Cảnh báo bão ở bang Louisiana

Cảnh báo bão ở bang Louisiana

Hình ảnh vệ tinh cho thấy cơn bão nhiệt đới Karen cuối đêm thư năm ngày 3/10/2103.

Hình ảnh vệ tinh cho thấy cơn bão nhiệt đới Karen cuối đêm thư năm ngày 3/10/2103.

04.10.2013

Các nhà dự báo thời tiết đã ra lệnh cảnh báo bão nhiệt đới đối với một số khu vực của bang Louisiana, trong lúc một lệnh cảnh báo bão lớn được áp dụng cho một khu vực rộng lớn trải dài về hướng đông tới duyên hải vùng Vịnh của tiểu bang Florida, trước khi bão nhiệt đới Karen ập vào.

Trung tâm Phòng chống Bão Quốc gia ở Miami nói rằng bão nhiệt đới Karen có thể ập vào bờ vào chiều tối hôm nay, thứ Sáu, hoặc sáng sớm thứ Bảy, và có thể tăng cường độ để trở thành bão lớn khi ập vào bờ.

Dọc theo duyên hải vùng Vịnh của bang Florida, nhiều người đang dời tàu tới những bến an toàn, để tránh gió lớn, và nhiều người khác đang tìm mua những vật liệu để gia cố nhà cửa của họ.

Cư dân tại những vùng nơi lệnh cảnh báo bão có hiệu lực được kêu gọi hãy dự trữ nước uống, lương thực khô, radio và đèn pin.

Cơ quan Quản lý Tình trạng Khẩn cấp Liên bang cũng bắt đầu gọi các nhân viên bị cho nghỉ việc không lương trở lại làm việc để đối phó với trận bão có khả năng trở nên nguy hiểm.

Bão số 10 ập vào miền Trung, hàng chục ngàn dân phải sơ tán

Bão số 10 ập vào miền Trung, hàng chục ngàn dân phải sơ tán

Tàu bè được lệnh vào bờ để tránh bão.

Tàu bè được lệnh vào bờ để tránh bão.

30.09.2013

Hàng chục ngàn dân ở miền Trung Việt Nam được lệnh sơ tán trước cơn bão số 10 tức bão Wutip.

Cơ quan dự báo thời tiết cho biết bão số 10 với sức gió trên 140 cây số/giờ sẽ đổ bộ vào các tỉnh miền Trung trong ngày hôm nay 30/9.

Giới hữu trách Việt Nam cho hay hơn 8.000 cư dân tỉnh Quảng Trị tối 29/9 đã được sơ tán tới nơi an toàn và 35.000 người khác sinh sống tại các khu vực bị lũ lụt, đất chuồi, và lũ quét đe dọa cũng được lệnh dời đi nơi khác.

Tổng cộng có hơn 140.000 cư dân các tỉnh duyên hải miền Trung đã có lịch sơ tán hôm nay.

Từ Thừa Thiên-Huế tới Hà Tĩnh  đã chuẩn bị các phương án đối phó với bão số 10. Trường học bị đóng cửa, thuyền bè được lệnh vào bờ tránh bão.

Trước khi đổ vào Việt Nam, cơn bão đã nhận chìm 3 tàu cá của Trung Quốc ở Hoàng Sa, khiến ít nhất 75 ngư dân mất tích.

Bão số 10 là cơn bão mạnh nhất đánh vào Việt Nam trong mùa này.

Tính tới nay, bão nhiệt đới dữ dội nhất ở Châu Á trong năm là bão Usagi đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 33 người ở Philippines và Trung Quốc trước đây trong tháng.

Việt Nam thường xuyên hứng chịu bão lũ, với hàng trăm người thiệt mạng và hàng triệu đôla thiệt hại về kinh tế mỗi năm.

Nguồn: AP, The Guardian, Reuters

CHIẾC VĨ CẦM

CHIẾC VĨ CẦM

Tác giả: Fr. Huynhquảng

Chuyến tàu định mệnh Titanic đã nằm sâu trong lòng biển, dầu vậy những tấm gương làm người vẫn được thỉnh thoảng nhắc tới cho nhiều thế hệ mãi đến hôm nay. Trong những mẫu gương ấy, mẫu gương chung thuỷ của người nhạc trưởng Wallace Hartley và Maria Robinson được nhắc đến như một câu chuyện tình buồn, nhưng đẹp – Đẹp vì là vì tính chung thuỷ và trân trọng những báu vật họ trao tặng nhau.

* * *

Trong khi mọi người đang hoảng loạn lo sợ trước cảnh chiếc tàu Titanic gặp nạn, nhằm để giữ vững tinh thần cho hành khách, người nhạc trưởng trẻ 24 tuổi, Hartley đã dũng cảm triệu tập ban nhạc gồm tám nhạc công để trình diễn trên boong tàu. Họ cứ tiếp tục chơi giữa phong ba bảo táp, giữa cảnh náo loạn kêu la, và họ đã giữ vững vai trò nhạc công của họ cho đến giây phút cuối cùng cùng với gần 1.500 hành khách chìm vào lòng biển sâu thẳm vào ngày 15 tháng 4 năm 1912.

Sau một thời gian dài, các nhà chuyên môn đã tìm được một số báu vật trong con tàu định mệnh; trong số đó họ tìm thấy chiếc vĩ cầm của nhạc trưởng Harley được đặt trong chiếc vali bằng da. Lạ thay, dù đã bị chôn kín trong lòng biển nhiều năm, chiếc vĩ cầm vẫn còn như nguyên vẹn. Cây vĩ cầm là quà tặng do bà Maria Robinson tặng cho nhạc trưởng Wallace Hartley nhân ngày họ đính hôn. Trên thân đàn, người ta tìm thấy dòng chữ: “Dành tặng anh Wallace nhân ngày đính hôn của chúng mình. Em Maria.” Sau đó, chiếc vĩ cầm được trao lại cho bà Maria Robinson, vợ của nhạc trưởng, người đã sống cuộc đời còn lại trong bậc sống độc thân. Sau khi nhận lại chiếc đàn, Bà Maria đã viết trong nhật ký, “Cây vĩ cầm giờ đây là sợi dây kết nối tình yêu giữa chúng ta.”

* * *

Bạn thân mến, câu chuyện tình đẹp là chuyện tình diễn tả sự trọn vẹn của mối tình ấy. Người ta vẫn thường rêu rao, “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” – cái đẹp của mối tình “dang dỡ” đó chẳng qua là “đẹp” về cảm xúc chứ không thể nói là mối tình đẹp trọn vẹn được. Vì nếu đẹp, tại sao còn dang dở; và vì nếu nó dang dở thì không thể đẹp được.

Mối tình của Wallace và Maria có đẹp không? Có dang dở không? Vâng nó đẹp và không dang dở. Đẹp và trọn vẹn vì chính Wallace và Maria chọn lựa sống mối tình mình cho đẹp cho trọn dù cho hoàn cảnh đẩy họ vào thế “dang dở” nhưng họ, nhất là bà Maria vẫn quyết chọn và làm cho mối tình của họ nên đẹp. Cuộc tình đẹp hay dang dở đều là do sự chọn lựa giữa họ với nhau mà thôi. Thử hỏi là nếu Maria chọn tái hôn, thì liệu rằng chiếc vĩ cầm mà họ tặng cho nhau có giá trị như hiện nay hay không? Liệu rằng chúng ta có bàn đến cuộc tình của họ với tất cả sự ngưỡng mộ hay không? Cả hai Wallace và Maria, họ có quyền kết thúc cuộc tình đẹp  của họ trong dang dở; dầu vậy, họ đã chọn kết thúc cuộc đẹp của họ trong trọn vẹn. Nhất là Maria, cô có quyền kết thúc cuộc tình đẹp của cô với Wallace, và cũng có quyền để xây đắp một mối tình đẹp khác. Dầu vậy, Maria đã chọn đi trọn giao ước trong cuộc tình với Wallace, vì hơn ai hết, Maria hiểu rằng, cuộc tình này chỉ thực sự đẹp khi trong khối óc và con tim của cô không có sự “dang dở.”

Cũng như tất cả những ai đã và sẽ bước vào đời sống hôn nhân, mối tình của bạn có đẹp không, có dang dở không? Vâng nó đẹp lắm – dĩ nhiên nó phải đẹp bạn mới bước vào đời sống hôn nhân; nhưng nó có dang dở không? Đây chính là câu trả lời dành cho sự chọn lựa của bạn. Những cuộc tình hôn nhân thật đẹp không có nghĩa là họ không gặp éo le, ngang trái. Thực ra, có khi họ còn gặp nhiều nghịch cảnh dang dở  nữa là đàng khác; nhưng cuộc tình của họ đẹp là vì họ vẫn chung thủy với nhau bất chấp tất cả nghịch cảnh dang dở.

Thưa bạn, nhìn vào những người thân chung quanh, chúng ta vẫn thấy gặp những con người làm nên nhiều cuộc tình đẹp vì sự chung thủy của họ. Vẫn có đó những cảnh “gà trống nuôi con.” Vẫn có đó những người mẹ đơn độc nuôi con vì chữ tính với chồng. Những con người này có gặp dang dỡ trong cuộc đời không? Thưa có, nhưng cuộc tình của họ vẫn trọn vẹn và đẹp vì lời thề nên trọn và hoàn tất.

Thưa bạn, những chọn lựa nhỏ bé trong từng ngày của bạn  cũng góp phần làm cho cuộc tình của bạn đẹp tương tự như những cuộc tình đẹp bất hủ trong lịch sử con người. Lịch sử đang ở trong tay bạn!


Fr. Huynhquảng

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 2

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 2

JOSEPH C. PHAM

Gửi người anh em,

Trong thư lần trước, chúng ta đã có dịp trao đổi với nhau khá đầy đủ về những khác biệt tạo nên sự ảnh hưởng không mấy tốt đẹp đến thế hệ kế tiếp của đời sống đôi bạn nếu cả hai thật sự phớt lờ đi những dấu chỉ nhãn tiền. Lần này, như anh đã hứa, chúng ta sẽ tiếp tục chia sẻ những ưu tư khác khi hai bạn đến với nhau trong bối cảnh khác niềm tin tôn giáo.

Hôm nay, anh muốn chia sẻ với người anh em trong khía cảnh hành xử theo điều mỗi người tin sẽ tạo nên những làn sóng rất mạnh mẽ gây bất hoà giữa hai bạn nếu cả hai thiếu nhân đức khiêm nhường – một nhân đức nền tảng cho mọi người trong mọi thời đại, dưới mọi bối cảnh văn hoá, lịch sử, và niềm tin.

Bạn sẽ thi hành điều mà bạn tin. Cứ nhìn cách họ sống thì biết điều họ tin

Đó chính là cách nói của những bậc thầy tinh thần trên thế giới. Quả đúng như thế, chúng ta tin vào điều gì thì chúng ta sẽ hành động theo đúng điều mà ta đang tin hoặc sẽ tin. Chẳng hạn, khi đi xem bói xem thầy nghĩa là chúng ta đã đặt niềm tin vào một sự phán quyết mang tính mập mờ, huyễn hoặc, và thiếu xác thực của những thầy bà mà chúng ta đến. Nghĩa là ta chẳng tin vào điều tốt lành kỳ diệu của cuộc sống và chúng ta được tạo ra để được sống và sống dồi dào trong tình yêu của Đấng Tạo Hoá.

Hay cứ nhìn một người sáng say chiều xỉn thì biết ngay là anh ta chẳng tin gì vào cuộc sống cả, với họ chỉ có ma men mới làm cho họ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa, bởi họ đã trốn tránh cuộc đời và trách nhiệm trong đó. Và còn nhiều ví dụ khác minh hoạ cho điều mà anh đang chia sẻ khi em chiêm ngắm cuộc sống này. Cũng thế, đời sống của hai bạn sẽ gặp khó khăn hoặc thuận lợi thì còn tuỳ thuộc vào niềm tin của hai bạn đồng bộ ( Syn ) đến đâu.

Sự đồng bộ trong niềm tin sẽ chỉ có được trên nền tảng của sự khiêm nhường chân thành nơi thẳm sâu trái tim hai bạn. Trên nền tảng này, mỗi người đều thấy được cái ưu và khuyết của nhau trên mọi bình diện của cuộc sống: tính cách, công việc, tôn giáo, văn hoá… để từ đó thay vì đối kháng và xung đột thì sẽ bổ sung và tạo nên sự hài hoà cho cả hai, và nhất là cho những đứa con của hai bạn sau này. Theo đó, người mang trọng trách nặng nề hơn trong việc giáo dục đời sống tinh thần và thiêng liêng giờ đây thuộc về người cha, vì theo nguyên tắc thì người cha hay mẹ Công Giáo sẽ có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái theo luật Giáo Hội. Mà giáo dục ấy không có gì ngoài chuyện giáo dục Đức Tin.

Điều khó khăn ở đây nằm ở chỗ từ xưa tới nay giáo dục cho con trẻ thuộc về người nữ, vì đó thuộc phẩm chức và thiên chức cao đẹp của họ. Thế nên, giờ đây người anh em thành gà trống nuôi con trên bình diện thiêng liêng, còn bà xã vẫn cứ làm đúng thiên chức của người mẹ trên bình diện tình cảm và thể lý. Với vai trò là trụ cột gia đình, người anh em giờ đây mệt nhoài với chuyện kinh tế, giờ còn phải lo chăm sóc cho con về mặt tinh thần và Đức Tin, quả là một việc rất khó với phẩm chức của người đàn ông vốn mang tính bôn ba và bươn trải, về đến nhà chỉ còn muốn được nghỉ ngơi và hồi sức bên người thân yêu.

Khi rong ruổi giữa đời để mưu sinh, anh em không tránh khỏi nhiều phen đi vắng, thế nên ở nhà bằng tất cả sự khiêm nhường và nhận thức đầy đủ cũng như sư tôn trọng giá trị thiêng liêng nền tảng của chồng và con, người mẹ có trách nhiệm nhắc nhở con cái thi hành việc bổn phận trong niềm tin tôn giáo mà chúng đang theo bố.

Còn nếu đã không làm nhiệm vụ nhắc con, lại còn tiêm nhiễm làm nhiễu hệ thống và giá trị niềm tin tinh tuyền của con cái thì phải kể là thật tội cho người anh em đã cất công lao đao vun trồng giờ thì lại có người phá đổ, và tội cho cả cháu bé bị lung lạc và nhung nhiễu niềm tin.

Với cách hành xử theo điều mình tin, nhiều khi bà xã lại có kiểu cúng kiếng, vái lạy, van xin ở ngoài hè phố, đốt tiền giấy, đốt phông lông đuổi xúi quẩy, cúng rằm… là điều hợp với niềm tin của nàng, song với người anh em và người thân thì cảm thấy có gì đó chướng chướng.

Ở đây, chúng ta không phê phán cách hành xử nào là đúng hay sai, chỉ là sự khác biệt ấy sẽ gây biết bao rắc rối nếu không đồng bộ mà thôi. Nếu anh em góp ý, thì rất có khả năng anh em sẽ chết dưới cái lý luận của nàng: “Anh có cách sống và thực hành niềm tin của anh, em có cách thực hành niềm tin của em. Anh làm này làm kia em có than phiền gì đâu. Em tôn trọng anh thì anh cũng hãy tôn trọng em;” “Anh có cách giáo dục con của anh, em cũng có cách giáo dục con của em. Em là mẹ em cũng có bổn phận giáo dục nó như anh. Vậy thì anh nói đi, em sai chỗ nào và anh hay hơn chỗ nào ?” v.v…

Đến đây, nếu không khéo léo và sự khiêm nhường đi vắng thì sẽ bùng nổ nội chiến cách nặng nề. Vì ai cũng muốn bảo vệ niềm tin của mình, đó là điều hợp với lẽ tự nhiên.

Nàng đi chùa, tụng kinh, vái nhang khi đến Chùa, khi nàng đã là người Công Giáo

Đây quả là một câu chuyện nan giải, đặc biệt với phẩm chất nhất thuỷ nhất chung vốn có của người phụ nữ. Nàng sẽ cảm thấy trái tim mình bị giằng co tư bề khi giờ đây đã là người của một tôn giáo khác mà bỗng dưng có vẻ như phải ngừng lại hết mọi hoạt động vốn đã ăn sâu vào tâm thức và máu thịt mình, phải chăng mình đã bội phản ? Khi đối diện với vấn đề này nơi người bạn đời, người anh em đừng hoang mang hay hành xử theo kiểu không kiểm soát được thì lệnh cấm vận. Hãy bình tĩnh và giảng giải để nàng hiểu tường tận điều nàng đang khắc khoải băn khoăn.

Ở đây, theo thiển ý rất riêng tư, anh xin gợi ý vài điểm để anh em có thể phần nào thấy được vấn đề mình đang hoặc sẽ đối diện qua vài điểm sau.

Thứ nhất, không có sự mâu thuẫn nào trong hành trình tìm kiếm Chân Lý hết, bởi Chân Lý chỉ có một như thể mặt trời mọc hướng Đông và lặn ở hướng Tây. Thế nên, xưa kia nàng đi nhà Chùa thắp nhang vái Đức Phật và học các giáo lý mà Đức Phật truyền lại như một phương thế ( mean ) để người ta đạt tới Chân Như ( God ) thì ngày nay nếu vẫn cùng ý nghĩa ấy thì chẳng có gì là sai trái hay bội phản, nàng cứ việc đi Chùa để tìm kiếm Chân Như và vẫn cứ vái nhang Đức Phật như một bậc Thánh Nhân ( vì Đức Phật chưa bao giờ tự nhận mình là Chân Như ). Miễn là nàng đừng để sự lầm lạc nào đó để đồng hoá giữa Đức Phật với Đức Chúa Trời ( Chân Như ) để chuyển từ thái độ yêu mến sang thờ phượng.

Thứ hai, Đức Phật giới thiệu cho mọi người thời của ngài và cả thời chúng ta những phương thế tốt lành để đạt tới Chân Như, còn Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế ( Pl 2, 6 – 11 ) là để mang Thiên Chúa ( God) đến cho chúng ta qua lời giảng dạy và cả hành trình sống của Ngài.

Thế nên, tại điểm này Chân Lý gặp nhau giữa hai vị Đức Phật và Đức Giêsu ( Xét trên bản tính nhân loại của Ngài ). Thế nên, gặp gỡ Đức Kitô và đi theo Ngài không có nghĩa là phản bội lại Đức Phật mà đơn giản chỉ là một sự thăng hoa trong niềm tin tôn giáo và ân sủng mà thôi. Hãy cho nàng biết, điều nàng đang được hưởng trong tư cách là một Kitô Hữu là điều mà Đức Phật đã rong ruổi và bôn ba tìm kiếm suốt cả một đời mới gặp được, và chắc chắn điều ấy làm cho Đức Phật mà nàng mến yêu cảm thấy vui và hạnh phúc cho người thành tâm thiện chí tìm kiếm Chân Lý như nàng.

Người anh em thân mến, trên đây là phần chia sẻ của anh với người anh em về sự khác biệt tôn giáo giữa hai người khi sống đời vợ chồng, để anh em tham khảo và có cách hành xử thật đúng đắn và kiên nhẫn với người bạn đời của mình. Còn nhiều vấn đề quan trọng khác nữa phát sinh do sự khác biệt trong niềm tin tôn giáo giữa hai bạn trong đời sống vợ chồng mà anh muốn chia sẻ thêm, song có lẽ điều đó sẽ được đề cập nhiều hơn ở những thư chia sẻ sau.

Mến chúc các bạn được hoà hợp trong cùng một Đức Tin để cùng nhìn về một hướng mà thăng hoa tình yêu vợ chồng.

JOSEPH C. PHAM

Khi nói dối là…chuyện nhỏ

Khi nói dối là…chuyện nhỏ

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-09-30

RFA

10BaoAnh2392013164727758-305.jpg

Chủ tịch VN Trương Tấn Sang phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Đan Mạch – Việt Nam hôm 20/9/2013 tại Đan Mạch

AFP photo

Trong phạm vi gia đình và học đường, tác giả Nguyễn Quang Thân của bài tựa đề “Ai dạy trẻ nói dối” báo động về “kết quả sững sờ” liên quan tình trạng học sinh, sinh viên tại VN ngày nay nói dối với cha mẹ, mà theo cuộc khảo sát của Trung tâm xã hội học VN, tỷ lệ nói dối cha mẹ của học sinh cấp I là 22%, cấp II 50%, cấp III 64% và ở sinh viên đại học lên tới 80% !

Tác giả lưu ý, “tỷ lệ này tăng phi mã, càng học lên cao càng thạo nói dối”, nói dối ngay trong giai đoạn còn “tuổi ngọc, mới rời nôi ‘nhân chi sơ’ chưa được mấy năm mà các em đánh mất ‘tính bản thiện’ ! “. Và trong “nỗi ngạc nhiên đến xót xa ấy”, tác giả cho biết tiếp, “mọi người vẫn muốn tự vấn” dù câu trả lời “đã có sẵn”, đó là: cái thói giới trẻ nói dối này từ đâu ra ? Tác giả Nguyễn Quang Thân phân tích:

Chúng ta không dạy con nói dối,( mà) dạy con sống lương thiện bằng sức lao động của mình, đối xử tử tế với đồng loại, thương yêu người nghèo khổ. Bằng khen, huân chương ta khuân về treo chật tường. Nhưng con cái biết ta xài bằng giả vì chúng chưa bao giờ thấy ta đi học. Ta nói với con rằng ta là người lương thiện với lương tháng mươi triệu đồng.

Vậy mà ta có ba bốn ngôi nhà, sắm ôtô siêu hạng, mỗi năm bỏ hàng trăm triệu chơi gôn và khi nổi nóng có thể đánh ngất một người giúp việc trên sân “để trêu đùa”. Nhà trường không dạy học sinh nói dối nhưng dùng mọi cách để có tỉ lệ tốt nghiệp cao ngất đến mức chính học sinh của trường cũng biết là chuyện khôi hài… Con cái và ngay cả chúng ta vẫn được nghe những lời hứa hẹn chung chung, hoa mỹ nhưng ngay người nói ra cũng biết chắc là sẽ không được thực hiện. Hệ lụy là cuộc sống thiếu minh bạch, thật và giả lẫn lộn không biết đâu mà lần…Điều tệ hại nhất của thói dối trá xảy ra khi nó bị đẩy đi xa tới mức phá vỡ niềm tin, gây ra nỗi hoài nghi thường trực…

Blogger Hạ Đình Nguyên đi xa hơn phạm vi gia đình và học đường để bao trùm cả xã hội, lưu ý rằng “Trẻ em nói dối thì bị quở mắng, có khi bị trừng phạt. Người lớn – với tư cách là người dân bình thường – nói dối thì hàng xóm, bạn bè tránh xa không muốn chơi, người thân thì không thể tin cậy. Người có cương vị xã hội mà nói dối thì bị nhiều người coi khinh; cương vị xã hội càng lớn, thì sự coi khinh càng nhiều, càng báo hiệu sự nguy hiểm”.

Qua bài “Sự nói dối cưỡng bức ?”, tác giả Hạ Đình Nguyên trước hết định nghĩa rằng bản chất của sự nói dối là biết sự thật nhưng cố ý nói khác đi để che giấu hay tránh né sự thật; còn trong trường hợp vì bị cưỡng bức mà không thể nói lên sự thật, phải “gượng lòng” mà nói dối,  trường hợp như vậy, tác giả tạm gọi là “nói dối cưỡng bức”.

Buộc phải nói dối?

000_Hkg8933723-250.jpg

Những cánh cửa sổ của một nhà tù ở Việt Nam, nơi giam giữ những blogger bất đồng chính kiến. AFP photo

Theo phân tích của tác giả thì ” Sự nói dối cưỡng bức được lặp lại nhiều lần, rồi quen đi, nó trở thành tính, thành nết, thành tật xấu, cuối cùng là hình thành sự ngụy tín cho chính mình. Sự nói dối bấy giờ trở nên trơn tru, hồn nhiên, giống y như nói thật, mà người nghe thì thấy nó trần trụi, nó gợi lên một cảm nhận trơ trẽn”.

Tác giả Hạ Đình Nguyên lưu ý rằng ở VN hiện nay, tình trạng các quan chức cao cấp nói dối về dân chủ, nhân quyền ngày càng trở thành đề tài thời sự “nóng hổi” trên các diễn đàn, kể cả diễn đàn quốc tế; và cứ mỗi lần như vậy, họ đã “thảy một mồi lửa vào đống rơm khô”, tức gây bất bình rộng khắp. Nhưng, theo tác giả, ” Người ta không tin rằng những con người ấy có tính nói dối bẩm sinh, cũng không thể tin rằng họ không biết sự thật, một sự thật mà người dân thường cũng hiểu được, với nhan nhản sự kiện đầy ắp trên trang báo, trang mạng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi năm và năm này qua năm khác. Chỉ có thể lý giải rằng đây là sự nói dối cưỡng bức, tức là bị bắt buộc phải nói dối”. Và tác giả dẫn chứng:

Cách đây không lâu, bà Phó Chủ tịch nước nói: Dân chủ của Việt Nam là “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Câu nói ấy đã gây nhiều phản ứng, nhưng không phải là nói dối nếu so với giáo trình Mác-Lênin…Còn so với thực tế, nó rất vô nghĩa, một so sánh định lượng “quá mức tình cảm”, hoặc do quán tính thuần túy… Nhưng câu nói ấy không gây nên sự phẫn nộ từ dân chúng, mà chỉ gây nên một nỗi buồn đến kinh hoàng về sự tụt hậu của trình độ “suy thoái tư tưởng” mang tính biểu trưng của tầng lớp lãnh đạo. Nếu hiểu về mặt đạo đức của sự “trung thành” hay “kiên định” với ý thức hệ, thì cái đạo đức ấy cũng gây kinh hoàng không kém.


Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra, Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do.
– Chủ tịch Trương Tấn Sang

Tới phiên ông Chủ tịch nước, tác giả Hạ Đình Nguyên cho biết, ” Người ta hỏi rằng bây giờ ông có đang đói bụng không, ông trả lời một cách biện chứng rằng, vì hôm qua ông có ăn nên hôm nay không thể đói được!”, hay ” Vì rằng nước ông (Việt Nam) đã từng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cả trăm năm qua, nên đương nhiên có ý chí – thậm chí rất mãnh liệt – về khát vọng dân chủ và nhân quyền. Và vì ‘có’ khát vọng đó, nên đương nhiên dân chủ, nhân quyền phải ‘có’ thôi!”, hoặc ông ” Phải mượn tạm lịch sử”, như khi sang Mỹ, ông ” mượn tạm cái bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 2/3 thế kỷ để gởi cho ngài Obama”, hay ông chỉ dám nói ” đồng chí X” nào đó mà thôi. Theo tác giả Hạ Đình Nguyên, thì những trường hợp đó là ông Chủ tịch mới “nói tránh/né”, “nói khéo”. Nhưng ông đã “nói dối 100%” khi công bố tại Đan Mạch rằng:

Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra, Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do. Do vậy, ở ngoài thì đồn đại rất nhiều nhưng để hiểu Việt Nam nhiều hơn, hiểu về đời sống chính trị của Việt Nam thì xin mời các bạn hãy đến Việt Nam. Mặc dù chúng tôi còn nghèo nhưng cũng có trên dưới 200 kênh truyền hình, 700 tờ báo và không dưới 17.000 phóng viên…

Ai bắt họ nói dối?

000_170337959-250.jpg

Ảnh minh họa chuyện ngăn chặn facebook ở một số nước, trong đó có VN. AFP photo

Tác giả Hạ Đình Nguyên nêu lên câu hỏi rằng 4 triệu blogger “rất tự do” sao lại như cơn gió độc quất vào mặt các blogger dù họ đang ở trong nhà tù kín gió; 17.000 phóng viên, 700 tờ báo, 200 kênh truyền hình thì quả đúng là chơi sang khi đất nước còn nghèo; Riêng 17.000 phóng viên ư ? Nhưng trong đó, biết bao nhiêu tiếng thở dài ? bao nhiêu tiếng hò reo cùng với kèn trống ? Tác giả khẳng định:

Ông Chủ tịch và các ông lãnh đạo khác không thể không biết chính những điều mà các ông đã và đang làm, về dân chủ và nhân quyền bao nhiêu năm qua, ở cái xứ sở khốn khổ này. Một đất nước tràn trề tham nhũng mà lại có dân chủ và nhân quyền được sao, lạ thật! Thế nhưng không thể nói thật. Là “nói dối cưỡng bức” hay đã trở thành ngụy tín? Hầu hết trong bộ máy nhà nước, từ cao đến thấp, đều như thế! Nghĩa là cùng trong tình thế cưỡng bức. Và sự ngụy tín đã trở nên toàn diện, bao trùm. Nhưng ai có thể cưỡng bức họ? Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật. Vì cơ chế đó được đặt trên một tiền đề không có thật nốt: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Quả là bi hài! Bị kẹp chặt và bẹp dí như con mắm, mà Dân còn làm chủ được sao?

Tác giả Hạ Đình Nguyên nêu thêm một câu hỏi nữa, rằng vì sao trong tình trạng “nói dối cưỡng bức” như vậy mà các quan chức có thể chịu đựng lâu dài, bền bỉ đến thế ? Câu trả lời, theo tác giả, rất dễ nhưng vấn đề lại rất gay go, đó là ” quá trình hy sinh và gắn bó với nhiều ràng buộc của quyền và lợi. Sự hy sinh của những ai đó có thể chưa nhiều lắm, mà sự gắn bó thì nhiều hơn, nhất là những cái chức đã mua bằng tiền, hoặc bằng sự thân quen nâng đỡ… Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…”

Nhưng ai có thể cưỡng bức họ? Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật.
– Hạ Đình Nguyên

Bài “Lầm đường lạc lối” của blogger Nguyễn Bình có đoạn nhận xét rằng “Cả một bộ máy tuyên huấn, tuyên giáo, truyền thông đồ sộ được nuôi dưỡng, trả lương chuyên suy nghĩ, nói năng, viết lách dưới danh nghĩa ‘tiếng nói của nhân dân’, nhưng khi nhân dân nghe được hoặc đọc thấy thì nổi quạu, cho đó là giả danh, nói lấy được. Nhân dân nào lại xuẩn tới mức đồng tình với những chủ trương, đường lối, luật pháp bóp nghẹt sự sống tự do dân chủ của mình, biến đất đai được tạo lập bởi chính công sức bao năm của mình thành ‘tài sản thuộc sở hữu toàn dân’ do một nhóm phe đảng đại diện quản lý và tùy nghi quyết định ?”. Tác giả nhận xét:

Người ta cứ cố gán ghép bằng được “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, trong khi trong thực tế tuy kiến thức cao thấp khác nhau, nhưng số đông người dân hễ nghe thấy bốn chữ “chủ nghĩa xã hội” hoặc “xã hội chủ nghĩa” đều hiểu đó là “đấu tranh giai cấp”, đó là “cải cách ruộng đất”, đó là “cải tạo tư sản”, đó là “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” – nhưng thực tế không hề được làm chủ gì cả. Toàn những từ ngữ rùng rợn, nhắc nhớ bao sự việc khó tin nhưng có thật, đã diễn ra. Nói chung bốn chữ “chủ nghĩa xã hội” có giá trị, hay ho ở đâu không biết, nhưng chắc chắn và dứt khoát nó không phải là mong muốn của người dân Việt Nam – trừ những người bị mắc chứng hoang tưởng…

Nếu chết là hết…

Nếu chết là hết…

Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt

“Người đã sống lại và chết không bao giờ là hết cả. Họ đã làm chứng, không phải chỉ bằng lời mà còn bằng máu của mình.”

Nếu chết là hết thì :

– Sống tốt để làm gì

– Học hành có nghĩa chi

– Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi

– Giàu có sung sướng rồi gì nữa

– Văn minh lịch sự để làm gì

– Danh tiếng này kia có ích chi

Nếu chết là hết, tất cả sẽ chỉ dẫn đến vực thẳm vô nghĩa và thực sự con người loay hoay đủ mọi cách chỉ để đi đến một con đường bế tắc.

Nhưng sự thật thì chết có là hết không?

Một người “tính toán” thế này:

– Trường hợp một: Bạn tin có Chúa và chết không phải là hết, từ đó bạn sẽ cố gắng sống cho tốt cho đẹp và cảm thấy hạnh phúc với những gì mình làm. Rồi ngày bạn nhắm mắt xuôi tay, bạn gặp mặt Chúa và hân hoan bước vào đời sống vĩnh cửu với Người. Như thế bạn chẳng uổng phí cuộc đời trần gian mà lại được hạnh phúc đời đời.

Trường hợp hai: Bạn không tin có Chúa và tin rằng chết là hết, từ đó bạn sống không lí tưởng, sống bậy bạ, chán nản, mệt mỏi, nhỏ nhen, cố chấp, hận thù, thủ đoạn, tranh quyền đoạt lợi, tuyệt vọng. Rồi ngày bạn tắt thở, bạn bất ngờ phát hiện ra rằng có Chúa và chết không phải là hết. Vậy là bạn đã uổng phí cuộc sống trần gian, và không biết lúc đó bạn sẽ ứng xử thế nào?

***

– Ai nói rằng chết là hết thì là người khờ khạo đáng thương vô cùng.

– Ai dạy như thế thì đang phạm tội giết người, không phải một người mà nhiều thế hệ.

– Ai nghe theo lời dạy ấy thì đã nhẹ dạ cả tin và đang tự mù lòa.

– Ai tin rằng chết là hết sẽ phải đối diện với Thiên Chúa Hằng Sống trong đời này và đời sau.

Con người, ngay từ thuở xa xưa còn ăn lông ở lỗ, đã luôn nhận thấy có một Đấng Tạo Hóa, một Đấng Trời, một Thiên Chúa hiện diện không những nơi vũ trụ bao la mà cả trong lòng mình. Có một điều gì đó rất tự nhiên luôn ở sâu tận bên trong con người bằng xương bằng thịt này chỉ cho con người biết có một chiều kích linh thiêng nền tảng hiện hữu. Cố tình phủ nhận nó sẽ là cố tình lừa dối và phủ nhận chính con người mình. Ngay trong thời đại hôm nay, có những trường hợp thú vị thỉnh thoảng vẫn xảy ra: một số người, vì lý do nào đó, ngoài miệng nói rằng chết là hết nhưng đến lúc gần chết thì lại vội vàng tìm cách nối kết lại với các nguồn mạch tâm linh. Cũng đúng thôi, làm sao bác bỏ được sự thật gắn chặt trong cấu trúc tự nhiên của con người mình chứ.

Phần tôi, càng kinh nghiệm cuộc sống, tôi càng vững tin hơn vào sự hiện hữu và hiện diện của Chúa. Tôi biết chắc chắn rằng chết không phải là hết mà là cánh cửa để bước vào sự sống vĩnh cửu. Vì chết không phải là hết nên những điều có giá trị tôi đang nghĩ, nói, làm hôm nay không những giúp tôi hạnh phúc tại trần gian này mà còn đi cùng tôi vào trong hạnh phúc mai sau. Tôi thấy mình may mắn quá!

***

Ngoài kinh nghiệm bản thân, tôi tin vào lời chứng của nhiều người khác nữa, ít là trong dòng lịch sử của hai ngàn năm nay. Ví dụ, ngày hôm ấy, Phêrô cùng các anh em khác đứng giữa những người chưa tin và có thể giết hại mình lên tiếng nói rằng:Chính Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.(Cv 2:33) Quả thế, Người đã sống lại và chết không bao giờ là hết cả. Họ đã làm chứng, không phải chỉ bằng lời mà còn bằng máu của mình. Sau họ, hàng triệu nhân trứng khác trên khắp các nẻo đường thế giới, trong đó có hàng trăm ngàn cha ông Việt Nam của tôi, cũng đã sẵn sàng hi sinh mạng sống mình để làm chứng cho sự thật này.

Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt. O.Carm

“Người có đạo”

“Người có đạo”

Maria Túc Lynh

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho” (Mt 7, 8)

Vốn là một người có tính năng động, thích tìm hiểu từ khi còn bé, nên tôi hay chú ý nhiều đến những lời chia sẻ của người khác về những điều kỳ diệu và mới lạ của đạo Công Giáo.

Trước kia khi tôi chưa biết đến đạo Công Giáo, trong tôi có hai dòng suy nghĩ gần như là trái ngược nhau. Một là thấy những người theo đạo Công Giáo sao mà sang trọng quá, ở họ có chút gì đó hay hay. Mỗi khi họ đi lễ, tôi thấy họ ăn mặc rất chỉnh tề và đẹp, và tôi thầm ước chi tôi cũng là người có đạo. Có đạo, thì tôi cũng sẽ được nhiều dịp diện quần áo đẹp đi Nhà Thờ, chỉ đơn giản là được vào Nhà Thờ thôi chứ không hề hiểu biết ý nghĩa của Thánh Lễ. Hai là tôi thấy những người được gọi là người công giáo sao mà lại rất khó gần, dường như họ có vẻ rất kiểu cách, có thể nói là “chảnh” nữa. Điều này làm cho tôi cảm thấy không thiện cảm với họ chút nào, và cũng mất dần cảm hứng trong tôi muốn tìm hiểu về đạo.


Cho đến một hôm, tôi đã ngộ ra rất nhiều điều kỳ lạ và thú vị, tôi được tham dự một Thánh Lễ ngày chúa nhật và được nghe bài chia sẻ về danh xưng “Tôi là người có đạo” do một vị linh mục khá đứng tuổi chia sẻ, mà theo cảm nghĩ của tôi, đó cũng là một lời dặn dò cho những công dân nước Chúa rằng, điểm nổi bật nói cho đúng hơn là một tôn chỉ của “người có đạo” để mọi người nhận biết và công nhận, đó là: “Bác ái là đồng phục của người có đạo”, được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, hành vi ứng xử trong đời sống hàng ngày với tha nhân, lời nói luôn nhã nhặn, hành động trong yêu thương vô vị lợi và chân thành. Sống như thế sẽ gặt hái được sự bình an, sống như thế là sống cho tình yêu.

Dần dần tôi hiểu rằng có một Đấng Tạo Hóa và thầm biết ơn Đấng đã sáng lập ra đạo Công Giáo, trong tôi đã mất hết những suy nghĩ nông cạn hời hợt trước kia và tôi đã tự nguyện tìm hiểu, học đạo, theo đạo và cố gắng sống theo những tôn chỉ và giáo huấn của đạo mà tôi đã được học.

Và một ngày gần đây trong một Thánh Lễ tôi lại nghe giảng về một chứng nhân là một nữ giáo viên trẻ rất đáng quý. Vị linh mục đã kể lại rằng ngày cô giáo đó được tuyên dương vì những thành tích mà cô đã làm với một tấm lòng của “người có đạo”. Tuy nhiên, người ta không nhìn nhận điều đó trong cái bằng tuyên dương, người ta tự ý điền vào là vì cô đã noi gương một vị lãnh tụ vĩ đại xa xăm nào đó mà cô chưa bao giờ biết, nên bây giờ cô mới được như vậy. Và khi nhận và đọc nội dung của tấm bằng, cô đã can đảm nói lên sự thật rằng. Cô đã sống và làm việc thế nào để có được một kết quả như ngày hôm nay, là do cô được sinh ra và giáo dục trong một gia đình có nền tảng đạo đức và một niềm tin tôn giáo mà cô đã được lãnh nhận từ bé, chứ cô không hề biết vị lãnh tụ nào cả, thì làm sao cô giáo ấy có thể học tập và noi gương. Và nếu cần thì cô sẵn sàng trả lại cái bằng tuyên dương của cấp trên tặng thưởng cho cô.

Rồi có một lần trong một buổi đi uống cà phê với những bậc đàn anh, đàn chị, họ cũng là những “người có đạo”. Có một anh là giáo viên dạy toán cấp ba. Anh là một người được nhiều người cán bộ nhà nước nể phục vì tính trung thực và thẳng thắng. Anh đã thẳng thừng từ chối khi biết người ta đã dùng tài sản của một người khác để cấp cho mình.

Rồi hôm nay khi tôi đi lễ như mọi ngày ở Giáo Xứ Ba Chuông lại được biết thêm một chứng nhân nữa, mà theo tôi là rất tuyệt vời. Người này là một người con duy nhất trong gia đình. Ngày ông chọn Chúa là tình yêu duy nhất và để sống trọn vẹn với tình yêu mình, ông đã dám hy sinh dứt bỏ cha mẹ, nhưng vốn là một người con hiếu thảo, ông vẫn tìm mọi cách để báo đáp chữ “Hiếu” cho trọn.

Chứng nhân ấy là một linh mục, ngài tên là Giuse Đỗ Văn Chung thuộc dòng Đa Minh. Ngài đã được thụ phong linh mục từ lâu và được bổ nhiệm sang Houston – Texas – Hoa Kỳ, ngài cũng đã ổn định nơi quê người cuộc đời dâng hiến. Tôi đã nghe từ những người giáo dân trong xứ nói lại rằng, tuy đã yên ổn nhưng ngài vẫn muốn dấn thân phục vụ nên đã xin bề trên về lại quê nhà phục vụ cho con cái Chúa. Nguyện vọng của ngài đã được chấp thuận, ngài đã trở lại quê nhà. Cách đây hơn một tuần, trên đường từ nhà mẹ ngài đi ra thì ngài đã bị một cậu bé 17 tuổi không kiểm soát được tốc độ gây tai nạn nghiêm trọng cho ngài. Ngài bị hoại tử ở chân và phải cưa mất một chân, sau một thời gian ngắn bất tỉnh từ khi xảy ra tai nạn, ngài đã hồi tỉnh và chính ngài đã nói lên lời tha thứ cho cậu bé và ngài đã căn dặn người thân của ngài không được làm khó hay thưa kiện cậu bé và gia đình cậu bé đó. Sau khi ngài nói và truyền đạt lại nguyện vọng của mình thì ngài đã ra đi trong bình an, để trở về với Chúa.

“Người có đạo” như thế đó, họ thật đơn sơ, thật can đảm, thật trung thực, dám sống thật với chính mình, trong họ có một tấm lòng rộng mở, sống bác ái và vị tha, họ đã tha thứ ngay cho cả người đã làm thiệt chính mạng sống của mình. Họ dám thẳng thừng từ chối danh vọng, bổng lộc khi biết chút danh vọng đó không trong sáng, nguồn bổng lộc đó lỗi đức công bằng và yêu thương.

Nếu là người chưa có đạo, chưa có niềm tin và sống theo lẽ thường tình của con người thì tôi sẽ phán cho những con “người có đạo” này có vấn đề về thần kinh.

– Ai lại dại dột chối bỏ những lời khen của cấp trên, để có thể bị nguy hại tới đường công danh và sự nghiệp?

– Ai lại khờ khạo dám khước từ một tài sản lớn, khi mà chính cuộc sống mình đang gặp khó khăn?

– Ai lại rộng lượng để nói lên lời tha thứ vô điều kiện cho một kẻ đã hủy diệt mơ ước, nguyện vọng  và đến ngay cả mạng sống  của mình?

Vâng, “Người có đạo” như thế đó, điều đặc biệt là trong họ có một niềm tin rất mạnh mẽ, họ luôn khắc tâm rằng họ được ơn bảo trợ rất tràn đầy. Đó là những điều tôi đã cảm nhận được nơi họ, đã chứng kiến tận mắt, đã củng cố trong tôi một niềm tin ngập tràn niềm vui là mối tương quan giữa họ và tôi giờ đây không còn như người xa lạ, mà là thật gần gũi trong mối tương quan là anh chị em, con cái của một Cha chung trên trời.

Cho tới hôm nay và cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, tôi thấy mình thật sung sướng khi chọn Đạo Công Giáo là tôn giáo của mình, giáo huấn của đạo là kim chỉ nam của cuộc đời tôi. Từ ngày tôi được trở thành “người có đạo” tôi thấy mình thật bình an và hạnh phúc. Vì tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”.

Còn các bạn, nghĩ thế nào về đạo Công Giáo? Tôi tin rằng, nếu các bạn có thiện chí đi tìm, các bạn cũng sẽ gặp và sẽ thấy được nhiều điều thú vị hơn nữa.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn linh mục Giuse sớm được hưởng kiến nhan Thánh Chúa.


Sàigon, ngày 27 tháng 9 năm 2013

Maria Túc Lynh

Tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”. Maria Túc Lynh

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết. Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa. Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con. Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

Chia sẻ Lễ An Táng Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Chia sẻ Lễ An Táng Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Sept 28, 2013 @ Nhà Thờ Ba Chuông lúc 10 Sáng.

Bài đọc: Gióp 19:1, 23-27a; Roma 6:3-9; Gioan 11:21-27.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Chúng ta phải chân thành nhận rằng chúng ta đang thực sự rất đau thương và buồn bã trước sự ra đi cách bất ngờ và tàn nhẫn của người anh em chúng ta, Tu Sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Giống như ông Gióp trong bài đọc 1, có rất nhiều người đã hỏi: “Tại sao sự xấu như vậy lại xẩy ra cho một người hiền lành và đạo đức?”  Câu hỏi này hướng về quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân của sự xấu và chắc chắn sẽ không có câu trả lời thỏa đáng; vì hoặc chúng ta sẽ đổ lỗi cho người này, người khác hoặc cuối cùng chúng ta sẽ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa. “Tại sao, Chúa là Đấng Nhân Từ và Thương Yêu lại để một chuyện xấu như vậy xẩy ra cho người lành?”  Hoặc chúng ta sẽ trách Chúa như Marta: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết?” (Gioan 11:21).

Đối với tôi, câu hỏi phải là: “Sự xấu này đã xẩy ra, vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?”  Câu hỏi này giúp chúng ta học ra bài học trong quá khứ để giúp nhau vượt qua đau khổ hiện tại và cùng tìm cách ngăn ngừa thảm họa như vậy diễn ra trong tương lai.  Đó là một câu hỏi thực tiễn và cần thiết.  C.S. Lewis đã nói: “Pain is God’s megaphone to arouse the deaf world – Đau khổ là tiếng gào thét của Thiên Chúa để thức tỉnh thế giới điếc đặc. Ngôn ngữ và suy nghĩ của chúng ta rất hạn chế; vì thế chúng ta cần tìm đến với Lời Chúa để an ủi nhau và giúp nhau vượt qua nỗi đau này.

Chúa Giêsu đã chết trên Thánh Giá bằng một cái chết nhục nhã và đau thương.  Các vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Nhật Bản mà hôm nay Giáo Hội mừng kính cũng đã bị giết chết hết sức dã man: người bị chém, người bị thiêu, người bị dùng tre lứa mà lóc từng miếng thịt ra!  Thật dã man và đau đớn!

Khi chứng kiến cảnh Đức Quốc Xã treo các nạn nhân lên trên các cột gỗ và giết họ, rất nhiều người đã hỏi: “Tại sao như vậy?  Chúa ơi, Chúa ở đâu mà để những người vô tội chết thảm đến thế?”  Bất ngờ trong đám đông ấy có tiếng trả lời: “Chúa đang ở đó, trên cây gỗ, cùng chịu đau và chết chung với họ.”

Kính thưa quí ông bà anh chị em,

Mỗi lần chúng ta thấy một người vô tội bị chết thảm, thì chúng ta hãy biết rằng Chúa Giêsu Kitô đang cùng chịu đau và cùng chết với họ.  Và theo lời Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: ‘nếu anh Giuse Đỗ Văn Chung đã cùng chết với Đức Kitô thì anh cũng cùng sống với Người.’  (Rom 6:8)  Cũng như Đức Kitô đã phục sinh và bước ra khỏi mồ, thì sự phi lý và dã man của cái chết anh Giuse Đỗ Văn Chung đã trải qua cũng không thể giữ anh ở trong mồ được.  Anh sẽ cùng sống với Đức Ktiô.

Nhà vật lý học và là Giám Đốc đầu tiên của trung tâm Nasa Mỹ, tiến sĩ Wernher von Braun có nói: “Khoa học cho chúng ta hay là mọi sự trong thiên nhiên, ngay cả những phân tử nhỏ nhất, cũng không biến mất mà không để lại dấu tích chi cả.  Thiên nhiên không biết đến sự tuyệt chủng mà chỉ có sự biến đổi – từ trạng thái này sang trạng thái khác.  Những gì khoa học dạy tôi đều củng cố niềm tin của tôi vào sự liên tục của sự hiện hữu thiêng liêng sau cái chết thể lý; bởi lẽ chẳng có gì biến mất mà lại không để lại dấu tích chi cả.”  (Science tells us that nothing in nature, not even the tiniest particle, can disappear without a trace.  Nature does not know extinction.  All it knows is transformation…  And everything science has taught me… strengthens my belief in the continuity of our spiritual existence after death.  Nothing disappears without a trace).

Sống cho đến bao nhiêu tuổi ở trần gian là điều không quan trọng; điều quan trọng là sống ra sao, sống như thế nào, sống trong sự kính trọng và thương yêu hay trong khinh thường và thù hận… Có người nói: Immortality is very fearful without love.  Sự sống vĩnh cửu thì thật là đáng sợ nếu không có tình yêu.

Người anh em của chúng ta, Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P. đã sống hiền hòa, quan tâm đến người khác, chân thành thương yêu mọi người và được mọi người quí mến, yêu thương.  Sự hiện diện của rất nhiều người từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới tại Thánh Đường này nói lên sự thật đó.  Chắc chắn anh đang sống trong yêu thương và kết hợp với Chúa Tình Yêu.

Thưa Cha Giám Tỉnh, quí linh mục, tu sĩ nam nữ, tang gia và quí ông bà anh chị em,

Tại thành phố Phnom Penh ở Campuchia có một trạm xá dành cho người bị bệnh SIDA (AIDS) do một linh mục Công giáo trông coi.  Cha và những người giúp việc đã đi tìm và đem về trạm xá những người bị SIDA và chăm sóc họ cách cẩn thận và tận tình.  Nơi đây các bệnh nhân được lo lắng cách chu đáo và được ăn no.  Cũng có bệnh nhân sẽ được gởi về nhà – để chết, phần lớn thì chết ở trạm xá này.

Có lần một linh mục dòng Đaminh từ Âu Châu đến thăm trạm xá thì gặp lúc một thanh niên trẻ mới được đưa đến trạm xá, anh rất gầy yếu và chắc chắn không thể sống được bao nhiêu ngày.  Anh được người ta tắm rửa sạch sẽ và được hớt tóc cho gọn gàng, lúc ấy mặt anh rạng rỡ niềm vui và hạnh phúc.

Người không có cùng niềm tin với chúng ta có thể hỏi: “Tại sao phải làm như vậy?  Các bệnh nhân này sẽ sớm qua đời thôi, tại sao phải tốn công vào những việc vặt vãnh như vậy?”  Đối với họ, việc chăm sóc này không mang ý nghĩa chi cả.

Nhưng với chúng ta, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và là anh chị em của nhau.  Chúng ta không để cho một người anh em, một người chị em của chúng ta về với Chúa trong lem luốc, bẩn thỉu hoặc chết bờ chết bụi.  Phẩm giá của con người không cho phép chúng ta để mặc họ như thế.  Mặc dù chết là một cuộc lên đường rất cá nhân, nhưng thường có người thân quen qui tụ chung quanh để tiễn ta lên đường về quê trời, hợp đoàn trong Vương Quốc của Chúa.  Do đó, chăm sóc cách dịu dàng và tận tình các bệnh nhân chờ chết như thế là một nghĩa cử giúp chuẩn bị họ tiến vào trong Vương Quốc này, và đó là điều phải làm.

Thưa cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình và các anh em trong tỉnh dòng,

Anh em Đaminh trong Phụ Tỉnh của chúng con ở Bắc Mỹ đã đồng hành với anh Giuse Đỗ Văn Chung, O.P. hơn một thập niên qua trong đời sống tu trì, trong mục vụ và trong sứ vụ ở Houston, Texas, thế mà chúng con lại không có mặt bên cạnh anh Giuse Chung trong những giây phút sau cùng của anh trên dương thế.  Thay vào đó, cha Giám Tỉnh và anh em đã đồng hành, nâng đỡ, động viên tinh thần, chăm sóc tỉ mỉ và chu đáo cho anh Giuse.  Với tinh thần ‘Còn nước còn tát’, cha Giám Tỉnh và anh em đã nhờ các chuyên viên y khoa giỏi và tìm mọi cách để giúp anh Giuse Chung và như thế, cha và anh em đã đem đến cho Bà Cố và cho chúng con sự ‘hy vọng’.  Mặc dù Chúa đã làm việc theo cách khác; nhưng sự ‘hy vọng’ này lại rất cần cho chúng ta trong lúc này.  Chúng con chân thành cảm ơn cha Giám Tỉnh và quí anh em.

Có người nói: Hy vọng không phải là nhắm mắt lại trước những khó khăn, những nguy hiểm, hay những thất bại.  Nhưng hy vọng chính là tin tưởng chắc chắn cho dẫu tôi thất bại bây giờ, tôi cũng sẽ không thất bại mãi mãi; cho dẫu tôi bị thương tổn bây giờ, tôi cũng sẽ được hồi phục; đó cũng chính là tin tưởng rằng sự sống thì tốt lành, và tình yêu thì thật mãnh liệt. (Anon) Với niềm tin vào Chúa, hy vọng này: “không phải là một xác tín cho rằng mọi sự sẽ xuôi chảy, nhưng là một quả quyết mọi sự sẽ có ý nghĩa, bất kể kết quả chúng sẽ như thế nào” (‘Hope is not the conviction that something will turn out well, but the certainty that something makes sense, regardless of how it turns out’ câu nói của Vaclav Havel, một nhà viết kịch và là cựu tổng thống nước Tiệp Khắc – trích trong sách của cha Timothy Radcliffe, What is the Point of Being a Christian, trang 17).

Cha Timothy Radcliffe, O.P., nguyên Bề Trên Cả Dòng Đaminh, thuật lại việc ngài thăm viếng các anh chị em Đaminh ở Burundi như sau:

Lần đầu tiên tôi đến Burundi (miền Nam của Rwanda – thảm cảnh diệt chủng diễn ra từ tháng Tư đến tháng Bảy, 1994) vào lúc những xung đột chủng tộc giữa người Hutus và Tutsis đã xé nát mảnh đất xinh đẹp ấy.  Tôi ngỏ ý muốn thăm cộng đòan các nữ Đan sĩ Đaminh ở phía Bắc nước này.  Đi bằng đường bộ thì rất nguy hiểm … nhưng vì không còn cách nào khác nên chúng tôi đành phải phó thác và lên đường.  Thật là một chuyến đi cam go.  Chúng tôi đã bị quân lính bắt dừng xe không cho chúng tôi tiếp tục vì đang có những chiến sự trên đọan đường đó.  Dọc đường, chúng tôi đã từng thấy cả một chiếc xe búyt chứa đầy xác chết.  Có những phát đạn bắn mà tôi nghĩ là đã nhắm vào chúng tôi.  Tòan quốc gia ấy mang mầu tang thương và chết chóc.  Các cây lương thực đều bị thiêu hủy.  Và ở tuốt phía xa, chúng tôi thấy một ngọn đồi xanh tươi, nơi đó là đan viện của các chị em.

Sáu sơ là người Tutsi và sáu sơ khác là người Hutu.  Đó là một trong số rất ít địa điểm nơi hai sắc dân ‘kình địch’ ấy sống chung trong hòa bình và thương yêu.  Các nữ tu này đã mất hầu hết thân nhân trong cuộc thảm sát diệt chủng… Tôi thắc mắc làm sao họ có thể sống hòa bình với nhau như vậy.  Họ cho hay ngòai những giờ kinh chung, họ luôn luôn cùng nghe tin tức ngõ hầu họ đều biết và chia sẻ với nhau những gì đang xẩy ra.  Không người nào phải sống trong đau thương một mình.  Dần dần, người từ các sắc dân khác nhau nghe biết vùng đất của đan viện là một nơi an tòan và đã qui tụ lại trong thánh đường để cầu nguyện và trồng cây lương thực chung quanh thánh đường ấy.  Một ngọn đồi xanh tươi trong một vùng đất tan hoang – đó chính là một DẤU CHỈ HY VỌNG.” (What Is the Point of Being a Christian? Burns & Oates, 2005, p.20-21).

Thưa quí cha, quí tu sĩ nam nữ, Bà Cố và tang gia của cha Giuse Đỗ Văn Chung, ‘không ai phải sống trong đau thương một mình’.  Chúng ta qui tụ trong Thánh Đường hôm nay để chia bớt nỗi buồn đau của bà Cố và của từng người chúng ta; đồng thời cũng nâng đỡ nhau và đem đến cho nhau niềm tin và niềm hy vọng rằng ‘mọi sự sẽ có ý nghĩa, bất kể kết quả chúng sẽ như thế nào.’

Để kết thúc, con xin mợn bài thơ ngắn sau đây để gởi đến cách đặc biệt cho bà cố ngõ hầu chúng ta cùng với bà cố tin tưởng, hy vọng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, là Cha Nhân Từ và là Người Thầy Chí Thánh của chúng ta.  Bài thơ có tự đề: TRANG VỞ BỊ GẤP

Trên căn gác một ngôi nhà cổ

Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,

Tôi ngồi đó lật từng trang vở bị gấp nếp

Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:

Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu.’

Tôi liền dở nó ra và đọc,

Đoạn gục gặc đầu mỉm cười nói:

Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu.”

Trong cuộc sống có nhiều trang khó hiểu,

Ta hãy gấp lại và viết lên:

Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu.’

Rồi một ngày nào đó trên Nước Trời,

“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu.” (Vô danh).

Anh Giuse Đỗ Văn Chung thân mến, hãy cầu bầu cùng Chúa cho chúng tôi.

Ts. Giuse Trần Trung Liêm, O.P.

Phụ Tỉnh Thánh Vinh Sơn Liêm Calgary, Canada.

Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết buộc Syria loại trừ vũ khí hóa học

Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết buộc Syria loại trừ vũ khí hóa học

RFA


2013-09-27

000_Was7949563-305

Hội đồng Bảo an LHQ bỏ phiếu chấp thuận nghị quyết buộc Syria từ bỏ vũ khí hóa học tại cuộc họp ngày 27 tháng 9 năm 2013 ở trụ sở LHQ, New York.

AFP PHOTO / Stan HONDA

8:30 tối thứ sáu, giờ New York, Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết với 100% phiếu thuận, buộc Syria loại trừ kho vũ khí hóa học trước giữa năm tới, 2014.

Với toàn thể 15 phiếu thuận, nghị quyết đòi hỏi “sự loại trừ những thứ vũ khí mà chính quyền Syria đã sử dụng một cách tàn bạo và nhiều lần để chống lại người dân Syria.”  Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Susan Rice vừa tuyên bố như trên.

Nghị quyết cũng minh định rằng sự bất tuân thủ nghị quyết sẽ đưa đến những hậu quả.  Tuy nhiên nghị quyết không đề cập đến biện pháp quân sự để cưỡng hành theo như Hoa Kỳ đòi hỏi, trong trường hợp Syria không tuân thủ nghị quyết.

Nghị quyết cũng buộc Syria phải cho các chuyên viên thuộc Tổ chức Cấm vũ khí hóa học của Liên Hiệp Quốc (OPCW) vào kiểm soát tất cả những kho tồn trữ vũ khí hóa học và cơ sở tổn trữ hóa chất và chế tạo vũ khí hóa học trong khắp nội địa Syria.

10 phút trước giờ Hội đồng Bảo An biểu quyết 15-0 nghị quyết này, OPCW đã họp tại Hòa Lan để biểu quyết chấp nhận Syria làm thành viên mới nhất của Hiệp ước cấm vũ khí hóa học.

Ý Nghĩa Sự Sống

Ý Nghĩa Sự Sống

Cô Eve Lavallière là một kịch sĩ nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19-20.  Cô có tất cả mọi thứ mà bất cứ người nào trong xã hội thời bấy giờ đều ước mơ:  giàu sang, danh vọng, sắc đẹp, nhiều người mến mộ tôn thờ…

Cô diễn kịch cho bao nhiêu người từ vua, quan, hoàng hậu cho đến người dân … bao giờ cũng thành công.  Thế nhưng, lúc nào cô cũng cảm thấy chán nản, cô đơn cùng cực, mặc dù chung quanh cô có không biết bao nhiêu người đàn ông và những bữa tiệc sang trọng….  Đã ba lần cô có ý định tự tử, nhưng đến giờ phút chót thì cô thoát được.

Chuyện xảy ra sau một buổi trình diễn, cô từ chối hết mọi lời mời ăn chơi và đi lang thang về phía sông Seine.  Nhìn xuống dòng sông ban đêm có những bóng đốm sáng của ánh điện xa xa, cô quyết định gieo mình xuống tự tử.  Đúng lúc đó, một cánh tay lực lưỡng nắm vai cô kéo lại.

Một giọng đàn ông ấm áp nhỏ nhẹ bên tai:  “Này cô, cái chết không giải quyết được gi đâu.”

Lavallière thẫn thờ quay lại nhìn người vừa ngăn cản ý định của mình.  Ánh sáng của đèn đường rọi vào mặt cô gái.  Người đàn ông kinh ngạc nhận ra cô kịch sĩ nổi tiếng.

Ông kêu lên:  “Kìa cô Lavallière, sao thế?  Có chuyện gì vậy?  Cô không biết rằng buổi trình diễn nào của cô cũng có mặt hai vợ chồng chúng tôi sao?  Cô không muốn chúng tôi thưởng thức tài nghệ của cô và cô không muốn nhận sự ngưỡng mộ của chúng tôi ư?”

Lavallière đáp lại những câu hỏi tới tấp của người đàn ông bằng một câu ngắn gọn:  “Vậy mà tôi đã tưởng mình cho mà chẳng nhận được gì.”

Sau biến cố đó, Lavallière đi nghỉ hè ở một ngôi làng nhỏ tại Pháp.  Nơi đây cô gặp một linh mục, ngài mời cô đến tham dự Thánh Lễ.  Cô không biết rằng Chúa đang chờ đợi cô ở đây.  Vị linh mục đưa cho Lavallière một quyển sách nói về thánh nữ Maria Mađalena, người được Đức Giêsu chữa khỏi bẩy quỷ.  Cô đọc say sưa… và thật lạ lùng… với tâm hồn thống hối chân thật, cô xin trở lại và được nhận lãnh các Bí Tích.  Tại nhà nguyện ở Chanceaux, ngay tại lối vào người ta đọc được những lời sau đây khắc trên đá: “Tại nhà nguyện này, Eve Lavallière đã trở lại và lãnh nhận Bí Tích Mình Máu Thánh Chúa ngày 19 tháng Sáu năm 1917, được ban bởi linh mục Chesteigner.”

Kể từ ngày đó, Lavallière dứt bỏ đời sống cũ, bán gia tài bố thí cho người nghèo, bỏ trang điểm, gia nhập Dòng Ba Phanxicô, tận hiến cho đời sống cầu nguyện và tham gia những công việc bác ái.  Lúc đó Lavallière được 51 tuổi.  Mười hai năm sau, Lavallière mắc một chứng bệnh sốt hiếm lạ của miền Bắc Phi-châu và ngã bệnh nặng.  Cô qua đời năm 1929, thọ 63 tuổi, trong tấm gương thơm thánh thiện.

Cô Lavallière đi tìm cái chết vì cô không tìm thấy tình liên đới, vì cô không biết rằng một cuộc sống có ý nghĩa là một cuộc sống mà con người phải sống với người khác và sống cho người khác.

Sau khi thức tỉnh khỏi cơn mê đắm tội lỗi, Lavallière đã tìm được cho mình ý nghĩa của cuộc sống qua những nghĩa cử quảng đại yêu thương mà Chúa đã mời gọi cô thực thi.

Tổng Hợp từ bài của Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

From: ThiênKim &

Nguyễn Kim Bằng gởi