Việt Nam: Bê bối Vinashin buộc cắt giảm 14.000 nhân viên

Việt Nam: Bê bối Vinashin buộc cắt giảm 14.000 nhân viên

Nhân viên bảo vệ tại ụ nổi 83M tại cảng Gò Dầu, tỉnh Ðồng Nai
19.09.2013
Vinashin, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đang nợ ngập đầu cho biết họ sẽ cắt giảm 14.000 lao động để tái cấu trúc, coi như giảm 70% số nhân viên.

Vinashin hiện nay có 26.000 lao động, chưa tới phân nửa con số của năm 2008, và trên trang mạng của mình hôm thứ Hai, Vinashin nói họ “có kế hoạch chỉ giữ lại độ 8.000 người.”

Tập đoàn này nói rằng hiện nay trả lương cho lao động “không đơn giản” vì không có ngân khoản.

Vinashin sụp đổ năm 2010 vì mắc nợ 4 tỉ đôla, khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về tình trạng lành mạnh của các xí nghiệp quốc doanh khác và khiến cho Việt Nam bị tụt hạng về chỉ số tín dụng.

Báo Lao Động của Việt Nam hôm thứ Năm nói rằng việc cắt giảm này là một chuyện buồn cho các lao động có kỹ năng vì họ không có trách nhiệm gì trong sự sụp đổ của tập đoàn.

Trước khi sụp đổ, Vinashin được xem là một mô hình mới của xí nghiệp quốc doanh để đưa Việt Nam lên tầm cạnh tranh với thế giới.

Gần một chục lãnh đạo của Vinashin đã bị phạt tù vào năm 2012, tạo sức ép lên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, là người đã bổ nhiệm người đứng đầu tập đoàn và sau đó ông Dũng phải nhận trách nhiệm về sự thất bại của tập đoàn.

Ông Jonathan Pincus, Hiệu trưởng trường Kinh tế Fulbright ở thành phố Hồ Chí Minh nói rằng nếu bây giờ Vinashin tập trung vào chuyện đóng tàu và dẹp bỏ các ngành khác thì có lẽ đó là một hướng tốt.

Nguồn: foxnews.com, vnexpress

TÂN NHẠC VIỆT NAM dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa

TÂN NHẠC VIỆT NAM dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa

 

LÊ DINH

 

Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm nhạc Việt Nam.

Nhìn lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải cách – như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai, nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căn như bây giờ. Chẳng hạn như bài “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được sọan sau, nhưng cũng được coi như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia tài âm nhạc Việt Nam.

Nhắc lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.

Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn ngủi. Nhắc lại những bài như:

“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng

Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”

Hoặc:

Suối mơ, bên rừng thu vắng

Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”

Hay:

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi

Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi…”

Hoặc như:

“Biệt ly, nhớ nhung từ đây

Chiếc lá rơi theo heo may…”

Chúng ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào lòng người. Còn lởi ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến như thế.

Rồi bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai nhạc hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những tác giả tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người này có Phạm Duy, Văn Cao,  Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy Nhượng, Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy là người có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều nhất, hay nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm điệu và lời ca như:

Ngày bao hùng binh tiến lên

Bờ cõi  vang lừng câu quyết chiến…”

Hoặc man mác căm hờn, như:

“Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng

Không bóng trâu cày bên đồng

Vắng tiếng heo gà trên sân

Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân

Nghe tiếng o nghèo kể rằng:

Quân thù về đây đốt làng…”

Rồi 1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do nơi miền Nam – đất lành chim đậu – cùng chung với những nhạc sĩ sáng tác đã sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.

Ngay từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân, Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An, Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951),  Lam Phương, Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng, Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng )

Dù dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự do cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và những bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến ngày nay.

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền

Trong khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên, không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận… cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”, Phan Huỳnh Điểu với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca tụng, tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép của bác thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và dép  này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi. (Dưới thời đệ Nhất Cộng Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam VN chỉ võn vẹn có một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam. Đây không phải là chú trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây chỉ là một hành động để nói lên lòng biết ơn thôi)

Từ 1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không? Còn nhạc thì nghe qua rồi – dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa – hỏi có ai nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy may quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn cười, trong một bài hát, nghe sao giống như lời đối thọai trong một vở tuồng cải lương hạng bét:

“Dậy đi mua đồ nấu canh chua

Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”

Về âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu nhạc nào đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao không nhớ được? Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác nhau, bỏ chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, rồi ráp lại cho thành một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy một bài nào đó của miền Nam, trước 1975, như:

”Xuyên lá cành trăng lên lều vải

Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”

Hay như:

“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”

Hoặc:

“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,

Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”

Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.

Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?) Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh – Anh sẽ không níu kéo – Anh ba Khía – Ông xã bà xã – Khi cô đơn em nhớ ai – Anh sai rồi – Quen một ngày cho vui – Em có thể làm bạn gái anh không – Đừng buông tay anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là người đã trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một bài hát cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng” rồi thôi, hết.

Về lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ, chúng ta hãy xem qua lời ca: Bài “Giá như chưa từng quen”:

“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau

Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”

Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:

“Nếu ta đừng quen nhau, thì đời chưa vướng u sầu

Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”

Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.

Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:

“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…

Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”

Đây là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc “anh đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác nhau: “Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó, âm nhạc XHCNVN là như thế đó.

Về phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la, biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy – người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.

Một phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại cách viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì hát làm chi?

38 năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ của họ gọi để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu diệt nhưng không được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:

“Dậy đi mua đồ nấu canh chua

Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.

LÊ DINH

Bryan Do gởi

Mỉm cười để đón nhận tất cả

Mỉm cười để đón nhận tất cả


Khi tất cả mọi chuyện đau buồn đổ lên đầu bạn, hãy mỉm cười để đón nhận nó, vì chỉ có như thế, bạn mới có thêm dũng khí để bước tiếp con đường đời mà mình đã chọn… Khi có một chuyện thật vui đến với bạn, hãy mỉm cười để đón nhận nó, để niềm vui, niềm hạnh phúc được nhân đôi, để mọi người có thể vui cùng niềm vui của bạn…


image001.jpg picture by  deditimvo


Khi có một ai đó rời xa cuộc đời của bạn, hãy mỉm cười để chia tay họ, vì dù cho đó là một cái kết thúc vui hay buồn, thì nó cũng là một cái kết thúc, và ngay sau nó là một khởi đầu mới cho cả hai người, mỉm cười để chúc cho cái khởi đầu ấy sẽ thật tươi sáng và vui vẻ…

Khi có một ai đó đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để chào đón họ, để chúc cho tình cảm giữa hai người sẽ thật tốt đẹp, để họ sẽ không bao giờ phải nói lời chia tay với bạn như bao người trước đó…

Khi bạn đánh mất niềm tin vào một người nào đó, hãy mỉm cười để chấp nhận điều ấy. Ai cũng là con người, cũng có lúc sai lầm, có lúc vấp ngã, và hãy mỉm cười để biết rằng mình đã hiểu họ thêm một phần…

image006.jpg picture by deditimvo

Khi bạn cảm thấy quá mệt mỏi vì cuộc sống, hãy mỉm cười để cảm nhận tình yêu mới sẽ lại đến với mình. Bạn sẽ không thể đón nhận tình yêu cuộc sống khi trong lòng bạn ngập tràn trong thù hận hay đớn đau. Và một nụ cười sẽ xoá đi tất cả…

image008.jpg picture by deditimvo

Khi bạn chợt nghĩ về tương lai mù mịt phía trước, và bạn không biết cuộc đời bạn sẽ đi về đâu, hãy mỉm cười để cho mình một phút hy vọng. Mỉm cười để nhận ra rằng chúng ta có cả một ngày hôm nay để chuẩn bị thật tốt cho ngày mai, hãy sống thật tốt, thật hạnh phúc, vì chẳng ai dám chắc mình còn có ngày mai…

image010.jpg picture by deditimvo

Khi việc bài vở làm bạn chán ngán, hãy mỉm cười để giúp mình thư giãn một chút. Vì chẳng phải ai cũng là thiên tài cả. Và một nụ cười sẽ không phải là quá xa xỉ để thư giãn…

 

Khi tình yêu không đến với bạn, hãy mỉm cười để chào tạm biệt nó. Vì đơn giản là tình yêu đó chưa chọn bạn để ở lại mà thôi. Và dù cho người bạn yêu không đáp lại tình cảm của bạn, thì bạn cũng hãy mỉm cười vì biết rằng trong trái tim bạn đã có nó rồi…

 

image012.jpg picture by deditimvo

Khi trái tim bạn tràn đầy nước mắt, khi mỗi bước chân của bạn rỉ máu vì những mũi gai, hãy mỉm cười để cho mình thêm một chút dũng khí, để vững tin bước đi trên con đường đời phía trước. Và ít nhất thì mỉm cười để làm chỗ dựa cho người khác khi họ lâm vào hoàn cảnh như bạn, mỉm cười để không ai phải buồn khổ như ta nữa…

image014.jpg picture by deditimvo

Khi mỗi ngày mới đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để cảm ơn cuộc đời đã cho bạn thêm một ngày để được yêu thương, để có thêm thời gian nói với những người bạn yêu quý rằng bạn dành cho họ nhiều tình cảm đến mức nào…

image016.jpg picture by deditimvo

Khi bạn gặp một vấn đề thật khó khăn để giải quyết, hãy mỉm cười để giữ cho tinh thần mình được bình tĩnh. Và như thế vấn đề sẽ dễ hơn trước nhiều…

Khi một người nào đó đang buồn và muốn tâm sự với bạn, hãy mỉm cười với họ để cho họ thêm một chút niềm tin vào cuộc sống. Những người không thể cười là những người cần nụ cười hơn bao giờ hết. Một nụ cười sẽ không làm nghèo đi người cho nó, nhưng sẽ làm người nhận nó giảu thêm. Đó là cái vốn quý nhất mà Thượng đế ban tặng cho mỗi chúng ta…

image019.jpg picture by deditimvo

Khi bạn bị tổn thương, hãy mỉm cười để hàn gắn nó lại. Thời gian sẽ là liều thuốc tốt nhất để làm lành vết thương ấy, nhưng dù gì thì nó cũng đề lại vết sẹo trong cuộc đời bạn. Hãy mỉm cười để xóa đi vết sẹo ấy. Vì chỉ khi tha thứ cho người khác, ta mới có thể tha thứ cho chính mình, để cái quá khứ đau thương kia chìm vào dĩ vãng…

image021.jpg picture by deditimvo

Vậy, nếu bạn buồn đau hay hạnh phúc, thất vọng hay hi vọng, mệt mỏi hay tràn đầy niềm tin, hãy luôn luôn mỉm cười, mỉm cười để nhận ra rằng tất cả những cảm xúc ấy chính là món quà mà Cuộc đời đem đến cho bạn. Và chính từ những món quà ấy mà chúng ta cảm nhận được chúng ta thật hạnh phúc khi được làm 1 con người, được biết thế nào là vui buồn, là xúc động. Hãy trân trọng và nâng niu từng phút giây của cuộc đời mình, sống thật tốt, thật xứng đáng ngay từ ngày hôm nay, để khi nó qua đi, để khi ngày mai đến, bạn sẽ không bao giờ phải dùng đến 2 từ “hối tiếc”…

S.T.

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 25 Thường niên năm C 24.9..2013

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”

“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 16: 1-13

Nhà thơ, nay thấy như mọi người cứ xa lánh mình mãi. Nhà Đạo, xưa tìm đến với mọi người để nghe và thấy “hồn động biển khơi”. Trình thuật thánh Luca, cũng mang nhiều ý/lời về những người tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng. Trình thuật, kể về ngôn-ngữ sử-dụng trong Đạo, tiếng Hy Lạp có cụm từ “parrhesia” bên tiếng Anh nghĩa là: phát-ngôn thẳng thừng về nhiều việc và nhiều sự.

Parrhesia lúc đầu mang nghĩa tiêu cực để chỉ người nói nhiều không ngừng nghỉ. Theo nghĩa này, Parrhesia không xứng với người nói chuyện đứng đắn. Tính tích-cực ở Parrhesia là: phẩm-chất của ngưuời nói năng thẳng-thắn, không úp mở, cũng chẳng thêu thùa/thêm thắt, chỉ diễn-tả thông-điệp của người nói muốn đưa ra, không che đậy. Xem thế, thì đây là sự-việc đáng ta ca ngợi.

Parrhesia thực sự liên quan việc người nói có dính-dự, dám chấp nhận phản-ứng bất lợi từ người nghe. Người nói kiểu này, đã mê say cảm xúc nhắm vào sự thật, không cần biết điều mình nói có tốt lành hay không. Nói thế, là quyết thuyết phục cả những người kình-chống lại mình nữa. Nói năng kiểu huỵch toẹt ra ngoài, là nói với đám đông thường không nghĩ khác với điều mình muốn nói, hoặc chẳng nghĩ gì. Nói như thế, là giáp mặt/đối đầu và nghĩ rằng sự thật thắng thế, rất chắc chắn.

Nói theo kiểu thẳng thắn, là quyết phấn đấu trong lời mình nói ra. Là, đầu tư vào những gì mang tính đích thực, tức: thể loại này nói với nhiều người không theo sự thực; tức: nói theo kiểu ai oán là cốt tạo năng-lượng để nói cho tốt, cho nhiều và hữu hiệu hơn. Kiểu này, có thị-kiến ngoài tầm-mức địa-phương/cục-bộ hoặc riêng tư, mang tính hoàn-vũ ở trong đó. Đây là cách nói mãnh liệt, quyết chuyển tải tính chân phương, thật-thà mà có người, khi xưa, gọi là lối nói hiệu năng như có bia/rượu, ngấm trong người.         

Khi người nghe bị ảnh hưởng từ người nói hăng say/thẳng-thắn, thì họ chịu lắng tai nghe và chịu để cho người nói thuyết phục mình và lôi cuốn đi xa hơn điều mình tưởng tượng. Parrhesia tạo niềm tin nơi người nghe. Và, niềm tin đến từ sự việc nghe/biết lời ấy. Đây là trạng-thái gắn kết giữa người nói cũng như văn bản được nói ra và người nghe.

Người nói kiểu “parrhesia” hứng khởi với thông-điệp mình chuyển-tải đến độ không ‘thần-linh’ nào có thể dừng trên người nói. Quả là, có lúc Kitô-hữu sử dụng lối nói thẳng-thừng này, hứng thú đến độ họ dám chối bỏ sự hiện hữu hoặc tính hiệu năng của các ‘thần-linh’ như thế. Họ cười nhạo vào phụng vụ ngoài đạo và có khi vào cả nghi thức của Kitô-giáo nữa. Đôi lúc họ có vẻ tự cao tự đại, nữa.

Điều này là do lối nói thẳng nối kết họ với Thiên Chúa đích-thực, Đấng mở rộng lòng ra và thương xót không hạn chế, mà thánh Luca chuyển cho ta trong Tin Mừng và sách Công Vụ. Các vị thuyết-giảng lại nói thẳng theo kiểu perrhesia đã trở nên trong sáng với Chúa đích-thực và mở lòng ra với Đấng Cao Cả được nâng cao vượt quá chân trời tưởng tượng.

Nói thẳng thừng kiểu parrhesia còn đối chọi lại lối hùng biện, xã giao gột tỉa lối nói không rào đón khác hẳn ý nghĩa mà cụm từ Hy Lạp gọi là ‘eulabeia’, tức: lối hùng biện diễn-tả theo cách ‘hoa hoè hoa sói’, khó kềm chế.

Thế nên, không lạ gì khi ta tưởng tượng cảnh những người nói thẳng/nói thật kiểu parrhesia lúc đầu đã quảng bá Tin Mừng Chúa-Sống-lại đến tận thành đô của Đế Quốc. Nhưng, khi đã hoàn tất, người người ít cần lối nói thẳng thừng kiểu parrhesia, vì rất cứng. Đời sống thường con người đòi họ phải có lối nói thường tình như dân gian mọi người thường nói. Vậy, với thế hệ người nghe là con cháu về sau, hỏi rằng lối nói thẳng thừng như parrhesia có làm mất đi tính riêng tư của nó chứ?

Vương Quốc Nước Trời của Chúa là chế độ quà tặng mở rộng gồm các giá trị tự tại, trong đó con người quan trọng hơn sự vật. Và nhất là, tình thương-yêu còn quí hơn thành-đạt. Nhưng đây có nghĩa là tình thương-yêu thông minh/trí-tuệ và tình thương có suy-tư được ban phát, tức có nghĩa trong bối cảnh của nó.

Sự việc ta hiện diện ở Tiệc Thánh, nay tự nó có nghĩa: ta tin vào các giá-trị đang hiện diện quanh ta và ta muốn sống đích thực giá trị ấy và lối nói thẳng dẫn ta về sống xứng đáng con Chúa hơn. Sự việc ta ra đi hoạt động vào những ngày sắp tới trong tuần đang trờ tới, có nghĩa: ta là người thực tế/thực dụng sống thông minh/bén nhạy theo cách ta được dạy để sống cùng và sống với nhau. Nói thế, là: ta sống đứng đắn, dù không là thế hệ đầu nghe biết Tin Mừng, nhưng vẫn muốn thành người lý-tưởng và thực tế, cùng một lúc.

Dụ-ngôn ta nghe hôm nay, là thánh Luca muốn dùng để nói theo kiểu parrhesia, vào thời của thánh-nhân nhưng sắc thái có phần nhẹ nhàng hơn. Điều đó có nghĩa: phải biết khôn khéo, bén nhạy, ‘cẩn trọng’ và có khả năng tạo tầm kích cách biệt giữa lý-tưởng và thực tế; kỹ-năng giúp ta đọc được mức độ hiểu biết của người nghe ngõ hầu ứng-đáp với kiểu nói parrhesia, của thời trước. Đây là cách lối rất khôn khéo biết tạo tầm-kích về khả năng có được phẩm chất cuộc sống trong một nhóm.

Dụ-ngôn, nay thánh Luca sử dụng như để làm bớt đi tính căng thẳng nơi sắc thái nói năng của các nhà giảng thuyết, thời của ngài. Bằng không, ta sẽ nhận được một bó phẩm bình theo kiểu của Billy Grahams cứ hùng hồn biện-luận với nhóm giáo phái tách riêng, ngay vào lễ sáng.

Nối kết những đường lối nói năng này với tình cảnh của Giáo hội ngày nay, ta thấy được gì? Vài thập niên nữa, Giáo hội mình sẽ đi về đâu? Phải chăng sẽ có thời buổi trong đó sẽ có đổi thay trên thế giới? Và trong cả Giáo hội mình? Cũng có thể, sẽ có thời kỳ bất ổn về cơ cấu sẽ xảy đến với thế giới và Giáo hội!

Giáo hội theo ta hy vọng sẽ không rơi lại vào thời cũ xưa ở đó có nhiều thành-tựu. Hy vọng rằng: ta cũng sẽ vượt qua giai đoạn có những cãi tranh, giành giựt uy thế với ai đó. Cả đến xã hội phóng khoáng hay phóng túng, thời hiện đại, cũng sẽ tìm cách sống mà không cần biểu tỏ bằng mặt ngoài là đã qui chiếu vào với Giáo hội. Lâu nay, thế giới ngoại tại vẫn có khuynh hướng hoặc thái-đô chống đối Giáo hội. Tất cả những lối/những kiểu thẳng-thắn/thẳng thừng ấy sẽ đi vào dĩ vãng.

Bởi Giáo hội không là cơ cấu chống đối xã hội; Giáo hội cũng không ở bên trên lịch sử của người đời, cũng không vô nhiễm khỏi giòng lịch sử của thế-giới. Giáo hội vẫn cùng sống chung cởi mở và đối thoại với thế giới. Giáo hội chỉ sống sót nếu biết đối thoại với thế giới. Bởi Giáo hội ban bố cho thế giới cung cách diễn tả cách công khai về mọi xác tín của Giáo hội. Giáo hội cũng công khai cho thấy cuộc sống người đi Đạo theo cách tập thể, dễ thấy sự trong sáng, cách công khai.

Cần nói ra đôi điều về đạo đức chức năng của hai khối, cần nói về ý-nghĩa và giao ước về xác tín với cộng đồng, về niềm tin-yêu, rất đoàn kết. Cần nói thẳng và nói thật về kinh nghiệm riêng tư bên trong lịch sử của tập thể. Tất cả đều nên đề nghị không gian ban tặng để tạo giao ước sống cùng và sống với nhau, trong thuận hoà.

Vấn đề là: làm sao nói lên được điều đó? Nói thẳng và nói thật theo kiểu parrhesia được bao nhiêu và bao lâu? Nói công khai khôn khéo ư? Mỗi thứ mỗi kiểu được bao lâu và bao nhiêu ngõ hầu đạt thuận hoà, đoàn kết và vui sống, đó mới là mục tiêu đặt ra trước mắt cho cả xã hội ngoài đời và Giáo hội trong Đạo. Đó mới là vấn đề đặt ra cho ta hôm nay.

Trong tinh thần hiểu và biết được như thế, cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, mà hát rằng:

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,

“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”

Xa bạn, xa lòng, xa mắt đẹp,

Gió mưa giòng tóc đắng vành môi”

(Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)

Mưa nguồn chớp bể với nhà thơ, vẫn là giòng tóc, là “hồn động” xa lánh mãi. Xa lánh rồi, nhà thơ cũng nên về với nhà Đạo mình để thấy được rằng: người ta nay đã gần lại với bạn và với tôi, với tất cả những người không còn thấy đắng nơi vành môi nữa, nhưng đã ấm lòng về với dân gian nhà Đạo, rất thuận tình thuận thảo. Ở mọi nơi.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch

Chuyện Phiếm Đạo Đời đọc trong tuần thứ 25 thường niên năm C 22-9-2013

“Hãy nhìn vào đôi mắt em đây,”


Hãy nhìn vào tận trái tim này
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Hạ Vy – Con Gái)

(Mt 5: 43-45 )

Câu hát trên, là tiểu khúc của bài hát “Con gái nói có là Không, Con gái nói không là có”. Bài hát này, thuộc loại ca khúc vui vui, cũng rất ngắn. Ngắn, không chỉ ở chiều dài của trường canh/câu nhạc hoặc âm thanh. Mà ngắn, vì chỉ nói mỗi thế chứ đâu dám nói nhiều. Bởi, nói về đàn bà/con gái vẫn có điều để nói nhiều hơn nữa.

Thế đó, là nhận định về nữ-giới còn trẻ ở đời, rất tình đời. Trẻ, thì mới hát thế chứ ai dám nói và hát điều này với các cụ, chí ít là các lão bà, ở nhà Đạo! Nữ giới nhà Đạo nói không nhiều, chỉ âm thầm nguyện cầu chứ không nói. Nhưng, mỗi lần các bà/các cô xuất-khẩu-thành-thơ, là có chuyện. Những chuyện có vấn đề hẳn hòi chứ chẳng chơi. Đây, không là tuyên ngôn hay tuyên bố gì của ai hết; mà là và chỉ là bí mật được bật mí giữa chốn bạn bè cà phê/cà pháo cũng rất “phê” khi nghe ca sĩ nhà hát bài “Con Gái” của người viết nhạc là Hạ Vy.

Nói gần nói xa, chỉ là dẫn nhập mỗi điều này, là: ngày nay, bà con ta bật mí với nhau nhiều bí mật, về đủ chuyện. Từ, chuyện vai trò người nữ phụ, xem ra có hơi sai về cung cách. Sai, cả đại ý với hình thức. Không tin ư? Mời bạn và mời tôi, ta để thêm ít phút tạt qua vườn hoa thông tin/truyện kể rất đáng nể, để rồi sẽ thấy những điều thiên hạ cứ bật mí các bí mật.

Trước nhất, để cho dễ thở, ta thử nghe đọc vài truyện…rất kể lể như sau:

“Truyện rằng,

Có lần nọ, một người nông dân bị mất chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không là đồng hồ thông thường bởi nó có giá trị về mặt tình cảm đối với ông.

Sau một thời gian dài tìm kiếm rất vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của mấy đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ của ông bị mất, sẽ có thưởng.

Nghe vậy, đám trẻ nhanh chân chạy quanh kho thóc tìm kiếm chiếc đồng hồ. Chúng đi khắp nơi, lục tìm mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận chỗ cho gia súc ăn, vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ ngưng tìm kiếm, thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.

Người nông dân nhìn đứa bé rồi ngẫm nghĩ: “Tại sao lại không chứ? Cuối cùng thì, công nhận: cậu bé này khá chân thành!” Ông dẫn cậu bé trở lại kho. Một lúc sau, cậu chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: “Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn đã từ bỏ?”.

Cậu bé đáp: “Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó”.

Kể xong câu chuyện, nguời kể lại đã nghĩ:  Sự tĩnh lặng trong tâm hồn sẽ tốt hơn với trí não luôn hoạt động. Hãy để tâm trí bạn có nhiều phút nghỉ ngơi, thư giãn mỗi ngày. Hãy xem, hiệu quả nó đem lại để giúp bạn xây dựng cuộc sống mình mong đợi.” (trích dẫn truyện kể trên mạng, nhưng không rõ tên tuổi người kể.)

Thôi thì, kể gì thì kể, nói gì cũng chỉ đến thế. Nói hay kể, cũng chỉ như ý/lời mà người nghệ sĩ, lại cứ vời người nghe nhạc hãy lắng tai nghe câu hát, rất như sau:

“Con gái nói có là không,

Con gái nói không là có
Con gái nói 1 là 2,

Con gái nói 2 là 1
Con gái nói ghét là thương,

Con gái nói thương là ghét
Con gái nói giận là giận yêu,

Con gái còn yêu là còn giận
Đừng nghe những gì con gái nói!

Đừng nghe những gì con gái nói
(Hạ Vy – bđd)

Không hẳn thế đâu. Có thể, người viết nhạc có hát thế, cũng để người nghe cứ chú tâm vào những chuyện “kỳ khú” cho vui cửa vui nhà, mà thôi. Bởi, câu nói của người viết nhạc cũng chỉ muốn lặp đi lặp lại những lời này:

Con gái nói nhớ là quên,

Con gái nói quên là nhớ
Con gái nói buồn là vui,

Con gái nói vui là buồn
Con gái nói không biết ghen, là ghen như điên đấy nhé
Con gái nói không biết yêu, là yêu tới quên đường về
Đừng nghe những gì con gái nói

Đừng nghe những gì con gái nói.”

(Hạ Vy – bđd)

Đúng như tác giả viết: “Con gái có lúc hiền như nai”, nhưng lắm khi “như bà chằng”. Chứ đâu có ngạc nhiên vì: trời còn có lúc nắng lúc mưa, nữa là! Tóm lại, nếu chỉ nghe qua đôi lời ở bài hát, chắc có vị lại sẽ cho rằng: tác giả/tác “thiệt” đôi lúc cũng hơi “nặng lời” hoặc kỳ thị gái/trai. Kỳ thực, nói về con gái hay nữ phụ sao đó, cũng chỉ nên nói như người kể truyện khác, vẫn cứ kể và cứ nói những truyện như bên dưới:

Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẩn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẫn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.

Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẫn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.


Một hôm, Jim thấy cô gái phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt

Cô gái cười và xoa đầu Jim.  Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.
… Jim huýt sáo gọi Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng… Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt!” Jim cười một mình. Rồi cậu gọi: “

-Đến đây Tige!”

Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói:

-Cảm ơn mày! Mày thật là tốt!”


Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẫy lia lịa. “Đến con chó cũng thích nghe lời nói dịu dàng!” – Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: cảm giác tự trọng.

Từ khoảng khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói dịu dàng.

Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế” (Lại một truyện kể lôi từ mạng lưới toàn cầu, rất không tên)

Lan man với truyện kể, hôm nay bần đạo chỉ muốn bảo rằng: thật ra cũng chẳng nên lưu tâm nhiều về người kể truyện rồi hỏi tại sao lại cứ kể những chuyện vẩn vơ, lơ tơ mơ như thế? Mà, chỉ cần xem bạn và tôi, ta có thích loại hình kể lể như thế không, thôi. Hỏi thế rồi, ta đi vào chi tiết bàn bạc xoay quanh truyện kể về lời con gái hoặc con người từng nói. Nói cho dữ, hoặc chỉ chút thôi, cũng là nói những điều người khác hát và nói. Mà, chỉ cần hỏi xem người nghe hát hoặc nghe kể, có tin hay không mà thôi.

Ở nhà Đạo, có nhiều trường hợp tương tự như thế. Tương tự, khi người nhà Đạo nghe nhiều về dụ ngôn/Lời Chúa nói, nhưng có khi vẫn bán tín bán nghi, chẳng hề tin. Tin làm sao, khi Chúa vẫn nói và vẫn kể nhiều truyện dụ-ngôn rất có lý, mà sao người nghe ở người nhà Đạo vẫn như chẳng bao giờ nghe và thực hiện như người rất tin và hay tin.

Có những sự và việc ở nhà Đạo nghe cứ như “lạo xạo”, tưởng chừng như đó chỉ là truyện kể không hơn không kém, nhưng lại là chuyện rất dễ nể, để ta suy nghĩ cho lung, hầu suy xong sẽ đi đến quyết định chứng tỏ mình tin rất vững và cũng xác thực.

Có nhiều lần, đấng bậc trong Đạo vẫn cứ nói và viết rất nhiều về chuyện rất thực trong tin tưởng. Như, người kể khác có tên là Michael McVeigh trênb tờ the Australian Catholics số mùa Đông 2013 ở Úc, như sau:

“Thế giới hôm nay giống như thể tiệm “chạp phô” đầy những tiếng ồn và ánh sáng; có cả những con người chỉ muốn lôi ta ra khỏi chốn miền lặng thinh bằng cách này hay cách khác chỉ để mọi người chú tâm lắng nghe biết thông điệp họ nhắn gửi ở bên trên và bên ngoài, hết mọi sự. Chạp phô này, là nơi là chốn ta dựng xây nên con người là chính ta. Là, tất cả những gì nói lên con người mình qua cung cách ăn mặc, chọn lựa kiểu tóc, bông tai hoặc hình-hài bên ngoài cho hấp dẫn. Có khi còn chọn đội ngũ thể thao, phe phái chính-trị theo ý mình nữa.

Đạo giáo vẫn còn là thành phần trong tiệm “chạp phô” như thế, mặc dù đôi lúc ta vẫn có cảm giác như thể nói đưa đẩy ta ra khỏi lằn ranh chính yếu, quan trọng. Hơn lúc nào hết, con người ngày nay hay tìm đến bản đồ đường đất hướng dẫn ta ngang qua mọi chọn lựa mà thế giới này gửi đến cho ta, và đó còn là nơi chốn khiến đạo giáo có thể đưa ra lời đề nghị về những thứ và những sự có giá trị bền vững. Loại hướng dẫn mà đạo giáo đưa ra cho chúng ta cũng như câu nói của cố linh mục tổng quyền Dòng Tên là Pedro Arrupe từng dặn dò người thân, rằng: “Hãy phải lòng nhau và tiếp tục yêu nhau rồi thì việc ấy cũng sẽ quyết định mọi sự.” …

Nói cho cùng, là tín-hữu Đức Kitô ta đều biết nguồn yêu thương là chính Chúa. Bất cứ con tim nào biết yêu đương cũng đều biết đôi chút về Chúa. Đạo giáo có thể bị thúc và đẩy ra khỏi các con lộ chính của xã hội qua vì các ngân-hàng, nhiều siêu-thị hoặc quán ăn nơi uống, nhưng khi chúng dân tiếp tục kiếm tìm tình yêu cho riêng họ, thì họ cũng sẽ tiếp tục được lôi kéo đến với Chúa, mà thôi.” (Michael McVeigh, Faith in the public square, Australian Catholics, số Winter 2013, tr. 6)

Nói về niềm tin qua yêu thương mà nói như thế, cũng có thể gọi được là “trên mức tuyệt vời”. Chỉ ngắn gọn một vài câu thôi, cũng đầy ý nghĩa, một nhận định. Nhận định, là nhận ra được sự thể ở đời rồi quyết định đường lối cho riêng mình, để sống cho phải phép, rất lẽ đạo. Nhận định, còn là hỏi xem niềm tin của ta “hung hăng xâm lấn” đến thế nào để có thể đi vào lề đường bên phải, của lòng đời? Hỏi và nhận định, còn xem người đi Đạo là ta đã đi vào với xã hội để đem Tin Vui về Tình Thương-yêu của Chúa đến với mọi người, như thế nào?

Hỏi và nhận định ở đây, không có nghĩa “tức, đã trả lời phần nào rồi”, mà là: cơ hội đề người người và mình cùng nhau tiến tới một quyết tâm thực hiện niềm tin trong nhau và có nhau.

Hỏi và nhận định với nhau trong cuộc diện đi vào lòng đời, còn để xem Đạo giáo của ta cống hiến cho đời được những gì? Tìm kiếm những gì nơi đời? Và, người đời? Nhận định và hỏi người hỏi mình, tức còn hỏi rất nhiều mà chưa tìm ra câu giải đáp cho thoả đáng. Bởi thế nên, người viết nhạc ở đời, hôm nay, lại cứ cho hát những lời bay bướm, ít thiết thực, và không hẳn thế, như:

Trời có lúc nắng lúc mưa, Trời có lúc mưa lúc nắng
Con gái có lúc hiền như nai, Con gái có khi như bà chằng
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa,

Con gái lúc mưa lúc nắng
Con gái thế đấy bạn ơi,

mà sao con trai nhớ thương từng ngày
Đừng nghe những gì con gái nói

Đừng nghe những gì con gái nói

Hãy nhìn vào đôi mắt…….Đừng nghe…..con gái nói.”

(Hạ Vy – bđd)

Trái lại, hẳn bạn và tôi, có lẽ ta nên tìm về Lời Hằng Sống có những dặn dò thiết thực và rất đúng của Thày Chí Ái vẫn từng bảo:

“Anh em đã nghe Luật dạy rằng:

Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.

Còn Thầy, Thầy bảo anh em:

hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.

Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,

Đấng ngự trên trời,

vì Người cho mặt trời của Người mọc lên

soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,

và cho mưa xuống trên người công chính

cũng như kẻ bất chính.”

(Mt 5: 43-45)

Trên đường đời và trong cuộc đời, người xấu/tốt, công chính hay bất chính đều có đủ. Cũng nói và cũng làm không chỉ mỗi con gái hay con trai. Xấu tốt hoặc nói lời nghịch ngạo không phải là sở trường/sở đoản của riêng ai. Nên, vấn đề là dù có nghe những người ấy nói hoặc xử xấu với mình, vẫn còn thương hay không, đó mới là vấn đề.

Vấn đề còn là: dù biết nhiều người không muốn nghe hoặc đọc những lời người nhà Đạo nói, vẫn cứ làm. Vẫn cứ thực hiện điều Chúa truyền dạy, vì đó là điểm son tô đậm đặc trưng của “Con cái Chúa”, ta thường quên. Quên hay cố ý không thực hiện những điều Thày Chí Ái từng dạy, nhưng lại cứ thực hiện những hành xử rất trái khuấy/nghịch ngạo như truyện kể ở bên dưới làm đoạn kết, rất như sau:

“Một thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh bị phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh bèn ra bờ sông định tự tử.

Vào canh ba đêm nọ, anh đến trước bờ sông, bỗng nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến gần hỏi cô:

– Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?

Cô gái buồn bã nói:

– Tôi bị người yêu ruồng bỏ, tôi không muốn sống nữa, bởi vì không có anh ấy tôi không sống nổi. Vị thương gia vừa nghe xong lập tức nói:

– Ồ! Lạ nhỉ, sao lúc chưa có bạn trai, cô có thể tự sống được.

Cô gái vừa nghe xong liền bừng tỉnh và bỏ ngay ý định tự tử. Ngay lúc đó thương gia nọ cũng chợt nhận ra rằng: Khi chưa giàu, ta vẫn sống bình thường, cũng tay trắng làm nên! Lúc đó cô gái quay sang hỏi thương gia:

– Đêm hôm lạnh lẽo như vậy, anh ra đây để làm gì?

Thương gia ậm ừ trả lời:

– Ừ… đâu có làm gì, chỉ là tản bộ chút vậy thôi”.

Và, lời bàn của người kể rất “huệ-lộc” mà bảo rằng: “Thì ra, dù mất tất cả nhưng thực sự cũng chỉ bằng lúc ta chưa có mà thôi.” Thật ra thì, có hay không, vẫn là sự thể cuộc đời nhiều khi không có mà lại cũng có. Có-không/không-có, là cuộc đời cứ diễn tiến đến mất mát. Còn lại sẽ là và chỉ là tình yêu-thương chính mình và mọi người. Chính đó là triết-lý của “hư không/trống rỗng” Chúa dạy dỗ hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Lại nhận ra được chân lý

Của cuộc đời.

Với người đời.

Bức Tranh Ðời Người

Bức Tranh Ðời Người

Một họa sĩ vô danh nọ vào thời Trung Cổ đã tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau. Bức tranh thứ nhất họa lại tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi bờ… Em bé nhìn theo sóng nước không sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh lái là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đằng sau bánh lái.

Sang đến bức tranh thứ hai, người ta bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tắp với những háo hức trước những điều mới lạ… Vị thiên thần vẫn còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạt đầu và bóng đen đã thức giấc.

Bức tranh thứ ba là cảnh tuổi trưởng thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tứ bề. Bánh lái đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc. Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để chiếc ghe không bị lật úp…

Cuối cùng, trong bức tranh thứ tư, người ta thấy một cụ già đang ngồi ung dung giữa ghe. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đằng sau.

Ðời là một cuộc hải trình gay go… Ðích điểm có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết chóc. Ðến nơi yên hàn hay đứt gánh giữa đường: số mệnh ấy không ai có thể định đoạt cho ta, mà chỉ có mỗi người phải biết làm chủ, lèo lái con thuyền của mình…

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quá quen thuộc với trò chơi “Thiên Ðàng Hỏa Ngục” mà các em bé thường tụ tập trước sân thánh đường để cùng biểu diễn… Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khéo thì nhờ ai vụng thì sa… Trả lời được một số câu hỏi thì được vào Thiên Ðàng, trả lời không được thì bị chận lại ngoài cửa.

Trò chơi đơn sơ nhưng cũng có tác dụng gieo vào đầu chúng ta một hình ảnh về cuộc đời. Ðời là một cuộc ra đi. Hướng đi của cuộc đời tùy thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu…

Sự thánh thiện là một ơn Chúa ban, nhưng phải mất nhiều lao nhọc, vất vả chiến đấu, con người mới đạt được. Nói đến chiến đấu là nói đến kẻ thù. Con sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé trong cuộc sống của chúng ta là không biết bao nhiêu cạm bẫy giăng mắc trên lối đi của chúng ta. Những cạm bẫy đó từ bên ngoài cũng có, nhưng hầu hết đều xuất phát từ trong tâm hồn chúng ta… Ðó là những dục vọng, đam mê đang cào xé tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta đánh bại được kẻ nội thù ấy và biến chúng thành đạo binh trung thành thì lúc đó chúng ta mới chiến thắng được kẻ thù đến từ bên ngoài…

Khí giới tiên quyết và chủ yếu giúp chúng ta chiến thắng được nội thù đó là sự cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới chiến thắng được loài quỷ này…

Trích sách Lẽ Sống

Jessica

CÁCH BIỆT,

CÁCH BIỆT,

Bây giờ cũng thật rằng xa,
Nhưng trong nỗi nhớ như là có nhau,
Buồn vương khóe mắt phai màu,
Cà phê đắng ngắt …niềm đau lạc đường,
Pha thêm tí sữa sương sương,
Mùi thơm ngào ngạt vấn vương mấy ngày,
Em về cột tóc ngang vai,
Anh đêm trăn trở mơ say thất tình,
Trăng treo đỉnh núi soi hình,
Tương tư chiếc bóng còn in ngõ hồn…

Liverpool .15/9/2013.
Song Như.

Kính gởi quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT

HÔM QUA – HÔM NAY – NGÀY MAI

HÔM QUA – HÔM NAY – NGÀY MAI

***


Quá khứ dù có đẹp đến đâu cũng không thể thay thế hiện tại và tương lai.

“Một lớp của trường tiểu học Mỹ có 26 học sinh đặc biệt vì chúng đều có những quá khứ tội lỗi: em thì đã từng tiêm chích, em thì đã vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ trong một năm đã phá thai ba lần.

Gia đình đã từ bỏ chúng, các thầy cô giáo và nhà trường cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Cuối cùng, lớp học được giao cho cô giáo Phila chủ nhiệm.

Ngay ngày đầu tiên của năm học, Phila đã không dọa nạt, ra oai với chúng như những giáo viên trước mà cô nêu ra cho cả lớp một câu hỏi sau: “Cô kể cho các em một số điểm trong quá khứ của 3 ứng cử viên như sau:

Người thứ nhất luôn tin vào y thuật của thầy cúng. Ông ấy từng có hai người tình, ông ta hút thuốc và nghiện rượu trong nhiều năm liền.

Người thứ hai đã từng bị đuổi việc hai lần. Ngày nào ông ta cũng ngủ đến trưa, tối nào cũng uống một lít rượu brandy và cũng từng hút thuốc phiện.

Người thứ ba từng là anh hùng trong chiến đấu. Ông ta luôn giữ thói quen ăn kiêng, không hút thuốc, thỉnh thoảng mới uống rượu, thường uống bia nhưng không uống nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp”.

Cô hỏi cả lớp trong 3 người, ai sau này sẽ cống hiến nhiều nhất cho nhân loại. Các em học sinh đồng thanh chọn người thứ 3, nhưng cô giáo làm cho cả lớp kinh ngạc khi trả lời:

“Các em thân mến, cô biết chắc chắn các em sẽ cho rằng chỉ có người thứ ba mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.

Ba người này là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2:

Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường, ông đảm nhận chức vụ tổng thống Mỹ trong bốn nhiểm kỳ liên tiếp.

Người thứ hai là Winston Churchill, thủ tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh.

Người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.

Khi cô nói xong, tất cả học sinh đều ngây người nhìn cô và như không tin nổi những gì chúng vừa nghe thấy. Cô giáo nói tiếp:

“Các em có biết không, những điều mà cô nói về ba nhân vật này là quá khứ của họ. Còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi họ thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu, vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ. Cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước Ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm nhất trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành những người xuất chúng… “.

Sau khi những học sinh này trưởng thành, rất nhiều người trên cương vị công tác của mình đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người trở thành nhà du hành vũ trụ. Điều đáng nói là, Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, giờ đây trở thành giám đốc tài chính trẻ nhất của phố Wall”.

Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ và hướng thiện, những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều trở thành dĩ vãng. Chỉ cần bạn thực sự chịu trách nhiệm với bản thân, chịu trách nhiệm với tương lai, tích cực nỗ lực để gia nhập vào đội ngũ những người cầu tiến, ngày mai chắc chắn bạn sẽ thành công.

***

 



Vài lời hay ý đẹp từ “đám mây kiến thức”:

– Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng (Jefferson).

– “Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị” (Albert Einstein).

– Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đầy thêm bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai.

– Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng.

– Cuộc sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang.

– Người nào hay bị kích động, người đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một tinh thần mạnh mẽ.

– Hãy khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu.

– Can đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời.

– Có nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ mới có được.

– Người không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn có cái hình đẹp trong gương.

– Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác.

– Sự tôn trọng không đến từ công việc mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó.

– Bạn có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng.

– Khi ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình khổ đau.

– Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là nỗi bận tâm.

– Người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc.

– Đối với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động.

– Ta phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách.

– Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.

 

Sống Thọ vui vẻ

Sống Thọ vui vẻ

Người ta có thể sống khoẻ ở lứa tuổi 90 và vẫn hạnh phúc?


Tháng 2 vừa qua ở Riverside, bang Connecticut của Hoa Kỳ, Đức ông Alan Detscher, Cha sở Nhà thờ Thánh Catherine thành Siena, giáo xứ của tôi, bước đến micro vào cuối Thánh lễ để rao vài thông báo. Thông báo cuối cùng của ngài là mời bà cụ Caroline Dulcibella, đang ngồi hàng ghế khoảng giữa nhà thờ, đứng lên để nhận tràng pháo tay của cộng đoàn: Cụ Dulcibella được 97 tuổi ngày hôm đó. Cụ tươi cười và chờ đợi. Chúng tôi vỗ tay và rất ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì nhìn thấy bà cụ với dáng người nhỏ nhắn nhưng mạnh mẽ, thực tế là chúng ta đang sống thọ hơn, một số ở lứa tuổi 100.

Năm 1900, tuổi thọ trung bình chỉ là 46-48 năm. Từ năm 1980 đến 2010, tuổi thọ trung bình ở Hoa Kỳ tăng từ 70 tới 76 năm đối với nam và từ 77 tới 81 năm đối với nữ, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC).

Được chứ, Dan Buettner, tác giả có số sách bán chạy nhất của New York Times và là người sáng lập và giám đốc điều hành của Khu vực Xanh (Blue Zones) cho biết.

Trong suốt 10 năm, Buettner đã nghiên cứu và viết về những người đã sống cuộc sống lâu dài trong hạnh phúc đo được ở “Khu vực Xanh”.

Buettner phối hợp với Nguyệt san National Geographic để tìm kiếm và nghiên cứu những người sống thọ nhất thế giới. Với sự hỗ trợ của các nhà nhân khẩu học, ông đã tìm thấy những nhóm người trên toàn thế giới với tuổi thọ cao nhất hoặc hầu hết những người sống đến 100 tuổi. 5 địa điểm phù hợp với tiêu chí: Barbagia thuộc vùng Sardinia; Ikaria của Hy Lạp; bán đảo Nicoya của Costa Rica; tín hữu Tin Lành Seventh Day Adventist quanh vùng Loma Linda của California; và Okinawa của Nhật Bản.

Với sự hỗ trợ của một nhóm chuyên gia, Buettner xác định 9 đặc điểm thường được tìm thấy ở những người có tuổi thọ cao nhất . Buettner khám phá ra rằng những người sống thọ như thế có một ý thức mạnh mẽ về mục đích, hoạt động, ăn uống lành mạnh và thực hành một truyền thống đức tin, trong số những đặc điểm quan trọng khác. Nó chỉ ra rằng cụ Dulcibella kết hợp nhiều thuộc tính vào cuộc sống hằng ngày của mình phù hợp với những khám phá của Buettner.

Sinh năm 1916 ở Danbury, bang Connecticut, Cụ Dulcibella, một y tá sức khoẻ công cộng đã về hưu, luôn cho rằng tuổi thọ của cụ là nhờ gen tốt từ bố mẹ. Trong số 7 anh chị em, chỉ có em gái Lucy, 88 tuổi, ở Georgetown, Texas, và em trai Peter 92 tuổi của cụ ở Silver Spring, Maryland, là còn sống.

Cụ theo học Trường Điều dưỡng Thánh Phanxicô ở Hartford, bang Connecticut. Ngay sau đó, cụ trở thành một y tá quân đội và đi đến châu Âu trong Thế chiến II. Sau chiến tranh, cụ nhận được văn bằng y tế công cộng tại Đại học New York do chương trình GI tài trợ.

Dù chưa từng kết hôn, cụ Dulcibella đã luôn luôn kết nối với mọi người trong vai trò một y tá công cộng và y tá ở Norwalk và Greenwich, bang Connecticut. Cụ nghỉ hưu vào năm 1978.

“Toàn bộ nhân viên điều dưỡng rất mến Carrie (tên thân mật của cụ Caroline Dulcibella) và học chuyên môn của cụ trong nhiều vấn đề”, ông Barbara Ward Bilek, nguyên là y tá và giám đốc điều dưỡng y tế công cộng của Phòng Y tế Gia đình ở Greenwich của bang Connecticut, cho biết. “Là một y tá thâm niên, Carrie là công cụ định hướng cho các nhân viên mới, trong đó có tôi. Cụ là cố vấn cho nhiều y tá”, ông nói.

“Ơn gọi làm y tá vẫn mạnh mẽ trong Caroline cũng như đức tin Công giáo của cụ”, Detscher nói. “Trong thực tế, người này nuôi dưỡng người khác. Vào lứa tuổi trung tuần 90, cụ vẫn quan tâm đến các cư dân của Hill House (cộng đồng hưu trí nơi cụ sống) và thậm chí còn đưa Mình Thánh Chúa cho những ai không thể tham dự Thánh lễ. Đối với Caroline, thể chất và tinh thần được liên kết mật thiết với nhau.”

Hiện nay, Cụ Dulcibella sống trong một nhà dưỡng lão chỉ cách nhà thờ 50 mét và cụ thường dùng khung đi bộ đến nhà thờ tham dự Thánh lễ. Là một người chịu lễ hằng ngày, Cụ Dulcibella tham gia ca đoàn giáo xứ và là một giáo lý viên.

“Tôi không thích uống thuốc, vì vậy tôi cố gắng chữa lành cho mình. Tôi dùng 6 viên vitamin mỗi ngày và một viên vitamin tổng hợp”, cụ nói. Vận động cơ thể rất quan trọng đối với cụ. “Tôi thường chơi bowling và có mặt trong một đội bowling. Tôi cũng cố gắng làm nhân viên cấp cứu càng nhiều càng tốt khi tôi có thể”, cụ chia sẻ.

Một chìa khoá khác cho cuộc sống hạnh phúc lâu dài là tăng trưởng đời sống tâm linh của mình.

“Thiên Chúa có tiếng nói cuối cùng”, cụ nói, “tôi tin tưởng mạnh mẽ trong lời cầu nguyện riêng, đặc biệt là Kinh Mân Côi. Tôi cố gắng lần chuỗi hằng ngày. Tôi nghĩ nó đã giúp cho tôi rất nhiều sức mạnh để đi tham dự Thánh lễ”.

“Tôi cầu nguyện cho những người trong gia đình tôi để họ được ra đi trong hạnh phúc. Tôi cầu nguyện cho hoà bình trên thế giới, trong các ngôi nhà và trong gia đình chúng tôi. Ở tuổi 97, mỗi ngày là một ân huệ”, Cụ Dulcibella nói.

“9 lời khuyên tuyệt vời” để sống lâu hơn

Với sự trợ giúp của các nhà nghiên cứu y tế, nhân chủng học, nhân khẩu học và dịch tễ học, Dan Buettner xác định 9 đặc điểm thường thấy trong số những người sống lâu nhất thế giới. Điều ông gọi là “9 lời khuyên tuyệt vời” bao gồm:

1. Vận động một cách tự nhiên: Sống lâu nhất thế giới là sống trong môi trường liên tục vận động mà không cần suy nghĩ về nó. Chẳng hạn, người ta làm vườn và không có phương tiện cơ khí cho công việc.

2. Có mục đích: Biết “lý do tại sao tôi thức dậy vào buổi sáng” và điều này giúp tăng thêm 7 năm tuổi thọ.

3. Trút bỏ: Những người sống trong “Khu vực Xanh” trải qua căng thẳng như chúng ta, nhưng có thói quen trút bỏ căng thẳng đó. Dân chúng Okinawa dùng vài phút mỗi ngày để nhớ đến tổ tiên của họ, tín hữu cầu nguyện, người Ikarians chợp mắt một chút và người Sardinia làm giờ hạnh phúc.

4. Quy tắc 80: Họ ngừng ăn khi dạ dày no đủ 80%.

5. Thiên về thực vật: Người sống lâu có chế độ ăn tập trung vào các loại đậu và ăn thịt chỉ 5 lần mỗi tháng.

6. Uống rượu vừa phải: Dân cư Khu xanh uống rượu vừa phải và thường xuyên. Người uống quân bình sống lâu hơn người không uống.

7. Thuộc về: Tất cả ngoại trừ 5 trong số 263 người sống trăm tuổi do Buettner phỏng vấn đều thuộc về một cộng đồng tôn giáo. Thuộc tôn giáo nào dường như không thành vấn đề. Nghiên cứu cho thấy việc tham dự các buổi phụng vụ đức tin 4 lần mỗi tháng sẽ tăng thêm từ 4 đến 14 năm tuổi thọ.

8. Ưu tiên những người thân: Những người sống trăm tuổi thành công tại Khu đất xanh đặt gia đình làm ưu tiên. Điều này có nghĩa là giữ cha mẹ già và ông bà cận kề hoặc trong nhà (nó làm giảm bệnh tật và tỷ lệ tử vong của trẻ em ở nhà). Họ cam kết với một người bạn đời (có thể tăng thêm 3 năm tuổi thọ) và đầu tư cho con cái bằng thời gian và tình yêu thương.

9. Môi trường tốt: Người sống lâu nhất thế giới đã chọn – hoặc được sinh ra – trong môi trường xã hội hỗ trợ những hành vi lành mạnh. Những thói quen tốt hoặc xấu thường dễ lây nhiễm. Vì vậy, các phúc lợi xã hội đã hình thành những hành vi lành mạnh khiến người dân được sống lâu.

Những tương đồng khác về văn hoá ở Khu vực Xanh bao gồm việc giữ mình năng đông, giao tiếp xã hội thường xuyên và có một “thói quen thiêng liêng hằng ngày”, dành thời gian để cầu nguyện, thiền định hoặc ngủ trưa – Buettner nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây trong chương trình Sức khoẻ hằng ngày.

Hùng Nguyễn

CHUYẾN BAY DELTA 15

CHUYẾN BAY DELTA 15

Jerry Brown

Vào sáng ngày Thứ Ba, 11 Tháng Chín năm 2001, chúng tôi đã rời khỏi Frankfurt khoảng 5 giờ đồng hồ rồi và đang bay qua Bắc Đại Tây Dương.

Thình lình tấm màn ngăn cách giữa buồng lái với khoang tàu chứa hành khách vén mở và tôi được gọi vào buồng lái gặp phi công trưởng ngay lập tức.

Vừa bước vào buồng lái là tôi để ý nhận thấy ngay nét nghiêm trọng lộ trên khuôn mặt mọi người. Phi công trưởng đưa cho tôi một bản in ra vừa nhận từ trụ sở chính của hãng Delta Airlines ở Atlanta viết vỏn vẹn câu:Mọi tuyến không lưu trên lục địa Hoa Kỳ đều ngăn cấm giao thông hàng không thương mại. Hãy đáp khẩn cấp càng sớm càng tốt xuống phi trường nào gần nhất. Hãy thông báo điểm đáp. “

Không ai nói một lời nào cho tôi biết điều này mang ý nghĩa. Chúng tôi biết đây là một tình thế nghiêm trọng và chúng tôi cần phải tìm đất liền để đáp ngay. Phi công trưởng xác định sân bay gần nhất là phi trường Gander, Newfoundland, cách 400 dặm. Ông liên lạc với trạm không lưu Canada để xin cho thay đổi đường bay và được chấp thuận ngay mà không cần hỏi lý do. Tất nhiên sau đó chúng tôi đã hiểu ra lý do tại sao họ chấp thuận không do dự.

Trong khi phi hành đoàn chuẩn bị cho máy bay hạ cánh, một tin nhắn đến từ Atlanta báo cho chúng tôi biết có hoạt động khủng bố trong khu vực New York. Vài phút sau tin cập nhật cho biết có không tặc.

Chúng tôi quyết định nói dối với hành khách trong khi chúng tôi vẫn còn ở trên không. Chúng tôi nói với họ rằng máy bay gặp một trục trặc nhỏ về cơ khí và cần phải hạ cánh tại sân bay gần nhất ở Gander, New Foundland để kiểm tra. Chúng tôi hứa sẽ cung cấp thêm thông tin sau khi hạ cánh ở Gander. Có nhiều hành khách phàn nàn, nhưng điều đó không có gì là lạ. Bốn mươi phút sau, chúng tôi hạ cánh xuống Gander. Giờ địa phương lúc bấy giờ tại Gander là 12:30 PM tức là 11:00 AM New York.

Khi chúng tôi đáp thì đã có khoảng 20 máy bay khác trên mặt đất đến từ khắp nơi trên thế giới và họ cũng đã phải chọn lối đi vòng này trên đường đến Hoa Kỳ.

Sau khi chúng tôi đã đậu trên phi đạo chờ lệnh mới, phi công trưởng thông báo như sau: “Thưa quý vị, chắc quí vị thắc mắc phải chăng tất cả các máy bay xung quanh chúng ta có vấn đề cơ khí tương tự như chúng ta. Thật ra chúng ta đang ở đây một lý do khác.” Sau đó, ông tiếp tục giải thích thêm đôi chút cho chúng tôi biết về tình hình tại Hoa Kỳ. Có những tiếng thở hổn hển ồ to lên những tia nhìn hoài nghi thảng thốt. Phi công trưởng thông báo cho hành khách biết rằng giới hữu trách của phi trường Gander bảo chúng tôi giữ yên tại chỗ.

Bấy giờ trách nhiệm và quyền quyết định về tình trạng của chúng tôi tùy thuộc ở chính phủ Canada và lệnh của họ là không ai được ra khỏi máy bay. Và cũng không ai dưới đất được phép đến gần bất kỳ phi cơ nào. Chỉ có cảnh sát sân bay cứ lâu lâu lại đến dòm ngó chúng tôi một lúc, xong đi qua các máy bay khác. Trong khoảng một giờ đồng hồ kế tiếp, thêm nhiều máy bay hạ cánh và sau cùng Gander tiếp nhận tất cả là 53 máy bay từ khắp nơi trên thế giới, 27 chiếc trong số đó là phi cơ hàng không thương mại của Mỹ.

Trong khi đó, những mảnh tin tức bắt đầu phát ra trên hệ thống âm thanh của phi cơ. Lần đầu tiên chúng tôi được biết các phi cơ bị không tặc đã đâm vào Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới ở New York và vào Ngũ Giác Đài trong vùng Washington DC. Mọi người cố gắng ng điện thoại di động của họ, nhưng không thể kết nối hệ thống truyền sóng ở Canada khác. Một số người gọi thông qua được, nhưng chỉ có thể với tổng đài ở Canada họ cho biết rằng các làn sóng nối kết vào đất Mỹ đã bị chặn hoặc bị nghẹt.

Khoảng vào buổi tối trong ngày, tin tức cho chúng tôi rằng hai tòa cao ốc Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới đã sụp đổ và chiếc phi cơ thứ tư bị không tặc đã đâm xuống đất. Bấy giờ hành khách đều kiệt sức về thể chất lẫn cảm xúc, không kể nỗi sợ hãi, nhưng tất cả mọi người đều bình tĩnh đáng kinh ngạc. Chúng tôi chỉ cần nhìn ra ngoài cửa sổ thấy 52 phi cơ bị lạc khác để nhận ra rằng chúng tôi không phải là người duy nhất trong tình trạng khó khăn này.

Trước đó chúng tôi được thông báo rằng họ sẽ cho phép hành khách lần lượt ra khỏi máy bay mỗi lần một chiếc. Lúc 6 giờ chiều, sân bay Gander nói với chúng tôi rằng phiên chúng tôi được phép rời phi cơ sẽ 11 giờ sáng hôm sau. Hành khách không hài lòng tí nào, nhưng họ cũng buông xuôi chấp nhận tin không vui này mà không phản đối ồn ào; họ bắt đầu chuẩn bị sẵn sàng để ở qua đêm trên máy bay.

Gander hứa với chúng tôi sẽ chăm sóc y tế, nếu cần thiết, nước, và dịch vụ vệ sinh. Và họ đã giữ lời. May mắn thay chúng tôi không có tình huống y tế nào phải lo lắng. Chúng tôi có một phụ nữ trẻ mang thai 33 tuần. Chúng tôi đã chăm sóc rất chu đáo cho thai phụ đó. Đêm trôi qua không gặp biến cố nào ngoại trừ sự xếp đặt chỗ ngủ không được thoải mái.

Khoảng 10 giờ 30 sáng ngày 12, một đoàn xe buýt trường học chạy đến. Chúng tôi ra khỏi máy bay và được đưa đến nhà ga, nơi chúng tôi thông qua thủ tục nhập cảnh và quan thuế, và sau đó phải ghi danh với Hội Hồng Thập Tự.

Sau đó chúng tôi (phi hành đoàn) được tách ra khỏi đám đông hành khách và được xe van đưa đến một khách sạn nhỏ. Chúng tôi không biết hành khách của chúng tôi được đưa đi đâu. Nhân viên của Hội HTT cho chúng tôi biết rằng thị trấn Gander có dân số 10.400 người và họ đang có khoảng 10.500 hành khách phải chăm sóc từ tất cả các máy bay đã buộc phải đáp xuống Gander! Họ bảo chúng tôi hãy yên tâm nghỉ ngơi tại khách sạn và họ sẽ liên lạc khi các phi trường Mỹ mở và hoạt động trở lại, nhưng chắc cũng mất một thời gian.

Chỉ khi chúng tôi đến khách sạn và bật TV lên, chúng tôi mới biết hết toàn diện của cuộc tấn công khủng bố ở quê nhà (nước Mỹ), 24 giờ sau khi bắt đầu diễn ra.

Trong lúc đó, chúng tôi có rất nhiều thì giờ rảnh rỗinhận thấy rằng người dân Gander vô cùng thân thiện. Họ bắt đầu gọi chúng tôi là “người máy bay.” Chúng tôi hưởng nhận tính hiếu khách của họ, khám phá thị trấn Gander và kết cuộc là đã được trải qua một khoảng thời gian khá tốt đẹp ở nơi đây.

Hai ngày sau, chúng tôi được gọi và được đưa trở lại sân bay. Trên máy bay, chúng tôi đoàn tụ với các hành khách và km phá những gì họ đã làm trong hai ngày qua. Những điều chúng tôi khám phá đó thật không thể tin được.

Gander và tất cả các cộng đồng xung quanh (trong vòng bán kính 75km) đã đóng cửa tất cả các trường trung học, hội trường, nhà nghỉ, và bất kỳ nơi tập hợp lớn nào khác. Họ biến đổi tất cả các cơ sở vật chất đó thành chỗ trú ngụ chung cho tất cả lữ khách lỡ đường. Có chỗ thì trải chiếu, chỗ thì trải nệm, chỗ thì trải túi ngủ và gối nằm.

Tất cả các học sinh trung học được kêu gọi tình nguyện thì giờ để chăm sóc cho “khách.” 218 hành khách của phi cơ chúng tôi được đưa tới một thị trấn có tên là Lewisporte, cách Gander khoảng 45 cây số, nơi đó họ được trú ngụ trong một trường trung học. Hành khách phụ nữ nào muốn có khu ngủ riêng cũng được sắp xếp theo ý muốn. Các hành khách đi chung cả gia đình cũng được giữ lại chung với nhau. Tất cả các hành khách lớn tuổi được đưa tới nhà riêng.

Các bạn còn nhớ người phụ nữ trẻ mang thai chứ? Bà ấy được đưa đến một nhà riêng đối diện bên kia đường với một cơ sở chăm sóc khẩn cấp 24 giờ. Có một nha sĩ được cử sẵn nếu cần đến, các y tá nam và nữ túc trực cạnh đám đông trong suốt thời gian tạm trú.

Các cuộc gọi điện thoại và e-mail cho Mỹ và thế giới được thiết lập sẵn để tất cả mọi người có thể dùng mỗi ngày một lần. Vào ban ngày, hành khách được cung cấp các chuyến du ngoạn“. Một số chọn đi du ngoạn bằng tàu thuyền trên các hồ và bến cảng. Một số chọn đi băng đồng trong các khu rừng của địa phương. Các tiệm nướng bánh địa phương tiếp tục mở cửa để làm bánh mì tươi cho khách hàng.

Thức ăn được các cư dân nấu nướng ở nhà rồi mang đến cho các trường học. Người nào thích dùng bữa ở nhà hàng theo sự lựa chọn của họ cũng được đưa đi và được cung cấp các bữa ăn tuyệt vời. Tất cả mọi người đều được cấp phiếu đến các tiệm giặt địa phương để giặt quần áo vì tất cả hành lý vẫn còn giữ trên máy bay.

Nói cách khác, mỗi nhu cầu thuần nhất của lữ khách lỡ đường cũng đều được đáp ứng đầy đủ. Hành khách đã khóc khi kể lại với chúng tôi những câu chuyện này.

Cuối cùng, khi có tin tất cả phi trường ở Mỹ đã mở cửa trở lại, họ được chở đến sân bay đúng giờ không thiếu một hành khách nào. Hội HTT địa phương đã nắm đầy đủ tất cả các thông tin của mọi hành khách và đã đưa trả hành khách về lại đúng chuyến bay. Họ phối hợp tất cả mọi thứ một cách tốt đẹp. Thật đúng là hoàn toàn không thể tin được.

Khi hành khách đã trên tàu, nó giống như họ vừa mới đi một chuyến du hành trên biển. Tất cả mọi người đều biết tên nhau. Họ trao đổi những câu chuyện của họ trong mấy ngày qua, khoe với nhau xem người nào được đối xử tốt hơn.

Chuyến bay của chúng tôi về đến Atlanta trông giống như một chuyến bay du ngoạn ăn chơi được thuê bao. Phi hành đoàn tránh ra để họ tự do. Thật không thể tưởng. Hành khách hoàn toàn hàn gắn với nhau và gọi nhau bằng tên một cách thân mật, cùng nhau trao đổi số điện thoại, địa chỉ nhà, địa chỉ email.

Và sau đó là một điều rất lạ thường xảy ra. Một trong những hành khách của chúng tôi đến gần tôi và hỏi tôi rằng ông ta có thể dùng hệ thống âm thanh của phi cơ để nói vài lời được không. Chúng tôi không bao giờ cho phép điều đó. Nhưng lần này thì khác. Tôi nói “tất nhiên” và đưa máy vi âm cho ông. Ông nhắc mọi người về những gì họ vừa trải nghiệm trong mấy ngày qua. Ông nhắc nhở họ về lòng hiếu khách mà họ đã nhận được từ tay của những con người hoàn toàn xa lạ. Ông tiếp tục nói rằng ông muốn làm một điều gì đó để đền đáp lại cho những cư dân tốt bụng của Lewisporte.

Ông cho biết ông sẽ thành lập một Quỹ tín thác dưới tên của DELTA 15 (Số hiệu chuyến bay của chúng tôi). Mục đích của quỹ tín thác là cung cấp học bổng đại học cho học sinh trung học của Lewisporte. Ông kêu gọi mọi khách đồng hành cùng chuyến bay đóng góp bất kỳ số tiền bao nhiêu cũng được. Khi chúng tôi đã gom góp đủ hết các tờ giấy ký hứa có ghi số tiền, tên họ, số điện thoại và địa chỉ, tổng số khoản tài trợ là trên $14.000!

Người đề xướng đó là một bác sĩ ở Virginia, ông hứa phần ông sẽ đóng góp bằng với số tiền đó sẽ tiến hành thủ tục giấy tờ lập học bổng. Ông cũng nói rằng ông sẽ chuyển đề nghị này đến Công Ty Hàng Không Delta và sẽ yêu cầu họ cùng hiến tặng.

Khi tôi viết bài này, quỹ tín thác đã lên hơn $1.5 triệu và đã hỗ trợ 134 học sinh theo học đại học.

Tôi chỉ muốn chia sẻ câu chuyện này bởi vì bây giờ chúng ta cần những câu chuyện đẹp như thế này. Nó mang lại cho tôi một chút hy vọng khi biết rằng người ta dù ở nơi xa xôi vẫn có thể đối xử tử tế với người lạ trôi dạt tới. Nó nhắc tôi thế giới này có bao nhiêu điều tốt đẹp. Bất chấp mọi điều xấu xa chúng ta thấy đang diễn ra trong thế giới ngày nay, câu chuyện này khẳng định rằng vẫn còn rất nhiều người tốt và thánh thiện trên thế giới và họ sẽ hiện ra khi tình thế xấu tệ đi.

Xin thượng đế ban phước cho Hoa Kỳ. Xin thượng đế ban phước cho người dân Canada… và đặc biệt là xin thượng đế ban phước cho người dân Newfoundland.”

(Phan Hạnh chuyển ngữ)

Mắng dân ‘vô ơn’, bí thư thành phố Trung Quốc bay chức

Mắng dân ‘vô ơn’, bí thư thành phố Trung Quốc bay chức

Hình ảnh bí thư đảng ủy Lương Văn Dũng ở thành phố Cô Sơn Tử trong đoạn video quay lén, sau đó đã được tải lên trang Sina

Hình ảnh bí thư đảng ủy Lương Văn Dũng ở thành phố Cô Sơn Tử trong đoạn video quay lén, sau đó đã được tải lên trang Sina

18.09.2013

Một quan chức Trung Quốc bị bãi chức sau khi một video trên mạng quay cảnh ông này phàn nàn về sự vô ơn của người dân thường Trung Quốc trong khi ông đang thưởng thức tôm hùm và uống rượu cao cấp, một vụ việc khiến dư luận phẫn nộ.

Ðoạn video dài năm phút phát tán trên những trang mạng xã hội Trung Quốc quay cảnh bí thư đảng ủy Lương Văn Dũng ở thành phố Cô Sơn Tử, thuộc tỉnh Hà Bắc, mắng mỏ người dân thường Trung Quốc trong lúc đang ăn uống linh đình tốn kém.

Ðược quay bí mật hồi tháng Năm nhưng đưa lên Internet vào giữa tháng Chín, video ghi lại phát biểu của vị quan chức to béo tại bàn ăn: “Bọn chúng có gạo trong tay, thịt trong miệng mà còn chửi mình. Bọn dân này là vậy đấy, thật không biết xấu hổ là gì.”

Thông tin trong đoạn video cho biết bữa tiệc của nhóm quan chức này, gồm hải sản, rượu và thuốc lá đắt tiền, có chi phí gần 10.000 nhân dân tệ (khoảng hơn 1.500 đô la Mỹ).

Cơ quan truyền thông nhà nước – Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc – cho biết hôm thứ Ba rằng, giới chức kỷ luật huyện xác nhận video này là thật và ông Lương đã bị bãi chức vô thời hạn sau khi video nhanh chóng truyền đi khắp nơi.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát động một chiến dịch quyết liệt bài trừ tận gốc tham nhũng sau khi nhậm chức vào tháng Ba năm nay.

Nguồn: Reuters, Business Insider