LÒNG CHÚA TÍN TRUNG LÀ KHIÊN CHE THUẪN ĐỠ

LÒNG CHÚA TÍN TRUNG LÀ KHIÊN CHE THUẪN ĐỠ


… Ông bà Laurent và Christel Landete là Cha Mẹ của 6 người con trong đó 2 đứa con đầu mắc một chứng bệnh di-truyền côi-cút không chữa trị được. Cả hai ông bà là y tá chuyên nghiệp. Ông Laurent còn điều hành Cộng Đoàn Emmanuel từ bốn năm qua. Bà Christel ở nhà lo việc nội trợ chăm sóc chồng con. Xin nhường lời cho Ông Bà trình bày Lời Chúa đã hướng dẫn như thế nào giữa cơn thử thách.

Lúc đang đợi đứa con thứ ba thì chúng tôi khám phá ra hai đứa con đầu – 15 tháng và 4 tháng tuổi – bị mắc một chứng bệnh di-truyền côi-cút không chữa trị được. Chứng bệnh này thường biểu lộ bằng những cơn rối loạn thần kinh, giao động trí thông minh và khủng hoảng tâm lý. Hai đứa con chúng tôi phải nằm nhà thương hàng mấy tuần lễ. Quả là cú sét giáng xuống đôi vợ chồng trẻ! Chúng tôi hoàn toàn không chờ không đợi một cú sét kinh hoàng như thế, cho dầu trước đó THIÊN CHÚA đã bí nhiệm chuẩn bị. Bởi vì, trong nhiều năm trời với tư cách y tá phục vụ nơi trung tâm thánh mẫu Lộ-Đức, tôi từng có cơ hội tháp tùng một người tàn tật. Trong khi Christel – hiền thê tôi – có một em gái khuyết tật.

Trong nỗi khổ tâm lại chồng chất thêm những vấn nạn đến từ người thân trong gia đình và bạn bè chung quanh: “Tại sao lại là chúng tôi? Chúng tôi đã phạm lỗi lầm nào khiến bị trừng phạt như thế?”. Thế là chúng tôi tìm nương ẩn trong cầu nguyện và Lời Chúa, đặc biệt trong Thánh Vịnh: ”Không nên nói: tại sao thế! Mọi sự đều được học hỏi đúng thời đúng lúc”. Nói cách khác, không nên đặt câu hỏi ”Tại Sao” nhưng nên hỏi ”Vì cái gì?”. Tư tưởng khôn ngoan này giúp chúng tôi khiêm tốn tìm hiểu – từng bước một – ý nghĩa của mỗi thử thách, dù xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào.

Ông Laurent. Tôi còn nhớ một hôm bà hàng xóm hỏi: ”Lỗi tại ai? Tại anh hay tại vợ anh?”. Có lẽ bà vụng về muốn hỏi: ”Ai truyền bệnh cho con cái?”. Ngày hôm sau, trong cầu nguyện, trình thuật Phúc Âm về người mù từ thưở mới sinh quả đã đến với chúng tôi trong cơn sầu khổ: ”Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Chúa GIÊSU trả lời: ”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của THIÊN CHÚA được tỏ hiện nơi anh” (Gioan 9,2-3).

Câu Chúa trả lời đặt chúng tôi trong một viễn tượng mới, y như thể làm đảo ngược hai thái cực. Chúng tôi có thể tìm thấy – từng bước một – giữa cơn gian nan thử thách của chúng tôi la-bàn hướng dẫn đời sống chúng tôi. Sau kinh nghiệm đau thương ấy, chúng tôi nhận được niềm an bình đích thật, như một chiều kích mới, để đương đầu, để tiếp nhận và để đưa cái thực tế cay đắng mới mẻ này vào cuộc sống thường nhật.

Ngoài ra, điều góp phần tạo thêm niềm an bình đích thật này, đó là chúng tôi không bao giờ bị bỏ rơi đơn độc. Chúng tôi vẫn còn cảm động khi nghĩ đến tất cả những ai đã tạo thành một mạng lưới bác ái vây bọc bao quanh chúng tôi, từ Cộng Đoàn Emmanuel cho đến người thân trong gia đình và nơi cộng đoàn xứ đạo. Ai ai cũng sẵn sàng góp một tay thay thế để chúng tôi có giờ đi tham dự Thánh Lễ hoặc nghỉ ngơi lấy sức.

Bà Christel. Một ngày, người ta không đánh được thuốc mê cho bé Marie để làm một khám nghiệm nên bác sĩ phải cột chặt bé bằng tấm chăn và đặt bé nằm trên bàn. Người ta chỉ trông thấy nhúc nhích cái nắm vú bé ngậm nơi miệng! Thật quá đau lòng. Chồng tôi và bác sĩ xin tôi lui ra khỏi phòng. Thay vì lang thang trên các hành lang bệnh viện tôi bèn vào nhà nguyện để cầu nguyện. Nơi cuối nhà nguyện, tôi trông thấy một cặp vợ chồng thuộc Cộng Đoàn Emmanuel mà tôi mới quen. Tôi đến gần chào và hỏi thăm họ viếng thăm ai nơi nhà thương hoặc có ai trong gia đình bị bệnh không. Họ trả lời: ”Chúng tôi có mặt tại đây là vì chị đấy!”. Câu nói như một vệt dầu thơm tuyệt vời thoa dịu nỗi đau đớn của chúng tôi.

Vào một kỳ tĩnh tâm, ông Jean Vanier nói chúng tôi: Anh Chị có biết câu nói đầu tiên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ khi Người sống lại không? Đó là câu: ”Tại sao khóc?”. Đây không phải là câu trách móc nhưng là câu thương cảm. Cũng hơi hơi giống như: ”Chúng tôi có mặt tại đây là vì chị đấy!”.

Ông bà Laurent và Christel Landete. Dĩ nhiên sau đó đặt vấn đề tiếp nhận sự sống. Trong cầu nguyện chúng tôi nhận ra là chúng tôi đã hãm lại – trong con tim cũng như trong lý trí – việc tiếp nhận một đứa con khác. Thời gian này đúng là một ngã tư quan trọng trong liên hệ phu thê của chúng tôi. Chúng tôi đã có hai đứa con bị tàn tật do di truyền. Giờ đây chúng tôi bị đặt trước một chọn lựa, một hành vi đức tin. Giới y khoa khuyên chúng tôi chọn giải pháp ngừa thai hay theo phương thức mà Giáo Hội Công Giáo đề nghị để chúng tôi có thể tiến bước mà không khóa chặt cánh cửa tự do để tiếp nhận hồng ân sự sống. Chúng tôi khám phá ra rằng ngừa thai không xóa bỏ định luật tự nhiên. Nhờ ơn Chúa, mấy đứa con khác của chúng tôi chào đời không vướng phải chứng tàn tật di truyền. Nhưng trước mỗi lần như thế, chúng tôi vẫn hồi hộp chuẩn bị đón nhận một đứa con tàn tật. Đúng là một tiếng gọi đặc biệt. Có lẽ mọi người không nhận được tiếng gọi như thế.

Chúng tôi tin rằng chính giữa lòng cơn gian nan khốn khó và từ nơi nấm mồ mà nẩy sinh sự sống. Chiến thắng sự sống không nằm trong chiến thắng các sức lực nhân trần của chúng tôi mà là trong chiến thắng của Tình Yêu THIÊN CHÚA. Tình Yêu THIÊN CHÚA dành cho kẻ tìm kiếm câu trả lời bằng niềm tin yếu kém của chúng tôi. Sức mạnh của Phục Sinh chỉ chiến thắng trong việc chấp nhận những yếu ớt mỏng giòn, những vết thương và sự dễ bị tổn thương của chúng tôi.

… ”Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: ”Lạy THIÊN CHÚA, Ngài là nơi con nấu ẩn, là đồn lũy che chở, con tin tưởng vào Ngài”. Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa. Dù tả hữu có ngàn người quỵ ngã, dù hai bên có chết cả vạn người, riêng phần bạn, tuyệt nhiên không hề hấn .. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long. Chúa phán: ”Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Thánh Vịnh 91(90)).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!

Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!


Đỗ văn Hiền

10/28/2013

Tương lai đất nước và dân tộc Việt Nam rồi sẽ đi về đâu?
Xem hình và vài bài viết này mà thấy nhục nhã do dân mình… Thanh niên sinh viên dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam, đi biểu tình chống TC thì không dám đi, nhưng đi giành ăn miễn phí thì hăng say như thế này, hỏi rằng tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu???. Phải chăng đây là kết quả của 38 năm dước nền giáo dục Cộng Sản Việt Nam? Xem giới trẻ bây giờ như thế này có nhục không!!!


Hàng ngàn thanh niên Hà nội xô đẩy giành ăn sushi miễn phí gây sốc cộng đồng mạng!

Cảnh tượng các bạn chen lấn xô đẩy nhau quả thật hãi hùng. Có nhất thiết vì miếng ăn mà các bạn phải chen lấn xô đẩy, thậm chí chửi bới dọa nạt nhau thế này không?

HÀ NỘI – Ngày 24/10/2013, hàng nghìn người chen lấn xô đẩy nhau để được thưởng thức sushi miễn phí tại một cửa hàng mới mở tại Hà Nội khiến dân mạng bức xúc. Cảnh tượng chen lấn, xô đẩy lẫn nhau để giành phần ăn diễn ra hàng giờ liền trên con phố Đoàn Trần Nghiệp khiến cho giao thông tắc nghẽn. Nhiều người đi qua nhìn thấy cảnh tượng trên đã lắc đầu ngán ngẩm trước sự “hy sinh vì miếng ăn” của các bạn trẻ.

Bức ảnh chụp lại vụ việc này do một bạn trẻ có nick Jenny tung lên, khiến nhiều dân mạng lên tiếng bức xúc.

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh:Jenny

Bạn đọc Minh Thành, sinh viên Học viện Ngân hàng, người tự nhận có mặt tại buổi phát sushi miễn phí nói: “Mình tò mò nên đến để xem nhưng nhìn cảnh các bạn chen lấn xô đẩy nhau quả thật hãi hùng, không dám vào nữa. Có nhất thiết vì miếng ăn mà các bạn phải chen lấn xô đẩy, thậm chí chửi bới dọa nạt nhau thế này không?”.

Bác Vũ Tiến Đông, sống ở khu phố gần đó hài hước: “Bác không được sống ở thời có nạn đói năm 1945 nhưng hôm nay đã được các bạn trẻ tái hiện lại một cách chân thực, sinh động”.

Nickname Nhocty phát biểu: “Ông bà mình nói ko có sai bao giờ cả “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu. Nhưng theo mình, bây giờ nên sửa lại là “Miếng ăn là miếng nhục” thì đúng hơn. Toàn là người trẻ tuổi, chắc đều có thể làm ra tiền. Thử hỏi bạn, 1 bữa bạn ăn hết 180 nghìn, vậy bạn chỉ việc bỏ ra 2 ngày đi phát tờ rơi là đi ăn được rồi. Thế mà có cả nghìn người, một con số không tưởng, tụ tập chen chúc chỉ vì miếng ăn, cứ như là sắp chết đói, thật không thể tưởng tượng được”.

Một hướng dẫn viên du lịch tại Hà Nội bày tỏ: “Đang dẫn khách Tây đi thăm thú phố phường thì gặp đúng cảnh tượng này, họ hỏi mà mình không biết phải trả lời thế nào. Người Việt mình đừng tự làm xấu hình ảnh đất nước trong mắt quốc tế.”.

Người Việt bị cấm vào cửa hàng Kaufland ở Praha!

Hôm nay 23-10-2009 đi qua bến đợi xe buýt thấy cửa hàng thực phẩm mới mở. Tò mò, tôi vào xem và tiện mua luôn đồ ăn cho gia đình. Đó là cửa hàng của hãng Kaufland từ Đức đang chiếm lĩnh thị trường Séc bằng những chiêu bài riêng của mình. Việc nhân viên và lãnh đạo loại cửa hàng này kỳ thị người Việt tôi nghe đến nhiều, nhưng hôm nay mới được trực tiếp chứng kiến và vấp phải.

Vị trí khá đẹp nằm ngã tư phố Spojovací, Praha 3 – Žižkov, cửa hàng này khai trương ngày 22/10/2009. Tôi kiếm xe đẩy vào để mua hàng. Vừa bước vào cửa, một tay bảo vệ to lớn như bị thịt, mặt hầm hầm chắn ngay xe của tôi lại và lên giọng “anh chị” không cần ngữ pháp:

– VIETNAMCI ZAKÁZAT!

Với bộ mặt đó thì chỉ có thể hiểu là “Cấm bọn Việt Nam vào”

Lặng người một lát, tôi hỏi lại lý do tại sao. Hắn chẳng cần giải thích dài dòng mà chỉ dằn giọng “mày không được vào”!

Thật là choáng và đắng cay làm sao. Cay đắng, bực, tức, nước mắt tôi tưởng chừng trào ra không kìm nổi. Nhưng không hiểu sao tôi lại có đủ can đảm mà hét vào mặt hắn: “tại sao tôi không được vào?”.

Hắn lại quát to hơn:

– Mày có im đi không? Nếu không tao sẽ gọi cảnh sát đến bây giờ!

Có lẽ ban lãnh đạo cửa hàng Kaufland thuê thằng hộ pháp vô học này chủ yếu để doạ những người Việt nam cần cù nhỏ bé, hiểu ít luật và không thích va chạm. Hắn nghĩ rằng người Việt nào cũng sợ cảnh sát cả! Tôi thách thức:

– Mày cứ gọi ngay cảnh sát đến đi và nhớ gọi luôn cả vedoucí (người phụ trách cửa hàng) nữa.

Mấy “khọm Tây” đi qua lại thêm lời “bài thị” người Việt làm không khí thêm căng thẳng. Trong khi đó tay bảo vệ thứ hai thì khẳng định:

– Bọn Việt Nam không được vào…

Chờ một lúc thì người phụ trách cũng đến. Ông ta hỏi tại sao chúng tôi lại cãi nhau. Tôi liền nói:

– Nếu các ông không muốn người Việt mua hàng tại cửa hàng của các ông thì hãy viết bảng to mà treo lên – CẤM NGƯỜI VIỆT VÀO MUA HÀNG.

Bằng một giọng “xoa dịu” sau những cú “đấm” của tay bảo vệ vô học ông ta phân bua như đã tính toán trước tình huống:

– Nhưng người Việt vào mua hàng nhiều lần quá!

Tôi cự lại:

– Ông cần làm theo luật. Tôi đến đây lần đầu và cần phải mua đồ ăn cho gia đình. Nếu ông không cho tôi vào thì sẽ không xong đâu.

Tay phụ trách xuống nước và đồng ý cho tôi vào, nhưng lúc đó tôi lại không còn tâm trạng nào mà vào cái cửa hàng đó nữa nên bèn quay ra. Bênh cạnh lại diễn ra cảnh tượng tương tự của ngã bảo vệ với một vài người Việt Nam khác: Chặn lại và đuổi ra ngoài.

Ôi! Nhớ lại câu của ai đó viết: Dấn thân làm kiếm con người.. . Làm người Việt Nam càng cay đắng làm sao nhất là nơi đất khách quê người. Kiện ư? Nhờ các cơ quan can thiệp ư?

Nếu các bạn bị tên bảo vệ vô học kia hách dịch, quay đầu xe không cho vào chỉ vì bạn là người Việt Nam, thì bạn sẽ biết cảm giác “dâng trào” đến tận cổ như thế nào…

Praha, ngày 23/10/2009

Ngọc Anh

Video Đức Thánh Cha và chú bé con đang phá kỷ lục trên mạng



Những video quay lại cảnh Đức Thánh Cha Phanxicô xoa đầu một chú bé con trong lúc Ngài ban lời giảng cho các cặp hôn nhân vào đêm thứ Bảy vừa qua đã phá kỷ lục truy cập trên toàn thế giới và nhận được hàng trăm ngàn lời bình luận khen ngợi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban lời giảng về việc giữ gìn hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, Ngài khuyên mọi người cần phải biết nói lên 3 lời này là “xin lỗi (Excuse me), cảm ơn (Thank you) và tôi lấy làm tiếc (I am sorry).”

Vào lúc đó thì một chú bé (giấu tên), là con nuôi cuả một cặp ở nước Columbia và là một trong số những đưá trẻ được chọn ngồi gần sân khấu, đã la cà đi lên bục giảng, tới gần Đức Giáo Hoàng và diễu hành xung quanh một cách “rất ư là tự nhiên”.

Có lúc đứa bé leo lên Ngai cuả Đức Giáo Hoàng, lúc khác nó ôm lấy chân Ngài như ôm lấy chân cuả một người cha, và thậm chí nó còn kéo theo một đưá bé gái lớn tới gần bên Đức Giáo Hoàng.

Nhân viên trật tự đã tìm cách lấy kẹo dụ chú bé đi chơi nơi khác, nhưng nó không tha thiết ngoài việc quanh quẩn ở cạnh bên Đức Thánh Cha.

Như một người ông nuông chiều con cháu, Đức Thánh Cha mỉm cười xoa đầu nó và có lúc dạy nó hôn lên cây Thánh Giá của mình.

Những hình ảnh tươi mát như vậy đã được cộng đồng Mạng truyền bá cho nhau lan ra khắp thế giới, cộng thêm những lời khen ngợi quí mến.

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

50 năm sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-10-31

Ngo_Dinh_Diem_-_Thumbnail_-_ARC_542189-305.jpg

TT Ngô Đình Diệm tại Washington DC tháng 8 năm 1957.

Courtesy U.S. Air Force

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, một nhóm tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam thực hiện cuộc đảo chánh làm sụp đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Kính Hòa hỏi chuyện một số nhân chứng của thời điểm ấy 50 năm sau.

Người lập ra nền đệ nhất cộng hòa

Nửa thế kỷ đã trôi qua từ ngày bùng nổ cuộc đảo chánh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa lật đổ vị Tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa tại miền nam Việt Nam. Cuộc đảo chánh kết thúc đẫm máu với cái chết của ba anh em gia đình Tổng thống.

Hồi tưởng lại thời điểm 50 năm trước, nhà báo Trần Phong Vũ, vào thời điểm tháng 11 năm 1963 đang dạy học và làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn, hiện đã về hưu và sống ở miền Nam California:

“Thế hệ chúng tôi là những người di cư từ miền Bắc vào miền nam vào lúc đã trưởng thành lúc đất nước bị chia đôi, nếu anh theo dõi các cao trào của đám sinh viên di cư từ miền bắc vào rồi được giúp đỡ rất là nhiều để học hành trở lại, rồi về phía quần chúng đượcc ổn định trong một đời sống rất khó khăn khi bỏ hết tài sản ở miền Bắc, với con số cả triệu người. Tôi nghĩ là trong tâm thức của họ là những ý nghĩ rất tốt đối với vị Tổng thống đã lập ra nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam.”

Tổng thống Ngô Đình Diệm gắn bó rất nhiều với cộng đồng Công giáo di cư từ miền Bắc. Một người Công giáo khác là Linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế TP HCM, vào thời điểm của cuộc đảo chánh hãy còn là một thiếu niên hồi tưởng về sự kiện ngày 1tháng 11 năm 1963,

Ngo_Dinh_Diem_at_Washington_-_ARC_542189-250.jpg

TT Ngô Đình Diệm bắt tay với Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, tại sân bay Dulles, Washington DC năm 1957. Courtesy U.S. Air Force.

“Đó là ấn tượng tuổi thơ của tôi, lúc ấy tôi còn nhỏ mới học hết tiểu học. Gia đình rất là kính trọng và quý mến cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Cha tôi là một công chức nhỏ trong chánh quyền. Các ấn tượng của tôi là suốt một thời gia dài chúng tôi rất hòa bình, sung túc và hạnh phúc. Khi nghe tin chế độ đệ nhất Cộng hòa bị sụp đổ, và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết, gia đình chúng tôi rất là đau lòng. Tôi còn nhớ là mẹ tôi cùng với vài chị em quen biết ngồi đọc kinh cho Tổng thống và khóc rất là nhiều. Lúc đó chúng tôi còn thơ trẻ nhưng có một ấn tượng là có một cái gì đó mất mát rất là lớn. Lúc lớn lên tôi cũng cảm nhận được sự mất mát đó. Tôi vẫn nhớ lại thủa sống bình an yên lành, những gì mà cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và những cộng sự xây dựng cho miền nam này.”

Sự tiếc thương đó của những người công giáo kéo dài cho đến 50 năm sau. Những buổi lễ tưởng niệm ngày mất của cố Tổng thống được các cộng đồng công giáo hải ngoại tổ chức hàng năm.

Phải tha thứ, phải cảm thông

Song cũng có những tiếng nói khác. Một viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hiện sống ở Hoa Kỳ, không muốn nêu tên, thì lại nói rằng dù cái gì diễn ra đi nữa thì việc sử dụng Dụ số mười đối với cộng đồng Phật giáo như một sự kỳ thị vào nửa đầu năm 1963 là không thể chấp nhận, trong một quốc gia mà cộng đồng Phật giáo là đa số.

Ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông.
-LM Phạm Trung Thành

Ông nói tiếp rằng những tranh cãi nhau về sự kiện này giữa những người Việt không cộng sản với nhau vẫn còn. Nhà báo Trần Phong Vũ nói về việc tranh cãi này:

“Chuyện tranh cãi ấy là có thật. Cái phản ứng đó cũng dễ hiểu thôi. Những người Việt Nam chúng ta không có dữ kiện trong tay một cách đầy đủ, rồi có thiên kiến, rồi cũng có khi do những quan điểm đấu tranh khác nhau mà dẫn tới việc tranh giành mọi thứ về phía mình rồi dẫn tới chuyện tranh cãi.”

Trong khi đó Linh Mục Phạm Trung Thành từ TP HCM nêu ý kiến của ông rằng nên tha thứ:

“Tôi không muốn quan tâm đến ai, hay những nguyên nhân nào đã làm hại Tổng thống. Dưới cái nhìn của một tu sĩ thì tôi cho rằng Tổng thống đã qua một con đường khổ giá cho sự yêu mến giáo hội, đất nước, dân tộc. Còn ai làm gì thì thú thật tôi có đọc, có xem, có nghiên cứu nhưng tâm hồn của tôi thì tôi muốn nói rằng tôi phải tha thứ, phải cảm thông. Tôi không thể có một nhận định nào nặng nề, tiêu cực về phía đó.”

Liệu lớp bụi thời gian 50 năm có làm tan đi được tranh cãi, khoảng cách nửa thế kỷ có làm cho sự cảm thông của Linh Mục Phạm Trung Thành lan tỏa!

Khiêm nhu

Khiêm nhu


Lm Vũđình Tường

10/23/2013

Hai tuần trước Kinh Thánh dẫn dắt con người cầu nguyện bằng tâm tình tạ ơn. Chúng ta luôn phải tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn nhận được. Tuần qua Kinh Thánh lại nhắc đến một yếu tố quan trọng trong cầu nguyện nữa đó là kiên tâm bền chí trong cầu nguyện ngay cả khi chúng ta cảm thấy chán nản, mệt mỏi mong chờ nhưng đừng nản chí, cần nhẫn nại, kiên tâm. Hôm nay Kinh Thánh đưa ra một điều cần nữa cho cầu nguyện đó là tâm tình khiêm nhu. Tấm lòng khiêm nhu dẫn chúng ta đến gần Chúa. Lối suy nghĩ hoặc tư tưởng của ta dẫn ta đến gần Chúa hơn hay là dẫn chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Ba yếu tố cần có khi cầu nguyện là: tâm tình tạ ơn, kiên tâm trong cầu nguyện và tấm lòng khiêm nhường.

Dụ ngôn người Biệt Phái và người thu thuế cho thấy không phải những lời chúng ta nói nơi cửa miệng mà chính là điều không nói, tâm tư thầm kín, sâu thẳm trong tâm hồn con người mới là điều quan trọng. Đức Kitô xác nhận cảm xúc trong tâm hồn, trong tim ta là điều Ngài quan tâm hơn cả. Thiên Chúa đến ngự trong tấm lòng khiêm nhu, biến tấm lòng đó ra thanh khiết và trở thành đền thờ Thánh Thần Chúa. Điều này chính Đức Trinh Nữ Maria dậy chúng ta khi Mẹ dâng lời tạ ơn trong kinh Magnificat.

Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi bởi Người đã nhìn đến tôi tớ hèn mọn.
Người hạ khỏi ngai vàng kẻ tự cao, tự đại và nâng người hèn mọn lên Lc 1,46tt


Khiêm nhu trong tấm lòng là điều Thiên Chúa mon muốn. Dụ ngôn hôm nay chính là nói về cầu nguyện chân thành phải xuất phát tự tâm. Kẻ tự cao, tự đại làm phật lòng Thiên Chúa và làm phiền lòng người khác và đó là điều sai trái, cần tránh. Kiêu căng thường tự đánh giá mình hơn người, tự cho mình hơn người và dẫn đến chối bỏ ơn Chúa trong tâm hồn. Chối bỏ ơn Chúa sẽ sống ngoài tình Chúa yêu thương. Họ không nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trong những người anh em khác và họ cũng không chấp nhận giáo huấn căn bản Chúa dậy là mọi người bình đẳng trước mặt Thiên Chúa vì tất cả đều là tạo vật do Chúa tạo thành.

Dụ ngôn cho thấy kẻ kiêu căng không cần Thiên Chúa. Người đó đến trước Thiên Chúa với cái tôi của mình. Nhận ơn Ngài ban nhưng không biết sống tâm tình tạ ơn. Trái lại anh ta cho đó là do tài năng riêng của anh có được. Anh tự kiêu đứng trước thánh điện, nơi trang nghiêm trong đền thờ, đứng thẳng kể ra công lao, thành tích của mình. Đức Kitô cho biết tư tưởng kiêu ngạo, tự cao, tự đại không thể đến gần Thiên Chúa. Trái lại tấm lòng khiêm cung, lời nói chân thành đến tự tâm lọt vào trái tim tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Trái lại người thu thuế tự nhận mình có tội, sai trái không dám ngẩng mặt lên Thiên Chúa nhưng cúi sâu xuống thống hối, ăn năn. Chính tâm tình này mà Đức Kitô xác nhận lời cầu của anh được Thiên Chúa đón nhận. Anh biết mọi sự anh có đều là ơn Chúa ban và sống tâm tình tạ ơn.

Đức Kitô cảnh cáo chúng ta về kiêu ngạo. Kẻ kiêu ngạo bị hình ảnh kiêu căng làm mờ tầm nhìn và nhận biết sai lầm về tình yêu Chúa cũng như tài năng chính mình. Khiêm nhường là cách sống đẹp lòng Chúa và chính khiêm nhường là cửa ngõ đón Chúa vào trong tâm hồn mình. Người khiêm nhường nhận biết con người bất toàn và xin ơn thứ tha.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

VỀ SỰ TIỀN ĐỊNH CỦA Thiên Chúa VÀ VỀ TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI

(ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN)

Lm. Đan Vinh

10/30/2013

VẤN ĐÊ 20 A:

Tin có Thiên Chúa sẽ làm cho con người trở nên ỷ nại, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại vì tin mọi sự xảy ra đều do Chúa định, mà không cố gắng vượt qua số phận để đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

GIẢI ĐÁP :

1.Ý nghĩa của hai chữ “Chúa định” là gi ? :

Người Công Giáo thường nói: “Mọi sự đều do Chúa định”. Vậy phải chăng con người không có tự do quyết định vận mệnh của mình ? Phải chăng con người sẽ trở thành nô lệ cho một vị Thiên Chúa độc đoán, và họ chỉ còn biết ỷ nại vào sự định đoạt của Thiên Chúa, mà không có thể vượt qua số phận bất hạnh gặp phải, hầu đạt tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn ?

1) Thế nào là “Chúa định”: Chúa định hhông đồng nghĩa với tất định như có người lầm tưởng, mà chỉ có nghĩa là biết trước, thấy trước những gì xảy ra.

Nếu thực sự Thiên Chúa định đoạt tất cả mọi việc lớn nhỏ trong vũ trụ thiên nhiên, định đoạt só phận của nhân loại và cá nhân mỗi người… mà dù muốn dù không chúng ta buộc phải chấp nhận, thì khi ấy con người không khác chi một cái máy vô hồn, hoặc như thú vật hoạt động hoàn tòan theo bản năng hay như một trẻ thơ ấu trĩ chỉ biết hoàn toàn cậy nhờ vào sự bao bọc của cha mẹ… đúng như có người đã chỉ trích nói trên.

Nhưng trong thực tế, ai trong chúng ta cũng đều ý thức về sự tự do của mình: tự do làm hay không làm một việc nào đó, tự do quyết định làm một việc tốt hay làm điều xấu. Ai cũng cảm thấy mình có khả năng làm chủ vận mệnh cuộc đời của mình chứ không phó mặc hoàn toàn cho số phận may rủi. Vậy hai chữ “Chúa định” chỉ có nghĩa là sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật và hằng quan tâm săn sóc để chúng tồn tại và tiến hóa theo các định luật thiên nhiên như Ngài đã an bài. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra không gian và thời gian trong vũ trụ, nên Ngài không ở trong không gian và thời gian, cũng không bị lệ thuộc vào không gian thời gian ấy. Nơi Thiên Chúa không có quá khứ hay tương lai, nhưng luôn là hiện tại. Thiên Chúa nhìn thấu suốt mọi sự đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại và sắp xảy ra trong tương lai trong một cái nhìn “hic et nunc” (ở đây và bây giờ). Ngài nhìn thấu suốt vận mệnh của nhân loại nói chung và cá nhân mỗi người chúng ta trong một cái nhin. Ngài hằng quan tâm săn sóc, ban ơn giúp đỡ như một người cha yêu thương con cái để ban ơn cứu độ cho họ như thánh Phao-lô đã viết trong thư Ti-mô-thê: Trước hết tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin khấn nguyện nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp, mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Tuy nhiên, dù muốn cứu độ hết mọi người nhưng Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do quyết định làm hay không làm, làm điều tốt hay điều xấu, nên họ phải chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Cho nên thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta mà không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Ngài không thể cứu chuộc chúng ta, nếu chúng ta không cộng tác với Ngài”.

2)Thiên Chúa quan phòng tiền định theo sách Tin mừng:

Trong Tin mừng, Đức Giê-su nhiều lần nhắc đi nhắc lại việc Chúa Cha hằng quan tâm săn sóc tất cả mọi tạo vật nhất là loài người là dưỡng tử của Ngài:

a)Thiên Chúa yêu thương săn sóc mọi loài:

-“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6, 26 – 30).

-“Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em” (Mt 10,29).

-Đức Giê-su đáp: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).

b)Thiên Chúa đặc biệt săn sóc loài người:

-“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30-31).

-“Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).

Như vậy, người tín hữu tin “Chúa định” cũng là tin “Chúa biết trước”: Ngài hằng săn sóc mọi loài mọi vật do ngài đã dựng nên, đặc biệt là loài người chúng ta. Một khi tin chắc vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu sẽ thêm lòng tin cậy mến, thể hiện qua thái độ năng tạ ơn Chúa và cầu xin Ngài ban ơn để được cứu độ.

Tuy nhiên, có người lại đặt vấn đề: Phải chăng tin có Thiên Chúa tiền định, quan phòng biết trước như thế sẽ làm cho con người trở thành ỷ nại, không muốn làm việc để làm chủ thiên nhiên, vượt qua vận mệnh của mình để đạt tới một đời sống ấm no hạnh phúc hơn ?

2.Đức tin không tiêu diệt sự làm việc và ý chí tự do của con người:

Tin vào sự quan phòng, biết trước của Thiên Chúa không những không làm cho con người ỷ nại vào sự sắp xếp của Thiên Chúa, nhưng trái lại, còn thúc đẩy con người cố gắng làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên và làm chủ vận mệnh của mình như sau:

a)Dựa vào Lời Chúa trong Thánh Kinh:

-Con người được tạo dựng khác hẳn mọi loài khác: Mở sách Sáng thế, ta đọc thấy: Thiên Chúa đã ưu đãi con người, chỉ tạo nên con người sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự: Dựng nên vũ trụ để làm chỗ cho con người trú ẩn; Dựng nên các sinh vật như thảo mộc hoa màu để làm thức ăn nuôi sống và dựng nên muôn thú vật để làm bạn với con người; Vũ trụ và muôn vật phải tuân theo định luật hay bản năng thiên nhiên (Stk chương 1 và 2), đang khi con người được phú cho linh hồn thiêng liêng với hai tài năng là trí khôn suy nghĩ và ý chí tự do vượt trổi mọi loài vật khác: “Chúa phán: Ngươi được ăn mọi thứ cây trong vườn, nhưng cây biết lành biết dữ thì đừng ăn, vì ngày nào ngươi ăn vào thì ngươi sẽ phải chết” (Stk 2,7; 2,16). Con người có trí khôn hiểu biết sự lành sự dữ, đồng thời còn có ý chí tự do quyết định: làm hay không làm, chọn làm lành để được phúc và chọn làm ác sẽ phải chết.

-Các khả năng khác: Ngoài trí khôn và ý muốn nói trên, con người còn được Thiên Chúa ban cho có tay chân với khả năng làm việc hữu hiệu dưới sự điều động của trí khôn hơn mọi loài. Ngài cũng trao cho con người quyền làm bá chủ vũ trụ vạn vật như sách Sáng Thế ghi lại: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất’. Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy” (St 1,28-30).

Qua đó, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật và đặc biệt ưu đãi đối với con người. Ngài ban cho họ có tay chân và hai tài năng siêu việt là lý trí suy luận và ý chí tự do là nhằm khuyến khích họ hãy làm việc, chứ không khoanh tay ngồi chờ, ỷ nại vào Thiên Chúa, giống như loài thú vật hoạt động theo bản năng, hoặc như vũ trụ vô tri vô giác, hoàn toàn tuân theo các định luật thiên nhiên cách máy móc.

b)Dựa vào sự hợp lý:

Một tín hữu tin có Thiên Chúa, tin rằng sau cuộc sống trần gian hôm nay vẫn còn một cuộc sống khác tồn tại vĩnh hằng… thì chắc chắn ngay từ cuộc sống hiện tại đã phải cố gắng làm việc, phải ăn ở lương thiện hơn những người bất tín, không chấp nhận có Đấng Tạo Hóa sẽ phán xét công minh, cũng không tin có sự thưởng phạt thiên đàng hỏa ngục đời sau… Vì người tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa sẽ có động lực thúc đẩy hăng hái làm việc, có lòng mến yêu và sự ao ước được về với Thiên Chúa sau khi chết, đang khi người vô tín sống không có lý tưởng, hoặc nếu có thì chỉ nhắm những mục đích mang tính vụ lợi ích kỷ… họ chỉ biết làm ra nhiều tiền, rồi lại dùng tiền ấy để thỏa mãn những đam mê lạc thú tầm thường mà thôi.

TÓM LẠI: Tin có Thiên Chúa không những không làm cho con người lười biếng, ỷ nại vào một quyền lực siêu phàm bên ngoài, mà trái lại, chính niềm tin ấy lại là động lực thúc đẩy người tín hữu làm việc nhiều hơn để làm chủ thiên nhiên, và cố gắng sống lương thiện ăn ngay ở lành để hy vọng sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trên thiên đàng đời sau. Trái lại, những người không tin có Thiên Chúa sẽ chỉ biết hưởng thụ, chỉ đi tìm lợi lộc vật chất cho mình dù phải sử dụng phiương thế bất nhân thất đức. Họ sẽ trở thành những kẻ nguy hiểm cho xã hội, vì không tin có sự thưởng phạt đời sau. Na-pô-lê-ông Đại Đế cũng nói tương tự: “Một dân tộc không có niềm tin tôn giáo sẽ phải được cai trị bằng sung đạn, nhà tù và bạo lực !”

PHÚT HỒI TÂM:

-LỜI CHÚA:

Đức Giê-su nói: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin !” (Mt 6,26-30).

-LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha giàu lòng từ bi thương xót. Cha đã dựng nên muôn vật muôn loài để chuẩn bị trước khi dựng nên loài người chúng con. Cha lại còn an bài để mọi tạo vật có thể tồn tại trong trật tự và ngày một tiến hóa theo thánh ý Cha. Đặc biệt Cha đã thương yêu săn sóc loài người là dưỡng tử của Cha và trao quyền làm chủ mọi loài. Rồi khi nguyên tổ phạm tội phải chịu án chết, Cha lại hứa ban Đấng Cứu Thế là Giê-su Ki-tô. Xin giúp chúng con tin vào Con Cha là Đức Giê-su và noi gương Người sống tình con thảo với Cha và tình huynh đệ với nhau, đồng thời quyết tâm theo con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người, hầu sau này được về thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời với Người. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

VẤN ĐỀ 20 B:

Không có tội lỗi theo nghĩa tôn giáo. Chỉ có những lỗi lầm đối với xã hội như lười biếng, hèn nhát, ích kỷ… mà thôi.

GIẢI ĐÁP :

1.Thế nào là tội lỗi theo nghĩa tôn giáo ?

Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Tội là khi cố tình lỗi giới răn của Thiên Chúa, hay lỗi các điều răn Hội Thánh dạy biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa.

Lỗi giới răn Thiên Chúa là tội thực sự vì:

-Là một hành động phản nghịch: một người cố ý không tuân giữ luật lệ của quốc gia có tội với quốc gia thế nào, thì một người cố tình lỗi giới răn Thiên Chúa cũng có tội với Ngài như vậy, vì chống lại thánh ý của Ngài.

-Là một hành vi bất hiếu: cũng như con cái không vâng lời cha mẹ dạy dỗ… là một đứa con bất hiếu thế nào, thì một người cố tình không tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa cũng là đứa con bất hiếu với Ngài như vậy.

2.Những hành vi nào là có tội?

Đức Giê-su đã thâu tóm tất cả mọi giới răn của Thiên Chúa trong hai điều này: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điểu răn ấy” (Mt 22,37-40).

Do đó, tất cả những hành vi nào cố tình lỗi hai giới răn mến Chúa yêu người nói trên đều có tội: Những lỗi lầm đối với xã hội như: lười biếng, hèn nhát, ích kỷ, gian dối bất công… là những tội lỗi giới răn “yêu người thân cận như chính mình”, nên đều có tội và đáng bị trừng phạt. Tuy nhiên, cả những tội bất hiếu với Thiên Chúa, cố tình nhắm mắt bịt tai để khỏi nhận biết những kỳ công của Ngài mà tin thờ Ngài cũng là tội bất hiếu nặng nề nữa. Đến ngày tận thế, khi mọi người được sống lại và chịu phán xét chung, những người cố tình không tin sẽ không tránh khỏi hình phạt cân xứng với tội cứng lòng của họ như lời Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu trong Đền thờ rằng: “Các ông chớ ngạc nhiên về điều này vì “Giờ” đã đến. “Giờ” mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó. Ai đã làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống. Ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28–29).

Đức Giê-su cũng cảnh báo về các hình phạt những kẻ cứng lòng tin sẽ phải chịu như sau: “Tôi đã nói với các ông là: các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết” (Ga 8,24). Chết ở đây là cái chết do bị mất ơn cứu độ và phải chịu hình phạt đời đời trong hỏa ngục, chung số phận với ma quỷ như Đức Giê-su sẽ phán với những kẻ ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15,5-6).

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói rằng: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Xin mở lượng hải hà xoá bỏ các tội của con. Xin tạo cho con quả tim trong sạch và gìn giữ con đừng cố tình phạm tội, để tâm hồn con luôn thanh sạch, hầu xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa và luôn được ở trong tình thương của Ngài. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. A-MEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

Tất Cả Là Hồng Ân.

Tất Cả Là Hồng Ân.

Giuse Thẩm Nguyễn

Khi nghĩ về những hồng ân, người đời thường nghĩ về những điều phúc, điều lành, chứ không ai coi cái họa, cái xui là hồng ân cả. Tuy nhiên, câu thành ngữ : “tái ông thất mã, an tri họa phúc”, có nghĩa là “ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc” thì chứng tỏ phúc hay hoạ là do chúng ta thôi.

Chuyện Tái Ông Mất Ngựa trong sách Hoài Nam Tử như thế này: Ông lão ở nước Hồ bị mất một con ngựa, tưởng là xui. Ai ngờ vài tháng sau, con ngựa kéo thêm cho ông con ngựa khác, tưởng là phúc. Có ngựa nên con trai ông cưỡi ngựa bị gãy chân, tưởng là hoạ. Bị gẫy chân nên con trai của ông được miễn đi lính, tưởng là phúc….

Cái vòng luẩn quẩn phúc và họa ấy sẽ chấm dứt khi con người chết.Chết là hết chuyện. Thật vậy đối với đời sống con người cái chết là kết thúc mọi chuyện. Dù khi sống người ấy có là ông này bà kia, có giàu sang phú quý, hay nghèo hèn thế nào thì chết cũng là hết. Bởi thế không bản án nào nặng bằng bản án tử hình, tức là cướp đi sự sống của một người. Nói một cách khác, sự sống là món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.

Chết quả là sự cay đắng cho những ai chỉ cậy dựa và muốn hưởng thụ thế gian này, nhưng chết đối với người tin Chúa thì lại là niềm hy vọng được trở về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra mình.

Đối với đức tin Công Giáo, thì sống cũng là hồng ân mà chết cũng là hồng ân, nếu cái chết ấy được chuẩn bị chu đáo để sẵn sàng về hưởng Tôn Nhan Chúa. Thánh Phaolô quan niệm sự sống và sự chết của Ngài như thế này “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi “. (Pl 1,21

Theo quan niệm nhân gian, thì điều gì mình thích thì gọi là phúc, điều gì mình không thích thì gọi là họa. Sống thọ, có sức khỏe tốt, được người ta kính trọng, được giàu có thì ta gọi là phúc (hên). Ngược lại chết chóc, bệnh tật, bị hiểu lầm, bị nghèo đói thì gọi là họa (xui).

Cho nên trong các lời rao đầu lễ Chúa Nhật, tôi thường nghe thấy những lễ xin tạ ơn như được khỏi bệnh, được thăng chức, được thi đỗ, được có việc làm, được bằng an.. chẳng bao giờ tôi nghe thấy xin lễ tạ ơn vì đã bị bệnh, đã bị hiểu lầm, đã thất nghiệp, đã bị đau khổ… mà thực ra những điều chúng ta không thích cũng là hồng ân Chúa ban để giúp ta đến gần Chúa.

Suy tư về điều phúc và họa, tôi giật mình khi thấy đã bao lần tôi cất tiếng trong nhà thờ đọc kinh ‘Tám Mối Phúc Thật” mà chẳng ý thức về những điều Hội Thánh dạy.

Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó, người hiền lành, người sầu khổ, người đói khát sự công chính, người từ tâm, người có tâm hồn trong sạch, người kiến tạo hòa bình, người bị bách hại vì sự công chính, người bị xỉ nhục, bị bắt bớ, bị nói xấu, bị đặt điều vì Danh Chúa.

Tôi không biết có bao nhiều người hiện diện trong nhà thờ cầu mong những điều phúc này. Toàn là những điều mà thế gian gọi là tai họa, thế mà những người Công Giáo đích thực lại cho là có phúc?

Cái phúc ở đây ,theo người tin Chúa, là những cơ hội dẫn đưa ta về với Chúa là hạnh phúc cùng đích của đời sống. Sống không phải chỉ là sống mà là chuẩn bị cho sự sống bất diệt sung mãn cùng với Chúa Yêu Thương trong nước của Người.

Lần tìm trong Sách Giáo Lý Công Giáo, tôi được hiểu thêm: “Những phúc thật này vẽ lên khuôn mặt Chúa Kitô và mô tả đức bác ái của Người. ..Các phúc thật là những lời hứa nghịch lý để nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân, loan báo nhưng phúc lành và những phần thưởng mà các môn đệ của Chúa đã âm thầm đạt được.” (GLCG, câu 1717)

Người đời cho rằng trúng xổ số là có phúc, vậy mà theo báo Houston, ông Bille đã tự tử vì những đồng tiền từ trên trời rớt xuống ấy. Phóng viên Steve viết trong báo Houston rằng: ông Bille Bod Harrel Jr đã trúng 31 triệu dollars độc đắc bang Texas. Lúc đầu mọi sự đều tuyệt vời…Ông dùng tiền mua nhà, xe, làm từ thiện. Ông có thêm rất nhiều bạn… nhưng chỉ 20 tháng sau, gia đình ông tan tác, ông bị vỡ nợ và đã tự tử. (From A Treasury of Terribly sad Stories of Lotto Winners)

Có ai khổ cực trăm bề bằng những người Công Giáo bị bắt đạo thời xa xưa. Họ bị hành hạ thể xác, hành hạ về tinh thần và phải chịu chết một cách dã man. Thế mà đối với chúng ta, các Ngài đã được phúc tử đạo.

Tôi đã nghe và rất thích bài hát “ Tất Cả Là Hồng Ân”, tác giả cho rằng có những biến cố chúng ta cho là phúc, có những điều khác chúng ta cho là họa thì đối với Thiên Chúa Tất Cả Là Hồng Ân.

Những phúc/họa này có mục đích hướng chúng ta nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình và giúp chúng ta yêu mến Chúa nhiều hơn, giúp chúng ta đạt được mục đích đầu tiên khi được sinh ra trong cõi đời này là “ thờ phượng và yêu mến Chúa”. Như thế trong đời sống đức tin Công Giáo không có gì là họa, mà tất cả là hồng ân. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về mọi hồng ân Chúa ban cho mình.

Một bài thánh ca khác “ Khúc Ca Tạ Ơn”, tác giả cho rằng cuộc đời chúng ta được dệt bằng những niềm vui hân hoan hoà lẫn với những nỗi buồn da diết, những phút cười vui an bình pha lẫn những thử thách, long đong. Tất cả dệt thành Khúc Ca Tạ Ơn.

Nếu đời của chúng ta găp toàn chuyện may lành, thì chúng ta không biết giá trị của đau khổ, ngược lại nếu đời toàn là đắng cay thì cuộc sống chưa trọn vẹn. Một bức tranh đẹp do người hoạ sĩ tài ba là Chúa Giêsu vẽ lên cho đời ta phải điểm muôn màu muôn sắc. Tạ ơn Chúa vì chính Ngài đã dùng những nét chấm phá phúc-họa để vẽ lên con giống Chúa hơn.

Chúa đã dẫn tôi qua mọi biến cố của cuộc đời. Chúa đã cho tôi được gia nhập đạo Thánh Chúa khi vừa chào đời, Chúa đồng hành với tôi qua những tháng ngày tăm tối trong trại cải tạo, Chúa vui với tôi qua những tháng ngày bơ vơ nơi xứ người và Chúa nâng đỡ, kề cận tôi trong lúc tuổi già. Tôi đã phó thác trong tin tưởng để bước đi theo Chúa. Con đường quanh co, lúc thì phúc, lúc thì họa là con đường “Thánh Ý Chúa”.

Lạy Chúa, con đường phúc-hoạ nào Chúa đã đi qua, xin cho con được bước đi theo Ngài. Xin dạy con nhận ra sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa qua những biến cố trong đời con. Xin cho con biết chấp nhận để kiên trì vác thánh giá theo chân Chúa suốt đời con vì có Chúa thì “ Tất Cả Là Hồng Ân “. Amen.

Giuse Thẩm Nguyễn

Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Vatican tiến hành cuộc thăm dò ý kiến trên tòan thế giới

Nguyễn Long Thao

11/2/2013

NEW YORK – Tòa Thánh Vatican sẽ tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến trên toàn thế giới về một số vấn đề nhạy cảm như: thuốc ngừa thai, vấn đề vợ chồng ly dị, hôn nhân đồng tính. Mục đích của cuộc thăm dò dư luận là để cung cấp dữ liệu cho cuộc họp quan trọng về gia đình mà Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ triệu tập vào năm 2014.

Cơ quan thông tấn The National Catholic Reporter, một cơ quan truyền thông độc lập có trụ sở tại Hoa Kỳ, đã công bố tin này vào ngày thứ Năm 31 tháng 10 năm 2013. Đồng thời bà Helen Osman, phát ngôn nhân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tại Washington đã xác nhận tin về cuộc thăm dò dư luận của Tòa Thánh với hãng thông tấn AP (The Associated Press). Hội đồng Giám Mục Anh đã công bố bản thăm dò dư luận này trên mạng lưới điện tử để giáo dân trả lời

Theo tin, đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri sẽ là điều hợp viên cho cuộc thăm dò dư luận này. Bảng câu hỏi để thăm dò dư luận đã được Tòa Thánh gửi tới các Hội Đồng Giám Mục vào trung tuần tháng 10 năm 2013. Theo yêu cầu của Tòa Thánh, bản câu hỏi cần được phổ biến rộng rãi tới từng giáo hạt, giáo xứ trong địa phận để thu thập ý kiến của giáo dân càng nhiều càng tốt.

Bản thăm dò có tất cả 39 câu hỏi,trong số này có những câu như:

Hôn nhân đồng tính có được chấp nhận trong đất nước của qúy vị không?

Các Linh mục đã cung ứng mục vụ thế nào cho các cặp đồng tính?

Giáo Hội qúy vị đã đáp ứng thế nào khi cặp hôn nhân đồng tính muốn được học hỏi tôn giáo hay muốn cho con cái được rước lễ ?.

Bản phỏng vấn cũng hỏi vấn đề lòng thương xót Chúa đã được tuyên bố như thế nào đối với các cặp vợ chồng ly dị hay tái hôn?

Vấn đề cung ứng mục vụ cho các cặp không kết hôn nhưng sống chung với nhau như thế nào?

Bản điều tra cũng hỏi người tín hữu xem có tin vào giáo huấn của Giáo Hội trong vấn đề ngừa thai nhân tạo?

Kết quả cuộc thăm dò dư luận sẽ là khung sườn cho nghị trình cuộc họp của các vị Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục trên toàn thế giới họp tại Roma vào năm 2014 để bàn về vấn đề gia đình.

Giới quan sát tại Vatican bình luận rằng, cuộc thăm dò dư luận lần này của Tòa Thánh có tính cách mạng, vô tiền khoáng hậu, vì từ trước các chính sách đưa ra đều từ trên xuống dưới, nhưng lần này, chính sách mục vụ gia đình của Tòa Thánh Vatican đã có căn bản từ dưới lên trên.

Nguyễn Long Thao

NGƯỢC DÒNG…

NGƯỢC DÒNG…

Hoa viên vng ngt bun tênh,
Bâng khuâng nh
bước lênh đênh ni bun,
Ng
ược dòng d vãng l tuôn,
Nh
sao là nh tiếng chuông Đc Bà,
Bây gi
mi tht xót xa,
Sài Gòn hoa l
ngc ngà nay đâu,
Duy Tân trút lá me s
u,
Công tr
ường quyn khói chìm sâu gót hài,
L
i xưa đng mi ưu hoài,
Lung linh s
i nng loay hoay góc đường,
Cà phê gi
t đng ngát hương,
Riêng ta th
n thc su vương bn mùa….!!!!!

Liverpool.2/11/2013.
Song Nh
ư.

MỒNG TƠI,

MỒNG TƠI,

Em về đếm lá mồng tơi,
Đếm luôn cả hột cho vơi nỗi sầu,
Người đi biền biệt giang đầu,
Con đò lắc lẻo nông sâu khó dò,
Hoa cau thiếu sợi trầu bò,
Duyên mình lạnh ngắt buồn xo cả ngày,
Con chim sáo sậu vừa bay,
Cánh cò nghiệt ngả đắng cay một mình,
Lia thia quen chậu chung tình,
Cho bông lẻ bạn xinh xinh lối vào,
Nghề nông vất vả biết bao,
Phận nghèo chẳng dám trèo cao làm gì…

Liverpool.29/10/2013.
Song Như.

Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam, Thuốc Dân Tộc Đến Dược Thảo

Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam, Thuốc Dân Tộc Đến Dược Thảo

TS.Mai Thanh Truyết

The Ebers Papyrus (ca. 1550 BCE) from Ancient Egypt has a prescription

for Cannabis sativa (marijuana) applied topically for inflammation.

Những danh từ dùng cho tựa đề của bài viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và thời gian.

Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v… đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đãm nhận.

Các loại cây lá và rễ được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nấm lá khô, một muỗng bột rễ cây…thay vì một chỉ …, ba ly… như ở thuốc Bắc.

Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “xắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần.

Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã được bào chế sẳn cũng như được “nhà nước” công bố công dụng của từng loại cây, lá, hay cũ… dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng, cho dù có hiệu nghiệm hay không.

Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được “thống nhất”, chắc ai cũng còn nhớ cây xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi khám bịnh ở phòng y tế phường hay xã, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do một anh bộ đội vượt Trường sơn kể như sau: “nếu vợ chồng không có con trong một thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi “ăn nằm” với nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau đó ngay!”

 

Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể hiện “tính khoa học” còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông y sĩ ở đây, nói chung đều mang (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai là Bác sĩ Đông y (Oriental Doctor – OD) hay Tiến sĩ Đông Y (Ph.D of Oriental Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam; tất cả được chế biến có tính cách hoàn chỉnh hơn dược thuốc Bắc và thuốc Nam, gần giống như các loại thuốc của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc tể v.v…

Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng thuốc dược thảo. Danh từ “thuốc” dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ, thân, lá, củ, hột… mà không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di hại về sau như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold) cho đến các hóa chất dung để trị liệu theo Tây y nữa.

Nguồn gốc và định nghĩa dược thảo

Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem như là một phương cách trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các loại cây hay hóa chất ly trích từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.

Datura stramonium is a highly effective treatment for asthma symptoms when smoked, because it contains atropine, which acts as an antispasmodic in the lungs. However, datura is also an extremely powerful hallucinogen and overdoses of the tropane alkaloids in it can result in hospitalization or death.

 

Nguồn gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals) để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.

 

©2007 Publications International, Ltd. There is a large palate of herbs

and herbal remedies that you can use to treat everyday medical conditions.

Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).

Ngành dược thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có “tham vọng” chữa trị toàn cơ thể con người, và “khuyến khích” cơ thể tự “hoàn chỉnh” hay điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản ứng hổ tương để chữa trị toàn thể con người.

Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện có khoảng 34% người Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.

 

Vấn đề an toàn của dược thảo

Có một khái niệm hết sức thông thường và tự nhiên của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ (herbal) là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn hơn các loại thuốc bằng hóa chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện đại bào chế. Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người Hoa kỳ và dĩ nhiện, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại vẫn thường dùng các loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh.

Đối với dược thảo, các nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn của thuốc đặc chế. FDA cũng không đói hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhản hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc nghiên cứu nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.

Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã đưộc quảng cáo rầm rộ trong cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai…là có khả năng trị bá bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với các yếu tố làm chống đông máu có sẳn trong máu của con người.

Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại thuốc thực vật trên được ghi trong nhản hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu nghiệm của thuốc. Nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhản hiệu trên hòan tòan không ghi rõ vế cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!

Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) giống như các loại thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc, cùng một nhản hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của hoa v.v.. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc, đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân.

Do đó, mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an tòan. Theo khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.

Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên, những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng khi dùng nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê trên nhản thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê toa.

Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành phần cùng cân lượng của những chất hoá học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất) theo từng trường phái dược thảo khác nhau.

Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị bịnh về tim, bịnh viêm yết hầu (angina), cao áp huyết, hay chứng đau mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy).

Thêm nữa, các dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot flashes) là các loại cỏ và rể của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một thời gian.

Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?

Hiệu năng của dược thảo

Đối với ngành y dược khoa, một thuốc mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đọan như vừa kể trên, điều đó không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an tòan của thuốc, mà còn đi xa hơn nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an tòan hơn (safer), và hiệu nghiệm hơn khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có cùng một mục đích trị liệu.

Nhưng đối với dược thảo, hòan tòan không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cảm tính (intuition) nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể xảy ra.

Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số nhà y dược học là:

1- Một số dược thảo được xem như là một loại thức ăn bổ túc (food additive) như các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người tiêu dùng.

2- Ủy ban An tòan Y khoa (Committee on Safety of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo vơí bác sĩ về các loại dược thảo đang dùng trước khi được giải phẩu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc xử dụng trong và sau khi giải phẩu.

 

3- Còn Viện Quốc gia Những Nhà Sưu tầm Dược thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần phải theo dõi từ ba đến năm năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được bào chế trước khi tung ra thị trường.

Vì những lý do trên cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người xử dụng dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.

Cũng cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức khoẻ tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang xử dụng, cuộc sống thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khoẻ gia đình. Và sau một thời gian trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.

Sau cùng, Viện Sức khoẻ Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for Complementary & Alternative Medicine).

Thay lời kết

Ngày hôm nay, ngoài những bửa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về vật chất lẫn tâm sinh lý nhứt là đối vời những người lớn tuổi. Do đó, xử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đóan bịnh và cho thưốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho việc trị liệu.

Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn tòan độc lập, và hòan tòan tùy thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.

Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình.. .chúng ta hàng ngày nghe ra rả những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều bịnh khác nhau, cũng như trị “bá bịnh”. Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo, những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác nhau. Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni, thuốc cây lô hội v.v.. .

Thậm chí, có những nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14, 26 v.v.. .để trị bách bịnh hay bá bịnh.

*

Sữa ong chúa Supreme Royal Jelly mới

*

Công Dụng: Sữa ong chúa Supreme Royal Jelly mới trị nám, da nhăn nheo, da bị mụn, da đồi mồi, yếu sinh sinh lý (nam lẫn nữ), cơ thể suy nhược, triệu chứng khó chịu thời kỳ mãn kinh, giúp tăng cường sự dẻo dai (thể thao).

Cách Dùng: Mỗi ngày uống 1 viên.

 

Giã sử như sữa ong chúa có tính chất trị bá bịnh đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng chứa sữa (?) của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ “sữa” như thế nào, nhưng qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!

(Ghi chú: Sau khi bài viết được tung ra trên các Diễn đàn và báo chí vào năm 2009, một “Ông Bác sĩ “vật lý trị liệu” chuyên trị dược thảo quảng cáo trên các Đài phát thanh địa phương ở Bolsa, đã giải thích tuy gọi là sữa ong chúa nhưng thực sự là dung dịch do các ong thợ mang về để nuôi ong chúa…Như vậy từ trước đến giờ sao không giải thích cho bà con biết, mà để đến bây giờ mới đính chính? Rồi các “bác sĩ chuyên trị” sữa ong chúa thi nhau giải thích trên đài ra rã hàng ngày. Thậm chí có Ông MD tốt nghiệp ở Hoa Kỳ còn thêm tên khoa học của “sữa ong chúa” để bán dược phẩm do…chính Ông ta chế ra…)

Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng mà không có một phản ứng nào cả. Cộng thêm một số đồng bào vì dễ tin và nhẹ dạ cho nên vô hình chung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên. Thiết nghĩ, ngày hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn phận dân sự (civic duty) của chính mình để cho những cung cách làm ăn không đứng đắn tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản ứng phụ khi dùng hoá chất không đúng cách (có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài thập niên xử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng tức khắc. Khẩn mong Quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.

Sau cùng người viết khẩn thiết yêu cầu các bác sĩ y khoa cũng như những nhà bào chế tây y lên tiếng nói góp phần làm sạch cộng đồng trước những âm mưu, hay quảng cáo bất chính kể trên.

Mong lắm thay!

TS.Mai Thanh Truyết

 

Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Chúng tôi đã “giết chết” một người bạn

Năm nay tôi đã gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đã có thể chúc thọ được rồi. Tôi đã chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này gửi các anh, các chị  để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên sẽ nói với bạn đọc gần xa một điều gì đó về cuộc đời này.

Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong đời sinh viên của tôi, ở ký túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong phòng kêu ốm và ở lại. Người đó là S, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là chỉ vàng mà cha mẹ cho để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay lúc đó, tôi nhìn S đang nằm quay mặt vào tường và hoàn toàn tin rằng S đã lấy cắp chỉ vàng của tôi. Tôi đề nghị mọi người trong phòng cho tôi khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.

Nhưng qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của S, chúng tôi đều tin S đã giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng của tôi. Chúng tôi đã báo cáo sự việc với nhà trường. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng tôi đi tập quân sự thì S có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc dù S cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà trường đã tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ trộm đó là S.

Một tuần sau, chúng tôi phát hiện S mang một tải mì sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi túm lại hỏi S lấy tiền đâu mà mua mì sợi. S không nói gì mà ôm mặt khóc. Năm đó, nhà trường đã không xét tốt nghiệp cho S mặc dù học lực của S rất khá, với lý do đã có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội lỗi của mình. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân công công tác. Chỉ có S không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về địa phương S sinh sống đề nghị địa phương theo dõi và giáo dục S. Khi nào địa phương chứng nhận S đã hối cải và tiến bộ thì nhà trường sẽ xem xét giải quyết trường hợp của S.

Thời gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc với nhau. Duy chỉ có S là không ai biết rõ ràng ở đâu và làm gì. Nhà trường cho biết, S cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân công công tác.

Ngày tháng trôi qua, tôi chẳng còn nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi, có những người rất thành đạt. Đặc biệt H đã trở thành một người rất giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người được xã hội biết đến.

Một hôm, sau ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: “Anh P thân mến, tôi xin được gửi trả lại anh chỉ vàng mà tôi đã lấy của anh cách đây mấy chục năm. Tôi sẽ đến gặp anh để xin anh thứ tội. Kính”. Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá thư không ký tên. Tôi không còn nhận được chữ đó là của ai viết nữa. Tôi đoán đó là thư của S. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến S với một nỗi xót thương. Ngày ấy, S là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố S mất sớm. Mẹ S phải tần tảo nuôi năm anh chị em S ăn học. Có lẽ vì thế mà trong một phút không làm chủ được mình, S đã trở thành một kẻ ăn cắp. Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ thì có lẽ chúng tôi không đẩy S vào tình cảnh như ngày ấy. Sau khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một nỗi ân hận cứ xâm chiếm lòng tôi. Ngày ngày tôi đợi S đến tìm. Tôi sẽ nói với S là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi S vì lòng tôi thiếu sự thông cảm và thiếu vị tha.Một buổi sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước tôi không phải là S mà là H. Tôi reo lên: “Ối, hôm nay sao rồng lại đến nhà tôm thế này”. Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt H trầm tư khác thường. Tôi kéo H vào nhà và nói ngay: “Mình vừa nhận được thư thằng S. Cậu có biết nó viết gì không? Nó hứa trả lại tôi chỉ vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi”. Khi tôi nói xong, H bước đến bên tôi và nói: “Anh P, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là người viết lá thư đó. Tôi chính là người đã ăn cắp chỉ vàng của anh”. Nói xong, H như đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và không tin đó là sự thật. Khóc xong, H đã kể cho tôi nghe tất cả sự thật. Vì cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, H đã tìm cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, H rất ăn năn và luôn tìm kiếm S để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê S mặc dù biết S không còn sinh sống ở quê đã lâu. Vất vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về S: Sau khi bị nhà trường gửi công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của mình, S đã phải chịu quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. S đã xin đi khai hoang ở một huyện miền núi. Nghe vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường tìm đến nơi S đang sinh sống. Ở đó S sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dãy đồi. S trồng trọt và mở một trang trại chăn bò lớn. Trông anh già hơn tuổi nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau mà khóc.


Tôi và H quyết định ngủ lại một đêm với S. H xin S cho H được kể sự thật cho vợ con S nghe để họ thanh thản và hãnh diện về chồng, về cha mình và H muốn được tạ lỗi với vợ con S. Nhưng S gạt đi và nói:

“Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp”.

Trước khi chia tay nhau, H cầm tay S khóc và nói:

“Mình có tội với cậu. Cậu đã tha tội cho mình. Nhưng mình muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà đời mình đã mang nợ với cậu. Hãy nói mình phải trả nợ cậu như thế nào”.

S mỉm cười và nói:

“Ông đã trả hết nợ rồi”.

Khi tôi và H còn chưa hiểu ý thì S nói:

“Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đã trả hết nợ rồi. Đừng nghĩ gì về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính mình”.

Cho đến lúc đó, tôi mới thực sự hiểu con người S. Tôi hiểu ra một điều gì đó thật xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như thế.

Cũng trong cái đêm thức với S tại ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ học, S vẫn đi quay mì sợi thuê để mua mì sợi cứu đói cho gia đình. Chúng tôi đã không hiểu được bạn bè mình. Chúng tôi đã làm cho một con người như S nếu không có nghị lực, không có lòng tin có thể dễ dàng rơi vào tuyệt vọng.

Thưa các anh, các chị, câu chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một bài học về con người và về cuộc đời. Kính chúc các anh, các chị mạnh khỏe, an khang và thịnh vượng.

Thân ái,

Đ. V. P