Bên bờ sông Babylon – Dậu Nguyễn
httpv://www.youtube.com/watch?v=mK1HMhO-2Ao&feature=youtu.be
httpv://www.youtube.com/watch?v=mK1HMhO-2Ao&feature=youtu.be
Trên 15.000 ngàn chữ ký vì Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc

Danh sách 15.888 người ký tên được kèm theo lá thư về Hoàng Sa gởi đến Liên Hiệp Quốc ngày 24/01/2014.
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Chỉ trong vòng một tuần lễ, đã có 15.588 người từ nhiều nơi trên thế giới ký tên vào lá thư gởi cho Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 40 năm Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lá thư được gởi đi trưa 24/01/2014 từ Paris, nhằm nhắc nhở trước thế giới « Hoàng Sa là của Việt Nam », và kêu gọi đưa vấn đề ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.
Từ sáng kiến của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông và nhóm Biển Đông tại Pháp đã cùng soạn thảo lá thư và vận động thu thập chữ ký. Lá thư nhắc lại sự kiện lịch sử bi hùng ngày 19 và 20/01/1974, quân Trung Quốc đã tấn công và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa sau trận hải chiến ác liệt với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Đồng thời cũng khẳng định tầm quan trọng của việc thượng tôn luật pháp quốc tế, tố cáo hành động xâm lược của Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
Chỉ trong khoảng hơn một tuần lễ, đã có 15.588 chữ ký của đủ mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi ở trong và ngoài nước, chứng tỏ sự đồng lòng của những người yêu công lý đối với vấn đề Hoàng Sa. Đó là tiếng nói của các nhân sĩ trí thức và những người lao động, những cựu quân nhân cả hai miền Nam Bắc, các tu sĩ thuộc nhiều tôn giáo khác nhau trên mọi miền đất nước Việt Nam cũng như từ nhiều châu lục.
|
Trong lá thư cám ơn đề ngày hôm nay, những người khởi xướng viết : « 15.558 chữ ký là 15.558 tiếng nói yêu thương cho Hoàng Sa, 15.558 bông hoa cho những người đã, đang và sẽ hy sinh để bảo vệ lẽ phải và những quyền chính đáng của mình, là 15.558 cái siết tay vì công lý và hòa bình, 15.558 lời phản kháng cường quyền và bạo lực…Chúng tôi xin tri ân 15.558 lần và hơn thế nữa những tấm lòng ấy ».
Thư cảm ơn nhấn mạnh : « Trên con đường giành lại công lý cho Hoàng Sa, mặc dù rất dài và gian nan, chúng ta không còn đơn độc ».
Trả lời RFI Việt ngữ hôm nay, tiến sĩ Lê Trung Tĩnh cho biết :
|
Một lời nói phải
Tưởng Năng Tiến
2014-01-23

“One kind word can warm three winter months: Một lời nói tử tế có thể làm ấm lòng suốt cả mùa Đông.”
Courtesy Photo
Tôi thấy trên tờ lịch tháng Giêng năm nay – tại văn phòng khai thuế – ảnh chụp những cành lá tuyết phủ trắng xoá, và bên dưới là một câu ngạn ngữ của người Nhật Bản: “One kind word can warm three winter months: Một lời nói tử tế có thể làm ấm lòng suốt cả mùa Đông.”
Tôi đã trải qua hơn ba mươi mùa Đông (lạnh giá) nơi xứ người nhưng dường như chưa bao giờ nghe được một lời lẽ tử tế nào ráo trọi. Năm nay, may thay, vào những ngày cuối năm (khi nhiệt độ nhiều nơi rơi xuống trừ âm) nhưng tôi vẫn cảm thấy rất ấm lòng vì chợt nghe được một lời nói phải:
Hòa giải mới có thể phát triển
“Còn nhiều trang sử cần được mở ra, không chỉ có ở Hoàng Sa, dù ở đâu trên mảnh đất của ông cha, người Việt Nam chỉ nên để súng ống quay về cùng một hướng. Chỉ có hòa giải quốc gia mới có thể phát triển quốc gia. Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.” Đó là kết luận của nhà báo Huy Đức trong bài viết (“Hoàng Sa & Hoà Giải Quốc Gia”) mới nhất của ông, đọc được vào hôm 12 tháng 1 năm 2014:
“Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Phải khi Trung Quốc đánh Hoàng Sa, 19-1-1974, ông Nguyễn Đăng Quang – một thành viên của phía Hà Nội trong “Phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên” thi hành Hiệp định Paris (1973) – mới nhận ra điều này. Họ ở đây là các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bên mà cho đến nay, nhiều người vẫn gọi là phía “ngụy”.
Phải mất 40 năm sau, báo chí nhà nước mới bắt đầu đăng hình bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà lên trang nhất, sau khi một tổ chức “dân lập” – trung tâm Minh Triết – chứng nhận chồng bà đã “hành động vì biển đảo”.
Phải mất 40 năm sau, các thế hệ người Việt trong nước mới biết hình ảnh trung Tá Ngụy Văn Thà, thiếu tá Nguyễn Thành Trí, đứng thẳng trên đài chỉ huy chiến hạm Nhựt Tảo khi những loạt đạn đang bắn từ các tàu Trung Quốc; biết đến, hai hạ sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu từ chối xuống tàu cứu sinh, chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng rồi đi vào lòng biển Hoàng Sa cùng con tàu Nhựt Tảo…
Bên dưới là vô số những lời tán thưởng, xin đọc chơi (vài/ ba) cho nó … đã:
“Đọc bài này tôi xúc động chảy nước mắt!”
“Anh viết nhiều nữa đi, cho lòng người thống nhất.”
“Bài viết hay,xin cám on anh HD đã nói thay cho cả triệu tấm lòng.”

“Tôi không biết những người mặc thường phục vô cớ hành hung tôi là ai, tôi tha thứ cho tất cả họ.Tôi mong rằng họ đừng để ĐCSTQ lợi dụng, hãy để cho chúng tôi yên ổn tu luyện!” Linh Phan, học viên Pháp Luân Công Việt Nam. Ảnh và chú thich: Dân Làm Báo.
Nói phải củ cải cũng nghe: “Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.” Nhân tâm quả đang ly tán. Tuy nhiên, mọi thành phần của dân tộc Việt sẽ vẫn có nhiều cơ may, cũng như cơ hội (không mấy khó khăn) cùng ngồi lại bên nhau – ngoại trừ những người cầm đầu đảng cộng sản ở Việt Nam. Nói chuyện phải/quấy với củ cải (e) vẫn dễ hơn với họ, những kẻ luôn luôn nói một đường nhưng làm một nẻo.
Hãy coi thử xem Đảng và Nhà Nước CSVN đã thực thi “chính sách đại đoàn kết dân tộc” ra sao, kể từ khi họ nắm được quyền bính đến nay:
-Vào những năm đầu của thập niên 1950, nhân danh chuyện “cải cách ruộng đất,” họ đã “nâng thành phần” vài trăm ngàn nông dân (ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam) lên thành phú nông hoặc trung nông, để mang ra đấu tố, rồi giết hại.
-Cuối thập niên 1960 (trong cái gọi là Trận Tổng Công Kích Mậu Thân) họ đã chôn sống hàng chục ngàn người dân miền Nam, sau khi dán cho nạn nhân cái nhãn hiệu là “thành phần ác ôn”, cần phải thủ tiêu.
-Cũng chính họ – trong một phần tư thế kỷ – đã chia người dân miển Bắc thành nhiều giai cấp riêng biệt và dùng chính sách tem phiếu “gạo ngô, từng lạng từng cân (để) cắt nhỏ tình thâm cốt nhục” của mọi gia đình.
-Sau đó, sau khi chiếm được cả nước, họ phân định dân chúng miền Nam ra nhiều thành phần khác biệt (đối nghịch hoặc thù nghịch với nhau) rồi bắt cả trăm ngàn “ngụy quân” và “ngụy quyền” vào trại cải tạo, lùa hàng triệu gia đình “ngụy dân” đi kinh tế mới, đánh cho tán gia bại sản những kẻ bị gọi là “tư sản mại bản.”
-Rồi cũng chính họ đã biến cả nuớc Việt Nam thành một trại tù ngột ngạt, đói khát khiến hàng mấy triệu nguời đã phải liều chết đâm xầm ra biển, và ít nhất là một phần tư trong số những người này đã vùi thây dưới lòng đại dương.
Những kẻ sống sót, vừa kịp bước chân lên những bờ bến lạ đã nghe họ tới tấp ném theo những lời chửi bới và nguyền rủa vô cùng tàn tệ: “thành phần bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, phản bội tổ quốc, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ”
“Tôi không biết những người mặc thường phục vô cớ hành hung tôi là ai, tôi tha thứ cho tất cả họ.Tôi mong rằng họ đừng để ĐCSTQ lợi dụng, hãy để cho chúng tôi yên ổn tu luyện!” Linh Phan, học viên Pháp Luân Công Việt Nam.
Giải pháp
Làm cách nào có thể “để súng ống quay về cùng một hướng,” và để “có hòa giải quốc gia” với những kẻ có “thành tích” bất hảo, bất nhân, bất nghĩa, bất tín trí và bất trí (đến) như thế? Đây là chuyện vô phương thực hiện, nếu nhà đương cuộc Hà Nội không tiên quyết thực thi hiện những điều căn bản sau:
-Bãi bỏ điều 4 HP, từ bỏ độc quyền cai trị đất nước.
-Giải tán cái quốc hội hiện hành, với hơn 90 phần trăm dân biểu là ĐVCSVN, một cơ chế dân cử trá hình, chỉ có mục đích là thao túng mọi ý nguyện của người dân.
-Trả lại đất đai cho nông dân.
-Trả lại nhà máy và công đoàn cho công nhân.
-Phi chính trị hoá quân đội.
-Trả lại hoàn toàn sự tự trị và độc lập của tất cả tôn giáo lớn nhỏ ở đất nước này, cùng tất cả tài sản vốn thuộc quyền sở hữu của mọi giáo hội.
-Chấm dứt mọi hình thức kỳ thị những nhóm dân bản địa và thiểu số.
-Ngưng đàn áp sách nhiễu những tổ chức xã hội dân sự, và thành viên, dưới mọi hình thức.
-Tổ chức Tổng Tuyển Cử Tự Do để người dân có quyền lựa chọn một thể chế đa nguyên, với một nhà nước tam quyền phân lập, như đa phần các quốc gia văn minh tiến bộ khác trên thế giới.
-Phóng thích hơn 355 tù nhân sinh quán ở Tây Nguyên (phần lớn bị bắt giam với tội danh “phá hoại tình đoàn kết dân tộc”) và tất cả những tù nhân lương tâm khác, cùng với lời xin lỗi cũng như mọi bồi thường thoả đáng.

Cảnh sát cơ động tỉnh Gia Lai, ảnh minh họa. Photo courtesy of LD.
Bao giờ mà những yêu cầu căn bản vừa nêu chưa được thực hiện thì mọi lời kêu gọi đoàn kết dân tộc, hoà giải quốc gia (của chế độ hiện hành) chỉ là một thứ chiến thuật được xử dụng vì nhu cầu tình thế. Chiến thuật này đã được những người CSVN xử dụng nhuần nhuyễn, và thành công nhiều lần, trước đó:
Trước 1954, họ thành lập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 8 (1945-1974) ghi rõ:
“Trước hết, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam không phải là một mặt trận thống nhất riêng của các đảng phái yêu nước, chẳng hạn như Việt Minh. Nó là một khối kết hợp các đảng, các phái và các tầng lớp nhân dân vô đảng vô phái cùng chung một mục đích: vì nước.”
Mới thanh toán xong được nửa nước họ đã không ngần ngại “làm thịt” ráo những đảng viên của những “đảng phái yêu nước khác,” rồi gửi đám công chức thời trước vào tù, và coi những “ngụy dân” như những công dân hạng bét trong phần đất mà họ vừa chiếm được.
Sau đó, họ cũng đã dựng lên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị, Liên Minh Các Lực Lượng Dân tộc, Dân Chủ và Hoà Bình Miền Nam Việt Nam để “đoàn kết Bắc – Nam, đoàn kết quân – dân, đoàn kết nhân dân nông thôn và nhân dân thành thị, đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”
Xong việc, là họ giở mặt ngay tức khắc – theo như lời “than phiền” của ông Ya Biloh, một người dân của Tây Nguyên:
“Nhưng từ sau gày 30-4-1975, những đóng góp và hy sinh của họ cho phe cộng sản tan biến vào mây khói, những lời hứa cho tự trị trước kia bị nhận chìm vào quên lãng. Phong trào Tây Nguyên Tự Trị, cũng như Mặt trận Giải phóng Miền Nam, đã không những bị giải tán mà còn bị cấm nhắc tới…
Ngày nay không những chính quyền cộng sản đã phản bội những kết ước ngày xưa mà còn áp dụng chính sách phân biệt đối xử với cộng đồng người thiểu số Tây Nguyên một cách không nễ nang. Họ đã cậy đông hiếp ít, cậy mạnh hiếp yếu, cậy gian manh hiếp thật thà. Khao khát duy nhất của người Thượng là được sinh sống bình yên trên lãnh thổ của cha ông để lại cũng không được toại nguyên, họ bị xua đuổi vào những vùng hẻo lánh để chết dần chết mòn theo thời gian vì không thể canh tác.”
Có lẽ vì nghĩ rằng dân tộc Việt không ai còn có trí nhớ nên họ đang thản nhiên hô hào: “Để giữ vững chủ quyền phải đoàn kết dân tộc.”
Trước nhà báo Huy Đức, vào tháng 12 năm 2007, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng đã hy vọng viễn tượng bị xâm sẽ “là cơ hội vàng cho dân tộc và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vài năm sau, sau khi sinh viên tổ chức biểu tình đồng loạt ở Sài Gòn và Hà Nội để phản đối Trung Quốc xâm lược – vào tháng 8 năm 2011 – ông vẫn kiên nhẫn trông đợi đây là “cơ hội vàng – lần thứ hai.”
Bản án hơn hai mươi năm tù dành cho Tạ Phong Tần, Điếu cầy Nguyễn Văn Hải – ngay sau đó – chắc chắn đã làm cho những người nhẫn nại và lạc quan cũng đều phải nản lòng, và thất vọng. Nếu vẫn chưa, xin đọc thêm (đôi dòng) về bản tin vừa loan của , nghe được vào hôm 18 tháng 1 năm 2014:
“Đêm thắp nến tri ân tử sĩ Hoàng Sa vào tối 18/1 ở Công viên Biển Đông Đà Nẵng đã chính thức bị hủy bỏ…
Từ Đà Nẵng, ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung Tâm Minh Triết Việt, cho biết:
“Hiện nay là người ta dập nến rồi, không cho đốt nữa. Tức là người ta định là thanh niên sinh viên đốt nến xếp hình tổ quốc Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, nhưng mà lệnh từ Hà Nội vào là không được đốt nến nữa, không được đốt nến, không được thắp lửa trong lòng người…”
Qua hôm sau, 19 tháng 1 năm 2014, RFA đưa tin tiếp: Hà Nội: “Lễ tưởng niệm trận Hoàng Sa bị giải tán.”
Tôi thành thực tin rằng nói chuyện phải/quấy với củ cải vẫn dễ hơn với “lãnh đạo” cộng sản ở Việt Nam, và xin mượn lời của ông Trần V. (độc giả của trang Dân Luận) để thay lời kết cho bài viết ngắn ngủi này:
“Khi nào Đảng Cộng còn cầm quyền, khi đó họ còn tiếp tục làm cho công việc hoà giải dân tộc không thể nào thực hiện được.”
Tưởng Năng Tiến,
23-01-2014
Freedom House công bố Bản Phúc Trình 2014
Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-25

Hình biểu tượng của tổ chức Freedom House.
Courtesy FH
Tổ chức nhân quyền Freedom House trụ sở chính tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, vừa công bố Bản Phúc Trình 2014 cho biết, nói chung, tư do trên thế giới sụt giảm hồi năm 2013. Liên quan VN, bà Sarah Cook, chuyên gia nghiên cứu Á Châu cua Freedom House nhận xét, đại ý như sau:
“Việt Nam tiêu biểu cho một nước, nơi mà chúng tôi nhận thấy tiếp diễn tình trạng đàn áp nghiêm trọng, nhất là về phương diện Internet; nhưng nói chung là về phương diện tự do ngôn luận. Những thông tin mà chúng tôi thu thập được cho thấy hiện số nạn nhân bất đồng chính kiến ở Việt Nam nhiều gấp đôi so với hồi năm 2013 và 2012, phần lớn bị cáo buộc tuyên truyền chống phá nhà nước.
Nhà cầm quyền Việt Nam đề ra những quy định, nghị định mới nhằm hạn chế gắt gao mọi website hay mạng xã hội có thể cung cấp những thông tin bất lợi cho nhà cầm quyền; mục tiêu là nhằm bắt giữ những người sử dụng Internet phổ biến bài vở, hình ảnh mà quan chức không muốn. Cho nên tôi nghĩ đó là diễn biến chính ở Việt Nam. Đó cũng là những gì mà chúng tôi lưu ý trong mấy năm qua ở Việt Nam. Mặc dù như vậy, nhưng chúng tôi nhận thấy tình hình đàn áp vẫn tiếp diễn dù những biện pháp hạn chế vừa nói của giới cầm quyền khiến dân chúng phẫn nộ. Và những hình thức khác, nhất là tệ nạn tham nhũng, kinh tế sa sút, cũng gây bất mãn trong dân chúng.”
Thánh Phaolô, Tông đồ của mọi người
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)
VRNs (25.01.2014) – Sài Gòn – Từ một người hăng say bắt đạo Chúa, thậm chí còn tham gia giết chết Thánh Stêphanô (Phó tế, Tử đạo tiên khởi), đã trở thành người nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-bị-đóng-đinh. Có thể nói rằng nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này, thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.
Từ Giêrusalem đến Damascô, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.
Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.
Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.
Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.
Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.
Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.
Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.
Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.
Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau công nguyên), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.
Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.
Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Giêrusalem, dù ngài định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.
Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.
ERNEST O. HAUSER
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ)
Báo Pháp : Tổng thống Hollande chính thức chia tay bà Trierweiler
Bà Valérie Trierwieler đi cùng với ông François Hollande nhân chuyến thăm Sénégal tháng Mười 2012 – REUTERS /Philippe Wojazer
Hôm nay 25/01/2014, hãng tin Reuters dẫn nguồn tin từ tờ Journal du Dimanche (JDD) cho biết, Tổng thống Pháp François Hollande và bà Valérie Trierweiler, người lâu nay được mệnh danh là “Đệ nhất tình nhân” có thể chính thức loan báo chia tay trong hôm nay, trước khi bà lên đường đi Ấn Độ vào ngày mai.
Theo trang web của tờ báo Journal du Dimanche, một thông cáo báo chí của điện Elysée công bố hôm nay sẽ chính thức hóa tình trạng giữa hai người, khẳng định Tổng thống Pháp và bà Valérie Trierweiler “chấm dứt sống chung”.
Được Reuters đặt câu hỏi, văn phòng Tổng thống trả lời là “Elysée không đưa ra bình luận nào về những tin đồn trên internet”. Phát ngôn viên của bà Trierweiler chưa trả lời, trong khi nhiều cơ quan truyền thông khác hôm nay cũng đưa tin là hai người sẽ chính thức công bố chia tay trong ngày.
Sự tan vỡ giữa Tổng thống và “Đệ nhất tình nhân” là khó thể tránh khỏi, sau tiết lộ của tờ báo bình dân Closer về mối tình bí mật giữa ông François Hollande và nữ diễn viên Julie Gayet, với rất nhiều tấm ảnh minh họa.
Theo JDD, ông François Hollande và bà Valérie Trierweiler vào hôm thứ Năm 23/01/2014 khi cùng ăn trưa đã thỏa thuận được về cách thức chia tay. Như vậy, “Đệ nhất tình nhân” hiện đang an dưỡng tại biệt thự La Lanterne gần điện Versailles dành cho nguyên thủ Pháp sau một tuần lễ nằm viện vì cú sốc, sẽ trở về căn hộ của mình ở quận 15 Paris.
Nếu việc chia tay được chính thức công bố hôm nay, bà Valérie Trierweiler sẽ đi Bombay (Ấn Độ) ngày mai chỉ với tư cách một công dân bình thường. Đây là chuyến đi với mục đích nhân đạo, do tổ chức phi chính phủ Action contre la faim (Hành động chống nạn đói) tổ chức.
Trong cuộc họp báo hôm 14/01/2014, ông Hollande đã hứa sẽ làm rõ tình trạng quan hệ với bà Trierweiler trước chuyến công du Hoa Kỳ ngày 11/2 tới. Ban đầu dự kiến có “Đệ nhất tình nhân” tháp tùng, nhưng nay nếu thông tin trên là chính xác, sẽ là một Tổng thống Pháp độc thân đi gặp ông Barack Obama.
Tờ Le Parisien hôm nay nhắc lại, sự kiện mà báo chí nước ngoài gọi là “love affair” của ông François Hollande đã làm dấy lên trở lại cuộc tranh cãi về tư cách Đệ nhất phu nhân tại Pháp. Theo thăm dò dư luận của tờ báo này, thì 54% người dân Pháp không còn muốn có danh phận Đệ nhất phu nhân, nhất là không muốn ngân sách tiêu tốn cho người phụ nữ chung sống với Tổng thống.
BÀI THƠ ĐÔI DÉP
A POEM OF A PAIR OF SLIPPERS
Lời Việt: NGUYỄN TRUNG KIÊN
Lời Anh: NGUYỄN THỊ BÍCH NGA
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng biến thành thơ
Hai chiếc dép gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau
Cùng bước mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia
Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh
Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi
Không thể thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái
Nhưng tôi yêu em ở những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau vì một lối đi chung
Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia
*
The first poem which I wrote to you
was the one I talked about a pair of slippers
When I kept feeling tormented because of missing you
all the normal things then turned into the poems
I didn’t know when both of them met each other
but they were never far apart as if they loved each other so much
they were side by side on all of the roads down and up,
on the velvet carpets or even on the dirt and sand
Both of them were the same, neither higher nor lower
they shared the people’s trampling with each other
no mattter how glorious or how humiliated, they would never be left
this one’s destiny always depended on that one’s
If some day, one slipper would disappear
all of the displacements would be unsuitable
both of them might resemble one another but people would know
they weren’t from the same pair
Like us when we had each other no more
we stepped limpingly, leaning to one side
though there was a displacement next to ourselves
in our souls, the missing was still lurching
A pair of inanimate slippers only walked with themselves
they never swore and they never deceived
they never promised but they never betrayed
no matter where they traveled, they were always with each other
On the roads of life, this slipper couldn’t lack that one
though each of them was at each side of the pair
but I loved you from the opposite things of yours
our lives were so attached because of the same way
Two quiet lives kept walking side by side
they would stop when there was only one left
Only one left that meant nothing at all
if they couldn’t find out the other one
Nói Dối
Nói dối là nói điều không thật: Bịa đặt, phao truyền, xuyên tạc, để nói xấu, vu khống, chụp mũ, bôi bẩn – hoặc tráo trở, đổi trắng thay đen, “nhổ rồi liếm” là thủ đoạn trong đấu trường chính trị hoặc của kẻ phản phúc, của phường vô ơn, ăn cháo đá bát, có thể xảy ra trong bất cứ xã hội nào trên thế giới. Tuy nhiên – trong xã hội Việt Nam hiện nay, điều nầy trở thành một căn bệnh trầm kha, lan tràn khắp nước, khắp mọi lãnh vực, mọi cơ quan, mọi lứa tuổi. Bệnh dối trá đang hoành hành thống trị cả nước ta…
Hai mươi năm (1954-75) miền Bắc sống dưới chế độ hoàn toàn bưng bít, nhà cầm quyền CS thường phịa ra những chuyện hoang đường như chuyện “miền Nam nghèo khổ không có chén ăn cơm”, “xe tăng địch làm bằng giấy”, “cháu ngoan bác Hồ dùng súng trường, một mình bắn hạ 6 tàu bay “con ma” của địch” v.v… để giáo dục nhồi nhét vào đầu trẻ con và tuyên truyền trong quần chúng… Trẻ con in trong trí. Người lớn tin bằng lời.
Bởi vì – “nói dối, nói dối mãi, người ta sẽ tin”. Câu chuyện Tăng Sâm giết người trong sách QVGKT là một bằng chứng: Lần thứ nhứt có người nói Tăng Sâm giết người. Mạnh mẫu không tin. Lần thứ 2, không tin. Lần 3, bà mẹ Tăng Sâm hoảng hồn bỏ chạy… Adolf Hitler áp dụng những phương pháp trị dân trong quyển “Mein Kampf” (Mon combat) – do chính ông là tác giả: “Nói dối nhỏ, người ta không tin – nói dối lớn, nói mãi, người ta sẽ tin”.
Nói dối, gian trá, lừa dối đã được các chế độ CS thế giới nghiên cứu đến mức tinh vi… được nâng lên hàng sách lược trị dân. Ông Hà nhân Văn – một nhân sĩ tại hải ngoại nhận xét về sự nói dối của chế độ CS: “Nói láo không ngượng miệng, không biết hổ thẹn, không biết liêm sĩ… Nói láo như là 1 phản ứng của con chó Pavlov, để ngụy tạo sự “tự nguyện” là sở trường. Nhưng khi bị lật tẩy, thực tế được phơi bày thì phải sử dụng phương án 2 là bạo lực. Bỏ sở trường, dùng sở đoản”.
Vua nói dối, quan nói dối – dân cũng phải nói dối – nói dối từ trên xuống dưới – nói dối ở mọi cấp, mọi ngành – nói dối trong học đường, ngoài xã hội, trong sự đối xử với nhau. Nói dối để làm ăn, để giao dịch – để thăng quan tiến chức, cả đến trong sự đối xử nhau trong cuộc sống hằng ngày. Trong một xã hội, mọi người đều nói dối, mà mình ngay thật, thì thật khó sống? Rốt cuộc người ngay thật nhất cũng phải nói dối – nói dối để sống còn. Về chuyện nầy, ông Khổng có nói một câu nói rất hay: “Ở chung với người bất lương thì như đi vào chợ cá ươn, lâu mà chẳng biết hôi tanh vì mình đã hóa hôi tanh rồi vậy”. Sống trong một xã hội nói dối, lâu ngày mình cũng thành người nói dối mà không biết, vì mình đã hóa người nói dối rồi!
Xã hội Việt Nam bây giờ – “giả dối lên ngôi, đạo dức suy đồi” – đến ông Bộ Trưởng Giáo dục Nguyễn thiện Nhân cũng phải lên tiếng công nhận “Đạo đức trong gia đình Việt Nam đồng nghĩa với sự dối trá”. Thầy dối trá thầy, trò dối trá trò – quản lý giáo dục báo cáo láo, nạn mua bằng bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước hiện đang là một đại họa cho nền giáo dục Việt Nam. Thậm chí đến trong gia đình cha con, chồng vợ cũng dối nhau, vì không tin nhau, nói dối như là một phản ứng của con chó Pavlov. Việc chính trị hóa nền giáo dục đã tạo cơ sở cho sự DỐI TRÁ đang làm bá chủ đất nước. Xin hãy nghe những nhà trí thức, nhà văn, nhà báo, bloggers, diễn đàn trên mạng trong nước lẫn ngoài nước, các đài quốc tế RFA, RFI, BBC…
Nói láo từ A tới Z:
Hầu hết những trí thức, nhà văn, nhà giáo có lương tâm, những ai còn nghĩ đến tiền đồ Tổ Quốc Việt Nam, đều lên tiếng về một xã hội dối trá đến cùng cực: Giả dối từ A đến Z: Ông giáo sư Trần kính Nghị từ Hà nội mỉa mai: “Ở VIỆT NAM, MỌI THỨ ĐỀU GIẢ, CHỈ CÓ NÓI DỐI LÀ THẬT”. Một giáo sư khác từ Huế – ông Hà văn Thịnh, nói: “Tình trạng giả dối ở Việt Nam lan tỏa từ A đến Z. Trong bản chất, xã hội Việt Nam có SỰ GIẢ DỐI, ÍCH KỶ, VÔ CẢM VÀ TÀN NHẪN. Đó là những biểu hiện văn hóa Việt Nam hiện nay. Người ta giả dối từ A đến Z, từ trên xuống dưới, ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa sao thì lừa, muốn tự tung, tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được”
Căn bệnh trầm kha:
Nói dối đã trở thành CĂN BỆNH TRẦM KHA. Nhà văn Nguyên Ngọc không giấu được sự cảm xúc của mình: “Một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo dức xâm chiếm mọi người. Tâm trạng chán chường trước sự sa sút về đạo đức phát sinh từ một căn bệnh cứ vây kính quanh mình, va vào đâu cũng gặp, dưới mọi kiểu, trắng trợn hay tinh vi – ĐÓ LÀ SỰ GIẢ DỐI”. Tôi cho rằng căn bệnh nặng nhứt, chí tử nhất, toàn diện nhứt của xã hội ta là BỆNH GIẢ DỐI”.
Trong một tham luận nổi tiếng của nhà văn Trần mạnh Hảo đọc tại Đại hội nhà văn lần thứ XIII – ông nói rằng: “Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, để bảo vệ đất nước. Tất cả các thứ giặc kể trên cọng lại cũng không ghê gớm bằng giặc NÓI DỐI đang tàn phá Tổ Quốc, giống nòi ta.”.
Nhiều đảng viên, tuổi đảng cao hơn tuổi hai cuộc chiến tranh tại Việt Nam, đặc biệt là ông Nguyễn Khải, cuối đời rất đau xót mà phải lên tiếng về sự dối trá toàn diện của xã hội Việt Nam trong quyển sách “Đi tìm cái tôi đã mất”: “Nói dối hiển nhiên không cần che đậy (bỏ một đoạn)… Nói dối lem lém, nói dối lì lợm nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì không có ai hỏi lại.”(Nguyễn Khải – Đi tìm cái tôi đã mất)
Tướng Trần Độ cũng nhận xét về xã hội Việt Nam hiện nay: “Đặc điểm bao trùm chế độ chính trị xã hội hiện nay là NÓI LÁO – nói một đàng làm một nẻo. Lãnh đạo lừa dối, Đảng lừa dối, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đình cũng lừa dối nhau”(Trần Độ – Nhật Ký Rồng Rắn)
Tại sao?
Tất nhiên – phải do nhiều nguyên nhân đến từ nhiều phía: Theo nhận xét của tác giả Đại Nghĩa (Danlambao): “Do chính Hồ chí Minh mang con vi trùng bệnh hoạn từ chủ nghĩa CS quốc tế về truyền bá trong đất nước ta”. Và do sách lược của Đảng Cộng sản (ban Tuyên giáo Trung Ương) chủ trương: Kiểm soát toàn bộ đời sồng tinh thần của nhân dân bằng một bộ máy tuyền truyền tinh vi có hệ thống – biến thái nhân dân thành con người XHCN, viết lại lịch sử bằng sử quan CS, hủy diệt đạo đức truyền thống của Tổ tiên và thay thế bằng văn hóa duy vật, tôn sùng lãnh tụ, vinh danh “anh hùng lao động”, đề cao “đạo đức Cách Mạng”, “yêu nước là yêu Xã hội chủ nghĩa, yêu nước là yêu đảng”, tẩy não, cải tạo mọi tầng lớp nhân dân. Để thực hiện chánh sách trên – bộ máy tuyên truyền phải sử dụng vũ khí NÓI DỐI, bóp méo lịch sử để nhào nặn ra con người XHCN. Thực trạng xã hội hiện nay là đạo đức truyền thống gần như bị hủy diệt. Cảnh nhiễu nhương hỗn loạn, đạo đức suy đồi là kết quả của sách lược hủy diệt văn hóa cũ của chế độ CS. Ngoài ra – để củng cố bộ máy độc tài, trị dân có sách lược, các lãnh tụ CS thế giới đều nằm lòng tư tưởng của 2 tác phẩm nổi tiếng sau đây:
1.- “The prince” của NICCOLO MACHIAVELLI, xuất bản năm 1613, Machiavelli viết: “Vì con người vô ơn hay thay đổi, phản phúc khi có quyền lợi, hèn nhát và tham lam, nên tạo sự sợ hãi thì an toàn hơn là tạo sự yên thương”. Theo tác giả, phép trị dân không thể dùng tình thương để cảm hóa vì con người thường vô ơn và hay phản phúc, nên phải dùng bạo lực sắt máu cho dân sợ hãi mà phục tùng. Bạo lực phải đi đôi với nói dối. Nói dối phải đi kèm với sự bưng bít và bạo lực. Nói dối không đi kèm với 2 điều kiện nầy thì nói dối dễ bị khám phá, bị lật tẩy – và vô hiệu. Bạo lực mà không nói dối thì chỉ là bạo lực của chế độ độc tài phong kiến, dễ bị lật đổ. Muốn cho dân tin thì phải nói dối. Và “Phải làm cho dân vừa yêu, vừa sợ. Nếu không thể làm cho dân yêu mến thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi, để họ không bao giờ có ý nổi loạn. Đảng ta luôn luôn biến động thay đổi không ngừng, biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh và vô cùng linh động làm lan tỏa chân rết đến mọi ngỏ ngách của xã hội, kiểm soát cái dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân”.(Bài nói chuyện trong buổi họp kiều vận của một cán bộ cao cấp tại hải ngoại). Nguồn: Việtland.
2.- “Mein Kampf” (Mon combat) xuất bản ngày 18-Juillet 1925 tại Đức và 1934 – do dịch giả André Calmettes, nhà xuất bản Les Nouvelles Editions Latines Paris, ấn hành 1934. Sách được dịch ra 16 thứ tiếng và bán được từ 1924 đến 2008 là 80.000.000 quyển. (Nguồn: Vikipedia). Theo đó – Hitler sử dụng những phương pháp tẩy não con người, để bắt con người phải phục tùng tuyệt đối. Một phương pháp đặc biệt trong sách lược trị dân là NÓI DỐI: “Cứ nói dối, nói dối mãi, người ta sẽ tin”.
Vì muốn nắm quyền lực lâu dài, 2 tác phẩm trên đây chắc chắn là sách gối đầu giường của các lãnh tụ CS thế giới. Ngoài ra – các nhân vật lịch sử nổi tiếng độc tài như Napoleon đệ nhứt, tàn bạo như Tần thủy Hoàng, tài ba như Ngô Khởi, Quản Trọng và ghê gớm như Vệ Ưởng – một kỳ tài, tác giả của “Ngũ gia liên bảo”và hình luật tố cáo nhau vô cùng tàn khốc đời chiến quốc – chắc chắc sẽ được Mao trạch Đông nghiên cứu rút tỉa những phương sách và kinh nghiệm trị dân bằng bạo lực và nói dối.
Nhìn lại các chế độ CS Liên Xô, Nam Tư, Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Hàn v.v… sách lược trị dân đều là NÓI DỐI VÀ BẠO LỰC. Đảng CS Việt Nam không là một ngoại lệ, cũng rập khuông CS Trung Quốc và Liên Xô.
Chính Tổng bí Thư M.Gorbachev xác nhận: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời đi theo lý tưởng CS, nhưng hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng CS chỉ biết nói dối và truyên truyền”.
Còn ai biết rõ Cọng sản hơn ông Trùm Cộng Sản Liên Xô?
Đạo đức suy đồi, Văn hóa xuống cấp…
Đạo đức xuống dốc thê thảm dìm xã hội trong sự hỗn loạn, trong tệ trạng chưa từng thấy. Nhan nhãn hằng ngày trên mặt báo “lề đảng”, “lề dân”, các diễn đàn trên mạng, các bài phóng sự từ trong nước gửi ra, hình ảnh xác thực trong you tube, các bài của các người về nước chứng kiến tại chỗ.
Bộ mặt xã hội Việt Nam:
Tại Việt Nam hiện nay, ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội khủng khiếp. Nó lan tràn khắp nước, không còn là một hiện tượng riêng lẻ mà toàn bộ hệ thống xã hội.
Những vụ chặt tay cướp xe, đâm người cướp của giữa đường phố, xông vào tiệm vàng cướp giựt, xông vào nhà bắt trói gia chủ cướp của giữa ban ngày, thậm chí trộm một lúc 11 xe gắn máy tại một chung cư… (Văn Quang – Thời Báo) Nạn gã gẫm phụ nữ, trẻ em vị thành niên bán vào các đông mãi dâm ở Kampuchia, Ma cau… Nạn buôn phụ nữ, bắt cỡi trần truồng cho mấy thằng Đại Hàn, Trung Quốc, Đài Loan ngắm nhìn sờ mó để tuyển chọn.. Phụ nữ Việt bị để trong lồng kiến bán đấu giá tại Mã Lai, trên bích chương bán công khai tại Đại Hàn. Đó là một quốc nhục chưa từng thấy. Nhân phẩm người phụ nữ Việt xuống cấp như một món hàng bày bán ngoài chợ… Những sự thật sờ sờ ra đó – ngày nay không còn ai nghi ngờ gì nữa.
Ở học đường, giáo dục bị chính trị hóa. Học sinh không được giáo dục những giá trị nhân bản về tinh thần, về quốc gia dân tộc, về đạo đức làm người. Chỉ có một loại đạo dức là đạo đức Cách Mạng: “Yêu nước là yêu đảng”. Chính sách giáo dục hủy diệt văn hóa truyền thống của ông cha, tạo ra những hậu quả hỗn loạn, học sinh đánh đập, đâm chém nhau đổ máu, một nhóm học sinh đứng ngoài vỗ tay cổ võ (tại trường Ứng Hòa B -Hà Nội), cảnh nữ sinh nắm tóc, xé áo, xô ngã té xuống đất, chửi nhau bằng lời lẽ hết sức thô tục, hạ cấp, một số nữ sinh lạnh lùng ngồi ngó (xem ảnh). Tháng 3 – 2010 – một nữ sinh khác đánh đập rất tàn nhẫn một nữ sinh ngay giữa hè phố, dân chúng đi đường làm ngơ, vô cảm…
Tồi tệ hơn nữa – một Hiệu Trưởng Trung học tên Sầm Đức Xương tại Hà Giang, bắt ép nữ sinh của mình làm gái chơi hiến thân cống nạp cho các quan đầu tỉnh là Nguyễn trường Tô. Chuyện thầy giáo Nguyễn quang Hoàng dùng súng khống chế, cưỡng ép tình dục với nữ sinh tại khách sạn – chuyện một nữ sinh ở Cà Mau khai trước Công An là có quan hệ tình dục với thầy giáo Phạm Thái Tây 2 lần, để được thầy hứa cho tiền và cho biết đề thi để lên lớp… Tại TP mang tên bác, một cô giáo trường Marie Curie phạt một nam sinh 18 tuổi bằng cách sờ ngay vào chỗ kín của cậu nầy. Chuyện động trời như vậy mà H.T Nguyễn Văn Vân lại bao che lấp liếm, cho là “một sai sót nhỏ”. (Tin CTV News). Thật đáng xấu hổ cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Học đường không còn là nơi tôn nghiêm để dạy dỗ học sinh nên người, nơi mà tình phụ tử, tình mẫu tử, tình sư đệ, tình anh em bầu bạn, những giá trị đạo đức truyền thống của ông cha: Nhân, nghĩa, Lễ, Trí, Tín, được giảng dạy trong môn Đức Dục. Nền giáo dục cũ dựa trên Nhân Bản, Dân tộc và Khai Phóng đã bị xóa bỏ… Cho nên những cảnh trên đây xảy ra cùng khắp nước. Không thể ghi hết được.
Học đường nay là nơi buôn bán cấp bằng, bán đế thi, thầy dụ dỗ trò, trò quan hệ tình dục với thầy. Trò với trò đánh nhau đổ máu. Nữ sinh giựt tóc, xô té xuống sân trường, đánh nhau với nữ sinh. Trẻ con nói chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ hết sức hạ cấp. Thậm chí, trò nói với thầy bằng câu: “Đéo biết” – thầy hỏi vậy trả lời “đéo” được. Thầy giáo, nhà mô phạm hành xử như một côn đồ, xách dao rượt chém người láng giềng đổ máu phải vào bệnh viện tại thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tiến sĩ Nguyễn xuân Diện ngao ngán nói rằng: “Những vụ giết người càng ngày càng táo bạo, kẻ ác thủ tuổi đời ngày càng trẻ, cách thức giết người càng ngày càng dã man, độc ác hơn”.
Nói có sách, mách có chứng. Một cuộc điều tra xã hội của báo chí tại Việt Nam, kết quả như sau: 30 – 40% học sinh tiểu học nhiễm thói lừa dối – 40-50 % hs Trung Học nhiễm thói lừa dối và gian lận – lên Đại Học tăng đến 50-60 %. Càng lên cao càng lừa dối và gian lận. (Đối thoại online ngày 24-7-2007). Ở trường dối gạt thầy, về nhà dối gạt cha mẹ. Cấp 1:20% ; Cấp 2: 25 % ; Cấp 3: 64 %. Càng cao càng thạo nói láo. (RFA online ngày 30-9-2013).
Bộ mặt xã hội nhiễu nhương, trộm cắp giết người, đánh nhau đổ máu xảy ra như cơm bữa – người đối xử với người không một chút tình người, không chút lòng nhân trước cảnh thương tâm bệnh hoạn ngặt nghèo. Mọi người như chực hờ xâu xé nhau. Ra đường, chỉ vì một cái nhìn, một câu nói mà có thể xảy ra án mạng. Con có thể giết cha, vợ giết chồng (cô Văn thị Thủy cùng tình nhân bắt trói ông chồng tên Thanh, rồi dùng giây dù siết cổ đến chết…) Còn việc tham ô, hối lộ, là cách kiếm tiền đương nhiên. Dối trá, lường gạt là tiêu chuẩn giao tiếp, coi pháp luật là đồ trang sức cho chế độ, coi bản án hình sự là món hàng mua bán. Thanh niên thì tôn thờ chủ nghĩa lai căng, chủ nghĩa kiếm tiến kiếm danh bằng mọi giá – tôn thờ thần tượng Michael Jakson, hôn đít ghế ngồi của tài tử Đại Hàn Be Rian. Đó là nhận xét của mục sư Nguyễn trung Tôn (Thanh Hóa). Ngoài sự nói dối – con người trong xã hội VN hiện nay rất lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng vồ xé nhau vì một chuyện cỏn con… một lý do không đáng kể…
Vô Cảm
Tâm lý cầu an, tránh phiền phức trong một nền luật pháp tùy tiện và tham nhũng – người dân không còn tin tưởng nơi loại luật pháp “Tao là luật”, không còn tin tưởng nơi chính quyền, nơi giữa con người với nhau và tự bản thân không được giáo dục những giá trị nhân bản về đạo làm người – nên con người trở nên VÔ CẢM. Trong gia đình vợ chồng, cha con cũng phải e dè – tâm lý dối trá, luồn lọt, làm mọi cách để kiếm tiền, đưa con người đến chỗ vô cảm, vô tâm và tàn nhẫn.
Hình ảnh một người bị cướp giựt cái xách tay làm đổ tung tóe những tờ giấy bạc, những người đi đường bu quanh, tranh nhau giành giựt những tờ giấy bạc mà không một ai ngó ngàng đến nạn nhân đang quằn quại ngã quỵ xuống đất. Mặc kệ… nạn nhân rên siết với cánh tay bị gẩy lìa, máu tuông xối xả… những người đi đường, sau khi giành được vài tờ giấy bạc, rồi lạnh lùng bỏ đi…
Còn các đại gia thân nhân các quan cán bộ giàu có, các vương tôn công tử, những triệu phú, tỉ phú tiền xanh, ở trong những biệt thự cực kỳ sang trọng, đi xe Roll Royce, Cadillac, Ferrari, Mercedes xài tiền như nước, đánh cờ ăn thua cả thì VN đồng một ván, ăn phở thịt bò Kobe nhập cảng, cá độ bóng tròn hàng chục ngàn đô la, làm đám cưới cho con rước dâu bằng xe bóng láng đắt tiền dài hàng cây số, mua áo cô dâu tại Paris giá đến 200.000 Euros một chiếc. Họ càng vô cảm hơn ai hết. Không có gì làm cho họ động lòng trắc ẩn, thương xót người nghèo đói, tật nguyền…
Vì vô cảm, không một chút tình người, các đại gia nhẫn tâm thả chó căn chết người ngay giữa thành phố. Còn một bà già nghèo khổ tại Ban Ma Thuột, đi mót hột cà phê bị một đại gia thả cả bầy chó cắn chết… Bầy chó tranh nhau xé xác chết thành từng mảnh, nhầy nhụa… Chủ nhà làm ngơ không can thiệp. Vô cảm đến mức tàn nhẫn, mất tính người. Rồi đến nạn cướp đất làm sân golf, xây khách sạn, cho ngoại quốc thuê dài hạn, cho Trung Quốc lập làng (Thí dụ tại Cà Mau, công Ty sx phân bón lập 1 làng có 5000 người từ TQ sang) vô cảm đến nỗi mẹ con bà Nguyễn Thị Lài ở Cần Thơ phải dùng sự phơi bày thân thể như là cái vũ khí cuối cùng của người đàn bà, để chống sự cướp đất, nhưng cũng vô hiệu… Công an coi như pha. Vô cảm đến nỗi phải cướp đến phần đất hương hỏa mấy đời của một bà mẹ chiến sĩ, huy chương đầy ngực… Nói tóm lại – sự vô cảm lan tràn khắp nước, khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, từ dân thường đến nhà cầm quyền – từ người nghèo khổ đến kẻ giảu sang….
Cả đến ngành y tế cũng vô cảm, tàn nhẫn còn hơn những ngành khác. Bệnh viện Mắt ở Hà nội đánh tráo thủy tinh thể, khiến cho 3000 bệnh nhân có thể lâm vào cảnh mù lòa. Cảnh bệnh nhân nằm bất tỉnh trước bệnh viện Từ Dũ, không được cứu cấp vì không có tiền nộp… Nói hoài không hết. Viết mãi cũng còn…
Quả là một thời mạt pháp. Thiên hạ sống trong sự giả trá. Đạo đức suy đồi. Văn hóa xuống cấp trầm trọng chưa từng thấy. Con người bị vong thân, tha hóa đến tột cùng. Nhìn đâu cũng thấy con người đối xử với con người, vô cảm, nhẫn tâm và tàn bạo…
Tuy nhiên – đạo đức hiểu theo đạo đức truyền thống, những giá trị luân lý ngàn đời của ông cha để lại… Còn đạo dức của chế độ CS là đạo đức Cách Mạng. Đạo đức và tư tưởng bác Hồ, đạo dức khóc lãnh tụ như đại thi hào Tố Hữu:
“Xít ta lin, ông ơi! ông mất đất trời có không?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười”
Đó là đạo dức Cách Mạng. Mà hiểu đạo dức theo nghĩa đạo dức Cách Mạng thì có phải là đạo đức suy đồi không? Câu trả lời dành cho Đảng CS Việt Nam.
Giả định bà Nguyễn thị Đoan còn hiểu đạo đức theo nghĩa cũ, nên bà Phó Chủ Tịch nước CHXHCN, lên tiếng xác nhận một sự thật bất khả phủ nhận: Đó là ĐẠO ĐỨC SUY ĐỒI THÊ THẢM TẠI VIÊT NAM, bà tuyên bố:
“Đạo đức xã hội xuống cấp đến mức báo động – xuống cấp ở mọi lãnh vực, kể cà y đức và giáo dục”: Bạo lực học đường (một học sinh bị đánh chết vì đẹp trai). Niềm tin nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Có nơi, dân tự xử những trường hợp ăn cắp – chỉ vì bắt trộm một con chó mà bị đánh chết. cướp ở thành phố xảy ra mỗi ngày – du đảng, bảo kê lộng hành ở các thành phố lớn.
Còn ai đủ thẫm quyền xác nhận tình trạng đạo đức suy đồi, xã hội tha hóa, hỗn loạn ở Việt Nam, hơn bà Phó Chủ Tịch nước VNXHCN.
Nhà thơ Bùi minh Quốc đau lòng thốt lên 2 câu thơ:
Ngoảnh mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mữa
Cả một thờ đểu cáng đã lên ngôi.
Xuân Giáp Ngọ 2014
httpv://www.youtube.com/watch?v=i_e8G0FKIJE
Tết Tây – Tết Ta
2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần “ôn” lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết “Tây” ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.
Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được “đồng hoá” vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).
1. Âm lịch – Dương lịch
Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan…) hay trong thiên văn, tử vi.
2. Tết Tây
Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, …).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là “Réveillon de la Saint Sylvestre”. Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn “bánh vua” (galette des rois).
Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year’s Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.
Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, …).
Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là “ý định cương quyết” (tôi thật không biết phải dịch chữ “resolutions / résolutions” như thế nào?) : “Năm nay, tôi cương quyết sẽ… bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp…, bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, …”
Tinh thần của những “nghị quyết” này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác…
Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem “Tết Nguyên Đán” thì sơ sơ cũng hơn chục trang.
3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán: “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”.
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là “rườm rà” nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.
3.1 Những giai-đoạn chính:
Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà…”
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.
Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.
Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.
Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
Qua ngày mồng 1, chúng ta bước vào Tân niên (năm mới, sau Tết) và ăn Tết 7 ngày.
Ngày mồng Một tháng Giêng (còn gọi là ngày Chính đán) là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình.
Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.
Cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên.
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là “Tiền mở hàng”.
Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục “Đi sêu”.
Ngày mồng Ba là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy,
đúng theo truyền-thống
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
hay nói cách khác
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ,
Mùng Ba tết thầy.
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam.
Với quan niệm ngày mồng Một “khai trương” một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người “lý tưởng” thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.
Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
Ngoài ra, còn có những tục lệ khác như:
– xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
– khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay… khai pháo;
– hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
– khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
– … …
3.2 Sắm Tết – Trang hoàng
Đã gọi là Tết thì phải linh đình, năm mới cái gì cũng phải mới và đây là dịp để đi sắm Tết. Chợ Tết là những phiên họp chợ vào trước Tết, từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ.
Cây Tết tiêu biểu nhất là cây nêu, một loại tre cao khoảng 5-6 thước, ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy để táo quân dùng làm phương tiện về trời,…
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.
Mâm ngũ quả là một mâm có khoảng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý “cầu sung vừa đủ xài”.
Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: “Hẩu”.
Hoa Tết thì không thể thiếu hoa đào (để xua đuổi ma quỷ, theo sự tích hai vị thần ở núi Sóc Sơn) và hoa mai (màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, cho sự phát triển nòi giống).
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, … và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, …
Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết.
Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
(Xin mời đọc thêm về câu đối trong bài “Tôi yêu tiếng nước tôi: Chơi chữ” tháng này
Và không ai là không nhớ bài thơ “ông đồ” của Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
3.3 Ẩm-thực ngày Tết
Thành ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho “già được bát canh, trẻ có manh áo mới”. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết”.
Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, …
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Miền Trung có dưa món và món tré (giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng), thịt chua và tai heo, …
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, …
Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, … hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, …
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.
3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết
Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:
Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền để xua ma, trừ quỷ.
Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, cuối năm là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ.
Tuỳ theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần “lễ” và phần “hội” chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Các lễ hội truyền-thống thường có thi đấu cờ người (không phải loại của bà Hồ Xuân Hương đâu nhé), đua thuyền, đấu vật, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu…
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, chọi gà và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, chắn, tổ tôm, cờ gánh, ai thích gì thì cứ chơi. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm… hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.
Còn nhiều phong-tục thất -truyền nữa như “đi sêu Tết” (trước ngày Tết, con rể tương lai mang lễ đến biếu bố mẹ vợ), lạy sống ông bà, hát sặc bùa (trẻ con nghèo đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống để được chủ nhà phát tiền mừng tuổi), …
3.5 Tín ngưỡng ngày Tết
Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc.
Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục “bốc quẻ thẻ” giống như tục “xin xăm” ở phía Nam.
Người Việt ta hay tin dị-đoan.
Mong sao có những điềm lành như:
– Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh;
– Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ “Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang”;
– Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc;
– Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm;
… … …
Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như:
– Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc;
– Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi;
– Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc “tiền vào như nước”, nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị “rông” (xui xẻo) cả năm;
– Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong);
– Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… nếu không sẽ “xúi quẩy”.
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, cãi nhau, nói xấu, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình;
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- … … …
3.6 Tết tha-hương
Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui “tạm bợ” nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương.
Và bây giờ tôi vẫn “phải” tiếp tục vui Tết tha hương.
Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, … cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, …, cũng có đốt pháo, múa lân, …
Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, … có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết.
Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.
Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao?
Con người “xa mặt, cách lòng” và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình.
Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu?
Vui buồn lẫn lộn.
Yên Hà,
tháng Giêng, 2014
Trầm Thiên Thu
01/22/2014
Dân gian “đúc kết” kinh nghiệm cuộc đời thành hai điều đơn giản: “Sống Tết, chết giỗ”. Hai điều đó có vẻ đơn giản thôi, thế nhưng cũng nhiêu khê lắm.
Theo sách “Le Khmer”, trước kia dân Việt ăn Tết theo Trung Quốc, nhưng cũng có thời gian dân Việt ăn Tết theo Chiêm Thành. Tết này bắt đầu vào tháng Hai âm lịch, có đủ lễ lạc, vui chơi, hát xướng, rượu chè,… trong ba ngày liên tiếp, nhưng người ta cũng đi thăm viếng nhau, và cũng có nhiều điều kiêng cữ. Trong mấy ngày ấy, dù gặp kẻ thù thì người ta cũng chào và chúc mừng nhau. Theo tục lệ người Chiêm, ngày ấy là ngày “xóa bỏ hờn giận”. Ý nghĩa Tết như vậy rất nhân bản, tốt lành và cao thượng.
Trẻ em còn vô tư nên háo hức mong Tết mau đến. Người lớn có những người cũng mong Tết, nhưng sự mong chờ của họ mang “ý nghĩa” khác hẳn so với trẻ em, thậm chí có người thực dụng, họ mong Tết để có lợi về vật chất.
Tuy nhiên, có những người không hề mong Tết, họ nghèo khổ quá nên họ sợ Tết, nếu có thể thì họ chỉ mong “đừng có Tết”. Buồn lắm thôi! Nhưng thời gian cứ luân phiên, tứ thời bát tiết tuần tự theo quy luật tự nhiên của đất trời. Cứ đến cuối năm thì những người nghèo lại “giật mình” như điện giật, như chớp bể mưa nguồn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Cái lo ngày thường đã khiến họ rối trí rồi, cái lo ngày Tết làm họ càng nhức đầu hơn. Nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nỗi khổ cứ chồng chất, làm sao vui được!
Cả năm đầu tắt mặt tối, bán lưng cho trời bán mặt cho đất, từ sớm tới khuya không ngơi tay, thế mà vẫn chẳng thấy chút niềm vui: “Đi cày ba vụ, không đủ ăn ba ngày Tết”. Nghe người ta chúc giàu sang phú quý mà thêm mủi lòng, cũng đành cười gượng để gọi là Xuân. Người nghèo đáng thương biết bao!
Ngày Tết là dịp vui Xuân, bù đắp những ngày tháng cực nhọc vất vả suốt năm, có lợi cho cả tinh thần và thể lý. Nhưng thương thay, có những người “gọi là” nghỉ ngơi ăn Tết mà lòng vẫn lo ngay ngáy:
Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không yên
Khổ quá! Bình thường thì chẳng ai biết ai thế nào, nhìn thấy họ vất vả nhưng chưa chắc khổ, hoặc nhìn thấy họ nhàn hạ nhưng chưa chắc sướng. Có “cháy nhà mới lòi mặt chuột”. Kinh nghiệm dân gian cũng cho biết: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có Ba mươi Tết mới hay”. Hoặc như ca dao phân tích:
Có, không: đến mùa Đông mới biết
Giàu, nghèo: ba mươi Tết mới hay
Chuyện giàu – nghèo đã vậy, như một quy luật muôn thuở, như “phần cứng” đã được “cài đặt” mặc định rồi, chẳng ai dám nhận mình hiểu hết ngọn nguồn.
Chuyện tình cảm đôi lứa cũng rắc rối, phiền toái. Bảo là yêu nhau nhưng hành động lại không thể hiện tình yêu đó. Cô nàng trách anh chàng: “Chiều Ba mươi anh không đi Tết, rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”. Và rồi anh chàng cố gắng phân bua, biện minh cho sự “lỡ hẹn” của mình, mong cô nàng cảm thông: “Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ, sáng mồng Một anh bận việc làng, ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”. Nhiêu khê quá! Ai bày Tết nhất làm chi không biết!
Tết là thế đó. Tết vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Tết cũng có biết bao phong tục, nghi thức, lễ nghĩa,… mà người ta phải thực hiện – dù muốn hay không. Một trong các nghi thức chứng tỏ lễ nghĩa là nhớ ơn người khác: “Mồng một tết Cha, mồng hai tết Chú, mồng ba tết Thầy”. Đó là “công thức” chung. Riêng nam giới hoặc quý ông đã có vợ thì có “kiểu” lễ nghĩa khác một chút, nhưng cũng không ngoài chuyện nhớ ơn. Ca dao nói:
Mồng một thì ở nhà cha
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy
Tết còn là dịp nhắc nhở người ta phải sống chân thật, không được lọc lừa, giả dối, ăn không nói có,…
Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà
Đó là câu ca thể lục bát đã có từ khi Ba Giai và Tú Xuất còn sinh thời. Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX. Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm, với “đối tượng” chính là các quan lại tham nhũng, các trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông được biết đến là người trong cặp bài trùng với Tú Xuất. Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận “Hà Thành Chính Khí Ca”, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25-4-1882.
Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, không rõ năm sinh và năm mất. Có thể ông sống vào khoảng thời gian triều đại các vua Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên người ta gọi là Ba Giai. Gia cảnh nghèo khó, cha mẹ mất sớm, ông đi làm thuê để có tiền ăn học. Ông học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không được đi thi. Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất thế nào và lúc nào, có thể hai ông thường gặp nhau vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm Hà Nội (1872 và 1882). Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau.
Tục ngữ có câu: “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”. Có những thứ con người muốn mà không làm già được, thế nên người ta vẫn tin vào thần linh vô hình. Ngoài ra người ta còn có nhiều kiểu vui chơi trong mùa Xuân. Riêng vùng đất Nam Định có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:
Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình
Mông bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi
Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua
Ngày xưa, dân chúng chủ yếu là nông dân, công việc đồng áng theo mùa, có lúc vất vả nhưng có lúc lại nông nhàn. Vì thế, người ta ăn Tết không chỉ mấy ngày đầu Xuân mà người ta vui vẻ suốt tháng Giêng, rồi còn “lai rai” cả những tháng ngày kế tiếp:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè
Ca dao và tục ngữ là kho tàng văn chương quý giá, tuy bình dân nhưng vẫn sâu sắc và chứa nhiều bài học sống giá trị. Ngày Xuân có dịp đọc lại và ngẫm nghĩ về ca dao và tục ngữ thì thật là thú vị.
Tác giả: Gs. Phan Văn Phước
Bàn thờ nghi ngút khói nhang
Ngồi bên những cánh mai vàng tươi xinh
Mẹ già lẩm nhẩm đọc kinh
Nhớ thương những đứa con mình ở xa
Vườn xuân rộn tiếng chim ca
Cõi lòng của mẹ bao la, nặng sầu
Con đi biền biệt đã lâu
Không còn giúp mẹ têm trầu như xưa
Mẹ ăn ấm buổi Giao Thừa
Con mừng tuổi mẹ… khi vừa nghinh tân
Mẹ cười, nét mặt khoan nhân*
Đẹp hơn cả mấy vạn lần xuân tươi
Mùa xuân phúc lộc cõi người
Tức là có mẹ mỉm cười với con
Từ khi cha mẹ không còn
Xuân càng quạnh quẽ, héo hon nơi nầy
Như chim xa tổ, lạc bầy
Lệ sa, nhớ thuở sum vầy đón xuân…
————–
*Mừng tuổi, rồi xin lỗi. Ngày đầu xuân, mẹ bao dung mỉm cười.
Kính mời quý Vị nghe nhạc Xuân:
httpv://www.youtube.com/watch?v=RTajaAhQ3js
Có lời, hình thục nữ và Hoa Xuân: Mùa xuân của mẹ – YouTube
httpv://www.youtube.com/watch?v=sFZwDtexrKk
Có lời, Ngọc Hà hát bằng giọng Huế: Mua xuan cua me – Ngoc ha.avi_(360p).avi – YouTube
Tác giả: Gs. Phan Văn Phước