13 thói quen xấu khiến bạn già trước tuổi

13 thói quen xấu khiến bạn già trước tuổi

Lão hóa là điều không thể tránh khỏi đối với con người. Tuy nhiên, nếu không lưu ý tới cách thức sinh hoạt, thậm chí là những thói quen rất nhỏ, thì quá trình này cũng sẽ được đẩy nhanh hơn. Kết quả là bạn sẽ già đi nhanh chóng.

  • 1 Bạn là một con cú đêm

Thức khuya khiến cho tất cả các bộ phận trên cơ thể bị hoạt động quá sức. Da tiết nhiều chất bã nhờn hơn dẫn đến lỗ chân lông nở rộng. Thông thường là khoảng từ 10-11 giờ đêm da ở trong trạng thái dưỡng và hồi phục. Nếu như thường xuyên thức khuya sẽ làm rối loạn hệ tuần hoàn bình thường của việc trao đổi chất và hệ thống thần kinh, sẽ khiến cho da bị khô, sạm. Cơ thể thường xuyên mệt mỏi, tiêu hóa kém dẫn đến việc hấp thu các chất dinh dưỡng bị đình trệ.

  • 2 Giữ mối hận thù quá lâu trong lòng

Nếu không thể bỏ qua hay quên đi những chuyện trong quá khứ bạn có thể trông già hơn 5 tuổi so với tuổi thực của mình. Một số nghiên cứu đã cho thấy mối liên hệ giữa sự tha thứ và sức khỏe. Nghiên cứu được đang trên Tạp chí Y học hành vi năm 2005 cho thấy sự thiếu tha thứ dẫn đến gia tăng các triệu chứng thần kinh, ảnh hưởng đến giấc ngủ, tăng huyết áp, tăng lượng đường trong máu…

  • 3 Bạn chỉ tập thể dục khi bạn muốn giảm cân

Nếu kế hoạch tập thể dục của bạn chỉ bắt đầu và kết thúc cho đến khi bạn cảm thấy cơ thể mình đã thon gọn, bạn có thể trông già và xấu hơn. Bởi nghiên cứu cho thấy rằng tập thể dục thường xuyên sẽ giúp ngăn ngừa các bệnh liên quan đến tuổi và kéo dài tuổi thọ. Tập thể dục hàng ngày giúp giảm lượng cortisol và làm tăng các hormone có lợi như testosterone.

  • 4 Bạn ăn quá nhiều đồ ngọt

Đồ ngọt làm tăng sự lão hóa của tất cả các bộ phận trên cơ thể con người, ăn chế độ ăn nhiều đường không chỉ gây tăng vòng 2 mà còn tăng nguy cơ bệnh tiểu đường, gây các vấn đề về da như mụn trứng cá, đặc biệt là nếp nhăn.

  • 5 Hút thuốc

Tiếp xúc với khói thuốc lá, dù bạn hút thuốc hay không, làm tăng đáng kể nếp nhăn và tình trạng khô da vì khói thuốc làm suy yếu khả năng hấp thụ vitamin C của cơ thể – thành phần quan trọng giữ cho da căng và ẩm. Vitamin C tan trong nước và không được dự trữ trong cơ thể.

  • 6 Dụi mắt

Khi đôi mắt mệt mỏi bạn thường dụi mắt, nhưng chính điều này lại là nguyên nhân làm phá vỡ collagen và độ đàn hồi xung quanh khu vực mắt, làm phá vỡ các mao mạch và gây ra nếp nhăn.

  • 7 Dùng rượu

Tất cả chúng ta đều biết hay chứng kiến một người nào đó với khuôn mặt đỏ nựng, sưng húp sau cơn say túy lúy. Rượu làm giãn các mạch máu nhỏ trong da. Điều này làm tăng lưu lượng máu gần bề mặt da. Theo thời gian, với sự lặp lại việc này, các mạch máu có thể bị hỏng vĩnh viễn. Sự phá hủy này dẫn đến việc da bạn bị đỏ và xuất hiện các đốm nâu.

  • 8 Xem ti vi

Một nghiên cứu của các nhà khoa học ở Đại học Queensland (Australia) cho thấy cứ một giờ xem truyền hình sẽ rút ngắn cuộc sống của bạn 22 phút. Truyền hình không chỉ làm xấu vòng eo, nó còn rút ngắn tuổi thọ của bạn và còn làm tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer.

9 Ngủ úp mặt xuống gối

Nếu khi ngủ bạn chỉ nằm úp mặt xuống gối thì khuôn mặt bạn sẽ bị ép và chiếc gối bông có thể gây nếp nhăn trên da. Để tránh lão hóa sớm hãy chuyển sang nằm ngửa hay dùng gối lụa, satin có thể giảm nếp nhăn và duy trì độ ẩm cho da.

  • 10 Căng thẳng

Stress và lo âu khiến bạn cau mày. Thực hành một số kỹ thuật thư giãn và đưa nó vào thói quen hằng ngày của bạn là điều rất quan trọng. Hãy học cách chú ý đến những điều tích cực và thực hành việc thư giãn các cơ mặt.

  • 11 Bạn hiếm khi uống nước

Tăng lượng nước bạn uống mỗi ngày chính là chìa khóa để trông trẻ trung hơn. Nước là cần thiết để duy trì độ ẩm cho da và giúp cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho da.

  • 12 Chế độ ăn ít chất béo

Nhiều người kiêng ăn chất béo để giảm cân mà không biết rằng thiếu các chất béo như omega 3 có thể ảnh hưởng đến tốc độ lão hóa của bạn. Omega 3 có nhiều trong dầu cá, quả óc chó, hạnh nhân luôn cần thiết cho chúng ta và giúp ta trẻ lâu. Nó không chỉ giữ cho làn da căng bóng, ít nếp nhăn, tăng cường sức khỏe cho não, tim mà còn tăng tuổi thọ cho bạn.

  • 13 Lạm dụng mỹ phẩm

Rất nhiều mỹ phẩm chứa những độc tố gây hại cho làn da, cơ thể như corticoid, chì… Một nghiên cứu thị trường mỹ phẩm gần đây cho thấy, ngay cả các loại son của những thương hiệu uy tín cũng chứa lượng chì vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Vì thế bạn nên hạn chế sự lạm dụng mỹ phẩm để tránh cho cơ thể không bị ngộ độc và làn da chậm lão hóa hơn.

Nếu Ai Hỏi Con

Nếu Ai Hỏi Con

(Phỏng ý thơ “Khúc Tâm Tư” của Chúc Anh)

Quỳnh Vy

Nếu ai hỏi con:  ước mơ gì nhất?

Không ngập ngừng con sẽ nói:  thương yêu

Yêu Chúa hết lòng, hết sức sớm chiều

Yêu tha nhân bằng tình yêu chân thật

Nếu ai hỏi:  ngày nào con mong nhất?

Ngày Chúa gọi tên ban thưởng thiên đàng

Ngày diễm phúc trong thánh nhạc êm vang

Nơi bàn tiệc Cha ôm con thân mật

Nếu ai hỏi:  nữ trang con thích nhất?

Thập tự đơn sơ. Tràng chuỗi Mân Côi

Khoác vòng cổ, quấn quyện tay với lời:

Kinh Kính Mừng dâng Nữ Vương trời đất

Nếu ai hỏi con:  đường nào đẹp nhất?

Con đường chật hẹp chỉ dạy Phúc Âm

Người theo chân Chúa bác ái lặng thầm

Vì đường rộng rãi đưa vào hư mất

Nếu ai hỏi:  đời sau mơ gì nhất?

Kề cận Ngôi Cha-Thánh Thần-Giêsu

Hồn ấm nồng kinh, thánh vịnh-thánh thư

Muôn đời con yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.

Quỳnh Vy

Genève 03-10-2013

THẰNG CHÁU NỘI ĐÍCH TÔN

THẰNG CHÁU NỘI ĐÍCH TÔN

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Trước năm 1975. Cha tôi là thầy giáo, dạy tại một trường tiểu học ở quận Cái Răng thuộc tỉnh Phong Dinh. Chú Ba, em ruột của cha tôi, là phi công loại phi cơ quan sát L19, căn cứ không quân đóng tại phi trường Bình Thủy, cách thị xã Cần Thơ khoảng 4 cây số.

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chú Ba lái xe jeep xuống chợ quận Cái Răng gặp cha mẹ tôi tại nhà. Trông chú có vẻ khẩn trương, nhìn cha tôi, nói:

– “Sớm hay muộn gì *** Bắc Việt sẽ nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam. Nếu như, Miền Nam Việt Nam lọt vào tay quân *** Bắc Việt. Em sẽ bay sang Thái Lan rồi qua Mỹ tỵ nạn. Em sẽ tìm cách liên lạc với gia đình sau. Anh chị Hai hãy an tâm!”

Thấy tôi đang đứng xớ rớ bên cạnh cha, chú hỏi:

– “Nếu anh chị Hai đồng ý! Em sẽ đưa thằng Bỉnh sang Hoa Kỳ. Em hứa sẽ lo cho nó ăn học đến thành tài. Anh chị nghĩ sao?”

Cha quay sang mẹ tôi, hỏi:

– “Ý kiến của chú Ba cũng tốt đó! Còn ý của bà thế nào?”

Nhưng, mẹ tôi có vẻ e ngại, nói:

– “Tôi đồng ý với ông và chú Ba. Nhưng mà,” mẹ tôi ngập ngừng, nói. “Thằng Bỉnh chưa đầy 11 tuổi. Tôi chỉ sợ, nó sẽ là gánh nặng cho chú Ba thôi!”

Chú Ba nói:

– “Anh chị bằng lòng là được rồi! Nhưng, việc nầy còn phải tùy cháu nữa!” rồi chú Ba quay sang, hỏi tôi: “Sao, cháu có muốn đi máy bay theo chú sang Mỹ học hành không nào?”

Tôi nghe nói đi máy bay là khoái chí tử rồi, gật đầu chịu liền; vì lúc đó, tôi đâu có biết nước Mỹ cách xa đất nước tôi gần nửa vòng trái đất. Trong lúc mẹ lo thu xếp đồ đạt của tôi cho vào cái túi xách. Tôi thấy cha bảo chú đứng trước bàn thờ tổ tiên, thắp một nén nhang cắm lên lư hương, rồi trịnh trọng nói với chú tôi:

– “Anh chị Hai bằng lòng gởi thằng Bỉnh cho chú. Nhưng, chú phải hứa với tổ tiên nhà họ Huỳnh một chuyện.”

Chú Ba hỏi:

– “Thưa anh Hai, hứa chuyện gì mới được chớ?”

Cha tôi nói:

– “Chú phải phải nhắc nhở thằng Bỉnh rằng, khi nó trưởng thành phải ghi tâm, khắc cốt điều nầy: “Hấp thụ một nền giáo dục và khoa học kỹ thuật của Hoa Ky,ø không phải để trở thành người Mỹ mà phải biết áp dụng sở học đó để thăng hoa nền Văn hóa – Giáo dục truyền thống của dân tộc Việt Nam, sẵn sàng dấn thân giúp Quốc Gia – Dân Tộc mình sau nầy,” cha tôi nói tiếp. “Chú hãy nhớ rằng, không có một chế độ chính trị nào tồn tại vĩnh viễn, chỉ có Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam là trường tồn mà thôi! Gia đình anh Hai đặt hết kỳ vọng nơi chú Ba đó!”

Chú Ba trả lời một cách dứt khoát:

– “Trước bàn thờ tổ tiên nhà họ Huỳnh! Em hứa sẽ làm tròn trách nhiệm đối với gia tộc và anh chị.”

Thế rồi vài giờ sau đó. Sau khi nghe Tổng thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước lực lượng vũ trang *** Bắc Việt. Chú Ba cùng một người bạn đưa tôi lên chiếc phi cơ L19, cất cánh rời phi đạo vào lúc 11 giờ trưa, từ phi trường Bình Thủy bay thẳng sang Thái Lan. Phi trường Utapao là trạm dừng đầu tiên trên bước đường lưu vong, trước khi được đưa sang Hoa Kỳ định cư…

Mười tám năm sau, vào mùa xuân năm Quí Dậu 1993. Trong lúc tôi đang phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ với cấp bực Đại úy trong ngành Quân Y. Vâng lệnh cha mẹ ở quê nhà và chú, tôi thành hôn với cô Lê Tú Quyên, con gái đầu lòng của bạn chú Ba. Một năm sau đó, chúng tôi đã có một đứa con trai đầu lòng thì má tôi cũng qua đời.

Mùa Đông năm 2005. Cháu Huỳnh Quật Cường vừa tròn 11 tuổi. Và cũng cuối năm đó, tôi rời quân ngũ. Trong thời gian nghỉ xả hơi, tôi dự định đưa thằng cháu nội đích tôn của cha tôi về Việt Nam cho ông nội thấy mặt, ít nhứt cũng một lần. Tôi nghĩ cha tôi cũng già yếu lắm rồi, không biết cha đi sum họp với mẹ lúc nào.

Vừa hay tin tôi quyết định đưa con về Việt Nam, ăn Tết Nguyên Đán Bính Tuất 2006 với gia đình bên nội. Nhạc mẫu tôi từ Cali gọi sang Maryland chất vấn:

– “Con đưa thằng Cường về Việt Nam thăm ông nội của nó! Tại sao con không dẫn vợ con cùng đi chớ?”

Tôi trả lời:

– “Thưa má, vợ con cũng muốn đi lắm! Nhưng, Quyên về Việt Nam vào lúc này chưa thuận tiện thôi, má à!”

Bà nói:

– “Sao kỳ vậy cà? Đâu, bảo vợ con nói chuyện với má coi nà!”

– “Dạ được, má chờ chút nghe!”

Tôi trao điện thoại cho vợ tôi đang đứng bên cạnh. Quyên lên tiếng:

– “Alô! Con đây! Má đó hả?”

– “Ừ, má đây! Sao, con không đi Việt Nam cùng với cha con thằng Bỉnh để thăm cha chồng con một lần cho biết, để nó đi một mình nguy hiểm lắm!”

– “Con mới nhận được một cái “Job” mới rất thơm, làm việc trong cơ quan chánh phủ chưa đầy hai tháng, làm sao con rời nhiệm sở được chớ?” Vợ tôi làm ra vẻ ngây thơ, tiếp. “Aûnh đi với con hay một mình cũng vậy thôi! Có gì nguy hiểm đâu hả, má?”
Bà lo lắng, nói:

– “Tại con không muốn biết thôi! Có mấy khứa lão ở Cali, tuổi gần đất xa trời mà cũng sanh tật, bỏ vợ bỏ con, chạy theo đào nhí ở Việt Nam, tuổi đáng con đáng cháu của mình đó, con gái à!”

Nàng trấn an bà:

– “Má an tâm đi! Chồng con không phải hạng người như vậy đâu; vả lại, con đã sắp đặt kế hoạch hết rồi. Vừa đến phi trường Tân Sơn Nhất, cậu Năm sẽ đích thân hộ tống hai cha con ảnh về nhà ngay lập tức. Sáng hôm sau, cậu sẽ dẫn độ hai cha con ảnh về Cái Vồn, giao cho cha chồng con ngay. Má đừng có lo gì hết. OK?”

Bà có vẻ an tâm, nói:

– “Con nói vậy, má cũng an lòng! Hun thằng cháu ngoại cưng của má một cái. Bye, bye các con và thằng Cường nghe!”

Chỉ còn một ngày nữa là sáng mai bước lên máy bay. Bà xã tôi dặn dò đủ thứ thập cẩm, nào là: “Về Sài Gòn tuyệt đối không ăn óc khỉ sống, bồ cạp, kỳ tôm, cá sấu, rắn rết…nghe chưa?”, “Cấm vào các quán bia ôm, ngủ ôm; tóm lại, dịch vụ nào có gái ôm để phục vụ là cấm triệt để!”, “Cho con đi ngủ đúng giờ!”, “Đừng cho nó tắm sông!”, “Nhắc cha phải uống thuốc mỗi ngày đó nghen!”… làm tôi cũng bực mình, phát cáu. Tôi trả lời:

– “Đã bảo nhớ rồi mà! Nhắc đi nhắc lại mãi hoài vậy má nó!”

Cả đêm tôi trằn trọc, thấp tha, thấp thỏm. Quá nửa đêm về sáng, vừa mới thiu thỉu ngủ là cái đồng hồ báo thức reo lên inh ỏi. Tôi bật đèn ngồi dậy, ngáp dài. Mới đó, mà đã 4 giờ sáng rồi. Vậy là mất toi một đêm, rồi tôi tự an ủi: “Thôi, sáng mai lên máy bay ngủ tiếp!”

Đúng 5 giờ sáng ngày thứ tư 25/1/ 2006. Đến hẹn, thằng bạn thân lái xe đến nhà, đưa hai cha con tôi ra phi trường quốc tế Dulles ở Virginia. Tôi đáp máy bay hảng All Nippon Airways. Máy bay cất cánh rời phi đạo lúc 10 giờ sáng đi Tokyo. Và từ đó bay đi Tân Gia Ba để đổi máy bay về Sài Gòn. Chuyến máy bay mang số 742 của hảng hàng không VietNam Airlines cất cánh từ phi trường Tân Gia Ba đưa chúng tôi vào không phận Việt Nam vào lúc 11 sáng 27/1/2006 giờ VN. Sau khi hoàn tất thủ tục nhập cảnh, tôi dẫn thằng con ra ngoài sân phi trường Tân Sơn Nhất. Gia đình cậu mợ Năm của bà xã tôi đang sốt ruột chờ tôi bên cạnh chiếc xe van. Tôi nhận diện cậu Năm dễ dàng nhờ tấm ảnh mang theo. Cậu bảo bác tài lái xe đưa chúng tôi đi một vòng thành phố Sài Gòn để xem chợ Tết. Ngồi trên xe, tôi bấm máy lia lịa. Nhìn dòng xe gắn máy đủ loại phân khối phun khói mù mịt, bóp kèn inh ỏi làm tôi choáng ngộp. Sau đó, tôi mời tất cả mọi người dùng cơm trưa tại nhà hàng Đồng Khánh, rồi đưa tôi về nhà cậu ở Tân Định ngủ qua đêm, mặc dù trái giờ giấc, nhưng hai cha con tôi vẫn ngủ say như chết vì đi đường xa mỏi mệt.

Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 28/1/2006. Cậu Năm đánh thức chúng tôi dậy để chuẩn bị lên đường về quê cho kịp đón giao thừa với gia đình. Aên điểm tâm qua loa vừa xong, chiếc xe van do cậu mướn cũng vừa dừng trước cửa. Tôi lấy mấy cái bao “lì xì” màu đỏ của Quyên đã chuẩn bị sẵn để biếu mấy em, con của cậu mợ Năm, và cả bác tài xế để lấy lộc đầu năm.

Lúc xe leo dốc cầu cầu Mỹ Thuận, bác tài hỏi tôi:

– “Ở bên My,õ có cây cầu nào vĩ đại bằng cây cầu Mỹ Thuận nầy không hả cậu?”

Tôi chỉ cười không trả lời. Cậu Năm nói:

– “Nhưng, cũng nhờ cây cầu nầy mà cuộc hành trình về Miền Tây đã rút ngắn được ít nhất cũng được vài ba tiếng đồng hồ.”

Thật vậy, khoảng 11 giờ trưa. Chiếc xe van đã đưa chúng tôi vào thị xã Vĩnh Long, rồi theo quốc lộ 1A để đi về Cái Vồn là quê nội của tôi. Khi xe chạy qua thị trấn Ba Càng, rồi đến cầu Rạch Mút và khi vừa vượt qua cầu Cái Vồn Lớn thì cậu Năm bảo tài xế ngừng lại ở dãy quán cóc bên đường.

Cha tôi và một người chú họ đang nóng ruột ngồi trong quán chờ. Rời quê hương gần 31 năm, đây là lần đầu tiên tôi gặp lại cha. Tôi rất ngạc nhiên, tuổi đời của cha ngoài thất tuần, nhưng trông người vẫn còn khá khỏe mạnh, đôi mắt vẫn còn tinh anh. Hai cha con ôm nhau mà nước mắt chảy ràn rụa.

Thằng Cường nhìn ông nội, rồi ngơ ngác hỏi tôi:

– “Who is he, daddy?”

Tôi trả lời:

– “He is your grandpa!”

Thằng Cường chìa tay ra bắt tay ông nội, theo lối xã giao phương Tây:
– “Hello, Grandpa! How are you doing!”

Cha tôi nhìn thằng cháu đích tôn trân trối, nét thất vọng hẹn rõ trên gương mặt già cỗi của người. Cha tôi nói, giọng bất mãn ra mặt:

– “Bộ thằng con mầy không biết kêu ông nội bằng tiếng Việt sao hả, Bỉnh?”

Tôi mỉm cười, nói:

– “Con là công dân Mỹ, phải làm nghĩa vụ đối với đất nước đã cưu mang người tỵ nạn Việt Nam, còn vợ con đi làm suốt ngày, đến tối mò mới về nhà. Làm sao tụi con có thì giờ dạy nó nói tiếng Việt. Cha thông cảm cho tụi con đi!”

Sau khi biết sự thật khá phủ phàng. Cha tôi mất thiện cảm đối với thằng cháu nội đích tôn và ngậm ngùi nói:

– “Cha cầm bằng kể như không có thằng cháu nội đích tôn nầy đi! Làm người Việt Nam mà không biết nói tiếng mẹ đẻ là người vong bản. Lớn lên, nó lấy một con vợ Mỹ, rồi đẻ ra một lô con lai Mỹ, thế là mất gốc luôn!”

Cậu Năm nói an ủi:

– “Thôi, đừng buồn mà anh Giáo! Thằng cháu nội đích tôn của anh nó sanh ở bên Mỹ, ăn đồ Mỹ, học trường Mỹ thì nó phải nói tiếng Mỹ là đúng rồi! Có trách là trách người lớn kìa, như con mẹ Năm bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh, mới bỏ nước ra đi theo diện ODP được năm, sáu năm gì đó, mà khi trở về nước đã quên hết tiếng Việt, đi đâu cũng dẫn con em theo tò tò để làm “thông dịch viên”. Thế mới là dị hợm chớ!”

Cha nhìn tôi, hỏi:

– “Con về thăm Việt Nam, định ở chơi với cha bao lâu?”

Tôi thưa:

– “Dạ, đúng một tuần lễ! Mùng 8 con trở lên Sài Gòn, mua sắm một ít quà tặng gia đình và bè bạn. Mùng 10, con và thằng Cường lên máy bay trở qua Mỹ. Con còn phải lo công ăn việc làm. Sau khi việc làm ổn định, con hứa năm sau sẽ về thăm cha và sẽ ở lâu hơn.”

Cha hỏi về chú tôi:
– “Còn chú thím Ba mầy dạo nầy thế nào? Sao, không cùng về Việt Nam cho cha gặp mặt?”

Tôi nói:

– “Về Việt Nam đi bằng đầu gối, còn phải nạp tiền hối lộ cho tụi công an Hải quan ở phi trường. Chú Ba dứt khoát không trở về Việt Nam đâu, cha ơi!”

Cha tôi hỏi:

– “Còn con thì sao? Có hối lộ cho tụi nó không?”

Tôi trả lời bằng sự thật:

– “Có chớ sao không, cha! Ai sao mình vậy mà; vả lại, con không muốn họ bắt chẹt, làm khó dễ tháo tung hành lý, lục lọi quà cáp của con đem về biếu cha và bà con mình.”

Cậu Năm nhìn đồng hồ, rồi đến bắt tay cha và tôi, chào từ giã:

– “Bây giờ tôi phải trở về Sài Gòn để còn kịp cúng giao thừa. Sáng mùng tám, khoảng giờ nầy, tôi sẽ có mặt tại đây để đón hai cháu về Sài Gòn.”

Chờ khi chiếc van nổ máy, quay trở về hướng Sài gòn. Cha dẫn tôi và thằng Cường xuống bờ rạch Cái Vồn Lớn, một chiếc ghe tam bản có gắn máy đuôi tôm đang cắm sào dưới chân cây cầu dừa. Chờ mọi người xuống ghe xong, người chú họ cho nổ máy, chiếc ghe tam bản lồng lên, cất mũi, chạy ngược về phía trong rạch Cái Vồn. Hai bên bờ rạch với những xóm nhà lá mọc san sát bên nhau, nhà nào cũng đào mương, lên líp, lập vườn trồng cây ăn trái; thỉnh thoảng, mới thấy vài căn nhà ngói ba gian của các điền chủ thời xa xưa. Thằng Cường nằm trong khoang ghe, gối đầu lên cái xách tay ngủ vùi. Còn cha tôi ngồi xếp bằng trước mũi ghe yên lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn dòng sông cuộn chảy; thỉnh thoảng, người lại thở dài… Tánh cha tôi bảo thủ, người thất vọng vì thằng cháu đích tôn vong bản, không biết nói tiếng Việt. Còn tôi, len lén nhìn cha rồi nhớ đến người mẹ kính yêu đã quá vãng mà nước mắt bỗng trào ra.

Từ khi rời Việt Nam vào lứa tuổi thằng Cường cho mãi đến bây giờ, tôi mới có dịp ngồi trên chiếc ghe tam bản di chuyển trên dòng sông. Con rạch Cái Vồn làm tôi nhớ quá khúc sông Cần Thơ, đoạn chảy qua cầu Cái Răng đến vàm sông Ba Láng. Hồi đó, vào những mùa trăng thơ mộng, cha mẹ tôi thường dẫn tôi xuống chiếc ghe tam bản của chú Khai – người lái đò dọc – mướn chú ấy chèo ghe dọc theo sông Cần Thơ để ngắm trăng. Cha mẹ tôi rất tâm đầu ý hợp, cả hai người đều có tâm hồn nghệ sĩ và rất yêu thích Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bản thân tôi cũng được dạy cho những kinh sống rút ra từ Truyện Kiều. Cha thường khuyên bảo: “Làm người phải giữ sao cho cái “TÂM” của mình luôn trong sáng, vì chữ “TÂM” kia mới đích thực bằng ba chữ “TÀI”đó con!” hoặc “Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần.” Trong lúc chiếc ghe hơi chòng chành, lướt sóng theo nhịp chân của người lái đò dọc, cha thường ngồi trước mũi ghe thổi sáo để mẹ ngâm Truyện Kiều cho cha tôi thưởng thức…

Khoảng một giờ sau, chiếc ghe tam bản đã vào địa phận xã Thuận An, quận Bình Minh. Cha tôi nói: “Đến nhà rồi đó con! Đánh thức thằng Cường dậy.”

Tôi nhìn lên trên bờ, thấy các chú bác, cô dì, bà con hai bên nội ngoại trên mươi người, đứng dọc theo con rạch Cái Vồn, trước căn nhà hương hỏa lợp ngói đỏ, gồm có ba gian để đón cha con tôi. Nhìn cái thân xác đồ sộ của tôi: cao gần 1 mét 80, nặng trên 190 pounds. Ai cũng lắc đầu, cười, nói đùa với cha tôi:

-“Chắc thằng Bỉnh qua Mỹ, uống sửa…voi, sao mà nó bự con quá nè trời!”.

Một bà cô nhìn thằng Cường, hỏi :

– “Cháu tên gì? Mấy tuổi rồi?”

Thằng Cường nghe hỏi, nó trố mắt nhìn rồi lắc đầu, đáp:

– “I’ m very sorry! I don’t understand what you say!”

Cha tôi ngó thằng Cường, rồi nhìn tôi như thầm trách, nói :

– “Thằng cháu nội đích tôn của tôi mất gốc rồi chị Tám ơi! Nó có nói được tiếng Việt đâu mà hỏi nó làm gì cho mệt chớ! Mà thôi, tôi mời tất cả bà con vô nhà, dùng với tôi một bữa tiệc tất niên đạm bạc, để mừng gia đình cha con chúng tôi đoàn tụ trong dịp Tết Bính Tuất.”

Vừa bước chân vào trong nhà, hai cha con tôi thắp nén nhang thơm trên bàn thờ tổ tiên và quỳ lạy trước di ảnh của mẹ. Trên cái bàn tròn kê giữa nhà, mọi người trong nhà lo sắp chén đũa, một cái lẩu mắm kho và rau sống đủ loại, một cái nồi cơm còn đang bốc khói nghi ngút. Mắm kho và rau là món ăn khoái khẩu nhất của tôi từ thuở còn tắm truồng. Cha mời mọi người ngồi vào bàn. Hai cha con tôi ngồi bên phải và trái của cha già. Thằng Cường ngửi thấy mùi mắm kho là nó làm bộ nhăn mặt, lấy tay bịt mũi làm cha tôi giận tái mặt. Bỗng thấy con ruồi xanh từ đâu bay vào đậu trên bàn, nó lật đật nhảy xuống ghế, chạy đến ôm tôi cứng ngắt, sợ hãi, hét lớn:
– “Daddy! Blue bee scares me!”

Mọi người trên bàn tiệc cười ầm lên. Đến nước nầy, cha tôi dằn cũng hết nổi, quát:

– “Thằng nhóc con! Con ruồi xanh chớ không phải con ong đâu mà mầy sợ!”

Thấy ông nội nổi giận, nó lấm lét nhìn tôi như ngầm hỏi ý. Tôi bèn mỉm cười, nháy mắt, thầm nhắc tuồng cho nó. Thằng Cường hiểu ý, trở về chỗ ngồi. Bất ngờ, nó cầm chai rượu đế “Song Phú” rót vào cái ly xây chừng, hai tay kính cẩn dâng lên ông nội, rồi xổ một câu tiếng Việt rành rọt, đúng giọng, làm cha tôi chưng hững:

– “Con kính dâng ông nội một ly! Con cũng nhậu với ông nội xã láng, sáng về sớm! Nhậu không say không trở về Mỹ!”

Cha tôi sửng sốt, nghe thằng Cường bật nói được tiếng Việt, cha mừng đến chảy nước mắt. Người ngửa mặt lên trần nhà, cười ha hả một cách sảng khoái, rồi nói:

– “Cháu nội đích tôn của nhà họ Huỳnh ta, ít ra phải như vậy mới được chớ!”

Thằng Cường nó mang một kho pháo từ Mỹ về nước, chờ dịp nổ với ông nội. Nó nói:

– “Ông học giả Phạm Quỳnh có nói rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn, nước Việt Nam mình còn”. Bây giờ, con đọc một đoạn Kiều gồm 4 câu, có đủ ba thứ tiếng: Việt, Hoa và Mỹ cho ông nội thưởng thức.

Cha tôi không tin, nói:

– “Đâu, con đọc thử cho mọi người nghe coi! Con mà đọc được, muốn đòi cái gì ông nội cũng thưởng hết!”

Thằng Cường nắm tay nội, nói:

– “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, à nghen ông nội!”

Cha tôi khoái chí, xoay người lại, nhìn lên bàn thờ như khoe với mẹ tôi:

– “Bà nó ơi! Thằng cháu nội đích tôn của mình nó biết đọc thơ Kiều, còn xài cả chữ Nho với tui nữa nè bà!”

Tôi nói với thằng con:

– “Thôi, đọc Kiều cho ông nội thưởng thức coi.”

Nó tằng hắng lấy giọng, lên gân cổ, đọc:

– “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh/ Một, hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi “dách”, tài đành họa “two”…”

Nó sợ ông nội không hiểu, liền giải thích:

– “Tiếng Hoa “dách” là “một”; còn tiếng Mỹ “two” là “hai”. Ông nội thua con rồi!”

Cha tôi chỉ chờ có vậy, người ôm thằng cháu nội lạc loài vào lòng mà hai hàng nước mắt chan hòa vì vui mừng. Cha mắng yêu:

– “Tổ cha mầy! Chơi chữ với ông Nội đó hả? Ừ, nội chịu thua rồi đó! Con muốn nội thưởng cái gì đây?”

Thằng Cường bá cổ, hôn lên má của ông nội một cái chụt, nói:

– “Hồi sáng đến giờ, ông nội xài xể con te tua. Bây giờ, phải bù lỗ cho con. Hun con 10 cái đi, ông nội!”.

Trong lòng tràn đây hân hoan và sung sướng, cha tôi hôn chùn chụt lên hai má nó như hôn tôi lúc còn bé, rồi mời mọi người cầm đũa. Thằng Cường nó ăn mắm và rau như điên. Nó lua luôn một hơi 3 chén cơm còn khen mắm kho ngon hết sẩy, trước con mắt ngạc nhiên của mọi người.

Sau bữa cơm đạm bạc, cha tôi vuốt tóc thằng Cường, hỏi:

-“Ai dạy con mấy câu thơ Kiều vậy, Cường?”

-“Dạ, Ba má dạy con mấy câu thơ Kiều để về Việt Nam đọc cho nội nghe chơi. Ba má còn dạy con đọc, viết tiếng Việt và cả lịch sử nước Việt Nam. Sau khi trở qua Mỹ, con sẽ viết thơ thăm ông bằng tiếng Quốc Ngữ để cho ông vui,” thằng Cường còn khoe. “Ông chú còn dạy con võ Vovinam Việt Võ Đạo nữa đó!”

Sáng mùng 1 Tết Nguyên Đán Bính Tuất. Tất cả con cháu tụ họp nơi căn nhà hương hỏa, trước để làm lễ cúng gia tiên và sau đó chúc Tết cha tôi. Thằng Cường vận võ phục Vovinam Việt Võ Đạo, lưng thắt đai trắng. Mừng tuổi ông nội xong, nó nói:

– “Tết không có lân múa. Con xin biểu diễn võ thuật cho ông nội, các ông bà, cô dì, chú bác thưởng thức.”

Nói xong, thằng Cường bước ra giữa nhà, cuối đầu chào mọi người theo nghi thức con nhà võ, rồi bắt đầu thi triển quyền pháp, cước pháp . Cha tôi say sưa nhìn thằng Cường ra đòn tấn công địch nhanh lẹ, thế thủ gọn chắc và đôi lúc nhào lộn để tránh đòn và phản đòn vô cùng linh hoạt. Cuộc biểu diễn chấm dứt, mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Cha tôi ôm thằng Cường vào lòng, hỏi:

– “Con học võ để đánh lộn với tụi Mỹ con, phải không Cường?”

Thằng Cường lắc đầu, đáp:

– “Con luyện võ Vovinam vì lòng kiêu hãnh và lòng tự hào về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam mình, chớ không phải để đánh lộn đâu!”

Lời nói đó, làm cha tôi sung sướng đến nhỏ lệ. Tôi lấy bàn tay lau những giọt nước mắt yêu thương, trân quý đó như để nó thấm vào máu thịt, cuộn chảy mãi trong dòng máu Việt Nam của tôi…

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

ĐẠP XE,

ĐẠP XE,

Song Như.

Ông đạp bà đạp thế mà vui,
Đạp tới đạp lui kéo một nùi,
Băng qua đường lớn xuyên đường nhỏ,
Nón đội trên đầu vẫn đen thui…

Nhớ lúc còn thơ vượt đồi cao,
Đạp đổ mồ hôi chẳng ra sao,
Bây giờ đạp chút mà rên rỉ,
Mai mốt già thêm biết thế nào…?

Hởi ơi cái tuổi mười lăm ấy,
Giờ đếm ba lần đã mỏi tay,
Co chân đạp miết mà chưa tới,
Đội nắng đội mưa…đạp cả ngày…

Liverpool.3/10/2013.
Song Như.

Thân tặng anh Đào và Yến Nhi.

Kính gi quý Thy Cô và các bn LVC.
Kính chúc sức khỏe.
KT.

Ăn Mặc & Ăn Nói

Ăn Mặc & Ăn Nói

Tưởng Năng Tiến

Có lần, bên bàn nhậu, tôi nghe một cha nói (y như thiệt) rằng hồi năm 1941 Nhà Nước Thuộc Địa đã trao tặng giải thưởng và cấp bằng tưởng lục cho một người dân Việt vì đã chế ra cái đèn dầu Hoa Kỳ – hiện vẫn còn được lưu dụng, ở nhiều nơi.

Cùng thời điểm này, chính xác là vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, xẩy ra trận Trân  Châu Cảng. Theo Wikipedia:

“Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay ….”

So như thế (nghĩ) đã buồn nhưng sự thật còn buồn hơn thế nữa. Cha đẻ cái đèn dầu Hoa Kỳ – thực ra – là một người Ba Lan, Ignacy Łukasiewicz. Ông làm ra nó vào năm 1853.

Một trăm năm mươi hai năm sau, báo Tiền Phong – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – còn (chua chát) thêm rằng: “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít!”

Dân Việt, rõ ràng, không có “năng khiếu” cao về khoa học và kỹ thuật. Ít nhất thì cũng không “cao” bằng dân Nhật. Nói cách khác (và nói một cách hơi hoa mỹ) Việt Nam là một xứ sở trọng nông hoặc thuần nông, chỉ chuyên về việc sản xuất lúa gạo thôi.

Đã có một thời mà mọi thứ ở đất nước này đều có thể có thể qui ra gạo, và gạo còn được dùng như một loại hoá tệ cho sinh hoạt mua bán thường ngày, kể cả việc … mua dâm – theo như lời kể của một nhà văn:

“Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Một túp nhà lá nằm nép bên vệ đường, phía sau là khoảng nước dở ao dở rãnh, muỗi và cỏ nhiều. Một ngọn đèn dầu run rẩy vì gió, cháy leo lét được treo trước cửa sổ. Một con chó già còm cõi bê bết bùn đất và lạnh, nằm in bóng đèn dầu dưới cửa sổ, tru ư ử trong họng mà không dám vào nhà vì sợ đòn. Gió hú rít xoáy quanh cửa tranh nhau luồn vào nhà. Có tiếng mái tranh cọ nhau xào xạc như van xin. Tiếng chẫu chuộc gọi cái làm nhịp cho mưa rơi…

Có tiếng chân rẽ nước đi tới, rồi một cái đầu đàn ông thò vào cửa sổ, nhễu nước lã chã xuống con chó.

“Bao nhiêu?”

Bên này:

“Năm chục.”

“Ðắt thế, gái Sài Gòn còn chả tới nữa là…”

“Thế muốn bao nhiêu?”

“Hai chục…?”

“Thanh toán trước đi!”

“Gì mà vội thế, chả ‘tình’ tí nào cả.”

“Sao? Có tiền không?”

“Lấy gạo nhé?”

“Gạo gì? Mậu dịch hay gạo mới?”

“Mới chia tiêu chuẩn tháng ở cơ quan về, chưa xem.”

“Gạo mậu dịch rồi, tính bao nhiêu?”

“Hai chục.”

“Ðắt quá, mà cũng không có cân nữa.”

“Mười tám đồng vậy, đong đại bằng ống sữa bò đi…”

“Ừ, thế cho tiện, cân mất công, gạo đi mua nặng ký… mà này, có trộn đá dăm vào không đấy?”

“Mang đèn ra mà soi.”

“Gạo này chỉ mười lăm đồng.”

”Ðong vun tay thế kia thành hai cân của người ta chứ còn gì…”

Một thằng nhóc chừng chín tuổi thình lình hiện ra như chui từ dưới đất lên, đứng mút tay nhìn cảnh đong gạo. Người đàn ông còn đang loay hoay cột lại cái bao của mình thì nó giật túi gạo nơi tay người đàn bà, chạy vụt ra cửa.

“Nấu cơm nhé, đừng nấu cháo… Nhớ để phần cho chị đấy.”

(Thế Giang. “Chỗ Nước Đọng”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa: Người Việt, 1987. 99-104)

Câu chuyện trên, tất nhiên, đã cũ. Thời sổ gạo và tem phiếu đã qua. Ngày 27 tháng 9 năm nay, tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ Tướng Việt Nam – ông Nguyễn Tấn Dũng – đã long trọng thông báo cho toàn thể nhân loại biết rằng:

“Từ một nước thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chúng tôi không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho riêng mình mà còn góp phần tích cực bảo đảm an ninh lương thực thế giới.”

Hai năm trước, báo Công an nhân dân (số ra ngày 20 tháng 7 năm 2011) cũng đã khẳng định tương tự: “Cái đói bị đẩy lùi xa tít tắp.”

Nói như vậy chắc là xa dữ lắm. Theo như tường trình của phóng viên Uyên Nguyên, RFA, hôm 22 tháng 5 năm 2013, cái đói đã bị đẩy tuốt luốt lên tới … những huyện miền núi ở tỉnh Thanh Hoá:

“Nhìn bữa ăn của gia đình người Thái Trắng này, nó cũng giồng như nhiều bữa ăn khác của những gia đình Thái Trắng khác mà chúng tôi gặp ở Mường Lát, Quan Hóa, Ngọc Lặc, Lang Chánh… Một nồi cơm độn sắn lát, một bát cà rừng và một chén mắm chuột để chấm cà, chúng tôi chỉ biết ứa nước mắt nhìn đồng loại nuốt cơm!”

Hoặc còn xa hơn nữa, “tít tắp” mãi đến tỉnh Hà Giang, như tâm sự (nghe được vào ngày 25 tháng 9 năm 2012) của cô phó hiệu trưởng Trần Thị Phúc:

“Học sinh ở đây nghèo lắm, nếu không xuống tận địa bàn chắc khó có thể hình dung hoàn cảnh của từng cháu. Có những em quanh năm chỉ mặc duy nhất một bộ quần áo, chưa từng biết đến đôi tất và thường xuyên phải ăn mèn mén thay cơm.”

Cái đói và chuyện ăn độn, bây giờ, chỉ còn quanh quẩn (quanh năm suốt tháng) ở những vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng thôi. Chứ còn ở miền xuôi, nói chung, ngay tại nông thôn người dân vẫn được ăn cơm, và ăn no.

Riêng tại Hà Nội hôm nay còn có những tách cà phê hay những tô phở trị giá (cỡ) … nửa triệu đồng! Câu thơ ngày xưa (Đảng còn kia bát phở hoá thành mơ) của Nguyễn Chí Thiện đã bị thời thế bỏ lại phía sau xa lơ, xa lắc. Uớc mơ của người dân Việt hôm nay, rõ ràng, đã vượt mức ăn/ mặc. Đã đến thời người dân đòi ăn/nói – như họ vừa dõng dạc Tuyên Bố Về Thực Thi Quyền Dân Sự và Chính Trị:

Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền.

Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền.

………..

Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc…

Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ …”

Điều đáng tiếc là những đòi hỏi thượng dẫn, xem ra, đều quá sức “chịu đựng” của chế độ hiện hành. Mâu thuẫn này khiến cho tình trạng xã hội Việt Nam xem ra có vẻ lôi thôi lắm, và e là sẽ còn lôi thôi lâu, cũng như (chắc chắn) sẽ lôi thôi lớn – trong tương lai gần.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức, trước khi trở thành một tù nhân lương tâm, đã bàn luận về tình huống lưỡng nan hiện tại như sau:

“Trung quốc và Việt Nam … không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ … Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này…”

Ông Trần Duy Thức bị bắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2009. Hơn ba năm đã trôi qua. Từ đó đến nay, cả đống nước sông (cùng nước suối, nước mưa, và nước mắt) đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống. Nhiều sự kiện đã xẩy ra khiến cho thái độ “kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này” của Hà Nội – chắc chắn – sẽ không thể kéo dài lâu nữa, ít nhất thì nó cũng không thể lâu bằng bản án 16 năm tù mà chế độ này đã dành cho ông.

Câu hỏi đặt ra người Việt sẽ làm gì sau đó, sau khi những kẻ cầm quyền hiện tại buộc phải buông tay hay thay đổi? Tương lai thường không tốt đẹp, hay sáng sủa gì cho lắm, đối với những ai không sẵn sàng để chờ đón nó.

Tưởng Năng Tiến

LỜI KINH TUYỆT VỜI

LỜI KINH TUYỆT VỜI

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

Trích EPHATA 582

Phụng Vụ bước vào Tháng Mai Khôi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của Dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng Chuỗi Mai Khôi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mai Khôi.

Tràng hạt Mai Khôi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay”, “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mai Khôi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới Sự Sống thiêng liêng.

Chuỗi Mai Khôi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mai Khôi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Mẹ Maria. Bằng chuỗi Mai Khôi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

1. Kinh Mai Khôi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mai Khôi thật cao quý, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mai Khôi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, Thánh Đa Minh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Hội Thánh.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mai Khôi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mai Khôi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công Giáo. Cùng với việc triệu tập Đạo Quân Thánh Giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V ( 1504 – 1572 ) kêu gọi mọi người siêng năng lần Chuỗi Mai Khôi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công Giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi Giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo Hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong Giáo Triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 7 tháng 10. Đức Giáo Hoàng đã thiết lập Lễ Mai Khôi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Hội Thánh bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm Tam Điểm. Nhà Thờ bị phá hủy, các Linh Mục và Tu Sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Hội Thánh. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mai Khôi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của Kinh Mai Khôi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mai Khôi. Chẳng hạn Kinh Mai Khôi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12.9.1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mai Khôi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức ( Lourdes ) hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mai Khôi.

Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêsa thành Calcutta ( 1910 – 1997 ) và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một Nữ Tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người Nữ Tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng đã yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người Nữ Tu từ từ rút xâu chuỗi ra khỏi túi áo Dòng và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người Công Giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người Nữ Tu.

Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: “Anh có thường lần chuỗi không ?” Anh trả lời: “Thưa không !” Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: “Vậy thì anh hãy bắt đầu lần chuỗi đi nhé !”

Ra khỏi phi trường, Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một Nữ Tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau: “Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị…” Mặc dù không phải là người Công Giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quý giá ấy.

Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ và chữa lành người khác.

Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: “Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu…”

Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi quý giá ấy. Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa thì cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: “Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác…”

2. Kinh Mai Khôi, một kho tàng quý giá của Hội Thánh

Chuỗi hạt Mai Khôi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính Mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” ( Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, Rosamrum Virginis Mariae, số 18 ).

Chuỗi Mai Khôi lần lượt diễn tả:

– Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập Thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mai Khôi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Hội Thánh.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 nói: “Chuỗi Mai Khôi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”

Đức Thánh Cha Lêô 13 ( 1810 – 1903 ) là vị Giáo Hoàng của Kinh Mai Khôi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mai Khôi. Ngài đã thiết lập Tháng Mai Khôi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: “Nữ Vương rất thánh Mai Khôi, cầu cho chúng con.”

Đức Thánh Cha Piô 10 ( 1835 – 1914 ) đã nhắn nhủ các gia đình Công Giáo: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối… Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mai Khôi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mai Khôi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mai Khôi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.

Thánh Piô Năm Dấu Thánh ( 1887 – 1968 ) chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mai Khôi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua Chuỗi Mai Khôi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần Chuỗi Mai Khôi”.

Cha Stefano Gobbi ( 1930 – 2011 ) viết: “Chuỗi Mai Khôi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mai Khôi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mai Khôi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.

Đức Thánh Cha Piô 9 ( 1792 – 1878 ) đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô 11 ( 1837 – 1959 ) viết: “Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi…”

Đức Thánh Cha Piô 12 ( 1876 – 1958 ) khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mai Khôi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mai Khôi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mai Khôi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám Mục: “Hãy yêu cầu các Linh Mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày”. Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Gioan 23 ( 1881 – 1963 ), ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mai Khôi.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 ( 1920 – 2005 ), ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mai Khôi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Elisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Hội Thánh cùng liên kết với những lời kinh ấy”.

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mai Khôi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua Kinh Mai Khôi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô 5 đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các Thánh Vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”

3. Kinh Mai Khôi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, trong Tông Thư “Kinh Mai Khôi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mai Khôi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Công Đồng Vatican 2 ( 1962 – 1965 ) khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mai Khôi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mai Khôi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mai Khôi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ( 1897 – 1978 ) khích lệ: “Bản chất việc đọc Kinh Mai Khôi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”

Điều thuận lợi của Chuỗi Mai Khôi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mai Khôi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mai Khôi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain ( 1882 – 1973 ) gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.

THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU

THỰC HÀNH KINH MAI KHÔI NHƯ MỘT PHÁP MÔN TU

PHÙNG VĂN HÓA, 2013

Trích EPHATA 582

Việc cầu nguyện nói chung và cầu nguyện bằng Kinh Mai Khôi nói riêng, có thể nói, đang gặp khủng hoảng. Có một nhận định như sau:

“Trong nguồn gốc của nó có nhiều lý do nhưng có thể tập trung chúng vào trong hai đặc thái sau đây. Thứ nhất là cuộc khủng hoảng của lời cầu nguyện sùng kính, trầm trọng vì sự tục hóa và các chủ thuyết nhân bản mới bị ý thức hóa. Thứ hai cuộc khủng hoảng lòng tôn sùng Mẹ Maria là bối cảnh sống còn tự nhiên của Kinh Mai Khôi.

Cuộc khủng hoảng còn đả thương Kinh Mai Khôi trong cấu trúc của nó là lời cầu nguyện thầm trong trí và đọc lớn tiếng bên ngoài. Trong cái khó khăn của việc suy ngắm và trong sự từ chối việc lập đi lập lại một lời kinh bị tố cáo là máy móc vô hồn, các khó khăn này có tầm nghiêm chỉnh của chúng và không thể trả lời với các kiểu nói quen thuộc được” ( Nguồn: Daobinhducme, Linh Tiến Khải, 26.8.2013, Tổng kết ý nghĩa Kinh Mai Khôi trong tình hình giáo lý sùng mộ và việc canh tân KMC hiện nay ).

Về hai… đặc thái nêu trên, ta thấy có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trước hết là việc cầu nguyện sùng kính sở dĩ khủng hoảng là vì trong thời tục hóa này, người ta không biết phải cầu nguyện với Đấng nào. Hơn nữa Đấng ấy có thực hay không để mà cầu ? Tiếp đến là lòng tôn sùng Mẹ Maria, bởi không biết cầu với Đấng nào, thế nên vai trò của Đức Mẹ đương nhiên cũng trở thành vô nghĩa. Đang khi đó, ngay từ thuở sơ khai, Giáo Hội việc khẩn cầu với Đức Maria đã được các tín hữu thành Ephêsô hết lòng tuyên xưng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội” ( Xem Lm. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo Hội Công Giáo ).

Lời khẩn cầu của các tín hữu xin Đức Maria làm Đấng Cầu bầu cho mình quả thật là ơn soi sáng của Thánh Thần, và từ đó, lời cầu này vẫn được thực hiện cách liên tục qua tràng chuỗi Mai Khôi. Như ai nấy đều biết trong tràng chuỗi Mai Khôi, Kinh Kính Mừng bao giờ cũng gắn liền với lời cầu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”. Có thể nói đọc Kinh Mai Khôi mà không có lời này đi kèm thì chẳng phải là Kinh Mai Khôi ! Lý do bởi vì toàn bộ Kinh Mai Khôi chính là lời cầu của Đức Mẹ dâng lên Thiên Chúa. Cầu nguyện với Thiên Chúa thì phải cho xứng đáng, thế nhưng con người tự sức mình không thể làm được điều này. “Cũng một lẽ ấy Thánh Linh giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết thế nào để cầu nguyện cho xứng đáng, nhưng chính Thánh Linh lấy sự than thở không thể nói ra được mà cầu thay cho chúng ta” ( Rm 8, 26 ).

Có Đức Mẹ cầu thay, việc cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng. Ấy vậy mà nay trong cái gọi là “Canh Tân Kinh Mai Khôi”, người ta đã gạt bỏ đi sự cầu thay vô cùng cần thiết ấy. “Nhiều nơi bên cạnh kiểu lần hạt Mai Khôi truyền thống, vì các lo lắng mục vụ, người ta cũng đã bắt đầu các hình thức lần hạt Mai Khôi khác, có mục đích chính xác là dành ưu tiên cho sức mạnh của Kinh Mai Khôi và cho thấy rõ ràng quyền năng định đoạt của chính nó. Chẳng hạn trong các hình thức mới này có việc đọc các văn bản Kinh Thánh liên quan tới các mầu nhiệm suy gẫm. Nghĩa là không chỉ tóm tắt mầu nhiệm mà đọc chính bản văn Kinh Thánh trình bày mầu nhiệm đó.

Thế rồi việc đọc Kinh Kính Mừng được rút ngắn chỉ giữ lại phần đầu tức là Thiên Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ mà thôi. Còn phần hai của Kinh Kính Mừng chỉ được đọc vào cuối chục kinh để nhấn mạnh vẻ đẹp của lời khẩn cầu luôn luôn diễn tả lòng sùng mộ của Giáo Hội đối với Đức Trinh Nữ và là lời khẩn nài tín hữu dâng lên Mẹ sau khi đã suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa” ( Nguồn: Linh Tiến Khải ngày 26.8.2013, bài đã dẫn ).

Do bởi ảnh hưởng của duy lý, thế nên ngay đến cả kinh nguyện cũng đem ra suy. Thay cho các ngắm thì lại… suy, và việc suy ấy là suy niệm về Thánh Kinh. Có nơi sau mỗi chục kinh người ta đọc lên một đoạn Kinh Thánh để suy về ý nghĩa Lời Chúa. Có nơi thì bỏ cả việc lần hạt, ấy vậy mà cũng cứ gọi là… nhóm lần hạt. “Tôi tới tham dự với một nhóm, điều làm tôi xúc động sâu xa là những phút thinh lặng rất đặc biệt. Việc cầu nguyện kéo dài khoảng một giờ. Phong trào gửi cho mỗi nhóm một cuốn sách nhỏ ghi đoạn Phúc Âm liên quan đến mỗi nhóm. Đầu tiên đọc Kinh Chúa Thánh Thần rồi một người trưởng nhóm giải thích. Thỉnh thoảng thinh lặng để mọi người đi sâu vào nội dung” ( Tu Sĩ André Sève, Cầu nguyện hôm nay ).

Bỏ hẳn lần hạt, điều ấy chẳng còn gì để nói, nhưng ngay cả việc đọc Kinh Thánh sau mỗi chục kinh cũng khiến cho toàn bộ cấu trúc của kinh này thay đổi, biến dạng, chẳng còn gì là Kinh Mai Khôi truyền thống nữa.

Trong tất cả những lần Đức Mẹ hiện ra, lần nào Ngài cũng hằng khuyên nhủ con cái phải siêng năng lần hạt. Điều ấy hơn ai hết Đức Mẹ hiểu rõ giá trị của Kinh Mai Khôi là ở chỗ nào. Mặt khác cũng vì thực hiện lời khuyên dạy của Đức Mẹ mà chị Bernadette ( Lộ Đức ), các em Lucia, Jacinta, Francisco ( Fatima ) v.v… đã gặt hái được biết bao là ân sủng của Thiên Chúa. Vậy thử hỏi những thụ nhân ấy có suy, có đọc Kinh Thánh trong khi lần chuỗi hay không ? Lại nữa, toàn thể các Thánh, đã không ngớt ca ngợi giá trị vô song của Kinh này, chẳng hạn như Thánh Piô Năm Dấu ( Padreo Pio ) lần cả trăm chuỗi mỗi ngày, vậy các ngài có suy niệm Kinh Thánh gì không ?

Đọc Kinh Mai Khôi là cùng cầu nguyện với Đức Mẹ chứ không phải để suy ngắm mầu nhiệm cuộc đời của Chúa. Quả thật, Kinh Mai Khôi là một phép ngắm nhưng phép ngắm ấy không phải là suy ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu hiểu như một thứ hành vi của lý trí suy luận, nhưng là ngắm về bốn mầu nhiệm Vui Thương Mừng Sáng. Trước đây mỗi khi lần chuỗi, người xướng thường là ông bà quản, bao giờ cũng đọc câu này như một công thức “Phép lần hạt ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng…”

Kinh Mai Khôi được gọi là phép lần hạt, vậy thì “phép” ở đây chính là phương pháp, là pháp môn và hễ là pháp môn thì chỉ có thể là pháp môn tu.

Sở dĩ Kinh Mai Khôi rơi vào khủng khoảng không lối thoát là vì người ta đã không thực hành kinh này như là một phương pháp tu tập. Phép tu này vừa dễ thực hành lại vừa bảo đảm phần rỗi như lời Thánh Louis Marie Grignion de Montfort quả quyết: “Chúng tôi nhận thấy những người hư thân mất nết, lạc đạo kiêu căng thường tỏ thái độ khinh chê Kinh Mai Khôi. Trái lại những người có dấu hiệu tiền định nên Thánh hoặc được rỗi linh hồn thì thường tôn kính Kinh Mai Khôi và có lòng kính mến Đức Mẹ” ( Nguồn: Thành Thực Sùng Kính Mẹ ).

I. Kinh Mai Khôi, một phép tu

Thánh Đa Minh, người được Đức Mẹ trao sứ mạng truyền bá Kinh Mai Khôi đã quả quyết “Không có cách cầu nguyện nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria cho bằng đọc Kinh Mai Khôi cách sốt sắng”. Để việc thực hành Kinh Mai Khôi đem lại ơn ích lớn lao thì phải đọc cách sốt sắng.

Tuy nhiên làm sao để đọc cách sốt sắng thì đó là cả một vấn đề. Lý do bởi vì việc cầu nguyện nói chung là rất khó: “Vì chúng ta chẳng biết thế nào là cầu nguyện cho xứng đáng” ( Rm 8, 26 ). Muốn cầu nguyện cách xứng đáng thì phải tuân theo lời dạy của Chúa Kitô: “Còn ngươi, khi cầu nguyện hãy vào phòng kín đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật, và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” ( Mt 6, 6 ).

Lời Chúa cho thấy cầu nguyện đích thực là phải xoay cái tâm vào bên trong mà cầu, bởi vì Thiên Chúa không ngự ở một nơi nào khác ngoài tâm hồn mình. Sở dĩ Thánh Đa Minh hết lời ca ngợi Kinh Mai Khôi là cách cầu nguyện tốt nhất bởi vì đó là phương pháp xoay cái nghe trở vào bên trong để nhận ra Bản Tính Con Thiên Chúa ở nơi mình ( Phản Văn Văn Tự Tánh ). Văn là nghe, còn phản văn là xoay cái tâm trở vào bên trong.

Về cách nghe rất chi là quan hệ, bởi vậy Chúa nói: “Hãy coi chừng về cách các ngươi nghe. Vì hễ ai có thì cho thêm. Còn ai không có thì dẫu điều họ tưởng mình có cũng sẽ bị cất đi luôn nữa” ( Lc 8, 18 ). Cách nghe Chúa nói đây là nghe với cái tâm vô phân biệt. Ai có, tức là có cách nghe với tâm vô phân biệt thì sẽ cho thêm, tức là ngày càng nhận biết Chúa ở nơi mình. Trái lại, nếu cứ nghe với tâm phân biệt thì cái mà họ tưởng là có như là sự khôn ngoan thông thái rồi có ngày cũng sẽ bị mất hết. Kinh Mai Khôi là một phương pháp cầu nguyện tối hảo bởi đó là cái nghe xoay cái tâm trở vào bên trong.

Phải chăng chính là vì kinh này là một phép nghe, thế nên ngoài các danh từ Mai Khôi, Mai Khôi nó còn mang một tên khác là Văn Côi ? Trong sách kinh xưa của các địa phận Hải Phòng, Bùi Chu, Thái Bình vẫn gọi là Kinh Văn Côi cùng với câu công thức mà các ông bà quản giáo vẫn xướng lên trước khi lần hạt: “Phép lần hạt Văn Côi ngắm tắt năm sự Vui, hoặc Thương, hoặc Mừng.”

Bởi Kinh Mai Khôi là một phép nghe với tâm vô phân biệt, thế nên cộng đoàn hay cá nhân cũng phải áp dụng cách nghe này. Khi cùng với cộng đoàn tại Nhà Thờ hay gia đình, dĩ nhiên phải đọc ra tiếng, một bên xướng, một bên thưa. Bên xướng đọc “Kính Mừng…”, còn bên thưa đọc “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…” Khi bên xướng đọc thì bên thưa phải im lặng để lắng nghe từng lời kinh, không chia lòng chia trí, còn nếu chia trí thì phải lập tức trở lại ngay với lời kinh. Nếu người nào cứ cố tình chia trí thì không thể nào có thể tiếp tục đọc mà không nhầm lẫn về hạt, về thứ, về mùa được.

Có nghe Kinh với tâm vô phân biệt ( không chia lòng chia trí ) như thế thì Lời Chúa mới ở lại ( An Trú ) trong tâm mình và đây là điều mà Chúa Giêsu nói “Ai có sẽ được cho thêm” là vậy.

Lời Chúa là Lời Hằng Sống cho nên việc nghe Lời Chúa không thể chỉ diễn ra trong Nhà Thờ bằng việc đọc kinh nhưng cần phải ở khắp mọi nơi, mọi thời. Để Lời Chúa có thể thấm nhập tâm hồn mọi nơi mọi thời thì cố nhiên cần phải có thực hành cá nhân. Nếu chỉ đọc kinh lần hạt cùng với cộng đoàn mà cá nhân không đọc thì chẳng gặt hái được mấy ơn ích. Tại sao ? Bởi vì khi đọc chung cùng với cộng đoàn thì có thể chúng ta có thể ỷ lại để rồi cứ mặc tình chia trí mà không hề biết. Ngược lại, chỉ những khi một mình thì ta mới được đối diện với Chúa và đây cũng chính là ý nghĩa mà Chúa Giêsu nói đến trong việc cầu nguyện: “Khi các ngươi cầu nguyện thì hãy vào phòng đóng kín cửa lại…” Cửa ám chỉ cho sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đóng kín cửa lại có nghĩa là không phóng tâm ra bên ngoài nơi ngoại vật…

Trở ngại lớn nhất nhưng đồng thời cũng đem lại ơn ích lớn lao nhất đó là sự chia lòng chia trí trong khi thực hành Kinh Mai Khôi. Những ai siêng năng lần hạt mới thấy được sự chia trí nhiều như thế nào. Mặc dầu chia trí là điều không sao tránh khỏi, nhưng nếu biết ngay đó là chia trí, bèn quay về với lời kinh để tiếp tục lần hạt thì lại có ơn ích, và ơn ích này là do ý chí ta thuận phục Thánh ý Thiên Chúa. Nhà Thiền có câu “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì ( Chẳng sợ lòng tham, lòng giận khởi chỉ cần nhận biết nó ). Lòng tham sân khởi lên trong khi lần chuỗi thực chất của nó chỉ là vọng tưởng. Nhận biết đó là vọng thì vọng ấy liền tiêu.

Thế nhưng vọng này tiêu thì vọng khác lại khởi liên tu bất tận. Chính vì vọng khởi không ngớt như vậy mà lực quán sát của người tu ngày càng thêm đắc lực. Sự quán sát ấy chính là ý nghĩa của việc Ngắm trong Kinh Mai Khôi. Ngắm ở đây không phải là cái nhìn của mắt nhưng là của tâm. Để có cái nhìn của tâm thì cần phải có phương pháp dựa trên hai phương diện chủ và khách. Chủ ở đây là lời kinh, còn khách là những vọng tưởng ( chia lòng chia trí ). Sở dĩ vọng tưởng khởi biết là vọng là nhờ có lực mạnh mẽ sáng suốt của Lời Chúa. “Lời Đức Chúa Trời là Lời Hằng Sống, linh động sắc hơn mọi gươm hai lưỡi, đâm thấu đến nỗi chia hồn linh khớp tủy. Biện biệt tư tưởng và ý định của lòng người” ( Dt 4, 12 ).

Vọng tưởng tức là những ý tưởng tham lam, ganh ghét, giận hờn, đam mê, tranh đấu… Một khi chúng đã được nhận biết thì không còn tác dụng gì tới đời sống của ta nữa. Con người sở dĩ có những hành vi xấu xa ác độc là vì đã chấp chứa ở nơi mình những tư tưởng xấu ( chúng ác tưởng ). Trái lại, một khi không còn những tư tưởng xấu ác ấy thì sao có thể làm ác được ? Làm ác thì phải chịu quả báo ác, không thể tránh thoát ?

Kinh Mai Khôi là một phương pháp tu tập khiến cho tư tưởng ác ngày càng tiêu trừ đồng thời phát triển tư tưởng lành. Hành động nào cũng do nơi tư tưởng, chứa chấp tư tưởng ác sẽ hành động ác mà hành động ác tất sẽ phải khổ, khổ cả đời này lẫn đời sau vô cùng. Đức Mẹ ân cần khuyên bảo chúng ta hãy siêng năng thực hành Kinh Mai Khôi bởi vì đó là phương pháp thoát khổ bảo đảm chắc chắn nhất.

II. Nghe để thoát khổ

Lời nói nào gợi cảm giác đó, lời lành gợi cảm giác lành, lời ác gợi cảm giác ác. Nghe một bản nhạc cải lương não nề ai oán khiến tâm ta cũng phải buồn bã ủ ê. Ngược lại, nghe một bản hùng ca khiến lòng ta thêm phấn chấn. Lời nói là hình tướng của tư tưởng, nói cách khác, từ ở nơi tâm mà phát ra lời nói. Tâm ác thì phát ra lời nói ác. Tâm thiện thì phát ra lời nói thiện. “Người thiện do lòng chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do lòng chứa ác mà phát ra điều ác. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” ( Lc 6, 45 ).

Nói đến chất chứa thì hẳn nhiên là phải có cái nơi để chất chứa và nơi ấy được ví như một cái kho. Duy Thức Học gọi cái kho đó là Tạng Tâm ( tàng là cái kho ). Tạng tâm là nơi con người chất chứa tất cả những gì mình đã làm đã nghe đã thấy và đã nghĩ tưởng, gọi là Nghiệp. Tạng Tâm người nào thì chất chứa nghiệp của người đó. Nghiệp tạo thành là do chất chứa, người làm nông là do chất chứa những kiến thức kinh nghiệm về nghề nông. Người làm nghề dạy học là do chất chứa kiến thức về sư phạm. Bác sĩ, kỹ sư v.v… cũng vậy.

Cùng một lẽ ấy sự chất chứa trong lãnh vực tâm linh cũng không khác. Có chất chứa những điều lành thánh mới được nên Thánh. Trái lại cứ mãi chất chứa toàn là những điều dối trá tham lam, ganh ghét, hận thù thì không thể tránh khỏi đọa vào ác đạo. Chất chứa điều thiện sẽ được quả thiện lành, chất chứa điều ác sẽ phải chịu quả ác. Sự chất chứa ấy chính là nhân, nhân nào thì quả nấy, không mảy may sai chạy dù chỉ một hào ly.

Tôn giáo hoàn toàn không phải là Triết Học nhưng là con đường tạo lập nhân lành để được hưởng quả lành. Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập với mục đích tạo cho con người một thứ nhân lành tuyệt hảo bằng cách lắng nghe Danh Thánh Chúa từ trong tâm tưởng. Người đời coi thường Danh – Sắc ( Tên gọi và Hình Tướng ) thế nhưng đây là điều vô cùng quan hệ đến đời sống hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người.

Do bởi không biết được tính chất quan hệ của Danh Sắc như thế nên con người ngày nay hầu như ngày nào cũng dán mắt vào TV, xem hết phim Hàn, phim Tàu, lại đến phim Mỹ, ngồi lê đôi mách, nấu cháo điện thoại cả ngày không chán, đọc hết báo in lại đến báo điện tử, đầu óc tràn ngập đủ thứ tin tức quốc nội, quốc tế. Những người như thế chẳng qua chỉ là nạn nhân của những trò lừa bịp của quảng cáo đủ loại mà không biết !

Kinh Mai Khôi do Đức Mẹ tạo lập có mục đích cho ta xoay cái tâm trở vào bên trong để lắng nghe Tiếng Chúa và Tiếng Chúa ấy chỉ có thể nghe được cùng với Danh Thánh Chúa Giêsu. Cần phải ghi khắc ( chất chứa ) Danh Thánh Giêsu ở nơi tâm khảm để tạo cho mình một sức mạnh vô địch: “Nghe Danh Giêsu cả trên trời dưới đất và âm phủ đều phải quỳ gối” ( Pl 2, 10 ). Sở dĩ Danh Thánh có sức mạnh lớn lao như thế là vì đó là Danh của Đấng Cứu Độ, Ngài đã hiến cả mạng sống mình để làm giá cứu chuộc muôn người. Mặc dầu vậy Danh Thánh Giêsu chỉ có thể trở nên sức mạnh khi nào ta tạo lập được ở nơi tâm của chính ta. Chỉ khi ấy Danh Thánh mới có sức mạnh hầu chiến thắng thế gian xác thịt ma quỷ tức là những ác tưởng mà mình đã chất chứa từ bao đời bao kiếp.

Kinh Mai Khôi chính là phương pháp hữu hiệu nhất để cho ta có thể tạo lập Danh Thánh Giêsu ở nơi mình bằng cách lắng nghe Lời Chúa là lời chân lý. Sự lập đi lập lại Kinh Kính Mừng cùng với lời cầu bầu của Đức Mẹ đó là cách tốt nhất để chiến thắng tội lỗi khi nó vừa mới thoạt khởi trong tâm ta. Khi tư tưởng tham vừa khởi biết nó là tội, bèn xả bỏ ngay thì không bao giờ có hành động tham, mà đã không có hành động tham thì không phải khổ vì tham.

Tuy nhiên để việc thực hành Kinh Mai Khôi tạo được lực mạnh mẽ ở nơi tâm như thế thì phải có đường lối tu tập theo chính pháp có nghĩa phải sống trong ơn nghĩa Chúa: Yêu mến Chúa và vâng giữ lời Ngài “Ai yêu mến Thầy thì vâng giữ lời Thầy…”

PHÙNG VĂN HÓA, 2013

Trung Quốc huy động 2 triệu người theo dõi và kiểm duyệt internet

Trung Quốc huy động 2 triệu người theo dõi và kiểm duyệt internet

Hệ thống theo dõi và kiểm duyệt internet ở Trung Quốc bao gồm 2 triệu người

Hệ thống theo dõi và kiểm duyệt internet ở Trung Quốc bao gồm 2 triệu người

REUTERS/Carlos Barria/File

Đức Tâm

RFI

Báo chí chính thức Trung Quốc vừa có những tiết lộ về đội quân tin học của Bắc Kinh : Hệ thống theo dõi và kiểm duyệt internet bao gồm 2 triệu người.

Đây là thông tin của tờ Tin tức Bắc Kinh, số ngày 03/10/2013, theo đó, một bộ phận lớn trong số khoảng 2 triệu nhân viên, có một phần mềm tin học, dựa trên các từ khóa, cho phép kiểm duyệt một khối lượng khổng lồ những trao đổi thông tin trên các mạng xã hội Trung Quốc. Con số chính xác các nhân viên làm công tác kiểm duyệt internet tại Trung Quốc là một bí mật quốc gia.

Báo Tin tức Bắc Kinh nhấn mạnh, nguồn tài chính trả lương « cảnh sát mạng » đến từ các cơ quan tuyên huấn của chính phủ, đảng Cộng sản và các websites thương mại. Mặc dù có tới 2 triệu người, lực lượng kiểm duyệt này vẫn không thể ngăn chặn các thông tin hay những bình luận mà chính quyền không mong muốn, được đăng tải, phổ biến trên internet.

Nhật báo trích dẫn một nhân chứng hiện đang làm công việc kiểm duyệt. Người này không chấp nhận bị coi là « mật vụ trên mạng » và giải thích rằng công việc của ông là theo dõi và có được những thông tin liên quan đến các khách hàng. Website của Nhân Dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, sẽ tổ chức, từ ngày 14 đến 18/10, một khóa đào tạo cho các « nhà phân tích công luận ». Bộ Nguồn nhân lực và bảo hiểm xã hội cùng tham gia sáng kiến này.

Nhằm tăng cường theo dõi và kiểm duyệt internet, vừa qua, chính quyền Trung Quốc đã ban hành một chỉ thị, theo đó, chủ nhân blog có thái độ phê phán chính quyền sẽ bị phạt hoặc bỏ tù nếu có quá 5000 người vào xem. Hoặc cư dân mạng nào là tác giả một thông tin bị coi là xuyên tạc và thông tin này được đăng lại hơn 500 lần trên mạng, thì có thể bị ngồi tù tới 3 năm. Nhiều blogger trong số này có những người rất nổi tiếng đã bị câu lưu thẩm vấn trong thời gian qua, với tội danh bịa đặt và lưu truyền tin đồn.

Mặt khác, Trung Quốc còn có một lực lượng rất hùng hậu « bình luận viên trên mạng », bí mật phát tán, tuyên truyền tư tưởng của đảng cầm quyền.

Ðức Giáo Hoàng thăm làng Assisi của vị thánh cùng tên

Ðức Giáo Hoàng thăm làng Assisi của vị thánh cùng tên
October 04, 2013

nguoi-viet.com

ASSISI, Ý (NV) Ðức Giáo Hoàng Francis hôm Thứ Sáu đến viếng thị trấn Assisi, nơi ra đời của vị thánh cùng tên là St Francis. Theo NBC, vị thánh người Ý này lúc sinh thời, từng từ bỏ nếp sống giàu sang, để sống và cầu nguyện cùng với người nghèo khó vào đầu thế kỷ thứ 13.

Ðức Giáo Hoàng đi theo bước chân của Thánh Francis, và có khi dừng lại để ban phép lành cho trẻ em tàn tật, cũng như ăn tối với người nghèo.



Ðức Giáo Hoàng Francis (giữa) trong Thánh Ðường St. Mary of the Angels Basilica, Assisi, Ý. (Hình: AP Photo/Alessandra Tarantino)


Phát biểu tại địa điểm, nơi người ta tin là Thánh Francis đã từng vứt bỏ áo quần đắt tiền, để chứng tỏ đức khiêm cung và tôn kính đối với Thiên Chúa, Ðức Giáo Hoàng kêu gọi giáo hội hãy “cởi bỏ những gì thuộc trần tục nơi chúng ta,” mà theo ngài, là những thứ đã đưa chúng ta đến lòng tự cao tự đại, cuộc sống xa hoa phù phiếm, là “những thứ ung thư của xã hội, và là kẻ thù của Thiên Chúa.”

Ðức Giáo Hoàng cũng đề cập đến vụ đắm tàu hôm Thứ Năm, ở ngoài khơi nước Ý, khiến ít nhất 111 di dân thiệt mạng, khi trên đường từ Bắc Phi tìm cách vượt qua Ðịa Trung Hải.

Ngài nói: “Ðây là một thế giới cuồng điên. Có vẻ như người ta không quan tâm gì đến những người đi trốn nghèo khó, nô lệ, để tìm đến tự do. Hôm nay là ngày mà chúng ta nên khóc để chia sẻ nỗi đau đó.”

Từ khi lên chức Giáo Hoàng hồi Tháng Ba, Ðức Giáo Hoàng Francis đã tỏ rõ quan điểm của mình, qua phỏng vấn, trước đám đông, và qua hành động, rằng hãy thực hành đức khiêm cung, và nhẫn nhục, như lời thuyết giảng của Thánh Francis. (TP)

Một người tự thiêu tại công viên trước Quốc hội Mỹ

Một người tự thiêu tại công viên trước Quốc hội Mỹ

Các nhân viên công lực tại hiện trường nơi một người đàn ông nổi lửa tự thiêu (4/10/2013).

Các nhân viên công lực tại hiện trường nơi một người đàn ông nổi lửa tự thiêu (4/10/2013).

Ðịa điểm

1239-1259 16th Street Northwest, Washington, DC 20036, USA

05.10.2013

Các giới chức cứu hỏa ở thủ đô Washington của Mỹ cho biết một người đàn ông đang được chữa trị những thương tích nguy hiểm tới tính mạng sau khi tìm cách tự thiêu tại công viên trước trụ sở quốc hội.

Những người mục kích nói rằng người đàn ông này tự tưới xăng lên người rồi châm lửa tự thiêu tại một nơi cách trụ sở quốc hội vài khu phố, gần nơi mà cảnh sát đã bắn chết một phụ nữ sau một cuộc rượt đuổi bằng xe hôm thứ năm, tức mới một ngày trước đó.

Một phụ nữ chạy bộ gần đó cho đài VOA biết rằng nhiều người đi qua đó đã vội vàng cởi áo để dập tắt ngọn lửa. Bà nói rằng người đàn ông tự thiêu đã cám ơn những người giúp ông dập tắt ngọn lửa.

Cảnh sát chưa cho biết động cơ của vụ tự thiêu và lai lịch của người này.

Chủ tịch Hạ viện Mỹ đối mặt với nhiều áp lực vì vụ chính phủ đóng cửa

Chủ tịch Hạ viện Mỹ đối mặt với nhiều áp lực vì vụ chính phủ đóng cửa

Các cuộc thăm dò cho thấy ngày càng có nhiều người Mỹ đổ lỗi cho Đảng Cộng hòa về việc chính phủ đóng cửa. Trong những ngày gần đây, mọi sự chú ý phần lớn dồn vào Dân biểu John Boehner, lãnh tụ phe Cộng hòa đa số ở Hạ viện.

Các cuộc thăm dò cho thấy ngày càng có nhiều người Mỹ đổ lỗi cho Đảng Cộng hòa về việc chính phủ đóng cửa. Trong những ngày gần đây, mọi sự chú ý phần lớn dồn vào Dân biểu John Boehner, lãnh tụ phe Cộng hòa đa số ở Hạ viện.

04.10.2013

Giới hạn trần nợ của Mỹ

– Là tổng số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay mượn để làm tròn các nghĩa vụ pháp lý hiện thời.
– Những nghĩa vụ này gồm An sinh xã hội, chương trình bảo hiểm xã hội Medicare, tiền lương quân đội, lãi suất nợ quốc gia, tiền thuế hoàn lại.
– Nâng giới hạn trần nợ không cho phép những khoản cam kết chi tiêu mới.
– Không nâng giới hạn trần nợ sẽ khiến chính phủ mất khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý
-Từ năm 1960, Quốc hội đã nâng giới hạn trần nợ 78 lần.

Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ

Tình trạng bế tắc tiếp diễn giữa phe Cộng hòa và Dân chủ tại Quốc hội Hoa Kỳ hiện làm dấy lên mối quan ngại rằng hai đảng đối nghịch có thể không đạt đồng thuận về việc nâng mức trần nợ vào giữa tháng 10, và điều đó sẽ khiến chính phủ bị vỡ nợ. Cả Bộ Tài chính Mỹ và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đều kêu gọi các nhà lập pháp nhanh chóng chấm dứt cuộc khủng hoảng về ngân sách để tránh gây tổn hại tới nền kinh tế toàn cầu. Theo tường thuật của thông tín viên Zlatica Hoke của đài VOA, Chủ tịch Hạ viện Mỹ đang đối mặt với nhiều áp lực đòi ông hành động để chấm dứt cuộc khủng hoảng.

Các cuộc thăm dò cho thấy ngày càng có nhiều người Mỹ đổ lỗi cho Đảng Cộng hòa về việc chính phủ đóng cửa. Trong những ngày gần đây, mọi sự chú ý phần lớn dồn vào một nhà lập pháp, đó là Dân biểu John Boehner, lãnh tụ phe Cộng hòa đa số ở Hạ viện.

Trong cương vị chủ tịch Hạ viện, ông Boehner đã chặn một cuộc bỏ phiếu về dự luật ngân sách tạm thời mà lẽ ra đã giữ chi tiêu ở mức hiện thời. Tất cả các đảng viên Dân chủ và một số đảng viên Cộng hòa ủng hộ dự luật.

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chỉ trích ông Boehner hôm qua trong khi phát biểu trước một nhóm công nhân xây dựng ở ngoại ô thủ đô Washington.

“Hiện có đủ đảng viên Cộng hòa và Dân chủ tại Hạ viện mà nếu Chủ tịch Hạ viện John Boehner chỉ đưa dự luật ra bỏ phiếu thì mọi dân biểu sẽ bỏ phiếu bằng chính lương tâm của họ, và việc đóng cửa sẽ chấm dứt ngày hôm nay”.

Chính phủ đóng cửa ảnh hưởng ra sao đến các dịch vụ?

  • Khoảng 800 ngàn công chức liên bang sẽ phải nghỉ việc không lương.
  • 1 triệu 400 ngàn nhân viên quân đội hiện dịch sẽ tiếp tục thi hành nhiệm vụ, nhưng có thể phải lãnh lương trễ.
  • NASA sẽ cho nghỉ việc gần như toàn bộ nhân viên.
  • Các nhân viên kiểm soát không lưu và kiểm tra hành khách sẽ tiếp tục công tác.
  • Các toà án liên bang sẽ tiếp tục hoạt động.
  • Sẽ tiếp tục giao thư tín vì Sở Bưu chính Hoa Kỳ không được tài trợ bởi tiền thuế.
  • Phần lớn nhân viên của Bộ An ninh Nội địa sẽ tiếp tục làm việc.
  • Phần lớn các dịch vụ dành cho cựu chiến binh sẽ tiếp tục vì đã nhận tiền tài trợ từ trước.
  • Các Công viên quốc gia và các viện bảo tàng Smithsonian sẽ đóng cửa.

Cho tới giờ này, ông Boehner vẫn từ chối cho phép bỏ phiếu về một ngân khoản tạm thời, có thể giúp 800 nghìn nhân viên chính phủ liên bang trở lại làm việc. Các chuyên gia chính trị dẫn hai lý do để giải thích hành động này: Một là ông Boehner sẽ mất sự ủng hộ của nhóm bảo thủ và có lẽ là cả vị trí chủ tịch, và một điều khác là sức mạnh của ông sẽ giảm đi khi ông thương lượng với phe Dân chủ về ngân sách mới của Mỹ.

Trong khi đó, phe Cộng hòa chỉ trích Thượng viện do đảng Dân chủ nắm giữ đã bác bỏ ý tưởng tiếp tục cấp quỹ cho một số cơ quan và chương trình như việc chữa trị ung thư cho trẻ em tại Viện Y tế Quốc gia.

Hôm qua, một nhóm các đảng viên Cộng hòa đã tìm cách thu hút sự chú ý đối với những khó khăn mà việc thiếu ngân sách gây ra cho chương trình đó. Renee Ellmers, một đảng viên Cộng hòa đại diện tiểu bang North Carolina và một cựu nhân viên y tá, đã say sưa nói thay cho các em bị bệnh ung thư và gia đình của các em.

“Nếu ta từng chứng kiến vẻ mặt của một người cha, người mẹ khi họ được thông báo rằng con họ bị ung thư và rồi ta tước đi hy vọng của họ, ngay khi họ biết rằng họ vẫn còn hy vọng”.

Theo một ước tính, việc đóng cửa một phần chính phủ liên bang đã làm thất thu kinh tế ít nhất 300 triệu đôla mỗi ngày, và sự thất thu đó sẽ còn tăng.

Tổng giám đốc IMF Christine Lagarde hôm qua cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng ngân sách của Mỹ cũng có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu.

“Những bất ổn tiếp diễn về chính trị xoay quanh ngân sách, mức trần nợ, không giúp ích gì. Việc đóng cửa chính phủ đã quá tệ hại. Nhưng việc không thể nâng mức trần nợ còn xấu hơn nhiều và sẽ gây tổn hại hết sức nghiêm trọng không chỉ với kinh tế Mỹ mà cả kinh tế toàn cầu nữa”.

Hoa Kỳ phải nâng mức trần nợ vào ngày 17/10 để tránh bị vỡ nợ.

ASSISI, QUÊ HƯƠNG THÁNH PHANXICÔ

ASSISI, QUÊ HƯƠNG THÁNH PHANXICÔ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

10/2/2013

Phòng Báo Chí Tòa Thánh công bố chương trình chi tiết chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Assisi ngày 4 tháng 10. Trong dịp này, Đức Thánh Cha sẽ đến viếng mộ Thánh Phanxicô và mộ Thánh Clara. Ngài cũng sẽ gặp những người nghèo và giới trẻ.Vào lúc 7 giờ sáng, máy bay trực thăng chở Đức

Thánh Cha rời Roma và đáp xuống sân vận động của Trung tâm Thánh Phanxicô tại Assisi lúc 7g45. Tại đây Đức Thánh Cha sẽ gặp các bệnh nhi và trẻ khuyết tật. Sau đó ngài đến viếng Đền thánh San Damiano vào lúc 8g45. San Damiano là ngôi nhà nguyện nhỏ được Thánh Phanxicô trùng tu. Sau đó Đức Thánh Cha đến Toà giám mục gặp những người nghèo được Caritas trợ giúp.Tiếp theo, Đức Thánh Cha đến Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô. Tại đây Đức Thánh Cha xuống khu hầm mộ để viếng mộ Thánh Phanxicô.Lúc 11g00, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh Lễ tại Quảng trường Thánh Phanxicô Assisi, sau đó đến Trung tâm tiếp nhận của Caritas, để dùng bữa ăn trưa với những người nghèo.Sau khi ăn trưa, Đức Thánh Cha đến thăm Tu viện Carceri và cầu nguyện trong căn phòng của Thánh Phanxicô. Buổi chiều, lúc 15g15, Đức Thánh Cha gặp các giáo sĩ, tu sĩ và các thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo phận tại Nhà thờ chính toà Thánh Ruffinô.

Sau đó ngài đến Vương cung thánh đường Thánh Clara, và thinh lặng suy niệm trước Thánh giá Thánh Đamianô.Tiếp theo Đức Thánh Cha đến Vương cung thánh đường Nữ vương các Thiên thần; vào lúc 17g45, Đức Thánh Cha gặp giới trẻ vùng Umbria tại quảng trường và trả lời các câu hỏi.

Chặng cuối cùng, lúc 18g45, Đức Thánh Cha viếng thăm Đền thánh Rivotorto.Cuối cùng Đức Thánh Cha đáp máy bay trực trăng lúc 19g15 và trở về Vatican lúc 20g00. (Vatican Radio).

Năm Đức Tin, tôi đi hành hương đến Assisi, xin gởi đến quý độc giả những ghi nhận từ những nơi hành hương để cùng hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại Assisi.

1. Thánh Phanxicô chọn nếp sống nghèo khó

Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi phía bắc Rôma. Cha của ngài là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ. Mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức.Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên mặc sức ăn chơi phung phí. Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gauthie de Brienneur đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa. Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn. Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát !”. Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại các Nhà thờ cạnh Assisi. Trong hai năm, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi: nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula.Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24-2-1208, đang dữ lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10,10). Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, nên quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Giá (Mt 19,21; Lc 9,1-6; Mt 16,24). Phanxicô công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa. Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ.Với tình yêu sự khó nghèo, Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân. Ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ. Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Lối sống của ngài thu hút trước tiên hai anh bạn đồng hương: anh Bernađô Cantavalê giàu có và anh Phêrô Catanê, nhà giáo luật. Tiếp đó có 9 anh khác nhập đoàn. Họ trở thành 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định. Lúc đầu Phanxicô soạn một ít quy luật sống và đã được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng; cuối cùng, ngài viết ra bản Luật Dòng Anh em Hèn mọn và đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III phê chuẩn năm 1223 bằng sắc dụ.

Phanxicô bị giằng co giữa một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng. Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội. Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng. Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần.” Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.

Ngài qua đời vào ngày 3-10-1226.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16-7-1228.

2. Vương Cung Thánh Đường Đức Maria Các Thiên Thần

Vương cung Thánh đường nằm ở vùng đồng bằng dưới chân đồi Assisi. Sau khi chụp tấm hình chung đoàn tiến vào Nhà thờ. Bề ngoài trông đơn sơ nhưng bên trong rất rộng cùng với nhiều nhà nguyện nhỏ và nhiều bức tượng tranh ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp.

Trong lòng Nhà thờ có “The Portiuncola”, nơi đây được coi như là nhà mẹ đầu tiên, nơi Thánh Phanxicô lập dòng Anh em hèn mọn.

Ngôi Nhà thờ nhỏ từ thế kỷ thứ 9 là Porziuncola, nơi linh thánh nhất đối với các tu sĩ Phanxicô. Đây là nơi Thánh Phanxicô thời thanh niên tìm hiểu ơn gọi rồi từ bỏ thế gian để sống nghèo khó giữa những người nghèo và bắt đầu phong trào Phan Sinh.

Sau khi thánh nhân qua đời năm 1226, các tu sĩ xây dựng những túp lều nhỏ chung quanh Porziuncola. Năm 1230, một phòng ăn và một số tòa nhà kế cận được thêm vào. Theo dòng thời gian, những mái cổng nhỏ và những phòng ở của các tu sĩ được thêm vào chung quanh Porziuncola. Từ năm 1967 và 1969, trong khi khai quật, người ta đã phát hiện một số cơ sở dưới nền của ngôi Vương cung Thánh đường hiện tại.

Khi khách hành hương đến Assisi ngày càng đông để lãnh nhận “ân xá Assisi”, không gian nhỏ bé của Porziuncola đã không còn đủ sức chứa. Nhu cầu là cần phải xây dựng một ngôi nhà thờ mới kết hợp với Porziuncola. Theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô V (1566-1572), các tòa nhà chung quanh Đền thánh bị tháo gỡ, trừ nguyện đường Transito và căn phòng nơi Thánh Phanxicô qua đời.

Ngày 25 tháng 3 năm 1569, khởi công.Vương cung Thánh đường này được xây dựng theo phong cách Mannerist đến 1679 mới hoàn thành.

Phong cách Mannerist, tiền thân của phong cách Baroque. Hai kiến trúc sư nổi tiếng là Galeazzo Alessi và Vignola thiết kế. Công trình xây dựng tiến triển chậm chạp do thiếu tiền liên tục vì chỉ nhờ vào sự đóng góp địa phương. Mái vòm nằm trên cái trống hình bát giác với tám cửa sổ và những đường gờ trang trí chạy chung quanh, được hoàn thành năm 1667. Công trình xây dựng cuối cùng đã được hoàn thành vào năm 1679. Đến năm 1684, một tháp chuông đã được thêm vào. Ban đầu dự định có một tháp đôi, nhưng tháp thứ hai không được xây dựng.

Ngày 15 tháng 3 năm 1832, động đất đã phá hủy một phần nhà thờ. Đến năm 1836 tái thiết lại dưới sự điều khiển của kiến trúc sư Luigi Poletti. Công trình hoàn thành vào năm 1840. Ông sửa lại mặt tiền theo phong cách tân cổ điển. Khoảng năm 1924 – 1930, Cesare Bazzani đã đưa mặt tiền thánh đường trở lại phong cách Baroque ban đầu. Điêu khắc gia Colasanti đã tạc bức tượng mạ vàng Madonna degli Angeli và đặt trên đỉnh đầu của mặt tiền nhà thờ vào năm 1930.

Ngày 11 Tháng 4 năm 1909, Nhà thờ đã được Đức Giáo Hoàng Piô X nâng lên hàng “Vương Cung Thánh Đường thượng phụ và là nhà nguyện của Đức Giáo Hoàng”.

Nhà thờ với 126 mét dài, 65 mét rộng và mái vòm cao 75 mét.

Bên trong Thánh đường có gian giữa và lối đi hai bên với 10 nhà nguyện. Porziuncola nằm dưới mái vòm.

Nội thất Nhà thờ đơn giản nhưng thanh lịch với ít đồ trang trí, hoàn toàn trái ngược lối trang trí các nhà nguyện phụ. Gian giữa và các lối đi được xây dựng lại theo phong cách Doric tân cổ điển do Luigi Poletti thực hiện. Phần bán nguyện phía sau cung thánh là chỗ ca đoàn được làm bằng gỗ vào năm 1689 và được các tu sĩ Phanxicô tạc hình Nhà thờ Chính tòa và bàn thờ Giáo hoàng. Nhà nguyện của Transito có phòng nơi Thánh Phanxicô qua đời, vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay.

Các nghệ sĩ lừng danh đã trang trí các nhà nguyện hai bên vào nhiều thời kỳ khác nhau. Antonio Circignani đã họa các bức tranh trong Nhà nguyện Thánh Anna (1602-1603). Francesco Appiani trang trí hai Nhà nguyện Thánh Antôn và Thánh Phêrô bị xiềng (1756-1760). Ventura Salimbeni trang trí Nhà nguyện Loại trừ Chúa (1602).

Rời Vương Cung Thánh Đường chúng tôi theo hướng Foligno đi khoảng 3 km đến Đền thờ Đức Maria Rivotorto là ngôi nhà đầu tiên của các tu sĩ Phanxicô.

3. Đền thánh Đức Maria ở Rivotorto.

Bước vào bên trong Nhà thờ, ngay cửa chính, tôi thấy có hai ngôi nhà cũ kỹ xây bằng đá, trần lợp tôn ximăng rất thấp. Đây là nơi các môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô trú ngụ, sau đó họ di chuyển đến Porziuncola.

Trong ngôi nhà nhỏ bé này, Thánh Phanxicô đã triển khai, áp dụng và viết luật Dòng theo tinh thần đơn sơ, khó nghèo và cầu nguyện.

Năm 1209, từ nơi này, thánh nhân đã khởi hành cùng với 11 người bạn đến Roma yết kiến Đức Giáo Hoàng Innocentê III. Đức Giáo Hoàng đã chấp thuận bằng miệng Luật dòng của ngài. Đến năm 1223, Đức Giáo Hoàng Onorio III đã chuẩn y Luật dòng.

Hai ngôi nhà nhỏ này có lẽ không phải là hai ngôi nhà nguyên thủy vào năm 1200, nhưng là kết quả của việc tái cấu trúc lại ngôi nhà từ năm 1445 do tu sĩ Monk Francecso Saccardo thực hiện. Linh mục Tổng đại diện ở Assisi đã cho phép xây dựng ngôi nhà nguyện để cử hành Thánh Lễ.

Ngôi nhà thờ hiện tại được xây dựng lại theo phong cách Gothic sau trận động đất năm 1854, nó thuộc quyền sở hữu của dòng Phanxicô thuộc phái Conventual (tuân thủ) có nhà dòng nằm bên cạnh.

Các cánh cửa được trang trí rất đẹp và trình bày những phép lạ của Rivotorto: Thánh Phanxicô đang chờ đợi để được hầu chuyện với Giám mục Guido II với hình ngài đang bay trên một toa xe ánh sáng từ các tu sĩ ở Rivotorto.

Chúng tôi tiếp tuc thăm nhà thờ Thánh Đamianô, nơi thánh Phanxicô lập tu viện cho dòng Clara. Xuôi theo con dốc gần cây số, 2 bên đường là vườn ôliu, tôi thấy tu viện Đamianô đơn sơ và thanh thoát.

4. Nhà Thờ Thánh Đamianô

Nơi đây, Thánh Phanxicô gặp gỡ Chúa Giêsu. Thánh nhân đã cầu nguyện tại San Đamiano ngay tại thời điểm Nhà thờ bị hư hại. Thánh Phanxicô đã nhìn thấy hình ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh sống động. Chúa với ngài: “Phanxicô, con không thấy ngôi nhà của Ta đổ nát hay sao, hãy đứng lên và khôi phục nó lại!”. Thánh Phanxicô đã sửa chữa lại nhà thờ San Đamiano. Sau đó, thánh nhân hiểu rằng sứ điệp của Chúa nói với ngài là phục hồi lại Giáo Hội hơn là sửa chữa ngôi thánh đường San Đamiano.

Cây Thánh Giá mà từ đó Chúa Giêsu nói với Thánh Phanxicô được coi như là cây Thánh giá Thánh Đamiano. Hiện nay cây Thánh giá đang được treo tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Clara.

Nhà thờ Thánh Đamiano nối liền với tu viện. Đây là Tu viện đầu tiên của Dòng Thánh Clara, nơi Thánh nữ thiết lập cộng đoàn tiên khởi.

Chúng tôi thăm phòng nguyện, thăm nhà cơm nơi đặt bình hoa là chỗ ngồi hàng ngày của Clara. Lên gác thăm phòng ngũ thấy các Nữ tu sống khổ hạnh trong những phòng quá nhỏ bé nghèo nàn.

Từ Tu viện đi bộ lên dốc cao, rồi đi thang cuốn lên một dốc cao hơn chúng tôi đi đến Vương cung Thánh đường Clara.

5. Vương Cung Thánh Đường Thánh Clara

Vương cung Thánh đường Thánh Clara được xây dựng theo phong cách Gothic Ý giữa 1257 và 1265. Vật liệu kiến trúc là loại đá màu hồng được chiết xuất từ các mỏ đá của núi Subasio. Trong Đền thờ có những bức bích họa quý giá với niên đại vào khoảng từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV.

Bên phải có nhà nguyện, nhiều người đang chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn. Theo truyền thống, tượng chịu nạn này đã mời gọi Phanxicô “vực dậy Giáo Hội” ở Nhà thờ Thánh Đamiano.

Nhà nguyện này là di tích còn lại của ngôi Nhà thờ trước đó kính Thánh Giorgio.

Từ bên trái cung thánh có lối xuống tầng hầm. Nơi đây có phần mộ đặt thi hài thánh Clara. Ở đây lưu giữ một số di tích đặc biệt, trong đó có áo dòng của Thánh Phanxicô và tu phục của Thánh nữ Clara.

Từ quảng trường phía trước Đền thờ chúng tôi ngắm nhìn thung lũng Umbrian từ Montefalco tới Perugia trong ánh nắng lên đuổi bớt gió se lạnh đang thổi.

Thánh Clara làm bề trên tu viện trong 40 năm, nhưng có đến 29 năm ngài luôn đau yếu. Vậy mà lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói: “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?”

Thánh Clara là người nữ đầu tiên viết luật dòng cho chị em mình. Năm 1252, Đức Giáo Hoàng Innocentê IV đã chính thức phê chuẩn luật dòng của Thánh nữ khi ngài tới ban phép lành cho Dòng “Clarisse” vào ngày 9-8-1253.

Thánh nữ qua đời vào ngày 11-8 -1253. Đức Giáo Hoàng Innocentê IV cử hành lễ tang cho ngài. Chính Đức Giáo Hoàng không muốn hát bộ lễ cầu hồn, ngài cử hành nghi thức thánh lễ các trinh nữ. Chỉ hai năm sau, Clara đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.

6. Vương Cung Thánh Đường Thánh Rufinô

(Có giếng rửa tội nơi thánh Phanxicô và Clara đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy; trong Nhà thờ còn có tượng Pietà theo nghệ thuật của Đức vào thế kỷ XV).

Vương cung Thánh đường Thánh Rufino có tầm mức quan trọng trong lịch sử của dòng. Thánh Phanxicô, Thánh Clara và nhiều đệ tử ban đầu của Thánh nhân đã được rửa tội tại đây khi nghe Thánh Phanxicô rao giảng trong nhà thờ này. Năm 1209, Clara cảm động trước sứ điệp của Phanxicô rao giảng và thực hiện lời kêu gọi của ngài.

Nhà thờ được thiết kế theo phong cách Umbrian Roman và được xây dựng trên địa điểm có lưu giữ di tích của Giám mục Rufino tại Assisi, chịu tử đạo vào thế kỷ thứ III. Công trình khởi công từ năm 1140 theo thiết kế của Giovanni da Gubbio. Các dòng chữ ở bên trong vòng cung sau cung thánh đã chứng thực điều này. Có thể cũng chính Giovanni là người đã thiết kế các cửa sổ hoa hồng trên mặt tiền của Nhà thờ Đức Maria Maggiore vào năm 1163.

Năm 1228, trong khi đến Assisi để phong thánh cho Phanxicô, Đức Giáo Hoàng Gregoriô IX đã thánh hiến bàn thờ. Đức Giáo Hoàng Innocent IV đã khánh thành Nhà thờ được hoàn thành vào năm 1253.

Mặt tiền Nhà thờ theo phong cách Roma được xây dựng bằng đá lấy từ núi Subasio. Đây là một ví dụ điển hình của phong cách các nhà thờ vào thế kỷ thứ 12 ở vùng Umbria.

Ở bên trong Nhà thờ, giếng rửa tội được đặt ở đầu cánh bên phải Nhà thờ, Thánh Phanxicô đã được rửa tội ở đây vào năm 1182. Thánh nữ Clara được rửa tội ở đây vào năm 1193. Giếng rửa tội được làm bằng một miếng đá granit cổ đại và có một cái đai sắt. Nhà tạm bằng đất nung đỏ có từ năm 1882 nhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô.

Cánh bên phải là Nhà nguyện Mình Thánh Chúa theo phong cách Baroque (bắt đầu năm 1541 và mở rộng năm 1663), 9 bức tranh tường được cho là vào thế kỷ 17 do họa sĩ Andrea Carlone thực hiện.

Ngôi Nhà nguyện Đức Mẹ An Ủi được xây dựng vào năm 1496.

Vào thế kỷ XIX, bàn thờ chính ở dưới mái vòm hình bát giác thời phục hưng nằm trên di tích của Thánh Rufinô. Ở hai bên có tượng cẩm thạch của Thánh Phanxicô và Thánh Clara do Giovanni Dupré thực hiện.

Có một vài bức tranh do Dono Doni vẻ: Các Thánh thờ lạy Đức Kitô (1555), ở hai bàn thờ hai bên có hai tác phẩm: Hạ xác Chúa (1562) và Chúa bị đóng đinh (1563).

Dưới Vương cung Thánh đường là hầm mộ với quan tài của một người Roma ngoại giáo từ thế kỷ thứ III. Nơi đây có hài cốt của Thánh Rufinô.

7. Francesco Piccolino (nơi sinh của Thánh Phanxicô).

Nơi sinh của Thánh Phanxicô được xem như là một nơi linh thiêng. Sau năm 1250 một thời gian ngắn, Piccardo, con trai của Angelo và là cháu của thánh nhân, đã biến căn phòng lưu trữ này trong ngôi nhà của Thánh Phanxicô thành một nguyện đường. Đến năm 1281, ông đã tôn tạo bên ngoài với một mái vòm lớn. Vào khoảng đầu Thế kỷ thứ 14, dòng chữ Latin được khắc trên mái vòm theo phong cách Gothic này dòng chữ: Đây là nguyện đường có thời là chỗ cho bò và lừa, nơi đó Thánh Phanxicô, tấm gương của thế giới được sinh ra. Bên trong có những bức bích họa chồng lên nhau có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 13 và hai thế kỷ kế tiếp đó.

8. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phanxicô, di sản thế giới.

Từ vương cung Thánh đường Clara đi bộ hơn cây số là đến Vương cung Thánh đường Thánh Phanxicô. Nổi bật trước mặt tiền Thánh đường là quãng trường rộng xanh mướt những thảm có.

Thánh Phanxicô Assisi qua đời ngày 3-10-1226 tại Porziuncula. Ngày hôm sau, 4-10, xác ngài được đưa về Assisi, và tạm thời được an táng trong nhà thờ thánh Georgiô. Anh Êlia đã viết một lá thư luân lưu cho Dòng, trong đó anh loan tin buồn về cái chết của Thánh Phanxicô.

Anh Êlia đã là Phó Tổng Phục vụ từ Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1221. Tại Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1227, ngày 30-5, anh Gioan Parenti, Tỉnh Phục vụ Tỉnh Dòng Tây Ban Nha đã được bầu lên thay anh Êlia và trở thành người kế vị Thánh Phanxicô trong vai trò Tổng Phục vụ Dòng Anh em Hèn mọn.

Cùng năm ấy, ngày 19-3-1227, Đức Hồng Y Hugôlinô, Hồng Y Bảo trợ Dòng, được bầu làm Giáo Hoàng, lấy hiệu là Grêgôriô IX. Một trong các ưu tiên của ngài là tôn vinh Thánh Phanxicô. Ngày 29-4-1228, ngài ra sắc dụ “Recolentes” trong đó ngài loan báo ý định của ngài là cho xây cất một ngôi “nhà thờ đặc biệt” để tôn vinh Thánh Phanxicô, trong đó thi hài Thánh nhân sẽ được cất giữ. Anh Elia được chỉ định làm kiến trúc sư điều hành công trình vĩ đại này, xây một tầng hầm đặt ngôi mộ và một ngôi nhà thờ tu viện.

Ngày 16-7-1228, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX long trọng phong thánh cho Thánh Phanxicô tại Assisi, và ngày 19-7, sắc dụ phong thánh “Mira circa nos” đã được phổ biến. Trong cùng thời gian ấy, ngài đã đặt viên đá đầu tiên cho ngôi thánh đường mới mà ngài tuyên bố là sở hữu của Đức Giáo Hoàng, và ngài xin anh Tôma Xêlanô viết một cuốn tiểu sử chính thức về Thánh Phanxicô.

Năm 1230, tầng hầm mộ hoặc ngôi thánh đường tầng dưới đã hoàn tất. Hài cốt Thánh Phanxicô được rước về ngôi thánh đường mới ngày 25-5-1230 cách trọng thể. Anh Elia vội vã cất giữ hài cốt trong ngôi thánh đường mới mà Đức Giáo Hoàng tuyên bố là “caput et mater” (đầu và mẹ) của Dòng Anh em Hèn mọn.

Tại Tổng Tu nghị Lễ Hiện xuống 1230, anh Êlia toan tính nắm lấy việc quản trị Dòng, nhưng anh em bầu lại Anh Gioan Parenti. Một ủy ban đã được thành lập trong đó có anh Antôn Padua, đi Rôma xin Đức Giáo Hoàng Grêgôgiô IX một lời giải thích chính thức về Bản luật và Di chúc của Thánh Phanxicô. Đức Giáo Hoàng trả lời bằng sắc dụ “Quo elongati” (28-9-1230), qua đó, cùng với nhiều điều khác, ngài tuyên bố rằng bản Di chúc không buộc anh em phải tuân giữ như một bổn phận, và anh em được phép có một “người trung gian” (nuntius) và “những bạn thiêng liêng” để họ cung cấp cho anh em những nhu cầu cần thiết hằng ngày như Bản luật chung kết ấn định, tuy nhiên anh em không được sở hữu gì, nhưng chỉ được “sử dụng hợp với lời khấn nghèo khó” (usus pauper) những gì anh em đã nhận được.

Tại Tổng Tu nghị Riêti, 1232, Anh Êlia Bombarone được bầu làm Tổng Phục vụ. Anh đã hoàn tất việc xây cất Vương cung Thánh đường Thánh Phanxicô. Một tổng thể kiến trúc to lớn gồm cả một Tu viện rộng rãi cho anh em (Sacro Convento), và nhà ở của Đức Giáo Hoàng.

Chiều dài Đền thờ 80 mét, chiều rộng 50 mét, chiều rộng gian giữa 18 mét. Từ năm 2000, Unesco đã công nhận Đền thờ này là Di sản thế giới.

Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng mang tên Thánh Phanxicô (Basilica Sancti Francisci Assisiensis) là Nhà thờ Mẹ của Dòng Phanxicô tại Assisi. Kế cận với Đền thờ là Tu viện Dòng Phanxicô.

Năm 1228 khởi công xây dựng Đền thờ bên cạnh một ngọn đồi gồm hai phần: Nhà thờ trên và Nhà thờ dưới. Có hầm mộ nơi để phần mộ của Thánh nhân. Phần trang trí bên trong của ngôi Nhà thờ trên theo phong cách Gothic ở Ý. Cả hai nhà thờ trên và dưới được trang trí với các bức bích họa do các danh họa thuộc trường phái La mã và Tuscan vào cuối thời Trung cổ, bao gồm các tác phẩm của Cimabue, Giotto, Simone Martini, Pietro Lorenzetti và của cả Pietro Cavallini. Đặc điểm này nói lên sự phát triển nghệ thuật Italia vào thời kỳ này.

Kiến trúc Đền thờ là một tổng hợp hai phong cách Roman và Gothic. Đền thờ có kiến trúc hình thập giá đơn giản, bên hông trái Nhà thờ có một tháp chuông theo phong cách Roman.

Nhà thờ dưới được xây dựng hoàn toàn theo phong cách Roman, không gian của Nhà thờ đã được mở rộng với một số nhà nguyện ở hai bên. Lối vào chính của gian giữa nhà thờ thông qua một ô cửa Gothic trang trí công phu được xây dựng giữa những năm 1280 và 1300.

Nhà thờ trên với mặt tiền gạch trắng và có một cánh cửa chính lớn theo phong cách Gothic. Phần phía trái của mặt đứng ta có thể nhìn thấy từ cả hai sân trước của Nhà thờ trên và Nhà thờ dưới thì lại theo phong cách Baroque, khi Đền thờ này được nâng lên hàng Vương cung Thánh đường vào năm 1754.

Bên trong của Nhà thờ trên vẫn mang hình chữ thập theo sự thiết kế của thầy Elias

Đền thờ này mang đặc trưng của kiến trúc nhà thờ Ý, những bức bích họa có sớm nhất nằm ở Nhà thờ dưới. Có nhiều nghệ sĩ trong đó có những người nổi tiếng như Cimabue và Giotto, nhưng cũng có nhiều nghệ sĩ không được biết đến thực hiện những công trình nghệ thuật này.

Trên cung thánh mái vòm cung thứ hai có những bức tượng bán thân Chúa Giêsu đối diện với Thánh Phanxicô và Đức Trinh nữ đối diện với Thánh Gioan Tẩy Giả. Mái vòm cung ở cửa ra vào có bốn vị Tiến sĩ Giáo Hội: Thánh Gregoriô đối diện với Thánh Giêrônimô, Thánh Ambrosio đối diện với Thánh Augustinô.

Phía tây của cánh ngang có nhiều bức bích họa của Cimabue trong đó có bức bích họa tráng lệ mang tên cuộc đóng đinh, trong đó Thánh Phanxicô quỳ gối tại chân cây Thánh Giá để tôn thờ cuộc Khổ nạn của Đức Kitô.

Có một loạt 28 bức bích họa do họa sĩ Giotto thời trẻ thực hiện dọc theo phần dưới của gian giữa. Họa sĩ này dựa theo tác phẩm Legenda Maior của thánh Bonaventure viết tiểu sử thánh Phanxicô (1266) để tái tạo lại những sự kiện lớn trong đời sống của thánh nhân. Những bức họa này mang nét sinh động như thể Giotto là chứng nhân những sự kiện chính này. Nhưng việc coi Giotto là tác giả những bức họa này còn đang trong vòng tranh cãi, người ta nghĩ rằng ít nhất có 3 họa sĩ riêng biệt sử dụng khái niệm nguyên thủy của Giotto để vẽ những bức họa này.

Mặt tiền của Vương cung Thánh đường có một cổng ra vào theo phong cách Gothic

Tu sĩ Êlia đã thiết kế Nhà thờ dưới như là một hầm mộ rất lớn giống như những phần mộ bằng đá cứng ở Syria.

Trên các cửa ra vào là một cửa sổ lớn kiểu hoa hồng, hai bên là hai cửa nhỏ hơn, người ta gọi chúng là “con mắt của ngôi nhà thờ đẹp nhất trên thế giới”. Ugolinuccio da Gubbio (khoảng năm 1550) đã trang trí phần bên trái cánh cửa gỗ, còn một nghệ sĩ vô danh vùng Umbrian thực hiện phần cửa bên phải vào năm 1573. Chúng miêu tả những câu chuyện về đời sống của Thánh Phanxicô, Thánh Clara, Thánh Louis và Thánh Antôn. Trên bức tường bên trái của mái hiên là tượng bán thân của Đức Giáo Hoàng Benedict XIV đã ban cho nhà thờ này tước hiệu Vương Cung Thánh Đường Thượng phụ. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đổi tên Đền thờ này là Vương Cung Thánh Đường Giáo Hoàng của Thánh Phanxicô.

Cổng chính Nhà thờ dưới ăn thông ra một Quảng trường nhỏ, dọc hai bên quảng trường là hai hành lang có mái che và có hàng cột. Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có sáng kiến tổ chức buổi cầu nguyện liên tôn mỗi năm một lần tại quảng trường này. Ngài mời đại diện các tôn giáo lớn trên thế giới đến cùng cầu nguyện với nhau cho hòa bình thế giới. Truyền thống được các đấng kế vị tiếp tục cho đến ngày nay. Nhờ đó, nhiều người trên thế giới biết đến quảng trưởng nhỏ này trong khu vực nhà dòng cạnh Đền thờ.

Chúng tôi dâng lễ tại Nhà thờ trên, sau đó mọi người thinh lặng xuống Nhà thờ dưới quỳ cầu nguyện trước phần mộ thánh Phanxicô. Tham quan nhiều nhà nguyện nhỏ và những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong thư gửi Dòng Phanxicô nhân dịp lễ sinh nhật lần thứ 800 của vị Thánh Nghèo đã viết rằng, “trong suốt giòng lịch sử, thiên hạ vẫn luôn luôn ngưỡng mộ và yêu mến Thánh nhân vì họ thấy thực hiện nơi ngài một cách lạ lùng, điều mà họ ao ước cho mình, trên hết mọi sự trong đời: đó là niềm vui, sự tự do, hòa bình, hòa thuận và hòa hợp giữa loài người và giữa các dân tộc”.