Việt Nam : « Côn đồ » phá rối đám tang luật gia Lê Hiếu Đằng ở Saigon

Việt Nam : « Côn đồ » phá rối đám tang luật gia Lê Hiếu Đằng ở Saigon

Các vòng hoa viếng luật gia Lê Hiếu Đằng trước khi bị giựt mất băng-rôn.

Các vòng hoa viếng luật gia Lê Hiếu Đằng trước khi bị giựt mất băng-rôn.

blog Huỳnh Ngọc Chênh

Thụy My

RFI

Hôm nay 24/01/2014, một số côn đồ không rõ từ đâu đã thô bạo phá rối đám tang của luật gia nổi tiếng Lê Hiếu Đằng tại chùa Xá Lợi ở quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh, gây phẫn nộ cho những người mến mộ đến viếng vị luật gia đã từng bền bỉ đấu tranh vì dân chủ.

Ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, người đầu tiên công khai đề nghị thành lập một đảng Dân chủ Xã hội để làm đối trọng với đảng Cộng sản, cũng như gây xôn xao với quyết định từ bỏ đảng, đã từ trần ngày 22/01/2014, thọ 70 tuổi. Đông đảo người thuộc nhiều thành phần đã đến viếng linh cữu ông tại chùa Xá Lợi, và tại Hà Nội, các nhân sĩ trí thức đã tổ chức lễ tưởng niệm ông. Lễ động quan sẽ diễn ra ngày Chủ nhật 26/01.

Nhưng một số băng-rôn trên vòng hoa viếng luật gia Lê Hiếu Đằng đã bị những bàn tay bí mật gỡ mất hôm qua, và khi ban tổ chức đặt những băng-rôn khác thay thế thì đã bị cướp giật thô bạo ngay tại chỗ, khiến người ta phải liên tưởng đến đám tang ông Trần Độ trước đây.

Nhà báo Phạm Chí Dũng có mặt tại chỗ đã lên tiếng phản đối :

Nhà báo Phạm Chí Dũng – TP Hồ Chí Minh

 

24/01/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:01)

 

 

 

 

Cảnh xô xát giựt băng-rôn tại lễ tang luật gia Lê Hiếu Đằng

blog Người Lót Gạch

Được biết không chỉ ông Lê Thanh Hải mà cả cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, và phu nhân đương kim Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng đến viếng luật gia Lê Hiếu Đằng với tư cách cá nhân.Phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng đang có mặt, cho biết hết sức bất ngờ trước việc đám tang bị phá rối :

PGSTS Hoàng Dũng – TP Hồ Chí Minh

 

24/01/2014
by Thụy My

 

Nghe (04:25)

 

 

 

Còn ông Nguyễn Quốc Thái, thành viên ban tổ chức lễ tang cũng cho biết không thể nào hiểu được vì sao những dòng chữ rất bình thường là « Ủy ban Công lý và Hòa bình, Hội đồng Giám mục Việt Nam kính viếng, », « Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình kính viếng cũng bị những người lạ mặt giựt mất.

 

‘Có thể 50% quan chức dính tham nhũng’

‘Có thể 50% quan chức dính tham nhũng’

Thứ sáu, 24 tháng 1, 2014

BBC

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

TS Phạm Chí Dũng

TS Phạm Chí Dũng nói các nhóm lợi ích đã câu kết, lũng đoạn gây ra nạn tham nhũng nhà nước trầm trọng.

Tham nhũng nhà nước có thể đẩy tới một cuộc ‘khủng hoảng chính trị, xã hội’ khó tránh khỏi ở Việt Nam mà hệ quả sau cùng có khả năng dẫn tới tới việc thay đổi hoàn toàn bản chất của nhà nước và chế độ, theo ý kiến của nhà bình luận từ trong nước.

Tham nhũng nhà nước liên kết phức tạp, sâu rộng với các nhóm lợi ích có thể làm cho ít nhất 50% quan chức ở Việt Nam dính vào ‘tham nhũng’, mà trong đó, có thể có tới 20% số có ‘đặc quyền đặc lợi’ ở cấp độ trung cao có sự can dự, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói với BBC hôm 23/01/2014.

Vẫn theo nhà kinh tế, đồng thời là nhà báo tự do này, nếu tính trên tổng số ít nhất 2 triệu công chức ở Việt Nam, tỷ lệ này cho thấy một con số tiềm năng của tham nhũng nhà nước ở mức khá lớn, với khoảng 400 nghìn người có thể ‘dính vào tham nhũng’.

So với Trung Quốc, theo ông Dũng, Việt Nam chưa cho tiến hành các cuộc điều tra được công bố công khai, rộng khắp về tham nhũng nhà nước, trong đó minh bạch hóa các nguồn tài sản và thu nhập thực tế giới chức chính phủ ở các cấp, đặc biệt ở nhóm quyền chức trung, cao.

Nhà quan sát độc lập cũng phân tích các hình thức tham nhũng, các dòng chuyển động đưa tài sản ‘phi pháp’ ra nước ngoài mà không công bố, không khai thuế, không chỉ dừng ở ‘rửa tiền’ đơn giản, mà còn ‘quay vòng vốn’ trở lại trong nước, tạo thêm lợi nhuận, sau khi đã ‘làm sạch’.

‘Tuồn, tẩu tài sản’

Ông Dũng nêu giả thuyết có thể có từ 25-30% nguồn ‘kiều hối’ được điều chuyển trở lại thị trường trong nước có nguồn gốc không rõ ràng, và có thể đến từ các hoạt động rửa tiền, quay vòng vốn của các quan chức, nhóm lợi ích từ Việt Nam.

Nhà quan sát từ Sài Gòn cũng phân tích những khía cạnh của hiện tượng mà ông gọi là nền kinh tế đen, hiện tượng nhóm lợi ích, các quan chức được cho là ‘tha hóa’ đã tham nhũng ra sao, câu kết như thế nào với các đại gia, các nhóm lợi ích xấu trên các lĩnh vực kinh tế trong nước, từ ngân hàng, tài chính, cho tới khai thác mỏ, quặng, khoáng sản, thâm lạm công quỹ v.v…

Đặc biệt, ông chỉ ra mức độ, cách thức phổ biến trong nhiều năm qua của việc ‘tuồn tài sản tham nhũng’ và ‘cài cắm’ con cháu ra nước ngoài, như những phương án ‘tẩu tán’ và ‘chuẩn bị tháo thân’ khi cần thiết của nhiều đối tượng ‘tham nhũng nhà nước’.

Mở đầu cuộc trao đổi với BBC, ông Dũng lấy làm tiếc về việc chính quyền Việt Nam không công bố chính thức, công khai các số liệu về nạn tham nhũng, rửa tiền, tình trạng các quan chức ‘tuồn tài sản’ ra nước ngoài tinh vi ra sao, hoặc ‘rửa tiền’ rồi đầu tư ngay tại chỗ trong nước thế nào.

Ông nói: “Đáng tiếc là từ trước đến nay, Việt Nam chưa hề công bố một số liệu thống kê, điều tra, hoặc khảo sát liên quan tới vấn đề này, ngay cả vấn đề tài sản cá nhân,

“Mặc dù được Bộ Chính trị yêu cầu, được coi là khá quyết liệt, từ những năm 2002, nhưng cho tới giờ người ta vẫn còn bàn cãi về những tiêu chí phân loại và thống kê, điều tra tài sản với các quan chức và thực ra tới nay, hiệu quả khá là kém cỏi,” Tiến sỹ Dũng nói với BBC.

 

Hoàng Sa, Trường Sa ‘vào sách giáo khoa’

Hoàng Sa, Trường Sa ‘vào sách giáo khoa’

Thứ năm, 23 tháng 1, 2014

Biểu tình tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa ở Hà Nội

Biểu tình tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa ở Hà Nội

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo về kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đưa vấn đề chủ quyền Biển Đông vào sách giáo khoa trong trường học các cấp.

Thông báo số 24/TB-VPCP nói đây là kết luận của ông thủ tướng sau buổi làm việc với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam hôm 30/12/2013.

Trong buổi làm việc đó, ông Nguyễn Tấn Dũng được nói đã khẳng định phải kỷ niệm các sự kiện Hoàng Sa năm 1974 và chiến tranh biên giới 1979, vốn bị cho là các chủ đề ‘tế nhị’.

Ông Dũng cho hay: “Bộ Ngoại giao đang soạn thảo đề án kỷ niệm sự kiện: biên giới phía Bắc, Hoàng Sa“.

“Kỷ niệm thế nào cho vừa đạt yêu cầu đối nội, vừa đạt yêu cầu đối ngoại. Đó cũng là lợi ích của nhân dân. Bộ Chính trị rất quan tâm đến việc kỷ niệm này,” ông được dẫn lời phát biểu.

Tuy nhiên các bản tin về cuộc gặp hôm 30/12 đã bị gỡ bỏ trên báo chí chính thống. Bản tin trên báo điện tử của Chính phủ thì lược bỏ hoàn toàn các chi tiết này.

Nay trong thông báo số 24, ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo sớm tập hợp và huy động các nhà sử học trong cả nước tham gia biên soạn và xuất bản bộ Lịch sử Việt Nam (Quốc sử).

“Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học với nội dung, mức độ, phạm vi và hình thức phù hợp khi triển khai xây dựng Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.”

Ông thủ tướng cũng yêu cầu thành lập Trung tâm tư liệu Biển Đông trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (Bộ Nội vụ); giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nghiên cứu, đề xuất việc thành lập Trung tâm lưu trữ tư liệu quốc gia về biển, đảo trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước.

Đây được cho là các động thái khẳng định chủ quyền quan trọng và giáo dục chủ quyền cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Cuộc hải chiến Hoàng Sa giữa hải quân Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Trung Quốc năm 1974 làm trên 70 lính thủy Việt Nam thiệt mạng nhưng tới nay vẫn không được nhắc tới trong sách giáo khoa lịch sử.

 

Hại gan, béo phì, ung thư chỉ là 3/7 lý do không nên ăn mì gói

Hại gan, béo phì, ung thư chỉ là 3/7 lý do không nên ăn mì gói

Mì ăn liền là món ăn hết sức tiện lợi, tuy nhiên nếu ăn nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe. Sau đây là 7 lý do bạn không nên sử dụng thực phẩm này.

Dễ nóng trong người

Độ giòn của mì ăn liền là do được chiên dầu ở nhiệt độ cao, những người thích mì ăn liền khi ăn xong thường cảm thấy khô miệng, háo nước. Thậm chí, nếu ăn thường xuyên sẽ dẫn tới tình trạng nóng trong người, vì thế không nên ăn nhiều mì ăn liền.
Hại gan, béo phì, ung thư chỉ là 3/7 lý do không nên ăn mì gói
Mì ăn liền là một trong những món ăn được sấy khô sau khi chiên qua dầu. Nếu bạn ăn mì ăn liền xuyên có thể sẽ gây rối loạn chức năng dạ dày, làm xuất hiện các triệu chứng như đầy hơi, đau dạ dày…
Nguyên nhân là do trong các thực phẩm sấy khô như mì tôm, gà rán, khoai tây chiên… đều chứa khá nhiều hương liệu và chất phụ gia, ăn thường xuyên sẽ không những khiến vị giác giảm sút mà còn có thể tạo áp lực cho dạ dày trong việc tiêu hóa chung. Đặc biệt, những đứa trẻ thích ăn mì tôm càng dễ mắc chứng khảnh ăn.

Thiếu chất dinh dưỡng

Thành phần chủ yếu của mì ăn liền là bột mì và chất béo, nước sốt và không chứa đủ 7 chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể như protein, chất béo, carbonhydrate, khoáng chất, vitamin và chất xơ.
Nếu ăn mì ăn liền suốt thời gian dài có thể dẫn đến thiếu hụt các chất dinh dưỡng, từ đó kéo theo một loạt bệnh như chóng mặt, mệt mỏi, tim đập nhanh, hôn mê… Những người ăn nhiều mì ăn liền, ăn liên tục trong thời gian dài có thể xuất hiện các triệu chứng thiếu dinh dưỡng như sút cân, teo cơ…

Béo phì và các bệnh liên quan

Mì ăn liền đã chiên qua dầu, hàm lượng vitamin B trong đó bị phá hủy hoàn toàn, về cơ bản mì ăn liền có thể không cung cấp đủ lượng calo cần thiết cho cơ thể hoạt động. Vậy nên, nhiều người có xu hướng ăn nhiều gói mì ăn liên cùng lúc hoặc ngoài ăn mì ăn liền còn ăn thêm những thứ khác nữa. Hậu quả là bạn đã nạp quá nhiều carbohydrate và chất béo vào cơ thể.Vì vậy, nếu thường xuyên ăn mì ăn liền sẽ dẫn tới hàm lượng chất béo, calo tăng cao suốt thời gian dài, từ đó gây béo phì và gia tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan tới béo phì như tim mạch, tiểu đường, cholesterol cao…

Lão hóa sớm

Dầu trong mì ăn liền cũng có thể có chất chống oxy hóa, nhưng nó chỉ có thể làm chậm oxy hóa, trì hoãn thời gian hỏng chứ không thể ngăn chặn hoàn toàn tình trạng mốc hỏng. Thực phẩm chứa dầu sau khi bị mốc hỏng sẽ phá hủy các thành phần dinh dưỡng, sinh ra lipid peroxide, nếu nạp quá nhiều lipid peroxide vào cơ thể suốt thời gian dài sẽ tiêu diệt hệ thống enzym quan trọng của cơ thể, sẽ đẩy nhanh quá trình lão hóa.
Vì vậy, bạn cần chú ý khi ăn mì ăn liền. Nếu thấy có dấu hiệu mốc, hỏng hoặc quá hạn sử dụng thì bạn nên bỏ đi chứ không cố ăn, sẽ gây hại cho sức khỏe.

Có thể dẫn đến ung thư

Để cải thiện hương vị cho mì ăn liền, hoặc kéo dài thời gian bảo quản, các hãng sản xuất thường cho thêm một vài chất phụ gia như phosphate, chất chống oxy hóa, chất bảo quản… Do lưu trữ quá lâu, ảnh hưởng môi trường nên các chất này cũng sẽ từ từ biến chất, sau khi ăn sẽ gây hại cho cơ thể, hơn nữa nếu tích tụ lâu trong cơ thể sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt có thể dẫn đến ung thư. Do mì ăn liền được chế biến bằng cách sấy khô hoặc chiên qua dầu, trong quá trình này có thể xảy ra phản ứng hóa học liên quan, sinh ra một vài chất có độc. Giống như tất cả các loại thực phẩm loại tinh bột nếu nấu chín ở nhiệt độ cao (trên 120 độ C) đều sinh ra chất acrylamide gây ung thư.

Gây hại cho gan

Trong một môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, những hộp mì ăn liền bằng nhựa khi được ngâm trong nước nóng ở nhiệt độ trên 65 độ C, chất độc hại của nó sẽ ngấm vào thực phẩm, từ đó gây hại cho gan, thận, hệ sinh sản, dây thần kinh trung ương.
Mì ăn liền đã chiên qua dầu, hàm lượng vitamin B trong đó bị phá hủy hoàn toàn, về cơ bản mì ăn liền có thể không cung cấp đủ lượng calo cần thiết cho cơ thể hoạt động. Vậy nên, nhiều người có xu hướng ăn nhiều gói mì ăn liên cùng lúc hoặc ngoài ăn mì ăn liền còn ăn thêm những thứ khác nữa. Hậu quả là bạn đã nạp quá nhiều carbohydrate và chất béo vào cơ thể.Vì vậy, nếu thường xuyên ăn mì ăn liền sẽ dẫn tới hàm lượng chất béo, calo tăng cao suốt thời gian dài, từ đó gây béo phì và gia tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan tới béo phì như tim mạch, tiểu đường, cholesterol cao…

Nhiều thành phố ở Mỹ bị đe dọa phá sản

Nhiều thành phố ở Mỹ bị đe dọa phá sản

Một quang cảnh thành phố Detroit, Michigan, ngày 06/01/2014. Thành phố mất khả năng thanh toán, đã phải tuyên bố phá sản.

Một quang cảnh thành phố Detroit, Michigan, ngày 06/01/2014. Thành phố mất khả năng thanh toán, đã phải tuyên bố phá sản.

REUTERS/Rebecca Cook

Thanh Hà

RFI

Không chỉ có nợ công của các thành phố của Trung Quốc đe dọa kinh tế toàn cầu. Chính quyền liên bang Mỹ cũng bắt đầu lo sợ trước núi nợ của các chính quyền địa phuơng.

Bốn ngàn tỷ đô la : đó là tổng nợ công chồng chất của các chính quyền địa phương trên đất Mỹ. Khoản nợ khổng lồ đó sẽ không là một mối de dọa nếu như các thành phố ở Hoa Kỳ không bị đe dọa mất khả năng thanh toán. Nguy hiểm đang rình rập một số chính quyền cấp tỉnh, cấp thành nằm ở chỗ giới chủ nợ bắt đầu hoang mang.

Các doanh nghiệp khi cần đi vay vốn, chủ nợ thường đòi hỏi rất nhiều bảo lãnh. Nhưng ở Hoa Kỳ khả năng huy động vốn của một chính quyền thành phố tùy thuộc vào sự quen biết ít nhiều rộng rãi của ông thị trưởng, với giới tài chính ngân hàng.

Còn đối với một nhà đầu tư, cho một thành phố vay mượn là thượng sách khi biết rằng, mua công trái phiếu của một cơ quan hành chính sẽ được miễn đóng thuế. Luật pháp của Mỹ dường như đã được soạn ra để tạo cơ hội cho các chính quyền cấp địa phương dễ dàng huy động vốn. Trong rất nhiều năm qua, mô hình đó đã hoạt động một cách trơn tru. Nhưng ngày nay, với dư âm của khủng hoảng tài chính 2008 -2009, tiền thuế thu vào ở cấp địa phương đã bị thu hẹp lại trong lúc các khoản chi tiêu xã hội thì cứ tăng dần, tương tự như những gì đã xảy tới với chính quyền liên bang. Hậu quả là thâm hụt ngân sách của thành phố tăng vọt.

Nhiều thành phố tại Hoa Kỳ còn cầm cự được nhờ ngửa tay xin viện trợ của trung ương. Một số khác như trong trường hợp của Detroit, phải tuyên bố phá sản và sau đó được phép tái cơ cấu núi nợ 18 tỷ đô la. « Tái cơ cấu nợ » tức là chủ nợ đồng ý xóa bớt một phần nợ cho kẻ đi vay hoặc cho phép con nợ thêm thời gian để thanh toán. Trong cả hai trường hợp, chủ nợ đều bị thiệt.

Trong bối cảnh này nhiều nhà phân tích chờ đợi giới đầu tư sẽ kém mặn mà khi cấp vốn cho các chính quyền thành phố.

Điều gì sẽ xảy tới nếu như các ông chủ nợ bán đổ bán thảo cổ phiếu đang có trong tay, rút lại vốn đã cho các chính quyền cấp vùng vay ? Kịch bản đen tối nhất là một cuộc khủng hoảng tài chính khác lại ập tới Hoa Kỳ khi các chính phủ cấp vùng, cấp tỉnh, và thành phố mất khả năng thanh toán.

Giảm chi

Nhiều thành phố ở Mỹ đang bị đặt trong tình huống bấp bênh về tài chính bắt đầu cắt giảm chi tiêu. Đặc biệt là giảm khoản hưu trí của các nhân viên công chức làm việc cho thành phố. Detroit đã mạnh tay trong chuyện này. Nhiều thành phố ở bang California bắt đầu đòi nhân viên làm việc thêm trước khi được quyền nghỉ hưu, giảm tiền hưu trí và trợ cấp xã hội.

Hiện tại ở Mỹ có ít nhất 21 thành phố đã bị mất khả năng thanh toán. Bốn trong số đó thuộc bang Michigan – tây bắc Hoa Kỳ- và trường hợp được biết đến nhiều nhất là Detroit, thành phố được mệnh danh là chiếc nôi của ngành công nghiệp xe hơi Mỹ.

Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại : sở dĩ đe dọa vỡ nợ ở cấp địa phương tại Hoa Kỳ ít được báo chí quan tâm do : tổng nợ công của các chính quyền cấp tỉnh, cấp vùng hay thành phố tới nay chỉ tương đương với khoảng 20 % GDP của nước Mỹ. Điểm thứ hai nữa là toàn bộ khoản nợ đó đều do người Mỹ kiểm soát. Điều đó cũng có nghĩa là các chính quyền địa phương không bị áp lực của các nhà đầu cơ ngoại quốc như trong trường hợp của Hy Lạp hay Chypre tại châu Âu. Một đặc điểm thứ ba là nợ công ở cấp địa phương được Ngân hàng trung ương Mỹ bảo lãnh. Đó là những yếu tố vì sao hoàn cảnh của Mỹ đáng quan ngại nhưng không đến mức báo động như là đối với một số quốc gia khác.

NÓ…

NÓ…

Mẩu Bút Chì

Nó lớn lên đơn sơ như bông cúc dại. Mọi thứ trôi vào đời nó cứ tự nhiên như vốn dĩ phải thế – kể cả cái nghèo xác xơ, hay cái bản ngã yếu đuối của con người.

Nghĩ cũng lạ, lúc bé thơ chẳng biết gì, thế nhưng người ta luôn muốn làm ngược lại ý muốn của người lớn: Nếu người mẹ muốn giữ đứa bé nằm yên trong chiếu, chắc chắn nó sẽ cố tìm cách bò ra ngoài; khóa cửa trước giữ nó trong nhà, nó sẽ luồn cửa sau chạy ra ngõ… Dường như có một “sức hút” mãnh liệt từ những thứ ngoài tầm tay của con người, và ý chí muốn thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa như một phản xạ tự nhiên.

Lúc nhỏ nó vẫn nghĩ rằng làm trẻ con thật mất tự do, phải làm cái này, không được làm cái kia. Nhất nhất mọi việc phải theo ý muốn của người lớn. Làng quê nó thời ấy nghèo lắm, làm gì có ti vi trong nhà để giải trí. Thỉnh thoảng ở sân bãi mới chiếu một bộ phim trắng đen để mọi người đến xem. Thế là trong làng y như có hội! Hiếm lắm mới có một bộ phim màu. Chẳng cần biết phim gì, của ai, miễn là “phim màu chiến đấu” thì kể như trẻ con cả làng không thể ngồi yên. Nó cũng háo hức chẳng học hành gì được. Thế nhưng ba nó “phán một lời” thì anh em nó phải ở nhà hết! Có khi nó liều lĩnh trốn đi xem vì phim hay quá, chịu trận đòn cũng đáng! Nhưng lắm lúc nó tức anh ách vì phải bị đòn mà chỉ xem được cái loại “phim màu lợt lợt, chiến đấu sơ sơ”!!! Lúc đó, nó chỉ ước sao lớn thật nhanh. Trong nhận thức non nớt của mình, nó nghĩ người lớn muốn làm gì cũng được. Từ đó, trong lòng nó ấp ủ “giấc mơ giải phóng”. Với nó thuở ấy, tự do là được làm theo những gì mình muốn. Đơn giản vậy thôi!

Ở đời người ta thường đứng núi này trông núi nọ. Lúc bé nó ước được làm người lớn, khi lớn rồi mới hay cuộc đời không như nó tưởng. Nếu như lúc bé nó chỉ chịu sự ràng buộc và điều khiển bởi cha mẹ, người thân – là những người luôn thương yêu và muốn nó nên người – thì khi lớn lên, nó lại bị ràng buộc và điều khiển bởi những thứ “lạnh như tiền”.

Nó đi tìm bầu trời, nhưng hình như đường đời (hay chính cái bản ngã yếu đuối của nó) chỉ dẫn đưa nó vào những chiếc túi. Khó hiểu quá, nó hiểu không tới. Rõ ràng chẳng có gì sai khi nó muốn tìm kiếm một cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn. Cũng không có gì đáng trách khi nó muốn ăn ngon, mặc đẹp, chạy xe xịn. Nhưng tự trong lương tâm, hình như nó thấy có cái gì đó chưa đủ. Nó mơ hồ tự hỏi: “Liệu chỉ có những thứ làm thỏa mãn, đã đầy thân xác này, có làm cho nó trở nên NGƯỜI hơn chăng? Hơn nữa, NGƯỜI còn là hình ảnh của Thiên Chúa – chứ không “người” theo ngôn ngữ hài hước của “hội thui rơm” rằng: “Sống trên đời (làm người) ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?” Hoặc “người” theo kiểu nó vẫn thường nghe người đời ao ước: “Sống đời này sắm được nhà lầu xe hơi thì có chết cũng mãn nguyện kiếp người”.

Nó suy tư dữ dội hơn: Vượt thắng những trở lực để đạt được những thứ mình khao khát có phải là chạm được đến tự do, đã THÀNH NGƯỜI? Và nếu là thế thì hình như thứ tự do đó cũng phụ thuộc vào cách người ta nhìn đời, phụ thuộc vào cái nghĩa làm “người” mà mỗi người muốn trở nên. Đó là một kiểu tự do dễ đổi thay, dễ tan vỡ theo cảm tính con người.

Nó vẫn chưa tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của một con người có tự do. Nó vẫn thường nghe người ta nói “đấu tranh cho tự do” để con người được sống xứng với nhân phẩm của mình: tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại v.v… Tự do là một phần của nhân quyền. Những điều này rõ ràng là chính đáng và cần thiết. Đó là những mảng của tự do. Nhưng hình như những thứ đó vẫn chưa đủ, chưa diễn tả hết được những chiều kích của tự do.

Giả tưởng có một cấu trúc xã hội tiến bộ, nơi đó con người có thể có được tất cả những quyền tự do chính đáng, có điều kiện để phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, thì liệu rằng nơi thẳm sâu trong lương tâm và linh hồn, con người có được bình an tự tại? Con người có nhờ vào đời sống xã hội ấy mà được giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham – sân – si, của ích kỷ, của sự nặng nề thuộc tính xác thịt để có được một sự tự do tròn đầy, viên mãn?

Nếu điểm xuất phát của đời người là thế gian và cũng kết thúc ở thế gian này, thì tất cả chỉ là phù hoa và ngõ cụt tối tăm: Chỉ toàn lo âu, đau khổ, vật lộn để dành được những thứ dễ hư nát. Nếu có được giàu sang, sung sướng, cũng không ai thoát được hành trình sinh – bệnh – lão – tử, sinh ra trong tiếng khóc của chính mình và chết đi trong tiếng khóc của người thân.

Tự do ở đâu? Ai có thể giải thoát nó ra khỏi sự ràng buộc ấy? Ai có thể tách được nó ra khỏi những khôn ngoan duy lý, những toan tính đo lường dựa trên tài năng và sức lực – vốn là những cái nay còn mai mất – rồi gắn niềm vui và hạnh phúc đời mình vào đó, phập phồng lo âu? Ai có thể cho nó cái tự do thẳm sâu trong tâm hồn, vượt lên tất cả các chiều kích vật chất thường tình của con người? Còn ai làm được điều đó ngoài Đấng đã tác tạo nên nó, có quyền năng trên linh hồn và thân xác nó, và chờ đón nó nơi cõi vĩnh hằng?

Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô. Ngài đã đến thế gian làm NGƯỜI và đã chết để muôn người được sống, trong đó có nó. Nó phải sống phó thác vào Đấng ấy: Tự do của nó là nương theo ý Ngài.

Có anh bạn nhìn nó ái ngại. Rằng nó nên hòa mình vào xã hội, xây dựng xã hội bằng ngôn ngữ và chuẩn mực chung của mọi người. Đâu phải ai cũng thờ Chúa như nó! Nó thấy hổ thẹn trong lòng: Giá mà lúc nào nó cũng yêu Chúa được như nó nói, như bề ngoài người ta thấy về nó. Phải, nó phải hòa mình vào xã hội, nhưng không vì thế mà phải che giấu Thiên Chúa, Đấng đã cứu độ cuộc đời nó. Chân nó phải chạm đất, phải bám rễ vào xã hội và làm cho xã hội ấy phát triển, nhưng nó không thể quên rằng mắt nó phải hướng về trời cao, nếu không, Thiên Chúa chết cho nó là vô nghĩa và vô ích! Nó phải “mở” nó ra cho người ta thấy Chúa, thấy lòng thương xót vô bờ Người đã đổ xuống đời nó.

Ước chi mỗi ngày trong đời này, nó đều có thể phô bày được một chút ánh sáng lung linh mà Chúa đã thương nhen nhóm trong nó. Chút ánh sáng ấy chính là thứ tự do trong vắt, thoát khỏi những âu lo của đời sống trần tục nhờ vào lòng tín thác – đức tin. Ánh Sáng ấy không phải từ nó, mà phát xuất từ Đấng ngự trong nó…

( trích tập san Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo số 11)

Tác giả: Mẩu Bút Chì

China Leaks: Tiết lộ khối tài sản ở nước ngoài của các lãnh đạo Trung Quốc

China Leaks: Tiết lộ khối tài sản ở nước ngoài của các lãnh đạo Trung Quốc

Thượng tầng lãnh đạo Trung Quốc : Tập Cận Bình, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo cất giấu tài sản tại các thiên đường thuế khóa - REUTERS /David Gray

Thượng tầng lãnh đạo Trung Quốc : Tập Cận Bình, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo cất giấu tài sản tại các thiên đường thuế khóa – REUTERS /David Gray

Thụy My

Những người thân của các lãnh đạo cao cấp Trung Quốc, trong đó có các ông Tập Cận Bình, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng …đã che giấu một khối tài sản to lớn tại các thiên đường trốn thuế ở nước ngoài.

Tiết lộ trên từ cuộc điều tra công phu của Liên minh quốc tế các phóng viên điều tra (ICIJ) có trụ sở tại Washington, được nhiều tờ báo lớn trên thế giới cùng công bố hôm nay 22/01/2014 khiến người ta càng thêm nghi ngờ về nỗ lực chống tham nhũng của Bắc Kinh.

Vụ China Leaks này là phần tiếp theo của chiến dịch Offshore Leaks do ICIJ khởi động từ tháng 4/2013. Ban đầu là sự rò rỉ một ổ cứng chứa các dữ liệu của hai nhà cung cấp dịch vụ vi tính tại Singapore và quần đảo Virgin thuộc Anh, với hai triệu rưỡi tài liệu mật.

Khi nghiên cứu tỉ mỉ các tài liệu trên, các nhà báo ban đầu đã phát hiện ra các tài khoản ở nước ngoài của cựu thủ quỹ ông François Hollande, tài sản che giấu của Tổng thống Zimbabwe Robert Mugabe, con gái nhà cựu độc tài Ferdinand Marcos của Philippines. Nhưng phần liên quan đến Hoa lục và Hồng Kông phải mất thêm nhiều tháng trời, chủ yếu là do khó khăn từ chữ Hán.

Trong số 22.000 cái tên được tiết lộ, có thân nhân của các lãnh đạo cao cấp nhất Trung Quốc, chủ yếu là tầng lớp « thái tử đỏ ». Hiện diện đông đảo trong danh sách này là các đại biểu Quốc hội, những người thân của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, các cựu Thủ tướng Lý Bằng, Đặng Tiểu Bình, Ôn Gia Bảo, và đặc biệt là đương kim Chủ tịch Tập Cận Bình. Tổng cộng Nhà nước Trung Quốc bị thiệt hại khoảng 3.000 tỉ euro do khối tài sản trốn thuế này.

Theo ICIJ, đại gia bất động sản Deng Jiagui đã kết hôn với chị của Tập Cận Bình năm 2006, sở hữu 50% vốn một công ty đăng ký tại quần đảo Virgin thuộc Anh là Excellence Effort Property Development. Con trai ông Ôn Gia Bảo là Ôn Vân Tùng (Wen Yunsong) cũng lập một công ty tại đây năm 2006, trong đó Ôn Vân Tùng là cổ đông duy nhất.

Giáo sư Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) của Claremont McKenne College nhận định, cho dù các công ty trên « có thể không hẳn là bất hợp pháp », nhưng thường là những « xung đột lợi ích, phục vụ cho các quan hệ ở trung tâm quyền lực ».

Chủ đề này quá nhạy cảm đối với Bắc Kinh, nên hôm nay trang web của ICIJ hoàn toàn không truy cập được tại Trung Quốc, cũng như các trang mạng của những tờ báo liên kết với ICIJ như tờ The Guardian của Anh, Le Monde của Pháp, El Pais của Tây Ban Nha, hay Minh Báo của Hồng Kông.

Một trùng hợp ngẫu nhiên là cũng trong hôm nay diễn ra phiên tòa xử luật sư chống tham nhũng Hứa Chí Vĩnh, nhà sáng lập phong trào Tân Công dân đã kiên trì đòi minh bạch tài sản của các lãnh đạo cao cấp.

Vài ngày trước đó, một lá thư của ông Ôn Gia Bảo được công bố trên một tờ báo Hồng Kông nhằm minh oan trước các tiết lộ của báo chí. Hồi tháng 11/2013, tờ New York Times khẳng định ngân hàng Mỹ JPMorgan Chase đã tuyển dụng con gái ông là Wen Ruchun, có thể là nhằm giành được những hợp đồng béo bở tại Trung Quốc.

Theo tờ báo trên, Ngân hàng này với chính sách tuyển mộ người thân của các lãnh đạo Bắc Kinh, từng bị chính quyền Mỹ điều tra, đã chi 1,8 triệu đô la cho công ty tư vấn của con gái ông Ôn Gia Bảo từ 2006 đến 2008. Tài liệu của ICIJ hôm nay cho thấy cách thức bà Wen Ruchun đã xóa dấu vết liên hệ giữa công ty của bà và người cha, sử dụng tên giả là Lily Chang.

Cũng theo ICIJ, đến 90% khách hàng Hoa lục đã lập các công ty tại quần đảo Virgin thuộc Anh để trốn thuế, 7% tại quần đảo Samoa, 3% còn lại tại các thiên đường thuế khóa khác.

Hôm nay phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương đã cho rằng : « Logic các bài viết của ICIJ là không thuyết phục, đặt ra dấu hỏi về động cơ của họ ».

Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Từ nghiện ngập trở thành linh mục giúp người nghiện ma túy

Peter Thái Hùng

1/10/2014

Món quà từ sự trở về của linh mục Phanxico xavie Trần An!

Cảm nhận từ cuộc gặp gỡ với “người cha” của Trung Tâm Hướng Thiện – La Vang

Trong một con người ta sẽ luôn tìm thấy món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, đó chính là sự sống. Sự sống vẫn luôn triển nở cho dù con người có nhận ra và trân trọng điều đó hay không. Có những người tự vùi dập món quà mà Chúa ban tặng. Để rồi, họ sống mà như đã chết. Tồn tại mà như ở trong cõi hư vô. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng hết mực yêu thương vẫn luôn quan phòng gìn giữ sự sống mà Ngài đã thông ban. Bởi thế, Ngài vẫn dùng tình yêu của mình để cảm hóa những cuộc đời còn đang chìm lạc trong bóng tối của u mê khờ dại vì buông mình theo thế gian. Ngài dẫn đưa họ về với ánh sáng của Chân Lý, dẫn đưa họ về với tình yêu và để cho họ cũng trở thành những chứng tá cho tình yêu.

Xem Hình

Trong đời sinh viên của mình, tôi cũng từng suy nghĩ rất hạn hẹp. Cuộc sống vẫn cứ trôi trong cái dòng chảy không biết điểm dừng chân, không biết đích đến. Nhưng rồi, một cuộc gặp gỡ đã khiến tôi hồi tâm và dừng lại trong chính bản thân để suy gẫm về món quà của Thiên Chúa ban tặng. Suy gẫm về cuộc đời và về sự sống. Đó là cuộc gặp gỡ khiến tôi thay đổi về cả cách sống cũng như cách nhìn về một con người.

Theo cách thông thường, chúng ta thường đánh giá người khác qua lăng kính chung: Địa vị, danh vọng, tiền bạc,… hoặc tốt hơn một chút ta đánh giá cái đạo đức, cái tính tình, cái thể hiện ra bên ngoài. Qua lăng kính đó đôi lúc khiến ta quên mất cái chính yếu nhất trong một con người: nhân vị! Qua cái lăng kính đó ta quên rằng: con người mà ta đang nhìn đến đang mang trong mình hình ảnh và tình yêu mà Thiên Chúa đặt để. Chính việc nhìn vào sự thay đổi của một con người bằng xương bằng thịt mà tôi có cách nhìn nhận trọn vẹn và sâu sắc hơn. Chính sự thay đổi của một con người từ trong vũng bùn của tội lỗi, của sự tha hóa biến chất trở thành một vị Linh mục, thành một mẫu gương cho người khác mà tôi mới biết tình yêu Thiên Chúa dành cho con người thật vô tận và chương trình của Ngài thật không thể nào suy thấu. Câu Kinh Thánh: “Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta vượt trên tư tưởng của các người bấy nhiêu” (Isaia 55:8-10) thật ứng với tôi lúc này.

Cha An cầu nguyện với những người đang cai nghiện

Có một con người đã thay đổi như thế. Một chàng thanh niên từ cảnh giàu sang đến sự thấp hèn vì lối sống buông thả. Từ cảnh được mọi người ngưỡng mộ đến lúc phải trốn chạy sự dèm pha của người đời. Bởi chìm trong lạc thú, bởi sa đọa trong những thói hư tật xấu, bởi tự vùi dập mình trong tệ nạn chích hút hoang đàng. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã đánh thức lương tri nơi con người ấy. Ngài đã giúp cho khao khát sống, khao khát tự do trong tình yêu nơi con tim chàng trở nên mãnh liệt. Để rồi, chàng trai đã trở về sống đời công chính. Chàng trai ấy đã trở thành một vị linh mục của tình yêu. Hơn nữa, từ sự tha hóa đến lúc trở về của chàng thanh niên ấy Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cho biết bao con người khác. Qua cuộc đời của chàng thanh niên rất nhiều cuộc đời đã đổi thay, rất nhiều con người đã tìm lại sự sống thật. Chính chàng trai, chính cuộc đời của vị linh mục đó cũng đã đánh thức con tim và cho tôi một cách nhìn mới về tha nhân. Vị linh mục mà tôi muốn nhắc đến ở đây là cha Phanxicô Xaviê Trần An, linh mục Đan viện Thiên An – Huế.

Sinh ra trong một gia đình thuộc loại khá giả thời bấy giờ ở giáo xứ Cầu Rầm, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cha Phanxicô Trần An được sống trong cảnh bao bọc yêu thương của những người cha, người mẹ đạo hạnh. Lớn lên, giỏi dang trong học tập và được sự yêu mến của mọi người chung quanh. Nhưng rồi cậu thanh niên Trần An đã thay đổi từ một quyết định của tuổi trẻ, của sự tự do và trong sự tin tưởng của cha mẹ. Một khoản vốn đã được cha mẹ chấp thuận khi cậu muốn tách riêng để làm ăn kinh doanh: làm nghề vàng và buôn bán vàng bạc. Bằng tài năng của mình, chàng trai đã rất thành công và gây dựng được danh tiếng mà không phải ai ở độ tuổi của cậu cũng có được. Rất nhiều người ngưỡng mộ, rất nhiều người yêu mến bởi vì dù thành công An vẫn luôn tỏ ra là một con người lịch sự, lễ phép và sống chân thành với người khác.

Thế nhưng, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Sống trong một xã hội của một thành phố Vinh nổi tiếng chất chứa nhiều cạm bẫy, nhiều sự lôi kéo vào con đường ăn chơi, hưởng thụ. Cũng yếu đuối, cũng nông nổi, cũng ham muốn như bao người trẻ khác, hơn nữa, trong cảnh đầy đủ và thành công ban đầu dễ khiến Trần An bị cuốn vào vòng xoáy của lớp thanh niên đương thời. Ăn chơi, tiêu phá hết tất cả những gì đã gầy dựng. Sa vào bất mãn và mong muốn gỡ lại những gì nhận từ phụ mẫu. Trần An đã sai lại càng thêm sai. Chán nản, buồn bã Trần An lại càng lâm vào vui chơi hoang đàng, sa đọa trong men đắng tình trường, trong nghiện ngập chích hút. Cuộc đời và những người bạn xấu đã đẩy Trần An đến việc lỗi phạm đức công bằng, đưa Trần An đến chỗ thân tàn ma dại và ra vào vòng lao lý.

“Giữa cuộc đời tha hương lữ thứ

Tôi đi tìm lạc thú niềm say

Khi cuộc tình khi chén rượu cay

Khi quân bài hay khi khói thuốc…

Bỗng đâu chiếc còng người cảnh sát

Dẫn tôi đi vào chốn quạnh hiu

.. ….” (Trần An, 10.1995)

Thế nhưng, tình yêu của người mẹ, lời cầu nguyện và nước mắt của bà, cũng như chương trình của Chúa dành cho cậu thật quá ư vĩ đại. Được thức tỉnh và muốn làm vui lòng cha mẹ, Trần An đã được gửi đến Đan viện Thiên An để tĩnh tâm, để cai nghiện. Trải qua bao thăng trầm của một cuộc sống thật quá ư xa lạ, Trần An đã thành công và còn dâng hiến đời mình cho Chúa. Chàng muốn dâng cả thân xác và linh hồn mình để một đời thân mật với Chúa, đáp lại ân huệ yêu thương mà Chúa đã dành. Để rồi, bây giờ không ai không biết đến một vị linh mục mang cái tên rất đỗi thân thương và chứa đựng nhiều ý nghĩa: Phanxicô Trần An hay thường gọi là “Tràn Ân”.

“……….

Con xin cảm tạ Chúa nguồn yêu

Đã thương ban tặng biết bao điều

Từ vũng bùn nhơ Ngài thánh hiến

Đưa về chung sống bến “Trời yêu”

.. ….” (Trần An, 28.5.1995)

Không dừng ở đó, cha Trần An còn đã và đang thực hiện một công việc mà đối với cuộc đời từng trải như cha thật không mấy người có thể thay thế. Cha đã xin phép và được bề trên chấp thuận để lập một trung tâm giúp đỡ cho những thanh niên từng lâm vào cảnh nghiện ngập trở về. “Trung tâm Hướng Thiện” do cha An sáng lập và điều hành đã được xây dựng ngay phía sau linh địa Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị), nơi mà Đức Mẹ không ngừng kêu gọi ăn năn hoán cải. Đến nay, dù thời gian chưa đầy hai năm, nhưng đã có hàng trăm con người sa ngã đã đến và được cha Trần An hướng dẫn tĩnh tâm. Trong số đó, đã rất nhiều người trở về lại với gia đình, thành công trong công việc kinh doanh. Hơn nữa, có 6 người tại Trung Tâm Hướng Thiện đã bước theo con đường của cha An để dâng mình cho Chúa trong các tu viện và đan viện, 6 người anh chị em từ trung tâm đã được hồng phúc lãnh nhận phép rửa để trở thành con cái của Thiên Chúa. Tôi cũng từng có may mắn được viếng thăm và sinh hoạt cùng những con người nơi Trung tâm Hướng Thiện mà cha An đã gầy dựng nên. Những con người mà có lẽ khi nghe nói về họ, về quá khứ nghiện ngập, trường trại và lối sống buông thả mà họ đã từng chúng ta sẽ có một cảm giác sợ hãi hay khinh thường… Thế nhưng, nơi Trung tâm Hướng Thiện những con người ấy lại trở nên thu hút một cách lạ kỳ. Nơi ấy đầy ắp tiếng cười và như một cộng đoàn dòng tu thực thụ với lối sống kỷ luật, tự giác. Họ đã không còn bị tiền bạc chi phối khi chấp nhận sống mà không giữ tiền riêng. Họ đã trở nên những con người có nề nếp khi chấp nhận một lối sống mới đúng giờ giấc, đúng lịch trình sinh hoạt hằng ngày. Họ đã trở về với Chúa và đến với Ngài mỗi ngày trong các giờ kinh phụng vụ, các thánh lễ bên người cha yêu quý của họ. Những con người đã quen với lối sống giành giật, trộm cắp, phung phí, chích hút…nay lại đổ mồ hôi hằng ngày để lao động, để làm việc. Họ đã bị đánh động bởi một cuộc đời đổi thay để rồi cũng thay đổi chính mình. Họ đã bị tiếng đàn, tiếng hát, hay những lời thơ chứa đựng bao niềm cảm xúc, chứa đựng bao tâm tư và cũng là nhật ký của một con người mang tên Trần An đánh động. Từ những người xa lạ với Thiên Chúa, xa lạ với đời sống Đức Tin thế mà giờ đây họ đang nếm hưởng những mật ngọt của tình Chúa. Họ đã và đang dần nhận ra Chúa nơi chính bản thân và nơi người khác để rồi biết tôn trọng món quà quý giá mà họ được lãnh nhận nơi Ngài.

Thật là một câu chuyện cảm động về kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã hoạch định. Dù Trung Tâm Hướng Thiện của vị linh mục “Tràn Ân” còn gặp nhiều khó khăn và thách đố, nhưng tin tưởng rằng: Chúa đang cùng cha An đồng hành để đưa tin vui đến cho nhiều gia đình, đưa niềm hy vọng đến cho nhiều phận người sa ngã, khổ đau.

Peter Thái Hùng

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Bốn Mươi Năm, Một Dòng Lệ

Lê Tín Hương

LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. “Về bên Mẹ Lavang” chân thành cám ơn tác giả.

Tôi rời nhà lúc sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi. Ngày cuối tuần, nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng… Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời…

Riêng sáng hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo dài đến chiều…

Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay…

Năm 1958, ba tôi làm việc tại bệnh viện Trung Ương thánh phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm bệnh viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.

Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.

Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo Ðạo.

Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.

Cha Luận gặp ba tôi, Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: “Tôi mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện.”

Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da.

“Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia.” Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.

Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc…

Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện “những kẻ khốn cùng” (les misérables) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng Quảng Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ cho thân nhân…

trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy… (giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa…

Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi…

Mẹ tôi và chị em tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi…

Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.

Em tôi vì còn nhỏ, có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: “Ba đâu, ba đâu mẹ!” Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:

“Ðây rồi, vớt được xác sau cùng rồi!”

Là ba đó, mẹ tôi chạy nhào tới.

Phải rồi, người ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.

Lại có tiếng người la lên: “Trời ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi!”

Và ba tôi quả còn sống thật! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những giòng nước mắt hạnh phúc không ngờ…

Chúng tôi quỳ chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.

Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được: “Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba.”

Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.

Ba tôi nói tiếp: “Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ Lavang, Ta đến cứu con.”

Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.

Sau biến cố đó, gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ họ đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng thánh lễ và ban phép rửa tội cho chúng tôi.

Theo lời xin của ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần chuỗi mân côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.

Tôi còn nhớ rõ sau thời gian gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn chúng tôi: “Ba là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta.”

Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.

Câu chuyện mầu nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ Lavang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.

Ngày đại lễ hôm nay trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên mười…

Tôi lắng nghe những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.

Tôi tự cảm thấy gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.

Trong cái lạnh của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu… Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy dài… Những giọt lệ vui mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.

California, Chúa Nhật ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương

Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên

Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ /Jeremy Bigwood)

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ /Jeremy Bigwood)

Thanh Phương

RFI

Vào lúc tình hình nhân quyền Việt Nam sắp được đưa ra xem xét tại Liên hiệp quốc theo cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát ( UPR ) ngày 05/02 tới, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo ( CPJ ) vừa công bố một báo cáo, theo đó, Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới về giam giữ phóng viên.

Theo báo cáo 2013 của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo( CPJ ), Việt Nam nằm trong số 10 nước đứng đầu danh sách các quốc gia giam giữ các phóng viên chỉ vì họ làm công việc nhà báo. Cụ thể, với 18 phóng viên đang ngồi tù, Việt Nam đứng hàng thứ 5 thế giới và chỉ là một trong hai quốc gia Đông Nam Á được nêu tên trong danh sách của năm 2013, cùng với Thái Lan ( 1 nhà báo bị giam ).

Chiếm hạng nhất trong danh sách năm 2013 là Thổ Nhĩ Kỳ ( 40 phóng viên bị giam ), tiếp đến là Iran ( 35 ), Trung Quốc ( 32 ) và Eritrea ( 22 ). Đứng hạng thứ năm, như vậy là « thành tích » của Việt Nam còn cao hơn cả Syria, vì quốc gia đang bị nội chiến ác liệt này chỉ đứng hàng thứ sáu, với 12 phóng viên đang ở sau chấn song sắt.

Trong số 18 nhà báo đang bị giam ở Việt Nam, CPJ đề cập trước hết trường hợp của blogger Điếu Cày/Nguyễn Văn Hải. Vào tháng 10 năm 2008, Điếu Cày đã bị tuyên án tù 2 năm rưỡi với tội danh trốn thuế, một tội danh mà theo các tổ chức nhân quyền chỉ là một cái cớ để bịt miệng một blogger vẫn chỉ trích mạnh mẽ chính quyền Hà Nội. Sau khi mãn hạn tù, blogger Điếu Cày lại tiếp tục bị tuyên án 12 năm tù giam và 5 năm quản chế với tội danh « tuyên truyền chống Nhà nước » trong phiên xử vào tháng 9 năm 2012.

Trong báo cáo, CPJ nhắc lại là vào năm ngoái, blogger Điếu Cày đã tuyệt thực từ ngày 23/06 để phản đối việc quản lý trại giam buộc ông phải nhận tội. Ông chỉ ngưng tuyệt thực ngày 27/07 sau khi Viện kiểm sát hứa điều tra về đơn khiếu nại của ông tố cáo về tình trạng ngược đãi trong nhà tù.

Ngoài blogger Điếu Cày, trong danh sách các phóng viên đang bị giam ở Việt Nam còn có Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức ( Trần Đông Chấn ), Lư Văn Bảy ( Trần Bảo Việt ), Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Paulus Lê Sơn, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Duyệt, Tạ Phong Tần, Đinh Đăng Định, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Văn Khương ( Hoàng Khương, báo Tuổi Trẻ ), Phạm Nguyễn Thanh Bình, Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Võ Thanh Tùng ( Duy Đông, báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh).

Như ta thấy, trong danh sách 18 người nói trên, đa số là những blogger hay Facebooker, nhưng đối với CPJ, những người này làm công việc của nhà báo vì họ sử dụng Internet để chuyển tải thông tin hoặc bình luận về tình hình đất nước, trong bối cảnh mà Việt Nam chưa có báo chí tư nhân, mọi cơ quan báo chí đều do Nhà nước kiểm soát.

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo ( CPJ ) ghi nhận con số 18 phóng viên bị giam ở Việt Nam năm 2013 là cao hơn so với năm 2012 ( 14 nhà báo ngồi tù ), vào lúc mà chính quyền Hà Nội gia tăng trấn áp giới blogger độc lập.

Khi loan tin về báo cáo của CPJ, trang mạng The Diplomat lưu ý rằng một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Cam Bốt hay Malaysia cũng đang đối phó với những lực lượng đối lập ngày càng mạnh, nhưng việc trấn áp báo chí ở những nước này chẳng có nghĩa lý gì so với ở Việt Nam.