màng đang cuộn tròn trong vòng tay ấm êm của Chúa.

Có cái gì rất lạ, rất linh thiêng của đất trời cứ se se thở vào lòng tôi…xao động, bồi hồi…

Mười bốn năm có dài không? Mười bốn mùa Phục Sinh đã qua trong đời tôi, mà sao cái cảm giác nguyên sơ như mới hôm qua! Cái nguyên sơ ấy như kéo tôi đi ngược dòng thời gian, trở về những ngày đầu tôi mới “quen biết”, bập bẹ đọc kinh Lạy Cha với lòng thành kính sâu thẳm. Đầu tôi lại lòng vòng những câu hỏi xem ra thật lẩn thẩn trong thời kỹ thuật số này: Tôi là ai? Ý nghĩa cuộc đời này? Sống vì cái gì và sống cho ai? Hay Chúa cứu độ tôi chỉ để tôi lẩn quẩn nợ áo cơm, rồi đến chết vẫn không có gì cao hơn cơm với áo?

Ồ, cái chết! Tôi đang sống hay là đã chết? Có lẽ chết không đáng suy nghĩ, nhưng “chết” khi vẫn đang sống mới đáng sợ! Tôi sợ tôi “chết” cái phần “NGƯỜI” trong chính tôi đây, khi mà tôi đang bị cuốn bởi dòng xoáy kinh hoàng của não trạng duy kỹ thuật. Não trạng đó giảm thiểu các chiều kích của con người. Con người bị giảm trừ theo sự “hữu dụng” và “chức năng”, bị lượng giá bằng máy móc, bằng các thông số, bị biến thành công cụ và nô lệ cho kỹ thuật. Thẩm mỹ và tôn giáo bị đánh bật. CON NGƯỜI không còn được quan tâm như một huyền nhiệm thẳm sâu khôn dò.

Tôi đang dò giẫm từng bước trên cuộc lữ hành LÀM NGƯỜI đầy gian khó. Tôi phải lãnh lấy trách nhiệm hoàn thành phần “NGƯỜI” của chính tôi và của anh chị em tôi – bằng sự ứng đáp và cách lối tôi chọn lựa ở mỗi phút giây cuộc đời này. Từ chối và trốn chạy là đồng nghĩa với từ chối việc trở thành người. Chao ôi! Cuộc đời tôi đã có bao nhiêu lần từ chối, bao nhiêu lần trốn chạy? Tôi chứa trong tôi sự xa cáchbất nhân…Tôi kiêu ngạo, xét đoán. Tôi tự nâng tôi lên và hạ người xuống. Tôi tách tôi ra khỏi những “người tội lỗi” mà lẽ ra chỉ có Chúa mới có quyền phán xét. Tôi có còn biết lắng đọng để làm người, hay cứ hối hả, ùa xô theo nhịp sống? Hỡi tôi ơi! Tôi phải sống kiếp sống của tôi và chết cái chết của tôi, sao cho xứng với phẩm giá con người!

Để kính sợ Chúa, tôi lom lom giữ mười điều răn cho khỏi tội trọng. Tôi có hay đâu tôi đang tắm mình trong một tội cực trọng khác mà tôi không biết: tôi không còn lòng tín thác, yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em được nữa! Bởi cuốn theo dòng đời, tôi mãi chạy theo những ảo ảnh của thế gian, quen cậy dựa uy quyền của tiền tài, thế lực. Có cái gì đó khô cứng, vô cảm trong tôi. Nơi tôi hiện diện một sự chết xuất phát vì tội.

Chúa thương đặt để vào lòng tôi một lương tâm, để tôi biết ray rứt vì tội lỗi. Nhưng khốn nỗi, đức tin của tôi không đủ lớn để tin vào quyền năng tha tội của Ngài. Chúa đã tha cho tôi, nhưng tôi không tha được cho chính mình, tôi ôm lấy mặc cảm tội lỗi trong quá khứ để rồi không sao được chữa lànhgiải thoát. Tôi không biết rằng: cái chết được đón nhận trong tình yêu là cái chết được biến đổi để đi vào sự sống mới.

Có Lời đã nhắc tôi rằng: Tôi phải sống như Chúa sống và chết như Chúa chết: Sống với lòng đơn sơ, không phân biệt người cao, kẻ thấp; và chết đi cho những sự tội trong tôi. Tôi phải xin ơn Chúa để Người tưới đổ trên tôi một tình yêu cứu độ – tình yêu duy nhất trên thế gian này có thể xóa TỘI, bồi ƠN, dẫn kẻ CHẾT đi vào cõi SỐNG.

Hạt Cải

‘Giáo hội nghèo vì người nghèo’

‘Giáo hội nghèo vì người nghèo’

Chủ nhật, 17 tháng 3, 2013

nguồn:BBC

Giáo hoàng vẫy tay với các nhà báo

Hàng nghìn nhà báo quốc tế đã đến tham dự buổi tiếp kiến của Giáo hoàng Francis

Tân Giáo hoàng Francis nói Ngài muốn một ‘Giáo hội nghèo’ và ‘vì người nghèo’ trong cuộc gặp mặt báo chí quốc tế lần đầu tiên hôm thứ Bảy ngày 16/3 sau khi Ngài được chọn làm người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã.

Ngài cũng giải thích việc Ngài chọn tông hiệu Francis là theo tên của Thánh Francis sống vào thế kỷ thứ 12 và 13 – vị thánh tượng trưng cho ‘nghèo khó và hòa bình’.

Ông kêu gọi các nhà báo hãy hiểu Giáo hội với cả ‘các đức tính và tội lỗi’ và hãy cùng với Giáo hội tập trung vào ‘Chân, Thiện, Mỹ’.

Nguyên Hồng y Jorge Mario Bergoglio, 76 tuổi và đến từ Argentina, là sự lựa chọn bất ngờ của các hồng y trong cuộc mật nghị ở Vatican để bầu ra người lãnh đạo mới của Giáo hội.

‘Chúa soi đường’

Trong cuộc tiếp kiến đầu tiên ở Vatican, Ngài nói Chúa Giê-su chứ không phải giáo hoàng mới là trung tâm của Giáo hội. Ngài cũng nhấn mạnh bản chất của Giáo hội là ‘tâm linh’ chứ ‘không phải chính trị’.

Ông nói chính Chúa Trời đã khiến cho cựu Giáo hoàng Benedict XVI thoái vị và soi đường cho các hồng y lựa chọn ông làm giáo hoàng.

Giáo hoàng Francis cũng cho biết Ngài chọn tông hiệu Francis là vì một vị hồng y người Brazil đã ôm chầm lấy Ngài chúc mừng và thì thầm vào tai Ngài ‘đừng quên người nghèo’ khi có kết quả Ngài được chọn làm giáo hoàng.

Ngài kể ngay lập tức Ngài đã nghĩ đến Thánh Francis của vùng Assisi, nước Ý, vốn là người sáng lập ra dòng tu Francis có sứ mạng chăm lo cho người nghèo.

Không những tượng trưng cho nghèo khó và hòa bình, Giáo hoàng Francis còn cho biết Thánh Francis ‘yêu mến và chăm sóc’ những công trình của Tạo hóa và lưu ý rằng hiện nay nhân loại ‘có quan hệ không tốt với tự nhiên’.

Các tín đồ Công giáo tin rằng Thánh Francis còn yêu thương các loài động vật như ‘huynh đệ’. Thậm chí Ngài còn được tin là đã giảng đạo cho chim chóc.

Trước đó đã từng có phỏng đoán rằng Giáo hoàng Francis – vốn là một hồng y thuộc dòng Tên – chọn tông hiệu theo Thánh Francis Xavier, một nhà truyền giáo ở châu Á thuộc dòng Tên vào thế kỷ 16.

Tuy nhiên Giáo hoàng Francis đã giải thích rằng điều này không đúng.

Phóng viên BBC ở Vatican David Willey cho biết phong cách của vị tân giáo hoàng rất khác với vị tiền nhiệm là Benedict XVI.

Ngài dùng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu để nói về những giá trị đạo đức. Ngài cũng có khiếu khôi hài, phóng viên Willey nhận định.

Tòa thánh Vatican cũng đã thông báo rằng Giáo hoàng Francis sẽ đến vấn an Giáo hoàng danh dự Benedict XVI trong tuần tới.

Đức Giáo Hoàng hô hào ‘Một Giáo hội cho người nghèo’ (VOA)

Tân Giáo hoàng bỏ tiền túi trả tiền khách sạn

Tân Giáo hoàng bỏ tiền túi trả tiền khách sạn

– Ngay trong ngày đầu tiên lãnh đạo 1,2 tỷ tín đồ Công giáo khắp thế giới, tân Giáo hoàng đã gây ấn tượng khi tự mình nhận hành lý tại khách sạn và trả tiền phòng. Ngài cũng đích thân nói lời cảm ơn từng nhân viên khách sạn.

Giáo hoàng Francis ang t¡o ra nhïng thay Õi t¡i Vatican

Giáo hoàng Francis đang tạo ra những thay đổi tại Vatican

Chỉ trong vòng 12 giờ sau khi trở thành người đứng đầu tòa thánh Vatican, Giáo hoàng đã xoá tan những truyền thống lâu đời về sự cầu kỳ, kiểu cách vốn tồn tại hàng trăm năm tại đây khi có nhiều hành động khác hẳn với những người tiền nhiệm.

Những hành động đó một lần nữa khẳng định sự giản dị, khiêm nhường vốn có của Giáo hoàng, người vẫn thường đi lại bằng xe buýt tại quê nhà, hôn lên chân của những bệnh nhân AIDS, cầu nguyện cùng với những gái mại dâm hay từ bỏ ngôi biệt thự sang trọng dành riêng cho tổng giám mục Buenos Aires.

Trong buổi lễ diễn ra hôm qua, khác với người tiền nhiệm Benedict XVI, người đã đọc bài diễn văn dài đến 3 trang bằng tiếng La-tinh, tân Giáo hoàng Francis chỉ diễn thuyết trong vòng khoảng 10 phút bằng tiếng Italia. Trong bài phát biểu, ngài nhấn mạnh tất cả các tín đồ Thiên chúa giáo cần phải “xây dựng” nhà thờ và “bước đi” với niềm tin.

Ngài đề nghị các linh mục phải xây nhà thờ trên những nền tảng vững chắc và còn cảnh báo rằng: “Điều gì xảy ra khi lũ trẻ xây những lâu đài trên bãi biển? Tất cả chúng đều sụp đổ. Nếu chúng ta không hướng về chúa Giê-su, chúng ta sẽ chỉ trở thành một tổ chức phi chính phủ đáng thương chứ không phải người con của Chúa trời”.

Không chỉ trong lời nói, phong cách giản dị của Giáo hoàng Francis còn được thể hiện ngay ở những bộ lễ phục. Thay vì khoác lên mình tấm che ngực hình cây thánh giá màu vàng được trao sau khi được bầu làm giáo hoàng, trong buổi lễ hôm qua, cựu hồng y của Argentina vẫn mặc trang phục quen thuộc như khi còn là giám mục.

Ngài cũng từ chối khoác lên bộ áo choàng nhung màu đỏ mà người tiền nhiệm từng mặc khi lần đầu xuất hiện trước công chúng thế giới năm 2005. Ngài thấy hài lòng với bộ áo khoác dành cho giáo hoàng màu trắng giản dị.

“Với tôi có một điều chắc chắn là đã có sự thay đổi lớn về phong cách. Đây không phải chuyện nhỏ”, Sergio Rubin, người viết tiểu sử cho giáo hoàng nói.

Cũng trong ngày thứ Năm, một thay đổi nhỏ nữa những cũng rất đáng chú ý đã xảy ra khi Giáo hoàng cùng đoàn tùy tùng dừng lại bên một ngôi nhà thuộc sở hữu của Vatican, nơi giáo hoàng ở trước mật nghị.

Tại đây ngài tự nhận hành lý của mình và nói: “Tôi muốn cảm ơn các nhân viên, những người làm việc tại đây”, Pawel Rytel-Andrianek, một vị khách trong tòa nhà chứng kiến sự việc, kể lại.

“Và ngài tiến lại cảm ơn toàn bộ nhân viên ở đây, từng người một, không hề vội vã”. Giáo hoàng sau đó đã trả hóa đơn tiền phòng của mình “để làm gương”, người phát ngôn của Vatican, Federico Lombardi, cho hay.

“Mọi người ở đây cho biết trong suốt 20 năm qua, ngài chưa từng đề nghị Vatican cử ô tô đón mình”, Rytel-Andrianek nói tiếp. “Ngay cả khi tới mật nghị cùng một linh mục khác trong giáo phận của mình, ngài vẫn ra đường đón taxi để tới mật nghị. Quả là một cử chỉ rất giản dị”.

20 điều ít biết về tân Giáo hoàng Francis

– Giáo hoàng Francis yêu thích tango, bóng đá và từng có thời làm vệ sĩ gác cửa cho một quán bar ở Buenos Aires. Đó là một vài trong số những điều ít biết về tân giáo hoàng nổi tiếng giản dị, khiêm nhường của Vatican.

Giáo hoàng Francis c§m lá cÝ in logo cça Ùi bóng yêu thích San Lorenzo.
Giáo hoàng Francis cầm lá cờ in logo của đội bóng yêu thích San Lorenzo.

1. Giáo hoàng Francis, tên thật là Jorge Mario Bergoglio, xuất thân từ một gia đình trung lưu có 5 người con và có cha là công nhân đường sắt gốc Italia.

2. Cha ông, Mario Jorge, di cư từ vùng Piedmont của Italia tới Argentina.

3. Tân Giáo hoàng thành tạo tiếng Italia, Đức, Tây Ban Nha. Ông cũng nói được tiếng Anh, Pháp, Bồ Đào Nha dù không trôi chảy và và một chút thổ ngữ Piedmont.

4. Ông từng bị cắt một lá phổi thời thiếu niên vì bị nhiễm trùng.

5. Giáo hoàng Francis yêu thích tango. “Tôi yêu tango và thường khiêu vũ thời còn trẻ”, ông từng nói với Francesca Ambrogetti và Sergio Rubin, tác giả cuốn hồi ký “El Jesuita” năm 2010 của ông.

6. Ông từng có bạn gái khi còn trẻ. “Cô ấy nằm trong nhóm bạn mà tôi từng khiêu vũ cùng. Nhưng sau đó tôi nhận ra niềm đam mê với tôn giáo”, Giáo hoàng Francis tiết lộ với Ambrogetti và Rubin.

7. Ông từng làm vệ sĩ gác cửa tại một quán bar ở Buenos Aires để kiếm tiền thời còn là sinh viên.

8. Giáo hoàng Francis là fan cuồng nhiệt của câu lạc bộ bóng đá San Lorenzo, một đội bóng ở Buenos Aires. Năm 1972, San Lorenzo là đội bóng Argentina đầu tiên từng giành giành hai chức vô địch trong một năm.

9. Bức họa yêu thích của ông là “White Crucifixion” (Đóng đinh vào thập giá màu trắng), do Marc Chagall vẽ năm 1939.

10. Bộ phim yêu thích của ông là “Babette’s Feast”, một bộ phim của Đan Mạch sản xuất năm 1987.

11. Ông từng nghiên cứu triết học tại Đại học công giáo Buenos Aires và cũng có bằng thạc sĩ hóa học tại Đại học Buenos Aires.

12. Giáo hoàng Francis từng giảng dạy văn học, tâm lý, triết học và thần học trước khi trở thành tổng giám mục của Buenos Aires.

13. Ông là đồng tác giả cuối sách “Sobre el Cielo y la Tierra” (Trên thiên đường và trái đất).

14. Ông đảm nhiệm chức tổng giám mục của Buenos Aires từ 1998-2013. Trong thời gian làm tổng giám mục, ông đã trở thành tấm gương cho người khác với lối sống khiêm nhường, tránh mọi sự xa hoa.

Jorge Mario Bergoglio nói chuyÇn vÛi mÙt hành khách khi i trên xe iÇn ng§m ß Buenos Aires.

Jorge Mario Bergoglio nói chuyện với một hành khách khi đi trên xe điện ngầm ở Buenos Aires.

15. Giáo hoàng Francis thường sử dụng phương tiện công cộng thay vì taxi hoặc xe riêng để đi lại quanh Buenos Aires. Ông sống trong một căn hộ nhỏ với một linh mục nhiều tuổi hơn và tự nấu ăn.

16. Ông được Giáo hoàng John Paul tấn phong làm hồng y năm 2001.

17. Trong mật nghị bầu giáo hoàng năm 2005 mà ông được xem là ứng viên sáng giá. Giáo hoàng Francis được cho là trở thành nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ của những người khác, vốn cáo buộc rằng ông không bao giờ cười.

18. Giáo hoàng Francis thường bay tới Rome bằng vé máy bay hạng phổ thông.

19. Francis là giáo hoàng đầu tiên không phải người châu Âu kể từ thời Gregory III, người sinh ra tại vùng đất là Syria ngày nay và được bầu làm giáo hoàng năm 731.

20. Ông sẽ lấy tước hiệu là Giáo hoàng Francis chứ không phải Francis I. Giải thích về điều này, phát ngôn viên Vatican Federico Lombardi nói: “Sẽ là Francis I nếu chúng ta có Francis II”.

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Gia đình hiếm ở VN: Dạy con bằng bó đũa

Gia đình hiếm ở VN: Dạy con bằng bó đũa

Gia ình hi¿m ß VN: D¡y con b±ng bó ia, Tin téc trong ngày, dai gia dinh viet nam, dai gia dinh hiem co nhat viet nam, gia dinh truyen thong, gia dinh da the he, tin tuc, tin nhanh, tin hot, vn

Ông bà Giáo cùng con cháu

Thứ Sáu, 15/03/2013

Một lần, nghe phong thanh có một người con có ý định muốn tách ra ở riêng, trong bữa cơm, ông Nguyễn Văn Giáo đã cầm cả bó đũa và lấy hết sức mạnh để bẻ nhưng không gãy cái nào. Sau đó, ông Giáo đặt bỏ bó đũa xuống và bẻ gẫy từng chiếc dễ dàng. Người con hiểu ý của bố và từ bỏ luôn ý định ra riêng.

Việc to, nhỏ, bố mẹ đều xin ý kiến từng người con

Theo ông Nguyễn Văn Giáo, nguồn kinh tế chính để cho đại gia đình vận hành là công ty sản xuất và kinh doanh Thành Đạt (chuyên về đồ gỗ, nội thất). Ngoài ra, còn có thêm một cửa hàng kinh doanh quần áo đồ dùng thể thao và một cửa hàng buôn bán vật liệu xây dựng đều mang tên Thành Đạt. Mọi công việc ở công ty, cửa hàng, việc bếp núc nội trợ trong gia đình đều được ông bà Giáo phân công dựa trên ưu, nhược điểm của mỗi người.

Kể về việc này, ông Giáo ví dụ: Anh Nguyễn Văn Thầm – con trai thứ 3 là người nhanh nhạy, có nhận định rất sát với thị trường được cử làm Giám đốc Công ty sản xuất và kinh doanh Thành Đạt. Con trai thứ tư Nguyễn Văn Thì có mặt mạnh về chính trị thì làm Xã đội trưởng ở xã Yên Phú và được giao quản lý cửa hàng bán đồ thể thao. Anh Nguyễn Văn Thúy làm quản đốc phân xưởng sản xuất mộc, anh út Nguyễn Văn Trà trông coi việc kinh doanh ở xưởng mộc. Chị dâu cả quán xuyến việc bếp núc và sinh hoạt của cả nhà. Còn bốn chị em dâu người thì làm ở xưởng mộc, người quản lý buôn bán cửa hàng vật liệu xây dựng, người được giao quản lý cửa hàng bán quần áo đồ dùng thể thao… Cứ như vậy, mọi người không ai bảo ai cứ tự giác làm công việc của mình. Ngay trong mỗi gia đình nhỏ đều phải có một người đứng đầu tự bảo ban nhau và chịu trách nhiệm trước ông bà.

Trả lời cho câu hỏi việc phân công công việc khó tránh khỏi sự tị nạnh ở mỗi người, ông Giáo giải thích: “Phân rõ ràng như vậy chỉ để quản lý cho dễ, chứ không có ý là phân cao thấp giữa các con. Mọi người trong nhà đều có trách nhiệm giúp đỡ bảo ban nhau. Đứa nào cũng là con nhưng mỗi đứa mỗi tính, chẳng ai giống ai. Bởi vậy, phải tùy người mà răn dạy và giao việc, nhưng phải luôn đảm bảo công bằng. Trước khi quyết định việc gì gia đình cũng phải bàn bạc, xin ý kiến của từng người. Con dâu, cháu dâu mới về cũng đều coi như con đẻ của mình và đều có bổn phận như nhau”.

Ông Giáo kể: “Năm nào cũng vậy, bữa cơm tất niên được coi như buổi “tổng kết năm”, cả gia đình đoàn tụ ăn với nhau trong bữa cơm cuối cùng của năm cũ để nhìn lại những gì đã và chưa làm được. Mỗi người báo cáo việc làm ăn và chia sẻ chuyện gia đình. Người nào được giao quản lý việc gì sẽ đứng lên báo cáo về công việc của năm, làm ăn được – thua thế nào, nợ ra sao… Các cháu thì báo cáo việc học hành của mình. Rồi sau đó cả gia đình ngồi lại bàn bạc với nhau hướng làm ăn năm tới”.

Truyền thống “ăn chung nồi, tiêu chung túi” đã có từ đời trước

Truyền thống “Ăn chung một nồi, tiêu chung túi” của gia đình ông Giáo đã có từ thời bố ông Giáo. Ông đã gây dựng thành nếp nhà và dày công gìn giữ, vun đắp trong suốt cuộc đời.

Ông Giáo nhớ lại: “Hồi ấy nhà tôi nghèo lắm, bố mẹ làm lụng quần quật vẫn không kiếm đủ cái ăn cho 8 đứa con. Để lo cho các con có cuộc sống tươm tất, cả nhà đã phải xoay đủ nghề từ làm ruộng, công nhân bốc xếp đến làm thợ xây, thợ mộc… Suốt quá trình đó, ông cụ luôn tâm niệm, sức mạnh tổng lực của các thành viên trong gia đình cùng nỗ lực lao động mới đem lại cơm no, áo ấm. Vì thế, sau này các con khôn lớn, lấy vợ sinh con, ông đều vận động họ không ra riêng, sống quây quần bên nhau”.

Với vợ chồng ông Giáo, phương châm để các con sống hòa thuận là sai đâu bảo đó. Với con cháu không hài lòng ở ông điều gì hoặc thấy ông có điều gì chưa phải, chưa đúng thì gặp ông để trao đổi lại. Tất nhiên muốn có được quan hệ “biện chứng” này, ông Giáo cũng luôn là người biết quan tâm, chăm sóc đến mọi người. Có lẽ vì thế mà trong gia đình ông không có chuyện chừa việc cho người khác. Không lườm nguýt hoặc bằng mặt không bằng lòng, càng không có cảnh sợ bố mẹ chia cho người này nhiều của để dành hơn người kia. Mọi thứ trong gia đình từ những thứ nhỏ nhất, ông bà Giáo đều phân chia cân bằng.

Trước đây cũng có gia đình có ý định ra ở riêng. Trong bữa ăn tối, nghe thấy bóng gió chuyện này, ông Giáo đã khôn khéo nhắc nhở các con bằng việc vận dụng truyện ngụ ngôn “Câu chuyện bó đũa”. Ông cầm cả nắm đũa lấy hết sức bình sinh bẻ nhưng không thể làm gãy một cái đũa nào. Rồi ông bỏ nắm đũa xuống mâm, nhặt từng cái một và bẻ gãy rất dễ dàng. Sau đó, ông gọi riêng người đó đến nhắc nhở: Ông bà, cha mẹ như cái gốc, con cháu như cái cành. Gốc có vững, cành lá mới xanh. Nghe những lời nhắc nhở của ông người con ấy đã  tự nhận ra. Cũng từ đó, lần lượt những đứa con của ông Giáo xây dựng gia đình nhưng tuyệt nhiên không ai tính chuyện ra ở riêng.

Ông Giáo tâm sự: “Tách chén còn có lúc va nhau sứt vòi, mẻ quai huống chi là con người. Sống chung nhiều thế hệ dưới một mái nhà sẽ có những va chạm về quan niệm sống. Nhà tôi có 4 thế hệ với 24 con người, đủ cả người già, trẻ nhỏ. Mỗi người mỗi tính và quan điểm sống của mỗi thế hệ khác nhau nên đôi lúc cũng xảy ra chuyện này chuyện nọ. Dù vậy, vợ chồng tôi luôn cố gắng giữ cân bằng qua cách sống cởi mở và trách nhiệm. Chỉ cần thấy ai trong bữa cơm bình thường cười nói vui vẻ mà bữa đó lại ít nói, buồn buồn là phải tìm hiểu ngay. Tôi phải đảm nhiệm vai trò của một người cầm còi, tìm hiểu rõ ngọn ngành rồi đưa ra phán quyết cuối cùng. Được cái, tất cả con cháu đều nghe theo. Mọi người sống chan hòa, yêu thương nhau nên chín bỏ làm mười, chuyện to hóa nhỏ, chuyện nhỏ thành không có gì”.

Từ những năm 1999, gia đình ông Giáo đã được UBND tỉnh Hưng Yên, UBND huyện Yên Mỹ tặng danh hiệu “Gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền”.

Anh chị Thụ & Mai gởi

TÔI CHỌN

TÔI CHỌN

Chúa gọi?

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Chuỵện thật như bịa thứ nhất: Một người thất vọng uống thuốc sâu tự tử. Xét thấy đương sự lúc sinh thời có một vài biểu hiện thiếu làm chủ bản thân, tôi bèn giải thích cho đoàn tín hữu rồi vẫn tiến hành làm phép xác, tẩm liệm và cho đưa thi hài vào nhà thờ dâng Lễ an táng. Khi đưa thi hài vào nhà thờ, ca đoàn bỗng cất bài hát quen thuộc: “Khi Chúa thương gọi tôi về, lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức vui tiếng cười…” Tôi đã đắng họng không biết khởi đầu Thánh Lễ bằng lời dẫn nhập nào bèn nói thằng: “Tôi không tin trường hợp này là do Chúa thương gọi về. Chuyện thứ hai: Cũng bài hát đó trong thánh lễ an táng một thanh niên chết vì ẩu đả, bị đâm mấy nhát vào tim, phổi, tôi  cũng khẳng định rằng không đời nào Thiên Chúa gọi người ta kiểu này ra khỏi trần gian. Chuyện thứ ba: Một thanh niên vốn là giáo lý viên của giáo xứ đi làm việc. Qua sông cùng các bạn đồng nghiệp, một bạn đứng lên chụp hình, thuyền chòng chành, lật úp. Sáu thanh niên tử nạn, trong số đó có bạn giáo lý viên ấy. Tôi đến làm phép xác và tẩm liệm tại tang gia. Sau nghi lễ, một vị hội đồng thay mặt tang quyến ngõ lời cám ơn. Và như để an ủi tang gia, cùng với lời cám ơn, vốn đã từng nghe nhiều mục tử khuyên bảo trong các đám tang, vị ấy nói rằng: “Cánh hoa nào đẹp thì Thiên Chúa ngắt về”. Tôi đắng họng khi chợt nhớ tới cảnh tình vừa vị kỷ vừa thiếu văn hoá của một số bà con ở thủ đô Hà Nội khi tham quan một hội hoa đã từng chen chân ngắt giành hoa đẹp làm xấu cả bộ mặt thủ đô nước nhà vài năm trước đây. Sao chúng ta lại nỡ gán ghép cho Thiên Chúa cái hành vi vừa thiếu văn hoá vừa đầy vị kỷ như thế nhỉ? Rất nhiều nạn nhân của các chế độ độc tài chẳng hạn như những cái chết trong các lò hơi ngạt thời phát xít Đức, rất nhiều nạn nhân của các thiên tai như trận động đất gây sóng thần ở Nam Á  ngày 26-12-2004  hay ở Nhật Bản ngày 11-3-2011 vừa qua, phải chăng những cái chết bi thương ấy cũng đều do Thiên Chúa gọi?

Chắc chắn không ai dám to gan gán ghép cho Thiên Chúa là nguyên nhân của những cái chết ấy. Rất có thể cách giải thích nào đó của truyền thống đạo đức đã làm xuất hiện nhiều triết gia vô thần như Jean Paul Sartre hay Albert Camus. Còn chuyện cha già Gioan Baotixita Hồ Sĩ Cai, 91 tuổi, một vị linh mục giáo phận Ban Mê Thuột nghỉ hưu tại Toà Giám Mục. Đêm Thứ Bảy ngài còn nói chuyện với giám mục, còn chuẩn bị để 04g30 sáng hôm sau dâng Lễ thì lúc 4g00 sáng Chúa Nhật ngài đã an bình ra đi. Xin thử hỏi rằng việc an nghỉ ngàn thu của cha già có phải là do Thiên Chúa gọi không? Tôi xin khẳng định rằng không. Ngài ra đi như ngọn đèn hết dầu thôi. Giả như Thiên Chúa gọi thì cái đích của người được gọi phải chính là Thiên Chúa, thì có thể nói nhiều khi chẳng cần lời cầu nguyện, chẳng cần Thánh Lễ…

Chúa chọn?

Một vị hội đồng tâm sự với tôi: “Cha ơi, bà con giáo dân xứ con phàn nàn về cha xứ chúng con đủ điều. Đúng là ngài khó quá, lại nóng nảy nữa chứ. Con đã an ủi họ là các cha, các sơ, các thầy là những người Chúa chọn, nên mình phải cố chịu đựng”. Nhân chuyện Đức Bênêđictô XVI thoái vị, tôi đã kêu gọi bà con cầu nguyện cho Ngài cũng như cho các Hồng Y trong việc bầu tân Giáo Hoàng. Một em thiếu nhi hỏi tôi: “Cha ơi, Giáo Hoàng là do Chúa chọn rồi thì mình cầu nguyện làm gì?” Vậy có phải bất cứ ai được bầu làm Giáo Hoàng cũng là người đã được Chúa chọn? Một câu hỏi xem ra khó có lời giải đáp, dù rằng với niềm tin đại đa số tín hữu thì Giáo Hoàng đều do Chúa chọn. Nếu Chúa đã chọn rồi thì cầu nguyện để làm gì? Và các Hồng Y phải cần có thời gian làm quen, tìm hiểu, cầu nguyện và bầu bán làm gì nhỉ?  Đọc lịch sử Giáo Hội chúng ta có xác tín rằng tất cả những vị Giáo Hoàng đều là do Chúa chọn không? Rồi đến các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, phải chăng đều do Thiên Chúa chọn? Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô I bông đùa với các Hồng Y: “Xin Chúa tha tội cho anh em (vì đã dại chọn tôi làm Giáo Hoàng!) (Lời Đức Hồng Y Dolan). Nếu bỗng dưng tôi nói rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô I là không do Chúa chọn thì chắc bà con tín hữu sẽ cho rằng ông cha này “bị chạm” hoặc mất đức tin rồi. (không nghe và không thấy báo đài khắp nơi đều ca ngợi tân Giáo Hoàng chúng ta đó ư?). Nhưng nếu nói rằng Chúa không chọn, nhưng Người soi sáng cho các Hồng y chọn thì chẳng ai dám trách cứ. Cụ thể là phải đến vòng bỏ phiếu thứ năm các Hồng Y mới chọn được tân Giáo Hoàng. Tuy nhiên nếu chỉ có vậy thì chưa đủ và tôi có thể xin phép Đức tân Giáo Hoàng để thêm một tí vào câu dí dỏm của Ngài nói với các Hồng Y ở trên, đó là cũng xin Chúa tha tội cho Ngài, vì nếu Ngài không nhận, nghĩa là không chọn, thì ngai Giáo Hoàng vẫn còn trống.

Vào trần gian, Chúa Kitô đã nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, nghĩa là Người vẫn chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên. Các tin mừng, cách riêng tin mừng thánh Gioan cho ta thấy Chúa Kitô chỉ làm dấu lạ khi cần thiết để mạc khải Nước Trời. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật với quy luật vận hành của nó và Người dựng nên con người có lý trí và ý chí tự do. Thiên Chúa không phải là Đấng thích ngẫu hứng làm phép lạ hoặc thích tuỳ tiện nhúng tay làm thay đổi các quy luật Người đã lập nên.

Sự xuất hiện của một con người mới trên trần gian này là do quyền năng của Thiên Chúa nhưng vẫn lệ thuộc vào sự tự do của con người. Thiên Chúa đã trao ban điều đó thì Người không rút lại. Khi bố mẹ muốn có một sinh linh mới, thì Thiên Chúa phú ban linh hồn. Thậm chí một thai nhi hiện hữu do bởi một hành vi thú tính của hai người nam nữ nào đó (như hiếp dâm, loạn luân…) thì Thiên Chúa cũng phú ban linh hồn. Những trường hợp này có thể khẳng định rằng dù không hợp thánh ý Thiên Chúa nhưng Người vẫn theo quy luật Người đã đặt ra, vì Người không thể mâu thuẩn với chính Người.

Như thế có thể nói rằng sự sinh sôi nẩy nở của nhân loại lệ thuộc vào quy luật tự nhiên và sự tự do mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người. Với hệ luận ấy chúng ta có thể khẳng định rằng chính tự do của con người và các quy luật tự nhiên đã làm nên cái chết của con người. Sự ra đi của cha già hưu nói ở trên chỉ là kết thúc quá trình “thành trụ hoại không” của một kiếp người xét như một sinh vật mà nói theo ngôn ngữ bình dân là khi đèn hết dầu thì tự nhiên tắt, thế thôi. Sáng ngày 12-3-2013 trong Thánh Lễ an táng cha già, Đức Giám Mục giáo phận Ban Mê Thuột và Đức Ông Tổng Đại Diện cũng nhìn sự ra đi của ngài như đèn hết dầu. Cái chết của rất nhiểu trẻ thơ vô tội trên bờ  biển Bali – Inđônêsia  hay ở Nhật Bản là do sự vận hành của giới tự nhiên. Cái chết của anh bạn trẻ giáo lý viên vừa là do quy luật tự nhiên: vật nặng rơi xuống nước thì chìm, người không biết bơi thì ngạt thở, uống nước, khi rơi xuống dòng nước sâu và cũng vừa do sự bất cẩn của các bạn đi cùng thuyền và nhiều lý do chủ quan hay khách quan khác. Cái chết của người tự tử thì có thể có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân lớn là cái quyết định của chính họ. Cái chết của nhiều người trong trại Auschwitz thì ai cũng nhận đó là do sự độc ác của nhà độc tài Hitler và nhiều người dưới quyền ông ta lúc bấy giờ. Chúng ta có thể khẳng định rằng cùng với quy luật của giới tự nhiên đã tạo lập thì Thiên Chúa còn trao ban cho con người quyền chọn lựa trên chính sự sống lẫn sự chết của mình và của nhau. Đây là một hồng ân cao cả nhưng cũng là một thách đố khó vượt qua. Nếu có sự lựa chọn nào xấu xa, gây hậu quả nghiêm trọng cho bản thân, cho tha nhân, cho xã hội và giáo hội thì xin chớ đổ thừa cho Thiên Chúa.

Trở lại với các bậc sống, các vai vị trong giáo hội. Lật các trang Tin mừng chúng ta nhận ra hiện thực này: Khi vào trần gian, Đấng luôn tự xưng là Con Người đã thức suốt một đêm trắng để cầu nguyện rồi sáng hôm sau chọn gọi Nhóm Mười Hai đặt làm Tông đồ. Chúa Cha không đích thân chọn nhưng Người trao phó cho Đấng làm người chọn tập thể Nhóm Mười Hai. Các bậc sống: tu sĩ, linh mục, giám mục hay các vai vị: Bề trên cộng đoàn, Bề trên Tổng quyền, Quản xứ, Giám mục giáo phận…và cả Giáo Hoàng thì Thiên Chúa cũng trao phó cho con người quyết định chọn lựa cho chính mình hay cho người khác. Đã có chọn lựa thì có thể đúng có thể sai, có thể đúng và đẹp thánh ý Thiên Chúa và cũng có thể chưa. Chúng ta tin rằng dù có lúc con người chọn sai nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hướng dẫn dòng lịch sử nhân loại theo lòng từ bi và quyền năng của Người, nói theo ngôn ngữ tu đức là Thiên Chúa vạch đường thẳng bằng những nét cong của con người. Tuy nhiên nội dung niềm tin này không hề xem nhẹ hay bỏ qua vai trò chọn lựa của loài người. Sự chọn lựa của con người qua các quyết định căn bản luôn có đó vai trò thiết yếu làm nên sự sống sự chết, làm nên hạnh phúc hay đau khổ cho mình và tha nhân đến độ thánh giáo phụ Âugustinô dám khẳng định rằng “Thiên Chúa có thể dựng nên tôi mà không cần có tôi nhưng Người không thể cứu độ tôi mà không cần có tôi”.

Phó mặc mọi sự cho Thiên Chúa là một hành vi lỗi Đức Cậy cũng giống như thái độ quá cậy dựa vào sức riêng của mình. Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người và Người muốn tạo vật cao cả này vốn được ban cho linh hồn với hai cơ năng là sự hiểu biết và ý chí tự do, phải biết sống cách trưởng thành để cộng tác với Người hoàn thành công cuộc sáng tạo. Nhiệm vụ vinh dự này vừa nói lên nét cao cả của con người cũng vừa là chìa khoá mở cánh cửa vào sự sống đời đời của con người để hưởng vinh phúc vĩnh cửu hay để trầm luân mãi mãi.

Tản mạn đôi điều về sự chọn-gọi chỉ mong sao Kitô hữu chúng ta đừng hữu ý hay vô tình làm cớ cho sự dữ tồn tại khiến nhiều người đã từng phẩn uất và đã chọn con đường “vô thần”. Công đồng Vatianô II cũng đã từng nhìn nhận phần trách nhiệm của Kitô hữu khi sống quá thụ động khiến cho chủ nghĩa vô thần phát triển. Phải chăng cũng do sự thụ động của chúng ta mà các chế độ độc tài vẫn còn tồn tại? Phải chăng vì sự thụ động của chúng ta mà xã hội vẫn còn tồn tại nhiều bất công, gian dối, bạo lực, hận thù, áp bức?

Sự sống, sự chết, đau khổ, hạnh phúc của bản thân và tha nhân một cách nào đó đang ở trong sự lựa chọn của chúng ta. Thay vì chủ trương như Tổng thống Obama là “freedom of choice” thì Kitô hữu chúng ta phải biết cầu nguyện trong chân thành và khiêm hạ rồi  can đảm đưa ra những lựa chọn, quyết định cách sáng suốt và có trách nhiệm. Có thể nói rằng tương lai của xã hội, của dân tộc, của đất nước, của Giáo hội đang tuỳ thuộc sự lựa chọn của mỗi người chúng ta vậy. Một câu hỏi rất thời sự: “Đâu là sự lựa chọn của bạn, của tôi về nội dung Bản Hiến Pháp nước nhà đang được đề nghị sửa đổi?”

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột