CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA

( BÀI GIÁO LÝ 23 VỀ KINH TIN KÍNH CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ngài tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính nói về Cái Chết của Chúng Ta và chúng ta phải chuẩn bị thế nào.

* * *

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em và chúc mừng vì anh chị em vì can đảm ở quảng trường này trong sự lạnh lẽo.  Tôi khen ngợi anh chị em rất nhiều.

Tôi muốn kết thúc loạt bài giáo lý về “Kinh Tin Kính”, được ban hành trong Năm Đức Tin, bế mạc Chúa Nhật tuần trước.  Trong bài giáo lý này và những bài giáo lý tiếp theo tôi muốn nói về chủ đề sự sống lại của thân xác, theo hai khía cạnh như được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, tức là sự chết và sống lại của chúng ta trong Đức Chúa Giêsu Kitô.  Hôm nay tôi sẽ suy niệm về khía cạnh thứ nhất, “sự chết trong Đức Kitô.”

1. Thường trong chúng ta, có một cách nhìn sai lầm về cái chết.  Tất cả chúng ta đều quan tâm đến cái chết, và nó chất vấn chúng ta một cách sâu xa, đặc biệt là khi nó chạm đến gần chúng ta, hoặc khi nó chạm đến những trẻ em, những người không thể tự vệ, một cách mà đối với chúng ta là “xấu xa”.  Tôi luôn luôn tự hỏi: tại sao trẻ em phải chịu đau khổ?  Tại sao trẻ em phải chết?  Nếu cái chết được hiểu là chấm dứt tất cả mọi sự, thì nó thật đáng sợ, khủng khiếp, và biến thành một đe mối dọa phá vỡ mọi mơ ước, mọi quan điểm, mọi liên hệ và làm gián đoạn mọi con đường.  Điều này xảy ra khi chúng ta coi cuộc sống của như như một khoảng thời gian bị giới hạn giữa hai thái cực: sinh và tử, khi chúng ta không tin vào một chân trời vượt trên cuộc sống hiện tại; và khi chúng ta sống như thể không có Thiên Chúa.  Quan niệm này về cái chết là điều điển hình của tư tưởng vô thần, là tư tưởng giải thích cuộc đời như việc chúng ta hiện diện trên thế gian là một sự tình cờ, và đang đi về phía hư vô.  Nhưng cũng có một chủ nghĩa vô thần thực tiễn, đó là một lối sống chỉ vì tư lợi và chỉ sống cho những điều trần tục.  Nếu chúng ta để cho cái nhìn sai lầm về cái chết này bắt giữ, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là che giấu cái chết, chối từ nó, hoặc tầm thường hoá nó, ngõ hầu nó không làm cho chúng ta sợ hãi.

2. Tuy nhiên, trước giải pháp sai lầm này, “quả tim” con ngưởi – lòng ước ao sự vô tận của nó, mà mỗi ngưởi chúng ta đều có, lòng khao khát cõi vỉnh hằng của nó, cũng ở trong mỗi ngưởi chúng ta – nổi loạn.  Như thế, ý nghĩa Kitô giáo của cái chết là gì?  Nếu chúng ta nhìn vào những giây phút đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi chúng ta bị mất một người thân yêu – cha mẹ, một người anh em, một người chị em, vợ, chồng, một đứa con, một người bạn – chúng ta nhận ra rằng, ngay cả trong thảm trạng của sự mất mát, ngay cả khi bị tan nát bởi việc bị chia cách, một xác tín nảy sinh trong trái tim rằng tất cả mọi sự không thể nào là hết, rằng những điều tốt đã được cho đi và nhận được không phải là vô ích. Có một trực giác mãnh liệt trong chúng ta bảo chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc với cái chết.

Việc khao khát sự sống này đã tìm thấy câu trả lời thực tế và đáng tin cậy của nó trong sự Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.  Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không những chỉ cung cấp cho chúng ta sự chắc chắn về đời sống sau khi chết, mà còn soi sáng những mầu nhiệm về cái chết của mỗi người chúng ta.  Nếu chúng ta sống kết hợp với Chúa Giêsu, trung thành với Người, chúng ta sẽ có thể đối diện với việc đi qua của cái chết với niềm hy vọng và sự thanh nhàn.  Thật vậy, Hội Thánh cầu nguyện: “Nếu sự chắc chắn rằng mình phải chết làm anh chị em buồn phiền, thì anh chị em được an ủi bởi lời hứa về trường sinh”.  Đây là một lời cầu nguyện rất đẹp của Hội Thánh!  Một người có khuynh hướng chết theo cách mà người ấy sống.  Nếu cuộc đời của tôi là một cuộc hành trình với Chúa, một con đường tín thác vào lòng thương xót vô hạn của Người, tôi sẽ được chuẩn bị để chấp nhận giây phút cuối cùng của cuộc đời dưới thế như sự phó thác dứt khoát và tin tưởng vào đôi bàn tay đón chào, trong khi chờ đợi để chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người tận mặt.  Đây là điều đẹp nhất có thể xảy ra cho chúng ta: chiêm ngưỡng tận mặt Thánh Nhan xinh đẹp của Chúa, để nhìn thấy Người như Người là, xinh đẹp, đầy ánh sáng, tràn đầy tình yêu, đầy dịu dàng.  Chúng ta đi đến cùng đích này: nhìn thấy Chúa.

3. Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu được lời mời gọi của Chúa Giêsu là luôn luôn sẵn sàng, tỉnh thức, vì biết rằng cuộc đời dưới thế này được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho đời sau, là đời sống với Cha trên trời.  Và vì thế, có một cách chắc chắn: chuẩn bị tốt cho cái chết, bằng cách gần gũi Chúa Giêsu.  Đó là sự an toàn:  Tôi chuẩn bị mình cho cái chết bằng cách ở gần Chúa Giêsu.  Anh chị em đang gần Chúa Giêsu như thế nào?  Bằng cầu nguyện, các Bí Tích và cũng qua việc thực thi bác ái.  Chúng ta hãy nhớ rằng Người hiện diện trong những người yếu đuối và thiếu thốn nhất.  Chính Người đã đồng hóa Mình với họ, trong dụ ngôn thời danh về Phán Xét Chung, khi Người nói: “Vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát, các con đã cho Ta uống, là một người lạ, các con đã tiếp đón Ta, trần truồng, các con đã cho Ta mặc, đau ốm, và các con đến thăm Ta, ở tù, các con đã đến với Ta…. Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những anh em này của Ta, là các con đã làm cho Ta” (Mt 25:35-36,40 ).  Vì vậy, một cách an toàn là để phục hồi ý nghĩa của việc bác ái Kitô giáo và chia sẻ huynh đệ là chăm sóc những vết thương về thể chất và tinh thần của những người lân cận của chúng ta.  Sự đoàn kết trong việc cảm thông đau khổ và truyền hy vọng là tiền đề và điều kiện để thừa kế Vương Quốc được chuẩn bị cho chúng ta.  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Hãy suy nghĩ về điều này: những người thực hành lòng thương xót không sợ chết!  Anh chị em có đồng ý không?  Chúng ta cùng nhau lập lại câu này để không quên nó được không?  Những người thực hành lòng thương xót không sợ chết. Và tại sao họ lại không sợ chết?  Tại vì họ nhìn vào nó trong những vết thương của anh chị em, và khắc phục nó với tình yêu của Đức Chúa Giêsu Kitô.

Nếu chúng ta mở cửa đời sống và con tim của chúng ta cho anh chị em mình, thì ngay cả cái chết  của chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa giới thiệu chúng ta vào Thiên Đàng, quê hương hồng phúc của chúng ta, nơi mà chúng ta đang hướng về, với lòng khao khát được sống muôn đời với Cha chúng ta, với Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và các Thánh.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

Hiến pháp của đảng hay của dân?

Hiến pháp của đảng hay của dân?

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-12-03

12032013-hienphap-tq.mp3

017_195431-305.jpg

Những người buôn bán hàng rong ngồi dưới một pano tuyên truyền của ĐCS hôm 30/11/2013.

AFP photo

Sau khi Quốc Hội VN thông qua bản Hiến pháp với tỷ lệ phiếu tán thành gần như tuyệt đối, thì công luận vốn đã hoài nghi từ lâu giờ lại mạnh mẽ đặt nghi vấn về vai trò của Quốc Hội VN. Thanh Quang tìm hiểu và trình bày về vấn đề này như sau:

Hiến pháp mới nhưng không mới

Tại một nước mà lãnh tụ đảng CS khẳng định Hiến pháp là văn bản quan trọng nhất sau Cương lĩnh đảng, thì hẳn người dân VN không ngạc nhiên khi Quốc Hội VN gồm đại đa số đảng viên thông qua một bản Hiến Pháp cũ sửa đổi để hình thành Hiếp Pháp mới 2013 với nội dung bị than phiền “chẳng những không có gì mới mà thậm chí còn thụt lùi”.

Nhưng có lẽ điều gây ngạc nhiên là, sau khi giới cầm quyền kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiếp pháp mà “không có vùng cấm”, sau thời gian bàn cãi, đề nghị, góp ý sôi nổi, kể cả tại diễn đàn Quốc Hội…, thì cái tỷ lệ phiếu tán thành tới 97,59%  – tức 486/488 và không có phiếu chống – của các đại biểu khiến công luận không khỏi liên tưởng đến những “đại diện của dân”, thêm một lần nữa, trở thành “đại diện của đảng”.

Có lẽ đây là một lý do khiến nhà báo Hạ Đình Nguyên trong nước lưu ý rằng “Hiến pháp là của đảng, không phải là của dân, vì không do dân, nên cũng không vì dân”.

Câu hỏi mà đã từ lâu, và đặc biệt là bây giờ, được mạnh mẽ nêu lên là đại biểu Quốc Hội VN có thực sự do người dân bầu chọn và thật sự đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của dân hay không ? Hay họ dưới hình thức cơ quan lập pháp để làm công cụ và phục vụ cho đảng ?

“Vấn đề Quốc Hội đề ra việc sửa đổi Hiến pháp và lấy ý kiến toàn dân cũng chỉ là, một lần nữa, đảng CS tiếp tục dùng chiêu bài Hiến pháp để mị dân và lừa dối quốc tế.
– MS Nguyễn Trung Tôn”

Từ Đà Lạt, TS Hà Sĩ Phu chua chát rằng “Nếu phải ngụy tạo một ưu thế đẹp thì dù được 100% nghị gật bỏ phiếu cũng nên giảm đi còn 70-80% thôi mới đáng mặt những kẻ nói dối thức thời. Con số 97,59% dù thật hay giả cũng là một con số dại dột trong tuyên truyền, vì nó gây ấn tượng một con số chua chát đáng buồn… cười!”.

Lên tiếng với Đài ACTD, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng từ Hà Nội cho biết:

Quốc hội hiện nay không đáp ứng được nguyện vọng của rất nhiều quần chúng. Rất nhiều người không tán thành việc Hiến pháp được thông qua… Họ là những người mà quần chúng mất hết sự tin tưởng.

Nhưng khi kịp nghĩ lại, có thể công luận cũng bớt ngạc nhiên về kết quả biểu quyết cao ngất ngưỡng tại Quốc Hội như vừa nói, vì, Dân Làm Báo nhắc lại, “ đối với một Quốc hội có đến 500 đại biểu đều là đảng viên CS thì ai cũng biết trước kết quả…”.

TS Hà Sĩ Phu cũng không quên lưu ý rằng “đa số trong Quốc hội với 95% đảng viên chính là một ‘nhóm lợi ích’ khổng lồ mà quyền và lợi gắn chặt với điều 4 và với ‘sở hữu toàn dân” thì đa số ấy chỉ là đa số của một phe nhóm”. TS Hà Sĩ Phu nhân tiện trích dẫn lời nhà khoa học Albert Einstein từng khẳng định “Chúng ta không thể thắng được lũ ngu bởi chúng quá đông.

Như vậy là bản Hiến Pháp 2013 của VN – một văn kiện “hạng hai sau cương lĩnh đảng” – tiếp tục dọn đường cho vai trò mà nhà báo Hạ Đình Nguyên gọi là “thế thiên hành đạo” của ĐCSVN quyết định số phận của người dân Việt “vô hạn định qua Điều 4”. Nó làm bình phong để thể chế hóa cương lĩnh của đảng; để, ngòai việc đảng lãnh đạo tuyệt đối, những vấn đề mà người dân muốn có đổi thay sẽ vẫn không có gì thay đổi, từ việc “kiên định” theo con đường CNXH dù “đến hết thế kỷ này không biết đã CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”, cho đến chuyện công hữu đất đai, quân đội trung thành với đảng, công an chỉ biết “còn đảng còn mình”, quốc doanh chủ đạo kinh tế thị trường…

Nhà báo Hiệu Minh từ Hoa Kỳ báo động rằng “Hiến pháp được thông qua với điều 4 ‘Đảng lãnh đạo toàn diện’ được giữ nguyên tại kỳ họp Quốc hội này thì các vị (đại biểu) ‘Yes – Đồng ý’ sẽ giúp cho ‘quyền lực tuyệt đối’ được tiếp tục”.

Quốc hội hiện nay không đáp ứng được nguyện vọng của rất nhiều quần chúng. Rất nhiều người không tán thành việc Hiến pháp được thông qua… Họ là những người mà quần chúng mất hết sự tin tưởng.
– Anh Nguyễn Lân Thắng”

Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh xem chừng như không “dằn được bực tức” mà phải thốt lên rằng “Đến cái cơ quan gọi là lập pháp cũng không được quyền công khai góp ý sửa đổi hiến pháp” và “người ta dựng ra cả một hệ thống cơ quan dân cử từ trung ương xuống tận xã, phường để ngồi họp bàn và thông qua những vấn đề mà người ta đã quyết định sẵn từ trước. Người ta có thể huy động toàn dân một cách tốn kém vào việc góp ý để thay đổi hiến pháp nhưng rồi hiến pháp vẫn cứ như xưa”.

Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn cảnh báo:

Vấn đề Quốc Hội đề ra việc sửa đổi Hiến pháp và lấy ý kiến toàn dân cũng chỉ là, một lần nữa, đảng CS tiếp tục dùng chiêu bài Hiến pháp để mị dân và lừa dối quốc tế. Nhưng thực ra chẳng có điều gì thay đổi cả.

Theo nhà báo Hạ Đình Nguyên thì việc 97,59% “những khuôn mặt trên các chiếc ghế trong Quốc Hội” thông qua bản Hiến Pháp 2013 vừa rồi chỉ có ý nghĩa là “một bài toán cộng” trong nội bộ giới cầm quyền, nhưng lại là “bài toán trừ” đối với cộng đồng rộng lớn vì “tâm thế dân tộc đã đổi khác”. Nhà báo Hạ Đình Nguyên khẳng định “Tư tưởng của một bộ phận (đảng) có thể suy thoái, nhưng tư tưởng của “toàn thể” (nhân dân) thì không thể suy thoái”, và ông bày tỏ tin tưởng rằng bản “Hiến pháp tân trang” hiện nay sẽ được thay bằng một Hiến pháp mới, bởi chính nhân dân Việt Nam, vào một lúc nào đó, “không phải hôm nay thì sáng mai vậy!”.

Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

Sửa đổi Hiến Pháp Việt Nam : Human Rights Watch tiếc một “cơ hội bị bỏ lỡ”

 

Trọng Nghĩa

RFI

Năm ngày sau khi bản Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam được Quốc hội thông qua, vào hôm nay, 03/12/2013, tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế Human Rights Watch, trụ sở tại New York, đã cho rằng Việt Nam đã thất bại trong việc đáp ứng các nguyện vọng thay đổi và cải cách của người dân. Theo HRW, đây là một cơ hội bị bỏ lỡ về việc cải thiện nhân quyền, và Việt Nam, trong tư cách là một thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã không tuân thủ cam kết của mình.

Trong một bản thông cáo báo chí, Human Rights Watch đã nhắc lại rằng khi quá trình sửa đổi bắt đầu được khởi động vào ngày 02/01/2013, chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã kêu gọi quần chúng góp ý cho việc điều chỉnh Hiến pháp. Hàng trăm hàng ngàn người đã trả lời, thể hiện một sự tham gia chưa từng thấy của người dân vào một tiến trình cải cách pháp lý tại Việt Nam.

Theo HRW, nhiều ý kiến ​​đã phê phán Đảng Cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam, với một số lượng lớn lời kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng và tổ chức những cuộc bầu cử đích thực theo định kỳ. Vào ngày 22/11 vừa qua, Human Rights Watch đã gửi thư đến Quốc hội Việt Nam để hối thúc định chế này chấp nhận các đề nghị sửa đổi để phát huy và bảo vệ các quyền căn bản.

Tuy nhiên, theo nhận định của ông Brad Adams, giám đốc khu vực châu Á của Human Rights Watch : « Cho dù các đề nghị sửa đổi đã được tranh luận sôi nổi, phe cứng rắn đã thắng thế và Hiến pháp mới đã siết chặt quyền của đảng cầm quyền ». Ông Adams đã tỏ ý rất tiếc trước sự kiện : « Thay vì đáp ứng nguyện vọng của số đông và các cam kết quốc tế về nhân quyền, Việt Nam tiếp tục là một Nhà nước độc đảng với một Hiến pháp cho phép chính quyền hạn chế các quyền cơ bản dựa trên các căn cứ mơ hồ, mỗi khi mà điều đó phù hợp với họ ».

Trong thông cáo của mình, Human Rights Watch còn kêu gọi các nhà tài trợ và các đối tác phát triển của gia tăng nỗ lực để yêu cầu chính quyền Việt Nam cải cách hiến pháp và hệ thống pháp lý để bảo vệ các quyền cơ bản của người dân, chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận và lập hội.

Tôi trung không thờ hai chủ.

Tôi trung không thờ hai chủ.

“Tôi trung không thờ hai chủ” lời cuối cùng phát ra từ miệng thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của thày, một người tôi trung, đã suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý Tin Mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc “hãy vào hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời”. (Mt. 25,21).

Phanxicô Nguyễn Cần còn có tên Nguyễn Tiên tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại làng Sơn Miệng, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốn xa con nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: “Nếu mẹ không bằng lòng con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác”. Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý, cho cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.

Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thày giảng, được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám mục, gọi là Đức Thày Liêu). Cha Liêu đã nhận xét về thày Cần: “Thày giúp tôi học tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi khó khăn, hiểm nguy, thiếu thốn. Thày rất nhiệt tâm trong việc tông đồ”.

Ngày 19.4.1836, cha Liêu nhờ thày đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thày đến xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính dấu ảnh tượng vào túi xách của thày để có chứng cớ cụ thể. Thày bị giải về huyện Thanh Oai và bị tống giam vào ngục.

Trước công đường, quan nói thày đừng tin vào các đạo trưởng, và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thày trả lời : “Thưa quan, tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa dối ai bao giờ, còn mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà”. Sau đó quan dùng nhiều lời khiếm nhã phê bình về đạo, thày bình tĩnh giải thích lại rồi trình bày về 10 điều răn Thiên Chúa và sáu điều răn Hội Thánh, thày kết thúc bằng một lời tự nguyện, tự phát rất cảm động. Mọi người ở đó đều cản phục. Quan tuyên bố kết thúc phiên tòa, đưa thày về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên : “Anh này nói cũng có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ còn dễ hiểu hơn bản “thập điều” của nhà vua nữa”.

Một dạ sắt son.

Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách cứu mạng cho thày Cần. Cha cho người đem tiền theo thân mẫu thày lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thày Cần an ủi mẹ: “Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ”.

Có nhiều người tỏ lòng thương hại thày Cần. Quan khuyên thày bước qua Thập Giá, thày cương quyết từ chối. lính khiêng thày đặt lên tượng ảnh Chúa, thày ôm chặt lấy chân và la lên: “Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu”. Một số giáo dân đã bỏ đạo nói: “Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà còn làm thủ lãnh Giáo Hội”. Người khác lừa dối: “Cha Liêu nhắn thày cứ bước qua Thánh Giá, rồi sẽ về liệu sau”. Họ còn đe dọa: “Nếu thày không nghe, quan sẽ làm khổ cả làng đó”. Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ý chi sắt đá của vị chứng nhân đức Kitô.

Thày quả quyết : “Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh tôi làm như vậy. Còn với dân chúng, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà tôi xúc phạm đến Chúa”.

Nhiều người ngoại giáo nói với nhau: “Giá như đạo mình bị cấm, chắc ta đã bước qua ảnh tượng trăm lần… Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ”. Thấy không thể lay chuyển được người tôi chung của Chúa Kitô, quan cho giải thày Cần lên Hà Nội. Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười tháng từ ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực hình đổ trên người thày : cổ mang gông, tay mang xiềng xích, chân bị cùm… nhà tù thì nồng nặc mùi hôi hám, vì tù nhân phóng uế tại chỗ, lính canh đánh đập thày mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong một lá thư gửi cha Liêu, thày viết : “Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi, nhà giam đã chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ mãng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc nào cũng ồn ào làm con khó cầu nguyện quá”.

Tông đồ trong trại giam

Thế nhưng, thày không chán nản, mà coi đó là môi trường Chúa gởi đến. Thày kiên nhẫn giúp được hai tù nhân hối cải, dạy giáo lý và rửa tội được vài người, chúng ta hãy đọc một đọan thư thày viết từ trạigiam ở Hà Nội :

“Con báo để cha an tâm. Ở đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan hay dân và các bạn tù đều kính trọng gọi con bằng thày, có người còn tặng con danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững chí. Con hay bàn luận với họ và biết nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết khuyyên bảo họ sao bây giờ. Có một ông Chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con khi ra tù sẽ theo đạo và sống theo những điều con giảng… Thưa cha, con thấy người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ sở để được giầu sang hoặc danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại, chịu những sự khó qua mau này, để được vinh quang đời đời”.

Viên cai ngục Hà Nội thấy tác phong của thày Cần, dự đoán : “Ông này chỉ bằng nắm tay mà nghị lực phi thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở lên Thành Hoàng của làng chứ chẳng chơi”. Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thày Cần bị bệnh nặng, một linh mục giả làm thày lang vào giải tội, cho thày được rước lễ và xức dầu. Nhưng sau đó thày được bình phục ngay.

Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan Tổng trấn khuyên thày nhắm mắt bước qua Thập Giá. Thày nói: “Mắt thì nhắm được, chứ lòng trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”. Quan lại cho xếp chéo hai khúc gỗ và nói: “Đây không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ bước qua đi sẽ thoát chết”. Nhưng thày không làm vì biết đó là dấu hiệu chối đạo.

Và thiên thu vĩnh phúc.

Một tuần sau, thày Phanxicô Cần bị điệu ra pháp trường cửa ô Cầu Giấy. Năm viên quan cưỡi voi đi trước, 10 cai đội cưỡi ngựa theo sau, rồi đến 300 lính vũ lâm, mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một người cầm tấm thẻ ghi bản án: “Can phạm theo đạo Gia Tô, không chịu bước qua Thập Giá, án xử giải”. Dân chúng hôm đó, đi xem rất đông.

Tại pháp trường, khoanh dây thừng đã quấn quanh cổ, thày Cần vẫn bình tĩnh cám ơn mọi người, nói với họ về cái hết theo đức tin Công Giáo, về hạnh phúc đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa. viên quan cố thuyết phục lần chót: “Anh có thể cứu mạng mình. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn, bản án của anh còn có thể rút lại được, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự. Nhưng thày trả lời : “Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ an mà thi hành”. Quan ra lệnh, tức khắc quân lính kéo mạnh hai đầu dây, người môn đệ Chúa Kitô gục dầu tắt thở, lãnh cành vạn tuế tử đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.

Thi hài vị tử đạo được an táng tại Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn Miêng. Đức Lêo XIII suy tôn thày Nguyễn Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lời tiên đoán vô tình của viên cai ngục đã trở thành hiện thực. Ngày nay, thánh Phanxicô Nguyễn Cần không những là “Thành Hoàng” của làng Sơn Miêng, mà hơn thế, là Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam và được cả Giáo Hội hoàn cầu ngưỡng mộ.

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

GIÁM MỤC JEAN CASSAIGNE
MỘT NGƯỜI PHÁP MANG TRÁI TIM VIỆT

Trích EPHATA 588

Ra khơi để truyền giáo

Năm 1914, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, Jean phải đầu quân tham chiến, đến năm 1918 được thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh và từ chối mọi đề nghị hôn nhân. Năm 1920, Jean từ bỏ mọi vướng mắc thế sự, dâng hiến cuộc đời tại Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris ( Missionnaires Étrangères de Paris – MEP ) để nối gót các Thừa Sai đã ra đi vì Chúa. Năm 1925, ông thụ phong Linh Mục. Năm 1926, khi có tên trên danh sách 8 vị Thừa Sai được cử đi các nước Viễn Đông: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Lào, Linh Mục Cassaigne đã chọn Việt Nam, đất nước thân yêu của Giám Mục Đắc Lộ ( Alexandre de Rhodes ) để dừng chân.

Theo tài liệu của bác sĩ Gerard Chapuis, một người Pháp gốc Việt ngày 5.5.1926, tàu cập bến Sàigòn, cha Cassaigne được dưa về Cái Mơn học tiếng Việt, chọn tên tiếng Việt là Gioan Sanh. Sau đó, ông được Giám Mục Địa Phận Sàigòn Dumortier cử đến vùng rừng núi Di Linh, noi có nhiều người K’Ho. Lúc này bệnh phong đang hoành hành nơi đây. Một lần, cha Gioan đi tìm thăm bệnh nhân, gặp rất nhiều người bệnh nặng, thân xác héo tàn; từ đó ông quyết tâm dựng một mái nhà để chăm sóc những người bất hạnh này. Ông kêu gọi các bệnh nhân từ trong rừng đến đây cùng chung sống. Với sự hỗ trợ của nhiều người quen, ông mở được một nhà phát thuốc, băng bó, chữa trị cho các bệnh nhân. Lần ấy, ông cũng bị bệnh sốt rét rừng hành hạ, phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng.

Ngày trở lại Di Linh, công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các Nữ Tu Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp ông chia sẻ số phận bạc bẽo của các bệnh nhân phong và ba Nữ Tu đã hết lòng cùng ông chăm sóc bệnh nhân. Ông thường khuyên các Nữ Tu trẻ mới tiếp xúc với bệnh nhân “Họ quá đau khổ, đừng làm hay có cử chỉ gì khiến họ đau khổ hay buồn tủi thêm. Họ là những người đáng quý, đáng thương và tha thứ, phải băng bó cả hai vết thương cùng một lúc, thể xác và tinh thần”.

Ông kể lại rằng, ngày đầu mới băng vết thương cho người cùi, vì chưa quen nên ông đã suýt ói mửa. Ông đã chạy vội vào lùm cây bên cạnh, nói là đi đại tiện. Ói xong lau mặt, ông trở ra tiếp tục băng bó. Làm như vậy để cho người cùi bớt tủi hổ vì thấy mình dơ bẩn. Ông rất mực thương yêu bệnh nhân, người giàu có hay nghèo đều đối xử như nhau, không quở mắng hay nặng lời với bất cứ bệnh nhân nào.

Một hôm vào dịp Tết, có hai anh say rượu đánh nhau, ông đến can, nhưng bị một anh xô té. Ông đứng dậy, cười tươi vỗ vai anh ta không chút giận hờn. Sợ rằng các Nữ Tu biết sẽ quở trách anh ta, ông đã giữ kín chuyện này. Sau này, có người kể lại cho một Nữ Tu. Sơ đã hỏi ông và ông trả lời: “Đâu có gì đáng trách với người bệnh hoạn tật nguyền. Con đừng để ý nữa. Cha muốn vậy. Tội cho cả cha lẫn họ.”

Lần khác, một bệnh nhân bị một Nữ Tu quở trách nặng lời vì đã phạm lỗi. Cha Cassaigne nghe thấy, liền lên tiếng trách sơ trước mặt bệnh nhân. Sau đó ông đi tìm xin lỗi sơ và nói: “Hôm qua cha trách con, cốt ý để cho bệnh nhân đừng tủi, mặc dầu con đã làm phải. Cha đến xin con đừng buồn. Chúng ta không thể làm Chúa Giêsu buồn thì cũng đừng làm cho người cùi buồn. Vì họ là con Chúa, là hình ảnh Chúa Cứu Thế đau khổ trên thập giá”. Ba Nữ Tu người Việt tận tụy, trở thành cánh tay đắc lực giúp ông điều hành làng phong là các sơ Céleste Joséphine và Angélique. Cha Cassaigne hay nói với các Nữ Tu: “Cha là người Pháp, nhưng có trái tim Việt Nam”.

Ngày 24.12.1945, cha Cassaigne đột ngột được tin Tòa Thánh Roma bổ nhiệm ông làm Giám Mục Giáo Phận Sàigòn nên đành phải từ biệt những con người bệnh tật và mảnh đất ông yêu thương nhất. Thế rồi, như một định mệnh, ngày 26.3.1943. Ông đọc phiếu kết quả xét nghiệm xác nhận ông bị nhiễm vi trùng Hansen ( bệnh phong ). Ông cười nói: “Đây là quà mừng lễ quan thầy của tôi”. Ông nói với những người đang lo lắng ở xung quanh: “Không phải bị mà là được về Di Linh với đoàn con ! Có đau mới hiểu người đau và biết thương họ nhiều hơn”.

Sau khi gửi thư cho Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Tổng Quyền Hội Thừa Sai Paris xin từ chức trở về Di Linh, đến năm 1954, cha Cassaigne được toại nguyện “hồi hương” về Di Linh. Năm 1970, các bệnh cũ của ông trở nặng, sốt rét, cột sống bị gặm nhấm và đau dạ dày. Cuối tháng 10 năm 1971, xương dùi của ông bị gãy và ông không rời khỏi giường được nữa. Nhiều người muốn đưa ông về Pháp chữa trị, nhưng ông đã từ chối: “Tôi là người Pháp nhưng trái tim tôi là của người Việt Nam. Tôi muốn sống trong đau khổ và chết nơi đây. Việt Nam là quê hương của tôi”. Cha Cassaigne qua đời vào ngày 30 tháng 10 năm 1973. Ông được an táng cạnh Nhà Thờ, gần tháp chuông, giữa đàn con đáng thương của mình, đúng theo nguyện vọng sâu xa của ông.

Trong quyển sách “Lạc Quan Trên Miền Thượng” viết về cha Cassaigne, cha Giuse Phùng Thanh Quang đã kể lại chi tiết cuộc đời và công việc phục vụ của ông. Trong phần kết, cha Giuse đã viết: “Những ai được may mắn sống gần gũi với Đức Cha đều thường được dịp nghe Ngài nói: “Đời tôi chỉ có 3 ước nguyện: Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa và vì người anh em – Tôi ao ước được đau khổ như vậy lâu dài, suốt đời và được vững long chịu đựng – Tôi ao ước được an nghỉ giữa bầy con cái phong cùi của tôi”.

Bác sĩ Gérard Chapuis cho biết thêm: từ năm 1972, ở cuối Nhà Thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Người ta thấy có bức tượng một Giám Mục tay trái cầm Thánh Giá, tay phải ôm ngang vai một người cùi, dưới chân trái có một em bé khỏe mạnh, cả 3 đầu ngước mắt lên trời cao. Dưới bệ tượng có ghi: Đức Cha Gioan Cassaigne. Ngày nay, bức tượng không còn nữa, nhưng trên bức tường ngoài hiên của Nhà Thờ, có gắn nhiều bảng ghi: “Tạ ơn Đức Giám Mục Gioan Sanh”. Điều đó chứng tỏ Gioan Cassaigne Sanh vẫn còn sống mãi trong long người Việt. Nếu một hòn đảo xa xôi ngàn trùng như Molokai đã hãnh diện vì có cha Damien Tông Đồ Người Hủi thì Giáo Dân nước Việt lại càng hãnh diện hơn vì có một Đức Cha Gioan Sanh phong cùi, tôi tớ của người hủi.

Trên thực tế, từ ngày 11.4.1929, làng phong được chính thức công nhận và được trợ cấp. Ngay từ những ngày đầu, số người bị bệnh phong tập trưng đã lên đến 21 người. Đến thàng 4 năm 1931, làng có một nhà nguyện nhỏ làm nơi cầu nguyện và Thánh Lễ đầu tiên được cử hành ngày 15.3.1936. Sang năm sau, làng được dời lên đồi ( chỗ hiện nay ) có kỹ sư người Pháp vẽ kiểu cho cả Nhà Thờ và tháp chuông. Ngày 22.5.1952, nhằm lễ Thăng Thiên, khánh thành làng phong mới.

TRẦN TRUNG SÁNG, báo KIẾN THỨC NGÀY NAY

NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

2 Mcb 7, 1.20-27.29; Rm 8, 31b-39; Lc 19, 23-26

Chẳng ai can đảm để chết cho người mình yêu cả. Nói lý thuyết thì rất hay nhưng trong thực tế lại khác, đó là điều giằng co nhất trong đời của con người, bởi lẽ con người ai cũng mong muốn giữ gìn, bảo tồn cái thân xác của mình. Nói như thế nhưng vẫn có những người can đảm bước ra pháp trường để đón nhận cái chết một cách vui vẻ. Tại sao ? Bởi vì những người đó đã tin vào Đấng đã sinh ra mình, làm chủ cuộc đời mình.

Trang sách Macabê khá quen thuộc mà chúng ta nghe, chúng ta thấy kể câu chuyện về một gia đình của bà mẹ và bảy đứa con khá quen thuộc. Chỉ vì cưỡng lại luật của vua Antiôkhô là phải ăn thịt heo mà trong luật Môsê cấm nên họ đã phải bị xử. Lần lượt từng người con của bà mẹ này đã phải chịu án tử. Con bà chịu án tử quả là điều ta đáng khâm phục nhưng cũng không quên được lòng quả cảm của người mẹ.

Bà là người ta đáng phải khâm phục. Nhìn bảy đứa con chết trong một ngày nhưng bà vẫn tin tưởng, chịu đựng vì bà trông cậy và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Bà còn nhắn nhủ các con như thế này : “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”

Bà còn khuyên các con của mình rất chân thành, tha thiết : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”

Đỉnh điểm niềm tin của gia đình này là bà đã chết theo cùng các con của mình để tuyên xưng niềm tin, niềm hy vọng và niềm trông cậy vào Thiên Chúa.

Niềm tin vào Thiên Chúa khởi đi từ Cựu Ước điển hình như mẹ con nhà Macabê mà hôm nay chúng ta nghe lại, mường tượng lại. Niềm tin vào Thiên Chúa đó không dừng lại ở Cựu Ước hay gia đình nhà Macabê mà qua Tân Ước và trải dài cho đến ngày hôm nay.

Các môn đệ là những người đầu tiên nghe và tin theo Chúa. Các ngài đã đổ máu đào mình ra để minh chứng niềm tin của mình vào Thầy Chí Thánh Giêsu. Đặc biệt, chúng ta còn nhớ hình ảnh của Stêphanô – vị tử đạo tiên khởi – đã đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin. Dòng máu tử đạo đổ ra và đã lan tràn không chỉ gói gọi ở Giê rusalem mà đến tận cùng trái đất.

Hạt giống đức tin cũng đã được gieo trên quê hương đất nước hình chữ S thân thương này. Dĩ nhiên cũng đi theo con đường của Tin Mừng là khi Tin Mừng được loan báo thì có người này người kia không đón nhận. Không chỉ không đón nhận mà còn chống đối, mà còn cấm cách, mà còn ngăn cản những ai đi gieo hạt giống ấy.

Khi hạt giống Đức Tin đã chọn cánh đồng Truyền Giáo Việt Nam “làm quê hương thứ hai rồi”, thì dĩ nhiên không còn gì có thể cản ngăn đồng lúa Việt Nam trổ bông thơm ngát. Tuy nhiên lịch sử Giáo Hội bao giờ cũng được viết bằng những dòng mực đẫm máu của các Anh Hùng Tử Ðạo. Các ngài đã sống cao thượng và biết hy sinh tính mạng vì Ðức Tin, thật xứng đáng để Thánh Vịnh (125,6-7) ngợi ca:

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng.

Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo

Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.

Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1644. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa.

Những hình phạt mà các Thánh Tử Đạo phải chịu là :

– Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

– Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

– Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

– Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

– Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

– Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

Giai đoạn lịch sử thời 117 thánh Tử Đạo Việt Nam kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi 1745 (thánh Phanxicô Federich Tế và Matthêu Liciniana Đậu) đến vị cuối cùng 1862 (thánh Phêrô Đa), qua các triều đại vua Lê – chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).

Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt nam thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua tử đạo như các bậc tiền nhân thì chúng ta có thể chấp nhận tử đạo trong đời sống thường nhật của chúng ta bằng cách sống lời mời gọi của Chúa qua trang Tin mừng hôm nay : “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

Máu Tử Đạo của các thánh tại Việt Nam mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại niềm tin của mình. Lời đáp trả niềm tin này không phải chỉ một lần là xong nhưng là lời mời và lời đáp trong từng giây từng phút của cuộc đời. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, ta có can đảm dám bênh vực, hay ta sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa để đến phụng thờ Chúa qua các bí tích ta chọn điều gì?

Ước gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thần Chúa, chúng ta đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

LHQ: Nhiều nạn nhân bão lụt Philippines vẫn chưa có lương thực

LHQ: Nhiều nạn nhân bão lụt Philippines vẫn chưa có lương thực

Cư dân tranh nhau phẩm vật cứu trợ từ trực thăng Seahawk của hải quân Mỹ tại San Jose, Philippines, ngày 18/11/2013.

Cư dân tranh nhau phẩm vật cứu trợ từ trực thăng Seahawk của hải quân Mỹ tại San Jose, Philippines, ngày 18/11/2013.

Simone Orendain

19.11.2013

MANILA — Tại Philippines, Chương trình Thực phẩm Thế giới cho biết một phần tư số người cần gấp lương thực tại miền trung bị bão tàn phá vẫn chưa nhận được hàng cứu trợ, 11 ngày sau khi bão Haiyan ập vào, chính phủ cho biết khoảng 5.000 người hoặc thiệt mạng hoặc mất tích. Từ Manila, thông tín viên Simone Orendain của đài VOA gởi về bài tường thuật sau đây.

Các giới chức Philippines và những tổ chức cứu trợ quốc tế đã chật vật đối phó với thách thức trong việc đưa lương thực tới những vùng hẻo lánh và bị cô lập.

Hôm nay, Giám đốc Chương trình Thực phẩm Thế giới Ertharin Cousin cho biết cho đến nay các cơ quan cứu trợ đã phân phát các gói vật dụng khẩn cấp cho 1 triệu 900 ngàn người không có thức ăn kể từ khi Siêu bão Haiyan ập vào hôm 8 tháng 11. Nhưng hiện vẫn còn khoảng 600.000 người không có gì để ăn trong 11 ngày qua.

Bà Cousin cho báo chí ở Manila biết rằng vì Philippines là một quần đảo nên hàng cứu trợ khó tới được tận tay tất cả mọi người. Bà nói rằng nhân viên cứu trợ đang dùng máy bay trực thăng, phi cơ, tàu thuyền và xe tải để đưa hàng cứu trợ tới nơi lâm nạn.

“Đây là một nỗ lực cứu trợ mà vì có quá nhiều các cộng đồng hẻo lánh cho nên việc đưa phẩm vật cứu trợ tới mọi cộng đồng là một thách thức vô cùng to lớn.”

Bên cạnh yếu tố địa dư, vấn đề đường sá và phi trường bị hư hại cũng gây trở ngại rất nhiều cho các nỗ lực cứu trợ. Các tổ chức của chính phủ và các cơ quan từ thiện đã phải đối mặt với tình trạng mất điện, mất thông tin liên lạc và đường sá bị hư hỏng trong nhiều ngày.

Những vấn đề này đã được giải quyết một phần tại đa số các tỉnh bị ảnh hưởng, nhưng một số tỉnh khác vẫn còn bị mất điện và sóng điện thoại di động vẫn còn yếu ớt.

Các binh sĩ Mỹ và Philippines đã mang lương thực tới nơi bằng cách đáp máy bay trực thăng xuống những khu vực bị cô lập và tự tay phân phát lương thực cho người dân.

Bà Cousin cho biết một số người đề nghị gia tăng việc thả dù lương thực xuống vùng lâm nạn. Nhưng bà nói rằng phương pháp đó không mấy hiệu quả.

“Chúng tôi biết rằng việc thả lương thực xuống từ máy bay là một việc gây ấn tượng trước ống kính thu hình, nhưng những người thật sự cần lương thực nhất sẽ không nhận được. Đó là các em bé, đó là những phụ nữ, đó là những người già, đó là những người tàn tật.”

Bà Cousin cũng nhấn mạnh rằng Chương trình Lương thực Thế giới không thể tự mình hoàn tất các công việc này. Bà cho biết cơ quan của bà đang làm việc với chính phủ và các tổ chức từ thiện quốc tế; và khi có thêm những tổ chức này tới được các khu vực bị ảnh hưởng nặng, sự giúp đỡ sẽ tới được với nhiều người hơn.

Hạt muối và triết lý cuộc sống

Hạt muối và triết lý cuộc sống

Ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, và những khó khăn đó giống như thìa muối này, nhưng mỗi người lại hoà tan nó theo một cách khác nhau.

Một chàng trai trẻ đến xin học một ông giáo già. Anh ta lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế việc học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn.

Một lần khi chàng ta than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, người thầy im lặng lắng nghe rồi đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ.

– Con cho thìa muối này vào cốc nước và uống thử đi.

Lập tức chàng trai làm theo rồi uống thử.

– Cốc nước mặn chát thầy ạ – chàng trai trả lời.
Người thầy lại dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước. Bây giờ con hãy nếm thử nước trong hồ đi.

– Nước trong hồ vẫn vậy thôi, thưa thầy.

Nó chẳng hề mặn lên chút nào. Chàng trai nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử. Người thầy chậm rãi nói:

“Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, và những khó khăn đó giống như thìa muối này, nhưng mỗi người lại hoà tan nó theo một cách khác nhau.
Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc nước, họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học được điều gì có ích cả”.

S.T.

Khoan Dung

Khoan Dung


Truyện xưa kể lại rằng, một buổi tối một vị thiền sư già đi dạo trong thiền viện, chợt trông thấy một chiếc ghế dựng sát chân tường nơi góc khuất. Đoán ngay ra đã có chú tiểu nghịch ngợm nào đó làm trái quy định vượt tường trốn ra ngoài chơi, nhưng vị thiền sư không nói với ai, mà lặng lẽ đi đến, bỏ chiếc ghế ra rồi quỳ xuống đúng chỗ đó.

Một lúc sau, quả đúng có một chú tiểu trèo tường vào. Khi đặt chân xuống, chú tiểu mới kinh ngạc khi phát hiện ra dưới đó không phải là chiếc ghế mà là vai thầy mình, vì quá hoảng sợ nên không nói được gì, đứng im chờ nhận được những lời trách cứ và cả hình phạt nặng nề. Không ngờ vị thiền sư lại chỉ ôn tồn nói :“Đêm khuya sương lạnh, con mau vào thay áo đi”. Sự khoan dung của vị thiền sư già đã khiến chú tiểu suốt đời không quên được bài học đó.

Người xưa dạy: Rộng lớn nhất thế giới là đại dương, rộng lớn hơn cả đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người.

Sự khoan dung, nếu được dùng đúng chỗ và đúng lúc thì còn có tác dụng mạnh mẽ hơn sự trừng phạt, bởi nó tác động rất mạnh đến nhận thức mỗi con người. .

Thậm chí, khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình, giải thoát mình khỏi những sự giận dữ, căm tức, hận thù, tranh chấp… nhờ đó mà cân bằng được cuộc sống của mình.

From: thunhannct & Thụ Mai

 

Cậu bé mồ côi ăn ốc bươu vàng thay cơm

Cậu bé mồ côi ăn ốc bươu vàng thay cơm

(Dân trí)- Loại ốc bươu vàng người ta thường bắt để vứt đi hoặc mang về cho gà, vịt ăn. Nhưng với ông bà Lim và đứa cháu nhỏ mồ côi, lâu nay đó lại là nguồn thức ăn chính trong các bữa cơm gia đình.

Về thôn Tăng Cấu, xã Đồng Thái, huyện Ba Vì, Hà Nội hỏi ông Lim “ốc” ai cũng biết. Sở dĩ ông có biệt danh ấy là bởi ngày nào cũng vậy, không kể trời nắng hay trời mưa, người ta đều thấy ông lăn lộn khắp các ao hồ hay đồng ruộng để bắt ốc bươu vàng về ăn. Những hôm bắt được nhiều, ông còn kiếm được chút ít tiền nhờ việc mang bán lại cho những nhà chăn nuôi gia cầm ở quanh đó.

Ông Lim và đứa cháu nhỏ ngày ngày lặn lội ở các cánh đồng bắt ốc bươu vàng.

Ông Lim và đứa cháu nhỏ ngày ngày lặn lội ở các cánh đồng bắt ốc bươu vàng.

Cuộc sống của vợ chồng ông bà Lim vào hệ “khổ nhất vùng” bởi cả hai người con trai đều qua đời, một vì bệnh não, một vì tai nạn lao động. Nhớ lại quãng thời gian đó, ông Lim vẫn không khỏi rùng mình, sợ hãi: “Năm 2008, con trai út của tôi là Phùng Văn Vinh qua đời vì bệnh não. Đến tháng 06/2009, con trai thứ của tôi là Phùng Văn Hưng cũng qua đời vì tai nạn lao động khi đang đi làm thuê ở Hà Nội. Vợ nó ở nhà quanh năm chỉ bám vào đồng ruộng nên chẳng có đồng nào lo ma chay cho chồng nên tôi đã đứng lên vay lãi của người ta mấy chục triệu đến nay chưa trả được”.

Bố mất vì tai nạn, mẹ bỏ đi để lại cậu bé Việt ở với ông bà nội trong cảnh nghèo túng.

Bố mất vì tai nạn, mẹ bỏ đi để lại cậu bé Việt ở với ông bà nội trong cảnh nghèo túng.

Con mất, cả hai ông bà vẫn chưa hết bàng hoàng thì cô con dâu lại bỏ đi không lâu sau đó để lại đứa cháu nhỏ lúc đó đang học lớp mẫu giáo lớn. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra, cậu bé Việt suốt ngày hỏi ông sao mẹ đi đâu không thấy về khiến “hai cái thân già” chỉ biết im lặng mà gạt nước mắt.

Ông Lim còn cho biết thêm những hôm trời mưa to, cháu hay giật mình không ngủ được, lại ôm ông mà gặng hỏi: “Bao giờ mẹ sẽ về” khiến ông nghẹn cứng lưỡi không trả lời được. Bố thằng bé không còn, nay mẹ lại bỏ đi nốt, thành ra suốt ngày chỉ có một mình cháu lầm lũi nhìn đến tội.

Ngoài giờ đi học, Việt thường ra đồng bắt ốc cùng với ông.

Ngoài giờ đi học, Việt thường ra đồng bắt ốc cùng với ông.

Em thường lấy mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc để lấy ruột chế món ăn với cơm.

Em thường lấy mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc để lấy ruột chế món ăn với cơm.

Cuộc sống vất vả, khó khăn là thế, bà nội của Việt là Chu Thị Hoạch (65 tuổi) lại đổ bệnh nên nằm liệt giường bao nhiêu năm nay, không đi lại được. Ở lưng của bà còn nổi lên một khối u lớn khiến những cơn đau nhứt cứ liên miên không ngớt .

Vợ bệnh, cháu thơ, bản thân ông Lim không còn cách nào khác để duy trì cuộc sống nên hàng ngày phải lăn lộn ở khắp các cánh đồng để mò ốc thay thức ăn. Thứ ốc mềm mềm, nhơn nhớt ban đầu thằng bé Việt cũng “kinh lắm” nhưng lâu dần thành quen nên ăn với cơm một cách ngon lành. Vừa dùng một mảnh gạch vỡ đập vỏ ốc, em vừa toe toét cười khoe: “Ốc của ông đi bắt được ăn cũng ngon lắm cô ạ. Cháu có thể ăn cả ngày được mà không chán ạ”.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Thương bà nội nhưng Việt còn quá nhỏ không thể làm được gì ngoài việc ngồi quạt cho bà khi trời nóng.

Nghe thằng bé nói, ông Lim dường như “xấu hổ” nên quay mặt vào phía trong. Đôi mắt già nua, nhăn nheo bắt đầu hoe đỏ và cái ánh nhìn tồi tội của một người ông không thể lo được đủ đầy cái ăn cho cháu. Bản thân ông cũng muốn lắm có được miếng thịt, miếng cá cho Việt nhưng không có tiền mua nên ông đành chịu, phải bắt ốc ăn qua ngày. Ngay cả bà Hoạch, ốm đau liên miên nhưng cũng không có gì ngoài bữa cơm độn ốc bao năm nay.

Bà nội ốm nằm liệt giường nhiều năm nay nên không giúp được việc gì cho hai ông cháu.

Thương Việt, bản thân ông Lim chỉ biết cố gắng chăm chỉ đi bắt ốc kiếm cái ăn và chút tiền bán được để mua sách vở cho cháu.

Hiện tại cậu bé Việt đã làm học sinh lớp 4 trường Tiểu học Đồng Thái với sức học khá và đặc biệt em rất ngoan. Ngoài những buổi đến trường, em vẫn thường theo ông đi bắt ốc ở các cánh đồng nên gần như lúc nào người ta cũng nhìn thấy cậu bé với bộ dạng lấm lem, áo quần sộc xệch và rách bẩn. Ấy thế nhưng khi được hỏi, Việt vui lắm, em khoe: “Cháu đi cầm xô cho ông, có lúc cũng bắt được cả ốc nữa để ông được về nhà sớm chứ nhiều hôm tối mò rồi ông vẫn còn chưa về nhà”.

Nỗi lo đứa cháu thơ thất học luôn thường trực trong suy nghĩ của ông Lim khiến ông sợ hãi.

Nỗi lo đứa cháu thơ thất học luôn thường trực trong suy nghĩ của ông Lim khiến ông sợ hãi.

Lời nói thật thà của đứa cháu nhỏ khiến ông Lim không cầm lòng được, lấy tay quệt ngang dòng nước mắt. Nhìn cháu, ông lại ngước lên bàn thờ nhìn di ảnh đứa con xấu số mà bật khóc: “Tôi già rồi, cũng không mong ước điều gì cả, chỉ mong sao lo được cho Việt ăn học thành người để cháu đỡ thiệt thòi. Thằng bé mất bố rồi, mẹ cũng bỏ nó đi mất, rồi sẽ đến lúc tôi và bà nó về với đất, không biết lúc đó cháu sẽ ra sao nữa?