“Chuyện lạ” đầu năm

“Chuyện lạ” đầu năm

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-27

1-294-305.jpg

Đội thi công cưa đá dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ sáng 19/1/2014 nhằm giải tán những người dân đến tưởng niệm trận hải chiến Hoàng sa

Photo by Nguyễn Hữu Vinh

Khi còn vài ngày nữa là tới Tân Niên Giáp Ngọ 2014 thì tại Hà Nội xảy ra “chuyện lạ” mà blogger Hiệu Minh cho là “sáng tạo”, còn blogger Người Buôn Gió gọi đó là “một điều cũng rất vĩ đại”.

Qua bài “Chuyện viên đá bị cưa dưới tượng Lý Thái Tổ”, blogger Hiệu Minh “quyết định” bình chọn bức ảnh anh Kiên, phó công an phường Tràng Tiền, Hà Nội, đã giả làm “thợ cưa đá” ngay dưới chân tượng Đức Lý Thái Tổ, với “sức sáng tạo có một không hai trên thế giới” nhằm giải tán những người biểu tình yêu nước! Nhà báo Hiệu Minh nhận xét:

Sau “trốn thuế”, “hai bao cao su đã qua sử dụng”, và nhiều “mưu” khác, nay đến đá và cưa. Chuyện xảy ra sáng 19-1-2014, nhân kỷ niệm 40 năm Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc, một đoàn biểu tình nhỏ tiến tới chân tượng Lý Thái Tổ nhằm dâng hoa và dâng hương các chiến sỹ ngã xuống vì biển đảo, thì gặp một cách giải tán biểu tình theo mẹo (hạ cấp). Đó là nhóm các nhân viên an ninh giả vờ làm công nhân cưa đá, bụi mù và gây tiếng ồn để đoàn biểu tình phải bỏ đi.Các Thủ tướng Campuchia, Thái Lan và Ukraine nên sang Việt Nam học mẹo giải tán biểu tình này vì ba vị đang nhức đầu với hàng chục vạn dân đổ ra đường chống chính phủ.

Tác giả nhân dịp này bỗng nhớ về thuở học trò hồi thập niên 1970 khi thầy bắt phải phân tích bài thơ “Tức cảnh Pắc Pó” của cụ Hồ viết về bàn đá, nơi ông dịch sử đảng năm 1942:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Và, blogger Hiệu Minh phát giác ra rằng, sau hơn 7 thập kỷ, con cháu Bác đã dùng bàn đá trước tượng vua Lý Thái Tổ để viết nên một trang sử khác của đảng CS Việt Nam – không phải bằng bút mà bằng cưa điện gắn kim cương để “viết” nên “trang sử nham nhở”.

” Một ngày đầu năm 2014, cách bài thơ Hòn Đá của Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ, các học trò của Hồ Chí Minh, một lần nữa, lại đưa hình tượng hòn đá đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng một cách khoa học hơn.
– Người Buôn Gió “

Chuyện “viết sử nham nhở” ấy khiến tác giả liên tưởng đến cách đây hàng ngàn năm, khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010 và lên ngôi vua, mang lại thái bình, an lạc cho thiên hạ qua chính sách “thân dân”, nhiều lần miễn thuế vì thương thần dân của Ngài. Ba năm sau đó, Ngài mang quân chinh phục quân Man nổi dậy ở Diễn Châu, khi về bỗng trời đất tối sầm, cuồng phong, sấm sét ầm ầm dữ dội, nên đốt hương và khấnTrời. Sau khi Vua Lý Thái Tổ khấn xong, giông tố sấm sét dần trở nên yên lặng. Từ sự việc như vậy, blogger Hiệu Minh thắc mắc:

2-262-300x217-250.jpg

Những viên đá bị cưa nham nhở. Photo by Nguyen Huu Vinh

Hôm rồi, vua Lý Thái Tổ đứng trên bục, nhìn xuống thấy cảnh dân biểu thị lòng yêu nước ngay dưới chân mình, giữa thủ đô Hà Nội, dân bị giải tán và đàn áp, liệu Ngài có nghĩ rằng, thế hệ lãnh đạo ngày nay có biết khấn vái trời đất hay không ?

Chuyện con cháu Bác cắt đá thành “trang sử nham nhở” cũng khiến blogger Người Buôn Gió liên tưởng đến “Hòn đá to và hòn đá nhỏ”, nhớ về bài thơ “Hòn Đá” của chủ tịch HCM quả “là một trong những bài thơ trác tuyệt nhất từ xưa đến nay”, nhất là vì những vầng thơ đơn giản ấy lại “ẩn chứa một bí kíp võ lâm” để một thời đòan kết được thiên hạ – thành quả mà đến giây phút gần lâm chung, Bác còn dặn các “đồng đảng” – nói theo lời Người Buôn Gió – phải giữ sự đoàn kết như giữ con ngươi trong mắt mình. Nhưng sao lại “Hòn đá” trong thơ Bác ? Bởi vì, theo nội dung bài thơ “trác tuyệt” đó,  chuyện đánh Tây, đánh Mỹ khó khăn như một hòn đá nặng mà nếu không có nhiều người xúm lại chung tay thì khó mà nhấc được hòn đá ấy. Rồi Người Buôn Gió nhận thấy:

Một ngày đầu năm 2014, cách bài thơ Hòn Đá của Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ, các học trò của Hồ Chí Minh, một lần nữa, lại đưa hình tượng hòn đá đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng một cách khoa học hơn. Có lẽ thời Bác ngồi hang Pắc Pó chưa có dụng cụ cắt đá cầm tay chạy điện như bây giờ. Ngày hôm nay, với khoa học tân tiến, học trò của Bác đã chứng minh một điều cũng rất vĩ đại không kém phần triết lý là “cắt nhỏ hòn đá ra sẽ nhấc lên dễ hơn”… Hòn đá này được cắt nhỏ bởi một đảng viên có chức vụ, nơi cắt diễn ra tại chân tượng đài tiền nhân Lý Thái Tổ, giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Phải chăng ngày hôm nay, xẻ nhỏ lòng đoàn kết yêu nước ra là giữ được đất nước ?

“Đảng vẫn chưa trưởng thành”

Khi Xuân Giáp Ngọ 2014 đang đến với quê hương, dân tộc thì từ Hà Nội, LS Nguyễn Văn Đài nhớ lại đây cũng là lúc kỷ niệm lần thứ 84, ngày đảng CSVN được thành lập ở Quảng Châu, Trung Quốc. Và dù đảng đã trải qua chừng ấy năm, nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối, từng “đánh Tây đánh Mỹ”, LS Nguyễn Văn Đài nhận thấy, “Đảng vẫn chưa trưởng thành”, ““vẫn như một đứa trẻ chậm hiểu”, “chưa biết tự bảo vệ quyền lực của mình bằng bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, uy tín” ; LS Nguyễn Văn Đài phân tích tiếp, “Sự tồn tại của đảng CSVN vẫn phải dựa vào nòng súng, bạo lực và nhà tù của quân đội và công an, như nhạc sĩ lão thành Tô Hải từng cảnh báo:

Quan trọng nhất là bộ máy đàn áp. Việc đàn áp vì tư tưởng và đàn áp đúng nghĩa của đàn áp thì ở nước ta kinh lắm! Ở nước ta bất cứ chuyện gì cũng trở thành tội phạm. Tôi xin nói rằng bây giờ họ không có ngại gì cả. Về quân đội và công an thì tôi xin nói đó là những con người được chế độ chìu chuộng số một, chiều chuộng về lương bổng các thứ. Do đó các bộ phận đó tuyệt đối trung thành vì không có đảng là họ mất hết. Cho nên họ nêu khẩu hiệu là “còn đảng còn mình”. Cái bộ máy đàn áp đó quá đầy đủ, quá sung sướng nên họ bảo vệ đến cùng chế độ.

bolapquechoa-200.jpg

Anh Kiên, phó công an phường Tràng Tiền, Hà Nội, đã giả làm “thợ cưa đá” ngay dưới chân tượng Đức Lý Thái Tổ

Trở lại bài “Đảng vẫn chưa trưởng thành”, LS Nguyễn Văn Đài cũng không quên lưu ý rằng đảng CSVN chưa thể duy trì hoạt động của mình bằng sự đóng góp đảng phí của các đảng viên, mà vẫn phải dựa vào tiền thuế của nhân dân để tồn tại”. LS Đài khẳng định:

Rất rõ ràng là đảng CSVN chưa đủ bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, lương tâm và hệ tư tưởng dân chủ tiến bộ để lãnh đạo đất nước xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Ngoài ra, cái mà đảng CSVN đang thiếu đó là văn hóa dân chủ, thiếu đạo đức chính trị để ứng xử với những công dân và tổ chức đối lập.

Trong khi đó, blogger Phạm Đình Trọng nhận xét rằng “ Chưa cần nhắc đến sai lầm, ảo tưởng của chủ nghĩa Cộng sản, chưa tính đến sự man rợ mất tính người của chuyên chính vô sản mà đảng Cộng sản Việt Nam đã thực thi suốt gần một thế kỉ qua gây nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam. Chỉ nhìn hình ảnh đảng Cộng sản Việt Nam trong hiện tại đã thấy rõ ‘thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích’ cướp bóc của dân, tàn phá đất nước”.

” Hòn đá này được cắt nhỏ bởi một đảng viên có chức vụ, nơi cắt diễn ra tại chân tượng đài tiền nhân Lý Thái Tổ, giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Phải chăng ngày hôm nay, xẻ nhỏ lòng đoàn kết yêu nước ra là giữ được đất nước ?
– Người Buôn Gió “

Trong giai đọan sắp tới ngày Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy cái hình ảnh thực tại đó là cả nước có 63 tỉnh thì 15 tỉnh phải xin nhà nước cấp gạo cứu đói gấp, phát xuất từ nền “kinh tế nhà nước chủ đạo” khiến người dân chỉ hưởng “những từ ngữ lấp lánh vàng mã và sáo rỗng” trong khi, nhà văn Phạm Đình Trọng bức xúc, “Sức mạnh vật chất của đất nước là của nổi của chìm, là nền kinh tế, Hiến pháp 2013, đã trao cho đảng Cộng sản Việt Nam; Sức mạnh bạo lực của đất nước là quân đội và công an, Hiến pháp 2013 cũng trao nốt cho đảng Cộng sản Việt Nam”. Nhắc tới hiến pháp, MS Nguyễn Trung Tôn từ Thanh Hóa cảnh báo:

Bản hiến pháp mới vừa ra đời, họ tiếp tục duy trì điều 4 Hiến pháp và khẳng định quyền lực của đảng CSVN. Đó là, một lần nữa, họ muốn thông qua hiến pháp để củng cố quyền lực đối với người dân cũng như tạo uy tín đối với thể giới. Điều thứ hai là họ cũng muốn thông qua hiến pháp để phô trương với quốc tế rằng VN đã có bản hiến pháp tiến bộ hơn, đó là quyền con người được đưa lên những chương hàng đầu, quyền con người được tôn trọng hơn, được quy định ở trong văn bản, giấy tờ nhằm đánh lừa quốc tế để tìm vị thế tốt hơn hay cao hơn trong mối quan hệ quốc tế. Nhưng thực ra, hiến pháp không thể đi sâu vào cuộc sống của người dân. Người dân VN vẫn không có cơ hội để tìm hiểu hoặc tiếp cận với hiến pháp. Mặc dù đảng CS vẫn nói là đưa hiến pháp vào cuộc sống, nhưng thường ở VN, luật pháp được phổ biến tới người dân về mặt nghĩa vụ mà thôi, tức người dân chỉ được nghe về những nghĩa vụ mà họ phải thực hiện, còn về quyền lợi thì người dân hầu như chẳng bao giờ biết họ có được những quyền gì.

Cũng nhân thời điểm mừng năm mới này, Thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với tuyên bố “thay đổi thể chế” khiến blogger Việt Hòang không khỏi thắc mắc qua bài “‘Thay đổi thể chế’ là thay đổi cái gì? Ai thay đổi?”. Và tác giả lưu ý:

Nước Việt Nam có lịch sử gần 4000 năm và trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử với bao triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn… Những vị vua và anh hùng dân tộc trong lịch sử đã có công rất lớn trong việc dành lại độc lập và đánh đuổi ngoại xâm. Hậu thế ghi nhận công lao của họ và lịch sử không bao giờ quên ơn họ nhưng không thể vì thế mà con cháu họ lại có quyền thừa kế…đất nước Việt Nam. Đảng cộng sản cũng không thể là ngoại lệ. Nếu có công họ sẽ được lịch sử ghi nhận. Nếu họ muốn tiếp tục cầm quyền và lãnh đạo đất nước thì họ phải có chính danh trong hiện tại. Chính danh đó chỉ có được nếu họ được đa số người dân Việt Nam lựa chọn thông qua một cuộc bầu cử dân chủ, công bằng và minh bạch với sự tham gia của tất cả các đảng phái khác nhau.

Nông dân Lào biểu tình chống bán đất cho doanh nghiệp Trung Quốc

Nông dân Lào biểu tình chống bán đất cho doanh nghiệp Trung Quốc

Sòng bạc Kings Romans tại Đặc khu Kinh tế Tam giác vàng ở tỉnh Bokeo, miền Bắc Lào.

Sòng bạc Kings Romans tại Đặc khu Kinh tế Tam giác vàng ở tỉnh Bokeo, miền Bắc Lào.

DR

Tú Anh

RFI

Trong chương trình « phát triển » vùng Thượng Lào, khoảng 1000 hecta ruộng đồng của nông dân ở tỉnh Bokeo sẽ biến thành phi trường phục vụ khu sòng bạc do doanh nhân Trung Quốc đầu tư. Bất bình vì tiền bồi thường quá thấp, hơn 50 nông dân đã quyết liệt bảo vệ đất đai làm cho lực lượng công an phải lùi bước.

Theo bản tin của Asia News, bằng hành động « bất phục tùng dân sự » hiếm hoi tại nước Lào, hàng chục gia đình nông dân đã dứt khoát chống cự lại công an võ trang thi hành quyết định cưỡng chế.

Tuần qua, công an Lào đã đến huyện Tonpheung, tỉnh Bokeo (miền Bắc Lào) đọc lệnh cưỡng chế, buộc nông dân phải nhượng đất lại cho tập đoàn mang tên Dok Kham Ngiew. Khu vực này từ lâu nay là trung tâm xung khắc giữa nông dân và chính quyền địa phương từ khi một công ty Trung Quốc, được chính quyền Lào ủng hộ, dành quyền khai thác để xây phi trường và « đặc khu kinh tế » gồm khách sạn hạng sang và khu giải trí, cờ bạc để phục vụ khách hàng Trung Quốc.

Ngày 25 vừa qua, nông dân Lào đã nắm tay lập hàng rào người, ngăn chận trước đầu các xe ủi đất. Tập đoàn Trung Quốc phải gọi công an can thiệp. Tuy nhiên, khi lực lượng an ninh võ trang tiểu liên AK 47 kéo đến thì gặp phải sự kháng cự ôn hòa nhưng quyết liệt.

Bị nông dân chất vấn : « Tại sao công an cảnh sát Lào không bảo vệ nhân dân của mình mà lại tuân theo lệnh của bọn phản quốc bán đất cho Trung Quốc ? Một khi họ lấy hết đất trồng lúa thì chúng ta còn gì ?», cuối cùng lực lượng công an phải rút lui để tránh xung đột với nông dân.

Theo nguồn tin của AsiaNews, các nhà nông ở khu cưỡng chế, tổng cộng gồm 6 ngôi làng, thay phiên nhau canh chừng ruộng đất ngày và đêm bên cạnh một chiếc đồng hồ.

 

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

VRNs (27.01.2014) – Sài Gòn – Hồi ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột nhập Huế…

Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy hữu.

* * *

14012707

Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt. Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán nản.

– Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.

Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ chống lại những quả đạn cối bắn trộm.

Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.

Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.

– Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu, sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.

Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước, được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột đợi sáng để trở về đơn vị.

Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.

Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật vì trình diện trễ.

Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.

Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi. Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.” Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm, Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại chẳng có lúc phải cần tới nó.”

Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.

Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau . Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.

Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián:

– Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo âu.

Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi, tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào thế bao vây của chúng.

Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn – Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác, đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.

Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó, ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng xích xe tăng đang nghiến mặt đường.

Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn. Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào, nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.

Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng “xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi. Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.

Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo. Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người, từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.

Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu. Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.

– “Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây”, tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.

Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần thiết để tự vệ.

Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng, đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào:

– “Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.”

Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại. Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào, im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay, đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi. Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.

Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn mai phục đâu đây.

– “Anh là Tỉnh phó ? ” Hắn hỏi, giọng cấp bách.

Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua. Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định. Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :

– Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?

Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.

– Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.

– Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.

– Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.

Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ tôi chợt nhìn thấy.

– Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.

Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng. Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.

Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.

Tôi tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói, ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết. Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).

Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết. Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong quan hệ đối xử với đồng minh.

Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.

Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ. Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.

Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương, gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi, ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.

Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã chiến đến canh ở cổng.

Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.

Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều. Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết cũng không phải là dễ.

Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong. Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?

Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể. Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ hành quyết tại chỗ.

Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.

Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi nước đã mất thì nhà không còn…

Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào. Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.

Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên, giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn, trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo gió mà không gặt bão.

Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm, chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.

Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.

Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai, tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.

Hồng Châu

Đêm nay khi em đi rồi

Đêm nay khi em đi rồi

VRNs (27.01.2014) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa thường niên Năm A 02-02-2014

“Đêm nay khi em đi rồi,
Đường khuya riêng một mình tôi.
Đêm nay khi em đi rồi
Tôi về đếm bước lẻ loi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Ai Đưa Em Về)

(Lc 2: 1-2)

Nếu câu hát trên đây, là một khẳng định nào đó gửi đến đấng bậc chủ quản ở trên cao, hẳn rằng câu trả lời cũng rất khó. Khó, không vì sự kiện người Em ấy hoặc người Anh đây nay đi rồi, mà vì sự thể cho thấy bọn tôi ở lại cũng đơn côi, sầu buồn, khó sống? Buồn, vì những lo rằng: tương lai mai ngày chẳng biết sẽ ra sao? Xấu/tốt thế nào? Bền đỗ không, vv…?

Dẫn nhập dài dòng như trên, có lẽ là câu nhập và dẫn cũng rất mạnh, cốt bảo rằng: vào tháng ngày hôm trước, khi dân con Đạo Chúa nhận được tin tức rất dị-thường cho biết: Đức Bê-nê-đích-tô 16 đã quyết-định từ-nhiệm chức-vụ tối-cao ở nhà Đạo, thì: ngay khi ấy, đã có bạn đạo của bầy tôi đây, lại nhớ đến tình-huống hôm nào của riêng mình, rồi áp dụng chuyện chung vào lời hát ở câu tiếp, rất da diết như sau:

“Người yêu ơi trong tình muộn!
Người yêu ơi trong tình buồn!
Trọn tình yêu ta đã cho nhau.
Hãy quên niềm đau.
Thời gian ơi xin dừng lại!
Thời gian ơi xin dừng lại!
Cho đôi tình nhân.
Yêu trong muộn màng.
Đừng khóc ly tan.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Thật ra, có ới gọi tình nhân hay tình bạn thân đến như thế, thì: lời ca trên so với tình hình nhà Đạo mình, khi ấy, cũng chẳng có gì phải hát thế. Nhưng hôm nay, sau “9 tháng 10 ngày” ngồi nghĩ lại mà suy về sự thể xảy ra trong Đạo, hẳn bạn đạo và bầy tôi đây, ta thấy cũng khác nhiều.

Nhiều đấng bậc nhà Đạo, lâu nay tuy tài giỏi và thánh-thiện, nhưng khi đã rũ áo ra đi, chắc chắn sẽ có vị khác đến nối tiếp con đường do Hội thánh đặt ra, có khi còn tốt đẹp hơn trước cũng rất nhiều. Thế nên, bọn tôi đây công nhận rằng: với Hội thánh, Thần Khí Chúa vẫn không ngừng hoạt động hầu đỡ-nâng thánh Hội mình, vào mọi lúc.

Thế đó, là tình hình của Hội thánh rất Công giáo, ở đây/bây giờ. Chí ít, là khi Đức Giáo Tông tân-cử lại là đấng bậc tươi mát, cởi mở và sung sức. Tươi và sung, về nhiều thứ. Mới và cởi, về nhiều sự. Chí ít, là những thứ và những sự được báo đài/truyền thông đã và đang bình luận cũng khá nhiều. Có vị lại đã hứng chí hát thêm đôi câu ghi bên trên, như thể bạn mình đã tìm ra lời giải-đáp cho tình hình cụ-thể, mà rằng:

“Đêm nay tôi đưa em về.

Đường khuya sao trời lấp lánh.

Đêm nay tôi đưa em về.

Mắt em sao chiếu long lanh.

Đêm mai ai đưa em về.

Mình em trên hè phố vắng.

Đêm mai ai đưa em về.

Mắt em lệ ướt long lanh.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd

Hoặc:

“Đêm mai không ai đưa về.

Người ơi xin đừng hờn dỗi.

Đêm mai cô đơn đi về.

Xin người hãy nhớ tình tôi.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Quả thật, hôm nay, một bạn đạo khác của bần đạo lại dõng dạc tuyên bố những điều rất “quá sức mình”, rằng: giả như ai đó cho phép bạn so sánh và bình “loạn” về tình-hình rất riêng của đấng bậc “chóp bu” của Đạo, thì bạn ấy sẽ có giòng-chảy tả cảnh/tả tình, tả cả thế-thái nhân-tình thời hôm nay, luôn cho tiện.

Vâng. Có thể là như thế, với người đời. Có thể sẽ như vậy, với chốn tịch-liêu sầu buồn của nhà Đạo hôm trước, nay có khác. Khác ở chỗ: nay lại thấy xuất hiện Đấng bậc Chủ quản thật siêu-đẳng khiến dân con mọi người còn nhớ: ngài vốn dĩ một thân một mình, dám đưa lưng ra mà gánh chịu cả một giáo hội trong tình trạng khá rối rắm cả trong lẫn ngoài, khiến người người rồi sẽ tung hô ngài bằng danh xưng hiền-từ, lành thánh rất “Phanxicô”.

Chẳng thế mà, vừa qua, nhiều vị ở đâu đó lại cũng tưng-bừng “bốc” lên nhiều lời tụng-ca/xưng hô coi ngài là bậc vĩ-nhân hiền-từ ít thấy vào thời cách mạng truyền thông/vi tính, như tin tức từng đăng tải như sau:

“Tạp chí Time vừa công bố Đức Giáo-Hoàng Phan-xicô là “Nhân Vật Trong Năm 2013” và ca ngợi ngài là tiếng nói lương-tâm mới cho toàn-thể thế-giới…

Bà Nancy Gibbs, chủ-bút báo Time, công bố về sự bình-chọn như sau: “Dựa vào sự việc ngài đã đưa chức-vụ giáo-hoàng ra khỏi chốn cung-điện mà đi vào các đường phố, đã quyết-tâm đưa một Giáo hội lớn nhất thế-giới đối-diện với những nhu-cầu sâu-xa nhất của nhân-loại và đã cân bằng giữa sự phán xét với lòng thương xót, Đức Thánh Cha Phanxicô là “Nhân vật Trong Năm 2013 của báo Time.” (xem Trần Mạnh Trác, Phản ứng trước việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô là Nhân Vật Trong Năm của báo Time, Vietcatholic 12/1/2014)

Xem thế thì, thế giới ta đang sống, nay có thêm nhận-định rằng: chỉ trong vòng có hơn 9 tháng trời vỏn vẹn, thế giới nay thấy xuất-hiện một nhân-vật lỗi-lạc nhất năm 2013. Nói thế có nghĩa: đức “thánh-là-cha” của Đạo, đã có tất cả và là tất cả, tự bao giờ.

Góp giọng cùng với báo đài/truyền thông khắp nơi, riêng tại Úc đã thấy đấng bậc vị vọng cấp cao ở Sydney, cũng cùng cương vị Tổng Giám Mục mang tên “George” lại đã tham-gia ý-kiến tỏ-bày về sự lỗi lạc của “đức-thánh-là-cha-Phanxicô” bằng giọng nhẹ nhàng, rằng:

“2013 là năm tuyệt vời đối với người Công giáo ở khắp nơi. Tháng hai năm này, lần đầu tiên kể từ 1294 đến giờ, ta lại thấy một Đức Giáo Hoàng ở tuổi 85 nhất-quyết từ-nhiệm chức-vụ tối-cao trong Giáo hội.

Vào dạo đó, Đức Bê-nê-đích-tô 16 có nói rằng: sức khoẻ của ngài không còn thích-hợp để dẫn-dắt một Giáo-Hội tầm cỡ hơn 1 tỷ hai trăm triệu thành-viên nữa. Ít ngày sau, Mật-hội Hồng-y đã bầu Đức “Tổng” George Bergoglio của Argentina, một sĩ-tử Dòng Tên tròm trèm 76 tuổi đời chọn danh-tánh thánh Phanxicô Assisi chứ không chọn thánh Phanxicô Xaviê của bổn Dòng làm danh-xưng chính-thức cho tên gọi Giáo Hoàng của ngài. Nói tóm lại, ngài là tu-sĩ Dòng Tên đầu tiên và cũng là vị giáo chủ đầu đời của Đạo muốn mọi người gọi mình bằng tên tục nhẹ nhàng của vị thánh hiền-lành, khiêm hạ nhất trong hàng ngũ các thánh nam nữ, là thế.

Là linh-mục Dòng Tên từng tuyên-hứa sống đời nghèo-khó, ngài đã nghiêm chỉnh giữ lời thề kể từ ngày thụ-phong linh-mục và suốt thời gian làm Tổng Quản thành Buenos Aires, nước Argentina. Ngài không thích sống trong lâu-đài quyền quí, và chẳng muốn ở lại mãi trong phòng-ốc cao sang dành cho các Giáo-hoàng đương-nhiệm; nhưng, lại ưa dùng nơi đó làm chốn tiếp-tân các vị thượng-khách từ xa đến viếng toà thánh La Mã. Và, ngài chọn sống trung-thực với quyết tâm của ngài trong căn hộ nhỏ ở Vatican và chỉ chấp-nhận di-chuyển bằng chiếc xe gọn/nhỏ của do lễ-tân cung cấp, mà thôi.

Ngài chủ-trương sống chân phương, bình-dị, có lòng thương xót dân con tầm-thường như những người trẻ ở Assisi bị chứng tâm thần ngặt-nghèo mà ngài từng hạ giá ghé thăm…” (x. ĐHY George Pell, Francis defies the conventional, The Catholic Weekly 12/01/2014, tr. 2)

Chân phương/bình dị, không se-sua nổi-trội như dân làng hèn kém ở Assisi, đó mới là đặc-trưng/đặc-thù của Đức-thánh-(là)-cha ở Rôma quyết sống khó nghèo, trầm lặng theo kiểu cách Phanxicô Assisi. Đàng khác, đường đường là Giáo Chủ/Giáo Tông của Đạo Chúa rất “Rôma” ai cũng biết, thế mà ngài lại cứ sống khác thường/khác kiểu với các vị tiền-nhiệm, thế mới khó. Khó hơn nữa, là: làm sao thuyết-phục được cả một thánh Hội rộng lớn sống sao cho đúng tôn-chỉ của Đức Giêsu khó nghèo, hèn mọn xuất từ thôn làng vừa nghèo/vừa khó, rất túng thiếu như thôn làng Nazarét trầm lặng.

Thôi thì, hôm nay, bần đạo đây đề-nghị bạn/đề nghị tôi, ta thử ngang qua một vài chi-tiết có tình-tiết gói gọn trong các bản tin/bài viết này khác cho rõ lý lịch của đấng bậc rất “thánh cha”, mới được. Quyết thế rồi, nay bần đạo mời bà con tham gia tản mạn vào “miệt vườn” truyền thông có những điều được nói rõ bằng giòng chữ nhỏ, để thấy được tình hình thực tế khá khó và nghèo buộc Hội thánh phải sống cũng rất nghèo và rất khó, như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa hứa tặng $5 triệu Mỹ Kim giúp đỡ Tổng Giáo Phận Rio De Janeiro thanh-trả món nợ “nhỏ” theo sau Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, ở đây. Toán thanh-tra tài-chánh có tên là ERNST & YOUNG vừa xem xét các chi tiêu của Đại Hội ngày 31/8/2013, thấy là: Ban Tổ chức Đại Hội đã thua lỗ đến $43 triệu Mỹ kim, cả thảy. Sau tính-toán thương thảo với các công-ty chức năng và sau khi đã bán đi một số tài-sản do Giáo-hội sở-đắc, Toà Tổng Rio de Janeiro đã giảm-thiểu món nợ đầm đìa hơn $18 triệu Mỹ kim. Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 ở Rio de Janeiro, là chuyến công-du đầu của Đức Phanxicô, sau khi ngài được bầu làm Giáo Hoàng. Thực tế, thì Đại Hội nói trên đã thu hút đến gần 3 triệu khách hành-hương khắp nơi đến Bãi biển Copacabana, Ba Tây kể từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013, vừa rồi.” (xem Bản Tin Ngắn đăng ở cột 4 trên tuần báo The Catholic Weekly ngày 12/1/2014, tr. 4)

Bằng vào nhận xét của người đứng ngoài khi nghe tin trên, nhiều vị lại đã nhận ra rằng: bên cạnh các sự-kiện xôn xao/nổi cộm thường vẫn có những mặt tiêu cực/yếu kém ở trong và ở bên dưới. Yếu kém và tiêu cực, đôi lúc còn kéo theo nhiều đề-nghị bà con hãy đề-cao cảnh-giác cách trực-tiếp hoặc gián-tiếp, tức đề-nghị của một số người đứng ở ngoài hoặc thiết thân mới có thể giải-quyết được vấn đề những khó và nghèo.

Xét thế rồi, lại có vị cũng nhân cơ-hội có sự-kiện đình đám/nổi trội ở vài nơi, lại đã đưa ra một số câu hỏi khá “tréo cẳng ngỗng” gửi đến đấng bậc vị vọng, theo hình thức hỏi/đáp như sau:

“Thưa Cha,

Con đây vừa nghe một vị thức-giả nọ giải-thích chuyện các thần-sứ thánh-thiêng khi xưa được tạo-dựng để gần gũi Chúa, nhưng lại đã sa-ngã vấp-phạm nên trở thành một thứ ác-thần/quỉ dữ. Câu hỏi của con, vỏn vẹn chỉ thế này: sao lại thế được? Sao các thần-sứ ấy không có cơ-hội để tự sửa-đổi và được cứu-vớt như đám người phàm thấp bé là chúng ta? (Người hỏi không đề tên trên thư, nên chẳng rõ là nam hay nữ).

Nhận được câu hỏi nào cũng thế, đấng bậc có trọng trách giải đáp, cứ việc lấy giấy bút ra mà đáp-giải, chẳng cần biết người hỏi là ai, gái trai, già trẻ, lớn bé, ở đâu đến. Và, câu trả lời như sau:

“Muốn có câu trả lời cho thích-hợp, tôi thiết nghĩ: ta cũng nên đưa chuyện này vào đúng bối-cảnh của nó để nhớ rằng: thủy tổ loài người chúng ta khi xưa bị mê-hoặc, dụ-dỗ đến mê-hồn về sự cao sang/hào nhoáng theo hình thù con rắn/rít (x. Stk 3: 1-7).

Mọi người đều biết: quỉ dữ/ác thần lúc đầu được tạo-dựng theo hình thù sao đó có đủ quan-năng/phúc-hạnh tựa hồ thần-sứ rất thánh, nhưng vì lý do nào đó, họ bị Thiên Chúa khước từ, hủy bỏ mọi ân-lộc và giáng họ xuống thánh một thứ “người không ra người, ngợm chẳng thành ngợm” xa rời Chúa mãi mãi để rối rớt xuống vực sâu, chốn hoả hào.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có nói về loài rắn/rít ác thần này như sau:

“Kinh Sách và Thánh Truyền của Giáo Hội thường coi chúng như “thiên thần gẫy cánh” với tên gọi “Satan” hay ác thần/quỉ dữ. Giáo Hội dạy rằng: Satan thuở đầu là thần-sứ tốt lành/hạnh đạo do Chúa dựng và sách này còn thêm: “Ác thần quỷ dữ lúc đầu là tạo-thành được Chúa thiết-lập giống như mọi loài nào khác, nhưng đã ngã-quỵ vì hành-vi khuất tất của họ.” (xem Công Đồng Latêranô IV năm 1215, DS 800; sách GLHTCG đoạn # 391).

Như anh/chị đề cập trong thư, có bảo rằng: đám ác quỷ hoặc lúc đầu là thần-sứ ấy xưa đã được phép gần-cận Chúa nơi Thiên Tòa. Nhiều vị trong/ngoài Đạo cũng suy luận như thế, nhưng rõ ràng là: các thần-sứ thánh-thiêng được Chúa chúc phúc cho ở gần, đã không còn ở trên Thiên Quốc. Bởi, linh hồn nào được ở trên Thiên Quốc gần-cận Chúa, lúc nào cũng được cuốn-hút gần Chúa đến độ không thể chống lại được để rồi được vào với tình hương-yêu hiền-dịu của Chúa; và không thể chối bỏ Ngài dù một phút. Thật khó tưởng tượng rằng: linh hồn nào đã ở với Chúa trên Thiên Quốc rồi mà lại có thể lỗi phạm hoặc vấp ngã được.

Từ đầu, Chúa phú ban cho mọi thần-sứ thánh-thiêng nhiều ơn lành trợ giúp. Trong cảnh sống thiên-nhiên tự-tại, các ngài là thần-sứ tinh-tuyền lúc nào cũng tự do, như mọi thần thánh khác.

Bằng vào bản chất thánh thiêng do Chúa tạo dựng, thần sứ nào trên Thiên Quốc cũng đều ở trên bất cứ mọi thọ-tạo nào khác, kể cả con người. Ở chốn cao-siêu nhiệm-mầu ấy, thần-sứ thánh-thiêng cũng giống như Ađam Evà, được Chúa ban cho ân-huệ tự-tại, tức được san sẻ đời sống lành thánh có bản-chất rất thánh. Quả là, các ngài rất cận-kề Thiên-Chúa cả vào lúc các ngài không hiện-diện cách thực-tế nơi Thiên-toà nữa, cũng thế. Các ngài nhận biết Thiên-Chúa và có khả-năng yêu-kính Thiên-Chúa bằng nhận-thức và tình thương tuyệt-vời hơn chúng ta. Và, đương-nhiên là các ngài được kêu gọi đi vào cuộc sống vĩnh-hằng gần cận Thiên Chúa.

Thế nhưng, làm sao có được sự thể là một số thần-sứ lại chối bỏ Thiên Chúa được? Câu trả lời chỉ có thể là: do lòng tự cao dự đại. Nhiều thánh Tổ-phụ trong Giáo-hội từng áp-dụng lời Chúa nói với dân Do-thái cho các ác thần/quỷ dữ, như:

“Phải, từ lâu rồi, ách đè lên ngươi, ngươi bẻ gẫy,

Xiềng xích trói buộc ngươi, ngươi giật phăng;

Ngươi còn dám nói: “chẳng làm tôi đòi ai cả.” (Giê 2: 20)

Cả khi có được bản-chất “hơn hẳn” như thế, một số thầnsứ nhà Trời không còn muốn phục-vụ ai hết, ngay cả Thiên Chúa là Đấng dựng ra mình và chúc phúc mình rất nhiều, cũng không. Tác-giả John Milton, trong cuốn “Thiên Đàng luột mất” đã đưa vào miệng ác-thần/quỷ dữ những câu như: Thà được thống trị chốn hoả-hào còn hơn cứ phải phục-vụ trên Thiên-Quốc.” (x. Sách đã dẫn chương I trang 263)

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo lại cũng dạy: “Sa-ngã của các thần-sứ là chọn lựa tự do, bởi các vị ấy đã chối bỏ Thiên-Chúa và quyền-năng Người một cách triệt-để không thể thu hồi lại được. Suy về hành động nghịch-chống Thiên-Chúa, ta thấy rõ nơi lời khuyến-dụ của Tên Cám Dỗ bậc thủy-tổ loài người như câu: Các người sẽ giống như Thiên Chúa biết được điều thiện điều ác.” (x. Sáng Thế Ký 3: 5, GLHTCG đoạn #392)

Xem thế thì, cả loài quỷ dữ/ác thần nữa cũng muốn như Thiên-Chúa nên đã bị tống vào chốn hoả-hào đầy than khóc. Thánh Phêrô có lần nói:

“Thật vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thần-sứ có tội, nhưng đã đưa họ vào chốn ngục-thất tối tăm, chờ ngày phán xét.” (x. 2Phêrô 2: 4)

Riêng thánh Mát-thêu lại cũng ghi chép Lời của Chúa nói về những người bị kết tội vào ngày phán xét buổi thế tận, có những câu như:

“Hỡi quan bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào nhốn lửa đốt đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ-thần của nó.” (Mt 25: 41)

Ai không tin vào hoả ngục, cũng nên ghi nhớ những lời đanh thép của Phúc Âm. Chắc chắn, Ác-thần/Quỷ Dữ vẫn hiện-hữu và chúng đang ở chốn hoả hào/ngục thất; thế nên, ít nhất phải có hoả-ngục hoặc địa-ngục cho đám này. Hỏi rằng: tại sao các Ác-thần dữ tợn này không được ban thêm ân-huệ nào hoặc huệ-lộc như chúng ta? Thì, câu trả lời nằm trong đầu óc rất biết điều của các thần-sứ cao sang nhiều hiểu biết. Các ngài hiểu rõ ràng ngay từ đầu về hậu-quả của sự việc mình chọn lựa, khi các ngài dám chối-bỏ Thiên-Chúa.

Các ngài biết rõ rằng: chỉ có một cơ-hội độc nhất mà thôi, và chọn lựa của các ngài không thu hồi được. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã trích lời thánh Gioan Đamascene từng nói: “Chính vì đặc tính không thu hồi chọn lựa của mình được, nhất thứ trong việc đào-thoát chối-bỏ tình thương-yêu vô bờ bến của Thiên-Chúa đã khiến cho tội lỗi của các thần-sứ trên cao không thể tha thứ được.” Và sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo lại cũng thêm: “Không có chuyện sám-hối đối với các thần-sứ trên trời sau khi sa ngã như con người, vì không thể có hối cải sau khi chết rồi.” (xem cuốn De Fide Chương 2, câu 4; và GLHTCG đoạn #393)

Để kết luận, tưởng cũng nên phấn đấu sao cho mình biết sống khiêm hạ và hạnh-phúc khi phục-vụ Thiên-Chúa là Đấng đến để phục vụ con người chứ không phải để con người phục vụ Ngài.” (Mt 20: 28) (Xem Lm John Flader, Fall of the Angels, Question Time, The Catholic Weekly 12/1/2014 tr. 10)

Giải đáp và nhủ khuyên theo đường lối chính-mạch như đấng bậc vị vọng ở trên từng làm, là “nghề của chàng”. Thiện/Ác hai bên, dứt khoát không thể trộn lẫn/nhào quyện được. Đó là thần-học nghe rất quen. Tức, thứ thần-học chết chóc chuyên nhắm vào chuyện doạ dẫm với hình-phạt. Thần-học “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” chẳng bao giờ trừng phạt ai thì sao? Tình-Yêu chân chính của Chúa đâu bao giờ doạ dẫm hay trả thù! Đó là chưa kể, chuyện thần-sứ sa-ngã thành quỷ sứ có là sự thật lịch sử, khách quan hay chỉ là nghĩa bóng nào đó, mà các thánh-sử muốn diễn-tả?

Thật ra thì, hỏi hay nói như thế vẫn là những vấn-nạn thần-học khó minh định. Hay nhất là, mời bạn và mời tôi, ta đi vào những gì tích-cực và vui đẹp của nền thần-học Kinh-thánh, tựa hồ đề-nghị của Đức-thánh-đương-nhiên-là-cha Phanxicô hôm nọ có nói, làm đoạn kết cho mục phiếm hôm nay, rằng:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói: Hội thánh nên để ý đến “tâm-thức của kẻ tin” (sensus fidelium) khi thi hành thẩm-quyền dạy-dỗ của mình. Nhưng, đừng bao giờ lẫn lộn tâm-thức ấy với chánh-kiến phổ-cập của nhiều người về vấn-đề đức tin.

Phát biểu trước các thành-viên của Ủy Ban các nhà Thần-học trên thế giới, một bộ-phận cố vấn cho Vatican vào ngày 6/12/2013, rằng: Nhờ vào ân-huệ của Chúa Thánh Thần, anh chị em thành-viên của Hội thánh có được tâm-thức niềm tin. Đây là vấn-đề về loại-hình “quan-năng tinh-thần” vốn cho phép ta cùng với Hội-thánh suy-nghĩ và luận-giải những gì phù-hợp tính kiên-định của niềm tin rao giảng và tinh thần của Phúc Âm. “

Đức Giáo Hoàng có nói với giới chức có thẩm quyền dạy-dỗ trong Giáo hội rằng các vị có bổn phận phải quan tâm để ý đến những gì được Chúa Thánh Thần tỏ cho Hội thánh biết ngang qua những biểu-tỏ thực-thụ nơi “tâm-thức của kẻ tin”, mới được. Nhưng ngài cũng căn dặn các vị thần-học-gia này rằng: đừng lẫn lộn tâm-thức này với thực-tại mang tính xã-hội-học của phần đông những người có lập-trường quan-điểm chung. Đó lại là chuyện khác. Chính đó là chuyện rất quan trọng và công tác của các vị là trau chuốt các chuẩn-mực vốn dĩ cho phép ta luận-giải các biểu-tỏ đích-thực về “tâm-thức của kẻ tin”, như thế.” (xem Francis Rocca, Papal message to theologians: don’t assume too much, The Catholic Weekly 15/12/2013 tr. 7)

Suy nghĩ thế rồi ta cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang mà cất lên lời ca của nghệ sĩ ở trên để thêm niềm tin vào “Thiên-chúa-Là-Tình-Yêu” rất tích cực và vui đẹp rằng:

“Đêm nay tôi đưa em về.

Đường khuya sao trời lấp lánh.

Đêm nay tôi đưa em về.

Mắt em sao chiếu long lanh…”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn suy nghĩ rất lung

Về lời của thần-học-gia Phanxicô

và các thần-học gia chuyên hù-dọa

về chuyện tin Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu

Cũng rất nhiều.

‘Viếng cứ viếng, phá cứ phá’

‘Viếng cứ viếng, phá cứ phá’

Chủ nhật, 26 tháng 1, 2014

Nguyên Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết (phải)

Nguyên Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết (phải) hiện diện tại đám tang ông Lê Hiếu Đằng.

Một số quan chức lãnh đạo cấp cao của trung ương và địa phương hoặc đại diện đã tới dự lễ viếng, lễ tang của ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, tuy nhiên đám ma của ông vẫn bị ‘chọc phá’, ‘gây rối’.

Giới quan sát nói với BBC, trong ba ngày tang lễ cố luật gia, nhiều người thuộc cả hai phía là chính quyền và các nhóm bất đồng chính kiến, các tổ chức dân sự ngoài nhà nước đều tới dự tang lễ.

Bên phía nhà nước, cựu Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đã tới viếng và ghi sổ tang.

“Cuộc đời này còn lắm gian truân. Chúc người bạn Lê Hiếu Đằng siêu thoát”

Ông Nguyễn Minh Triết ghi sổ tang

Phu nhân của đương kim Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, bà Mai Thị Hạnh, cũng tới viếng và chia buồn cùng tang quyến.

Trước đó, ông Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy và ông Nguyễn Văn Đua, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TPHCM đã đến viếng và chia buồn với gia đình ông Đằng.

Các quan chức lãnh đạo cao cấp đã lựa chọn phương thức tới viếng đám mà không mang theo vòng hoa và không ghi sổ tang, ngoại trừ cựu Chủ tich Triết.

Ông Triết đã ghi vào sổ tang dòng chữ: “Cuộc đời này còn lắm gian truân. Chúc người bạn Lê Hiếu Đằng siêu thoát.”

‘Làm ra vẻ giúp đỡ’

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Mặc dù đã có sự hiện diện của một số quan chức cao cấp của chính quyền, trong mấy ngày tang lễ ông Đằng, vẫn xảy ra các hiện tượng ‘chọc phá’, ‘cản trở’ và ‘xâm phạm’ đồ phúng viếng cố luật gia.

Hôm 26/1/2014, ngay bên lề đám tang, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, cựu Thư ký Tòa soạn báo Thanh Niên cho BBC hay nhiều người mà ông chắc chắn là ‘an ninh’ đã thường xuyên hiện diện ở trong và xung quanh địa điểm quàn ông Đằng.

Những người này đã ‘làm ra vẻ giúp đỡ người đến viếng’, nhưng thực chất là ‘kiểm tra’ các vòng hoa, đồ phúng viếng, một số vòng hoa đã bị ‘giật mất băng’ đề tên người viếng đám, theo ông Chênh.

Hôm 24/1/2014, ông Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Tranh đấu Tổng Hội sinh viên Sài Gòn trước 1975, nói với BBC những người lạ mặt thường xuyên hiện diện ở đám tang đã ít nhất hai lần xâm phạm các vòng hoa.

Phu nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại lễ tang

Phu nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, bà Mai Thị Hạnh (phải), chia buồn với tang quyến.

“Chúng tôi nghĩ họ là công an thôi, chứ không ai đi giựt những thứ đó làm gì,” ông Nguyên nói với BBC hôm thứ Sáu, từ Sài Gòn.

Những người này đã giật một số băng trên các vòng hoa phúng điếu đề tên của các tổ chức như Diễn đàn Xã hội Dân sự, trang mạng Bauxite Vietnam, vòng hoa của Ủy ban Công lý và Hòa bình thuộc một hội đoàn công giáo, buộc một số thành viên Ban tang lễ và người nhà phải giành giật lại và cắt cử người canh giữ, cảnh giới qua đêm.

‘Viếng cứ viếng, ngăn cứ ngăn’

Hôm Chủ Nhật, blogger Huỳnh Ngọc Chênh nhận xét mặc dù các sự cố, đám tang của cố luật gia Lê Hiếu Đằng đã diễn ra trong vòng ‘trang nghiêm’ nhưng ‘xúc động’ và đặc biệt theo ông đã ‘kết hợp được cả hai phía’ là chính quyền và những người bất đồng.

Ông nói: “Một đám tang rất là cảm động, rất là trang nghiêm và có rất nhiều nước mắt, nhiều tiếng khóc…

“Cái lệnh đó tôi chẳng biết từ đâu ra, cái hệ thống nhà nước này nó không phải chỉ có một vua, mà có đến mười mấy ông vua, cho nên có thể lệnh từ cấp này, từ cấp khác, có khi nó không được biết tới hết”

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

“Một cái đám tang kết hợp được cả hai phía, tạm gọi như vậy, kể cả bên chính quyền. Chính quyền thì kể cả những người cao nhất, lẫn những người đương chức đang còn làm việc trong bộ máy chính quyền ở cấp thấp hơn, là bạn bè của anh Đằng thăm dự,

“Và đồng thời cũng có sự tham dự của các anh em khác, mà có thể nói là lề trái, đó là những anh em bloggers, những anh em ở trong nhóm ‘No-U’, những anh em của một số phong trào dân sự, hay là có các trang (mạng) mà được đánh giá v.v…”

Về nguyên nhân có một số thế lực ‘phá đám’, cản trở đám tang ông Đăng, blogger Hùynh Ngọc Chênh nhận xét:

“Cái lệnh đó tôi chẳng biết từ đâu ra, cái hệ thống nhà nước này nó không phải chỉ có một vua, mà có đến mười mấy ông vua, cho nên có thể lệnh từ cấp này, từ cấp khác, có khi nó không được biết tới hết,

“Nhưng mà cũng có thể như thế này, đi viếng thì cứ đi viếng, nhưng công việc phải ngăn cản, thì vẫn cứ phải ngăn cản,” ông Chênh nói với BBC.

Tổng thống Pháp chia tay Đệ nhất Phu nhân

Tổng thống Pháp chia tay Đệ nhất Phu nhân

Tổng thống Pháp Francois Hollande và bà Valerie Trierweiler

Tổng thống Pháp Francois Hollande và bà Valerie Trierweiler

 

25.01.2014

Tổng thống Pháp Francois Hollande nói ông đã chia tay với bà Valerie Trierweiler, người đã sống chung với ông trong 7 năm sau khi báo chí râm ran đưa tin về mối quan hệ của ông với một nữ diễn viên.

Ông Hollande hôm nay cho Thông tấn xã Pháp AFP biết về việc chia tay.

Loan báo này được đưa ra hai tuần sau khi một tờ báo lá cải đăng tin là ông Hollande có quan hệ tình ái với nữ diễn viên điện ảnh Julie Gayet 41 tuổi, nhỏ hơn ông gần 20 tuổi.

Tổng thống Pháp, 59 tuổi, không kết hôn với bà Trierweiler, 48 tuổi và là một nhà báo nổi tiếng, nhưng họ đã sống chung kể từ năm 2006. Bà lên chức Đệ nhất Phu nhân sau khi ông được bầu làm Tổng thống Pháp năm 2012.

Loan báo về việc chia tay này được đưa ra chỉ một ngày sau khi bà Trierweiler đi Ấn Độ làm từ thiện. Có tin bà phải nhập viện vì mệt sau khi tin về vụ ông Hollande có quan hệ tình cảm với người khác vỡ lở.

Tổng thống Pháp trước đó có quan hệ với bà Ségolène Royal, một thành viên cao cấp trong Đảng Xã hội của ông và là ứng cử viên Tổng thống năm 2007. Hai người có 4 con nhưng chia tay vào năm 2007, ngay sau khi bà thua ông Nicolas Sarkozy, người tiền nhiệm của ông Hollande.

Bên bờ sông Babylon – Dậu Nguyễn

Bên bờ sông Babylon – Dậu Nguyễn

httpv://www.youtube.com/watch?v=mK1HMhO-2Ao&feature=youtu.be

“Bên bờ sông Babylon” lấy ý từ thánh vịnh 137 diễn tả tình cảnh dân Ít-ra-en khi bị lưu đầy tại Ả Rập vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Tiếng hát: Ban Boney M. Hình ảnh: Internet. Nhac cảnh: Dậu Nguyễn.

Trên 15.000 ngàn chữ ký vì Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc

Trên 15.000 ngàn chữ ký vì Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc

Danh sách 15.888 người ký tên được kèm theo lá thư về Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc ngày 24/01/2014.

Danh sách 15.888 người ký tên được kèm theo lá thư về Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc ngày 24/01/2014.

Quỹ Nghiên cứu Biển Đông

Thụy My

RFI

Chỉ trong vòng một tuần lễ, đã có 15.588 người từ nhiều nơi trên thế giới ký tên vào lá thư gởi cho Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 40 năm Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lá thư được gởi đi trưa 24/01/2014 từ Paris, nhằm nhắc nhở trước thế giới « Hoàng Sa là của Việt Nam », và kêu gọi đưa vấn đề ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.

Từ sáng kiến của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông và nhóm Biển Đông tại Pháp đã cùng soạn thảo lá thư và vận động thu thập chữ ký. Lá thư nhắc lại sự kiện lịch sử bi hùng ngày 19 và 20/01/1974, quân Trung Quốc đã tấn công và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa sau trận hải chiến ác liệt với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời cũng khẳng định tầm quan trọng của việc thượng tôn luật pháp quốc tế, tố cáo hành động xâm lược của Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

Chỉ trong khoảng hơn một tuần lễ, đã có 15.588 chữ ký của đủ mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi ở trong và ngoài nước, chứng tỏ sự đồng lòng của những người yêu công lý đối với vấn đề Hoàng Sa. Đó là tiếng nói của các nhân sĩ trí thức và những người lao động, những cựu quân nhân cả hai miền Nam Bắc, các tu sĩ thuộc nhiều tôn giáo khác nhau trên mọi miền đất nước Việt Nam cũng như từ nhiều châu lục.

 

Các lá thư gởi đến Liên Hiệp Quốc.

Quỹ Nghiên cứu Biển Đông – Nhóm Biển Đông tại Pháp

Trong lá thư cám ơn đề ngày hôm nay, những người khởi xướng viết : « 15.558 chữ ký là 15.558 tiếng nói yêu thương cho Hoàng Sa, 15.558 bông hoa cho những người đã, đang và sẽ hy sinh để bảo vệ lẽ phải và những quyền chính đáng của mình, là 15.558 cái siết tay vì công lý và hòa bình, 15.558 lời phản kháng cường quyền và bạo lực…Chúng tôi xin tri ân 15.558 lần và hơn thế nữa những tấm lòng ấy ».

Thư cảm ơn nhấn mạnh : « Trên con đường giành lại công lý cho Hoàng Sa, mặc dù rất dài và gian nan, chúng ta không còn đơn độc ».

Trả lời RFI Việt ngữ hôm nay, tiến sĩ Lê Trung Tĩnh cho biết :

TS Lê Trung Tĩnh – Paris 

 

25/01/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:15)

 

 

 

Một lời nói phải

Một lời nói phải

Tưởng Năng Tiến

2014-01-23

hinh1-305.jpg

“One kind word can warm three winter months: Một lời nói tử tế có thể làm ấm lòng suốt cả mùa Đông.”

Courtesy Photo

Tôi thấy trên tờ lịch tháng Giêng năm nay – tại văn phòng khai thuế – ảnh chụp những cành lá tuyết phủ trắng xoá, và bên dưới là một câu ngạn ngữ của người Nhật Bản:  “One kind word can warm three winter months: Một lời nói tử tế có thể làm ấm lòng suốt cả mùa Đông.

Tôi đã trải qua hơn ba mươi mùa Đông (lạnh giá) nơi xứ người nhưng dường như chưa bao giờ nghe được một lời lẽ tử tế nào ráo trọi. Năm nay, may thay, vào những ngày cuối năm (khi nhiệt độ nhiều nơi rơi xuống trừ âm) nhưng tôi vẫn cảm thấy rất ấm lòng vì chợt nghe được một lời nói phải:

Hòa giải mới có thể phát triển

“Còn nhiều trang sử cần được mở ra, không chỉ có ở Hoàng Sa, dù ở đâu trên mảnh đất của ông cha, người Việt Nam chỉ nên để súng ống quay về cùng một hướng. Chỉ có hòa giải quốc gia mới có thể phát triển quốc gia. Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.” Đó là kết luận của nhà báo Huy Đức trong bài viết (“Hoàng Sa & Hoà Giải Quốc Gia”) mới nhất của ông, đọc được vào hôm 12 tháng 1 năm 2014:

“Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Phải khi Trung Quốc đánh Hoàng Sa, 19-1-1974, ông Nguyễn Đăng Quang – một thành viên của phía Hà Nội trong “Phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên” thi hành Hiệp định Paris (1973) – mới nhận ra điều này. Họ ở đây là các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bên mà cho đến nay, nhiều người vẫn gọi là phía “ngụy”.

Phải mất 40 năm sau, báo chí nhà nước mới bắt đầu đăng hình bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà lên trang nhất, sau khi một tổ chức “dân lập” – trung tâm Minh Triết – chứng nhận chồng bà đã “hành động vì biển đảo”.

Phải mất 40 năm sau, các thế hệ người Việt trong nước mới biết hình ảnh trung Tá Ngụy Văn Thà, thiếu tá Nguyễn Thành Trí, đứng thẳng trên đài chỉ huy chiến hạm Nhựt Tảo khi những loạt đạn đang bắn từ các tàu Trung Quốc; biết đến, hai hạ sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu từ chối xuống tàu cứu sinh, chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng rồi đi vào lòng biển Hoàng Sa cùng con tàu Nhựt Tảo…

Bên dưới là vô số những lời tán thưởng, xin đọc chơi (vài/ ba) cho nó … đã:

“Đọc bài này tôi xúc động chảy nước mắt!”

“Anh viết nhiều nữa đi, cho lòng người thống nhất.”

“Bài viết hay,xin cám on anh HD đã nói thay cho cả triệu tấm lòng.”

hinh3-250.jpg

“Tôi không biết những người mặc thường phục vô cớ hành hung tôi là ai, tôi tha thứ cho tất cả họ.Tôi mong rằng họ đừng để ĐCSTQ lợi dụng, hãy để cho chúng tôi yên ổn tu luyện!” Linh Phan, học viên Pháp Luân Công Việt Nam. Ảnh và chú thich: Dân Làm Báo.

Nói phải củ cải cũng nghe: “Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.” Nhân tâm quả đang ly tán. Tuy nhiên, mọi thành phần của dân tộc Việt sẽ vẫn có nhiều cơ may, cũng như cơ hội (không mấy khó khăn) cùng ngồi lại bên nhau – ngoại trừ những người cầm đầu đảng cộng sản ở Việt Nam. Nói chuyện phải/quấy với củ cải (e) vẫn dễ hơn với họ, những kẻ luôn luôn nói một đường nhưng làm một nẻo.

Hãy coi thử xem Đảng và Nhà Nước CSVN đã thực thi “chính sách đại đoàn kết dân tộc” ra sao, kể từ khi họ nắm được quyền bính đến nay:

-Vào những năm đầu của thập niên 1950, nhân danh chuyện “cải cách ruộng đất,” họ đã “nâng thành phần” vài trăm ngàn nông dân (ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam) lên thành phú nông hoặc trung nông, để mang ra đấu tố, rồi giết hại.

-Cuối thập niên 1960 (trong cái gọi là Trận Tổng Công Kích Mậu Thân) họ đã chôn sống hàng chục ngàn người dân miền Nam, sau khi dán cho nạn nhân cái nhãn hiệu là “thành phần ác ôn”, cần phải thủ tiêu.

-Cũng chính họ – trong một phần tư thế kỷ – đã chia người dân miển Bắc thành nhiều giai cấp riêng biệt và dùng chính sách tem phiếu “gạo ngô, từng lạng từng cân (để) cắt nhỏ tình thâm cốt nhục” của mọi gia đình.

-Sau đó, sau khi chiếm được cả nước, họ phân định dân chúng miền Nam ra nhiều thành phần khác biệt (đối nghịch hoặc thù nghịch với nhau) rồi bắt cả trăm ngàn “ngụy quân” và “ngụy quyền” vào trại cải tạo, lùa hàng triệu gia đình “ngụy dân” đi kinh tế mới, đánh cho tán gia bại sản những kẻ bị gọi là “tư sản mại bản.”

-Rồi cũng chính họ đã biến cả nuớc Việt Nam thành một trại tù ngột ngạt, đói khát khiến hàng mấy triệu nguời đã phải liều chết đâm xầm ra biển, và ít nhất là một phần tư trong số những người này đã vùi thây dưới lòng đại dương.

Những kẻ sống sót, vừa kịp bước chân lên những bờ bến lạ đã nghe họ tới tấp ném theo những lời chửi bới và nguyền rủa vô cùng tàn tệ: “thành phần bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, phản bội tổ quốc, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ”

Tôi không biết những người mặc thường phục vô cớ hành hung tôi là ai, tôi tha thứ cho tất cả họ.Tôi mong rằng họ đừng để ĐCSTQ lợi dụng, hãy để cho chúng tôi yên ổn tu luyện!” Linh Phan, học viên Pháp Luân Công Việt Nam.

Giải pháp

Làm cách nào có thể “để súng ống quay về cùng một hướng,” và để “có hòa giải quốc gia” với những kẻ có “thành tích” bất hảo, bất nhân, bất nghĩa, bất tín trí và bất trí (đến) như thế? Đây là chuyện vô phương thực hiện, nếu nhà đương cuộc Hà Nội không tiên quyết thực thi hiện những điều căn bản sau:

-Bãi bỏ điều 4 HP, từ bỏ độc quyền cai trị đất nước.

-Giải tán cái quốc hội hiện hành, với hơn 90 phần trăm dân biểu là ĐVCSVN, một cơ chế dân cử trá hình, chỉ có mục đích là thao túng mọi ý nguyện của người dân.

-Trả lại đất đai cho nông dân.

-Trả lại nhà máy và công đoàn cho công nhân.

-Phi chính trị hoá quân đội.

-Trả lại hoàn toàn sự tự trị và độc lập của tất cả tôn giáo lớn nhỏ ở đất nước này, cùng tất cả tài sản vốn                     thuộc quyền sở hữu của mọi giáo hội.

-Chấm dứt mọi hình thức kỳ thị những nhóm dân bản địa và thiểu số.

-Ngưng đàn áp sách nhiễu những tổ chức xã hội dân sự, và thành viên, dưới mọi hình thức.

-Tổ chức Tổng Tuyển Cử Tự Do để người dân có quyền lựa chọn một thể chế đa nguyên, với một nhà nước tam quyền phân lập, như đa phần các quốc gia văn minh tiến bộ khác trên thế giới.

-Phóng thích hơn 355 tù nhân sinh quán ở Tây Nguyên (phần lớn bị bắt giam với tội danh “phá hoại tình đoàn kết dân tộc”) và tất cả những tù nhân lương tâm khác, cùng với lời xin lỗi cũng như mọi bồi thường thoả đáng.

hinh2-250.jpg

Cảnh sát cơ động tỉnh Gia Lai, ảnh minh họa. Photo courtesy of LD.

Bao giờ mà những yêu cầu căn bản vừa nêu chưa được thực hiện thì mọi lời kêu gọi đoàn kết dân tộc, hoà giải quốc gia (của chế độ hiện hành) chỉ là một thứ chiến thuật được xử dụng vì nhu cầu tình thế. Chiến thuật này đã được những người CSVN xử dụng nhuần nhuyễn, và thành công nhiều lần, trước đó:

Trước 1954, họ thành lập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 8 (1945-1974) ghi rõ:

“Trước hết, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam không phải là một mặt trận thống nhất riêng của các đảng phái yêu nước, chẳng hạn như Việt Minh. Nó là một khối kết hợp các đảng, các phái và các tầng lớp nhân dân vô đảng vô phái cùng chung một mục đích: vì nước.”

Mới thanh toán xong được nửa nước họ đã không ngần ngại “làm thịt” ráo những đảng viên của những “đảng phái yêu nước khác,” rồi gửi đám công chức thời trước vào tù, và coi những “ngụy dân” như những công dân hạng bét trong phần đất mà họ vừa chiếm được.

Sau đó, họ cũng đã dựng lên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị, Liên Minh Các Lực Lượng Dân tộc, Dân Chủ và Hoà Bình Miền Nam Việt Nam để “đoàn kết Bắc – Nam, đoàn kết quân – dân, đoàn kết nhân dân nông thôn và nhân dân thành thị, đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”

Xong việc, là họ giở mặt ngay tức khắc – theo như lời “than phiền” của ông Ya Biloh, một người dân của Tây Nguyên:

“Nhưng từ sau gày 30-4-1975, những đóng góp và hy sinh của họ cho phe cộng sản tan biến vào mây khói, những lời hứa cho tự trị trước kia bị nhận chìm vào quên lãng. Phong trào Tây Nguyên Tự Trị, cũng như Mặt trận Giải phóng Miền Nam, đã không những bị giải tán mà còn bị cấm nhắc tới…

Ngày nay không những chính quyền cộng sản đã phản bội những kết ước ngày xưa mà còn áp dụng chính sách phân biệt đối xử với cộng đồng người thiểu số Tây Nguyên một cách không nễ nang. Họ đã cậy đông hiếp ít, cậy mạnh hiếp yếu, cậy gian manh hiếp thật thà. Khao khát duy nhất của người Thượng là được sinh sống bình yên trên lãnh thổ của cha ông để lại cũng không được toại nguyên, họ bị xua đuổi vào những vùng hẻo lánh để chết dần chết mòn theo thời gian vì không thể canh tác.”

Có lẽ vì nghĩ rằng dân tộc Việt không ai còn có trí nhớ nên họ đang thản nhiên hô hào: “Để giữ vững chủ quyền phải đoàn kết dân tộc.”

Trước nhà báo Huy Đức, vào tháng 12 năm 2007, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng đã hy vọng viễn tượng bị xâm sẽ “là cơ hội vàng cho dân tộc và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vài năm sau, sau khi sinh viên  tổ chức biểu tình đồng loạt ở Sài Gòn và Hà Nội để phản đối Trung Quốc xâm lược – vào tháng 8 năm 2011 –  ông vẫn kiên nhẫn trông đợi đây là “cơ hội vàng – lần thứ hai.”

Bản án hơn hai mươi năm tù dành cho Tạ Phong Tần, Điếu cầy Nguyễn Văn Hải – ngay sau đó – chắc chắn đã làm cho những người nhẫn nại và lạc quan cũng đều phải nản lòng, và thất vọng. Nếu vẫn chưa, xin đọc thêm (đôi dòng) về bản tin vừa loan của , nghe được vào hôm 18 tháng 1 năm 2014:

“Đêm thắp nến tri ân tử sĩ Hoàng Sa vào tối 18/1 ở Công viên Biển Đông Đà Nẵng đã chính thức bị hủy bỏ…

Từ Đà Nẵng, ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung Tâm Minh Triết Việt, cho biết:

“Hiện nay là người ta dập nến rồi, không cho đốt nữa. Tức là người ta định là thanh niên sinh viên đốt nến xếp hình tổ quốc Việt Nam, hai  quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, nhưng mà lệnh từ Hà Nội vào là không được đốt nến nữa, không được đốt nến, không được thắp lửa trong lòng người…”

Qua hôm sau, 19 tháng 1 năm 2014, RFA đưa tin tiếp: Hà Nội: “Lễ tưởng niệm trận Hoàng Sa bị giải tán.”

Tôi thành thực tin rằng nói chuyện phải/quấy với củ cải vẫn dễ hơn với “lãnh đạo” cộng sản ở Việt Nam, và xin mượn lời của ông Trần V. (độc giả của trang Dân Luận) để thay lời kết cho bài viết ngắn ngủi này:

“Khi nào Đảng Cộng còn cầm quyền, khi đó họ còn tiếp tục làm cho công việc hoà giải dân tộc không thể nào thực hiện được.”

Tưởng Năng Tiến,

23-01-2014

Freedom House công bố Bản Phúc Trình 2014

Freedom House công bố Bản Phúc Trình 2014

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-25

RFA

Freedom-House-Logo-305.jpg

Hình biểu tượng của tổ chức Freedom House.

Courtesy FH

 

Tổ chức nhân quyền Freedom House trụ sở chính tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, vừa công bố Bản Phúc Trình 2014 cho biết, nói chung, tư do trên thế giới sụt giảm hồi năm 2013. Liên quan VN, bà Sarah Cook, chuyên gia nghiên cứu Á Châu cua Freedom House nhận xét, đại ý như sau:

“Việt Nam tiêu biểu cho một nước, nơi mà chúng tôi nhận thấy tiếp diễn tình trạng đàn áp nghiêm trọng, nhất là về phương diện Internet; nhưng nói chung là về phương diện tự do ngôn luận. Những thông tin mà chúng tôi thu thập được cho thấy hiện số nạn nhân bất đồng chính kiến ở Việt Nam nhiều gấp đôi so với hồi năm 2013 và 2012, phần lớn bị cáo buộc tuyên truyền chống phá nhà nước.

Nhà cầm quyền Việt Nam đề ra những quy định, nghị định mới nhằm hạn chế gắt gao mọi website hay mạng xã hội có thể cung cấp những thông tin bất lợi cho nhà cầm quyền; mục tiêu là nhằm bắt giữ những người sử dụng Internet phổ biến bài vở, hình ảnh mà quan chức không muốn. Cho nên tôi nghĩ đó là diễn biến chính ở Việt Nam. Đó cũng là những gì mà chúng tôi lưu ý trong mấy năm qua ở Việt Nam. Mặc dù như vậy, nhưng chúng tôi nhận thấy tình hình đàn áp vẫn tiếp diễn dù những biện pháp hạn chế vừa nói của giới cầm quyền khiến dân chúng phẫn nộ. Và những hình thức khác, nhất là tệ nạn tham nhũng, kinh tế sa sút, cũng gây bất mãn trong dân chúng.”

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Chúa Cứu Thế


VRNs (25.01.2014) – Sài Gòn – Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.

Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.

Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.

Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.

Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.

Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.

Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.

Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.

Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.

Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.

Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.

ERNEST O. HAUSER

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)

Báo Pháp : Tổng thống Hollande chính thức chia tay bà Trierweiler

Báo Pháp : Tổng thống Hollande chính thức chia tay bà Trierweiler

Bà Valérie Trierwieler đi cùng với ông François Hollande nhân chuyến thăm Sénégal tháng Mười 2012 - REUTERS /Philippe Wojazer

Bà Valérie Trierwieler đi cùng với ông François Hollande nhân chuyến thăm Sénégal tháng Mười 2012 – REUTERS /Philippe Wojazer

Thụy My

RFI

Hôm nay 25/01/2014, hãng tin Reuters dẫn nguồn tin từ tờ Journal du Dimanche (JDD) cho biết, Tổng thống Pháp François Hollande và bà Valérie Trierweiler, người lâu nay được mệnh danh là “Đệ nhất tình nhân” có thể chính thức loan báo chia tay trong hôm nay, trước khi bà lên đường đi Ấn Độ vào ngày mai.

Theo trang web của tờ báo Journal du Dimanche, một thông cáo báo chí của điện Elysée công bố hôm nay sẽ chính thức hóa tình trạng giữa hai người, khẳng định Tổng thống Pháp và bà Valérie Trierweiler “chấm dứt sống chung”.

Được Reuters đặt câu hỏi, văn phòng Tổng thống trả lời là “Elysée không đưa ra bình luận nào về những tin đồn trên internet”. Phát ngôn viên của bà Trierweiler chưa trả lời, trong khi nhiều cơ quan truyền thông khác hôm nay cũng đưa tin là hai người sẽ chính thức công bố chia tay trong ngày.

Sự tan vỡ giữa Tổng thống và “Đệ nhất tình nhân” là khó thể tránh khỏi, sau tiết lộ của tờ báo bình dân Closer về mối tình bí mật giữa ông François Hollande và nữ diễn viên Julie Gayet, với rất nhiều tấm ảnh minh họa.

Theo JDD, ông François Hollande và bà Valérie Trierweiler vào hôm thứ Năm 23/01/2014 khi cùng ăn trưa đã thỏa thuận được về cách thức chia tay. Như vậy, “Đệ nhất tình nhân” hiện đang an dưỡng tại biệt thự La Lanterne gần điện Versailles dành cho nguyên thủ Pháp sau một tuần lễ nằm viện vì cú sốc, sẽ trở về căn hộ của mình ở quận 15 Paris.

Nếu việc chia tay được chính thức công bố hôm nay, bà Valérie Trierweiler sẽ đi Bombay (Ấn Độ) ngày mai chỉ với tư cách một công dân bình thường. Đây là chuyến đi với mục đích nhân đạo, do tổ chức phi chính phủ Action contre la faim (Hành động chống nạn đói) tổ chức.

Trong cuộc họp báo hôm 14/01/2014, ông Hollande đã hứa sẽ làm rõ tình trạng quan hệ với bà Trierweiler trước chuyến công du Hoa Kỳ ngày 11/2 tới. Ban đầu dự kiến có “Đệ nhất tình nhân” tháp tùng, nhưng nay nếu thông tin trên là chính xác, sẽ là một Tổng thống Pháp độc thân đi gặp ông Barack Obama.

Tờ Le Parisien hôm nay nhắc lại, sự kiện mà báo chí nước ngoài gọi là “love affair” của ông François Hollande đã làm dấy lên trở lại cuộc tranh cãi về tư cách Đệ nhất phu nhân tại Pháp. Theo thăm dò dư luận của tờ báo này, thì 54% người dân Pháp không còn muốn có danh phận Đệ nhất phu nhân, nhất là không muốn ngân sách tiêu tốn cho người phụ nữ chung sống với Tổng thống.