Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

(Ảnh: China Aid)

Trọng Nghĩa

RFI

Theo tổ chức bảo vệ nhân quyền China Aid, trụ sở tại Mỹ, vào hôm nay, 13/10/2013, chính quyền tỉnh Chiết Giang (miền đông Trung Quốc) đã bắt giữ hai công dân Mỹ khi họ tìm cách tiếp xúc với một nhà ly khai hiện bị cầm tù.

Nữ bác sĩ Devra Marcus, hành nghề tại Washington cùng người bạn đồng hành tên Kness Kody đã đến nhà tù tỉnh Chiết Giang để xin được gặp ông Chu Ngu Phu (Zhu Yufu) một nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền đang thọ án tù tại đây. Không những không được gặp tù nhân này, mà cả hai người khách Mỹ đều bị chính quyền nhà tù câu lưu.

Nhà ly khai Chu Ngu Phu đã bị kết án 7 năm tù vào tháng 02/2012 vì đã viết một bài thơ bị cáo buộc là mang nội dung « phản nghịch » khi kêu gọi người dân Trung Quốc tập hợp lại với nhau để tiếng nói của mình được lắng nghe. Nhân vật này đã bị buộc vào tội danh « kích động lật đổ » chính quyền.

Theo hãng tin Pháp AFP, bài thơ của ông Chu Người Phu có đoạn tạm dịch như sau : « Đã đến lúc hỡi người dân Trung Quốc ! Quảng trường là của mọi người… Đã đến lúc bạn dùng đôi chân để đến quảng trường biểu thị sự lựa chọn của mình ».

Lời bài thơ rõ ràng gợi lên Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, trung tâm của các cuộc biểu tình rầm rộ đòi dân chủ trong hai tháng 05 và 06/1989, vốn đã bị đàn áp đẫm máu và hiện đôi khi vẫn là nơi thực hiện các hành động phản đối riêng lẻ.

Về hai công dân Mỹ bị bắt, trong một thông báo công bố trước khi khởi hành, nữ bác sĩ Marcus đã công khai cho biết hai mục tiêu chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của bà : Nghiên cứu hội họa và khám bệnh cho ông Chu Ngu Phu.

Theo bà Marcus, bà đã nhận được thông tin theo đó ông Chu Ngu Phu, 60 tuổi, không được ăn uống và chăm sóc thuốc men đầy đủ và nhiều lần bị bất tỉnh. Bà viết : « Dựa trên thông tin đó tôi sợ rằng ông Chu Ngu Phu có thể bị chết do thiếu chăm sóc y tế và điều trị ».

Chính quyền Hoa Kỳ đã từng lên tiếng kêu gọi Bắc Kinh trả tự do cho nhà ly khai này cũng như tất cả các tù nhân khác bị kết án tù chỉ vì đã bày tỏ chính kiến ​​một cách ôn hòa.

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF - Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF – Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

REUTERS

RFI

Cuộc họp toàn thể của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, ngày hôm qua, 11/10/2013, ở Washington, đã kêu gọi chính quyền Mỹ khẩn trương hành động, giải quyết cuộc khủng hoảng ngân sách.

Từ Washington, thông tín viên RFI Jean Louis Pourtet tường trình:

« Trong những cuộc họp kiểu như thế này, Hoa Kỳ thường có thói quen dạy dỗ các nước khác hơn là bị nhắc nhở. Thế nhưng, năm nay, Washington bị phê phán vì nhiều lý do khác nhau. Trong thông cáo, nhóm G20 tài chính đã đề nghị Hoa Kỳ « khẩn cấp hành động để giải quyết những bấp bênh về ngân sách trong ngắn hạn ». Tình trạng tê liệt ngân sách và mối đe dọa mất khả năng thanh toán của cường quốc số một 1 kinh tế làm cho cộng đồng tài chính quốc tế lo ngại.

Một lo lắng khác : Sắp sửa đến thời điểm chấm dứt chính sách kích thích hào phóng của Cục Dự trữ Liên bang, bơm 80 tỷ đô la mỗi tháng cho nền kinh tế. Giới đầu tư trước đây đã rút vốn ra khỏi các nước đang trỗi dậy, sẽ bị mất đi một nguồn tài chính quan trọng. Kể từ sau thông báo của ông Ben Kernanke vào mùa xuân vừa qua, các nước Châu Phi phải trả lãi cao hơn khi đi vay.

Trong thông cáo của mình, các Ngân hàng Trung ương của các nước Châu Phi lo ngại việc chấm dứt hỗ trợ tiền tệ, đã cảnh báo nguy cơ « làm trật đường ray » tiến trình phục hồi tăng trưởng trên thế giới. Hoa Kỳ còn bị nhóm G20 chỉ trích về việc chưa thông qua kế hoạch cải cách Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho phép các nước đang trỗi dậy có trọng lượng hơn trong định chế này.

Về điểm phê phán thứ nhất, vào lúc cuộc khủng hoảng ngân sách bước sang ngày thứ 12, Nhà Trắng và đảng Cộng Hòa vẫn chưa đạt được một thỏa thuận. Tuy nhiên, dường như, cả hai bên tỏ quyết tâm tìm kiếm một thỏa hiệp để thoát ra khỏi tình trạng bế tắc. Song kết quả đạt được rất khiêm tốn : Từ 48 giờ qua, hai bên vẫn đang thương thuyết với nhau.

Tối Thứ Năm, Tổng thống Barack Obama đã tiếp các phái đoàn Thượng nghị sĩ và dân biểu của đảng Cộng Hòa. Nhiều người trong số họ bắt đầu thực sự lo ngại về tác động chính trị của cuộc khủng hoảng đối với đảng Cộng Hòa, bị coi là phải chịu trách nhiệm về tình trạng bế tắc hiện nay, theo như nhìn nhận của 60% dân Mỹ qua các cuộc thăm dò dư luận.

Hôm qua, Tổng thống Obama và Chủ tịch Hạ viện John Boehner đã nói chuyện với nhau qua điện thoại. Chủ tịch Hạ viện (thuộc đảng Cộng Hòa) đề xuất cho phép nâng mức trần của nợ công cho đến ngày 22/11/2013, nhưng không chấp nhận cho mở lại các cơ quan chính quyền Liên bang trừ phi đạt được thỏa thuận giảm một số chi phí công. Còn các Thượng nghị sĩ của đảng Cộng Hòa thì đề nghị nâng mức trần nợ từ nay đến đầu năm tới, chấm dứt việc đóng cửa các cơ quan chính quyền, đổi lại, thuế đánh vào một số thiết bị y tế sẽ bị xóa bỏ.

Chắc chắn là đề xuất của Thượng viện phù hợp với mong muốn của Tổng thống hơn, nhưng trong cả hai trường hợp, đảng Cộng Hòa đều đưa ra điều kiện khi bỏ phiếu chấp thuận giải quyết vấn đề nợ và ngân sách. Thế nhưng, Tổng thống Mỹ vẫn tuyên bố rằng ông chỉ bắt đầu đàm phán khi các dân biểu không được đưa ra các điều kiện tiên quyết để bỏ phiếu thông qua việc nâng mức trần nợ và cho mở cửa trở lại toàn bộ các cơ quan Liên bang.

Tuy nhiên, dưới áp lực của người dân, ngày càng tỏ thái độ bất bình, cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đều đang cố gắng hơn để tìm kiếm lối thoái ra khỏi khủng hoảng ».

1,2 tỉ người trên thế giới sống trong cảnh cùng cực

1,2 tỉ người trên thế giới sống trong cảnh cùng cực

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Kim Yong Kim nói chuyện tại một cuộc họp báo

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Kim Yong Kim nói chuyện tại một cuộc họp báo

11.10.2013

Ngân hàng Thế giới, WB, nói mặc dù tốc độ xóa nghèo diễn ra nhanh chưa từng thấy trong những thập niên gần đây, song 1,2 tỉ người “vẫn chìm sâu trong cảnh cùng cực” trong năm 2010. Ngân hàng công bố bản báo cáo “Tình trạng người ngèo” hôm thứ năm để mở khai mạc cuộc họp hàng năm của Ngân hàng và Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF.

Giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim cho biết ngân hàng có 2 mục tiêu chính – chấm dứt tình trạng nghèo khó cùng cực trước năm 2030 và thúc đẩy sự thịnh vượng chung ở các nước đang phát triển. Điều đó có nghĩa là cải thiện tăng trưởng kinh tế và bình đẳng cho nhóm 40% dân số từ dưới lên của một nước đang phát triển. Ông nói:

“Đạt được những mục tiêu này đã trở thành mục tiêu chính cho tổ chức của chúng ta. Tuần này Hội đồng quản trị Ngân hàng Thế giới sẽ xem xét một kế hoạch chi tiết cho việc chuyển đổi hoạt động, cấu trúc và văn hóa của chúng ta để có thể đạt được những mục tiêu. Đây là chiến lược đầu tiên tập hợp tất cả những tổ chức thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới dưới một khuôn khổ duy nhất để gặt hái kết quả.”

Tuần này, ngân hàng đã đặt một mục tiêu tạm thời mới, nhằm giảm tình trạng nghèo khó cùng cực xuống còn 9% trước năm 2020.

Báo cáo nói xóa bỏ nghèo khó cùng cực trong khoảng thời gian của một thế hệ là một “thách thức to lớn,” đòi hỏi phải có “sự hiểu biết thấu đáo về tình trạng của người nghèo.” Ông Kim nói:

“Chinh phục nạn nghèo đói là chuyện to lớn so với năng lực của chúng ta rất nhiều. Một phong trào toàn cầu, đang phát triển đã lớn mạnh khi các nhà lãnh đạo chính phủ, các tổ chức quốc tế và xã hội dân sự đoàn kết xung quanh mục tiêu trọng yếu này. Chiến lược của chúng ta là táo bạo vì thách thức rất to lớn. Hơn một tỉ người sống trong nghèo khó cùng cực, thu nhập 1,25 đô la một ngày hoặc ít hơn. Chúng ta phải hành động với sự cấp bách và lòng quyết tâm. Trong báo cáo “Tình trạng người nghèo”, chúng ta nhận thấy rằng 400 triệu người cực kỳ nghèo khó của thế giới trong năm 2010 là trẻ em.”

Ông nói người nghèo không thể chờ đợi tiến bộ từ từ xuất hiện mà họ cần được giúp đỡ ngay bây giờ:

“Khi nhìn lại hơn 30 năm qua, chúng ta thấy tiến bộ vượt bậc trong công tác xóa đói giảm nghèo. Theo báo cáo, ít hơn 700 triệu người sống trong cảnh nghèo khó cùng cực, ngay cả khi dân số thế giới tăng thêm 2,5 tỉ người. Ở những nơi như Ấn Độ và Trung Quốc, hàng trăm triệu người đã thoát khỏi cảnh nghèo khó cùng cực trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong số 35 nước nghèo nhất, 100 triệu người nghèo vẫn còn cực kỳ nghèo khó. Nhiều người sống trong nghèo khó cùng cực từ  hơn 30 năm qua.”

Báo cáo “Tình trạng người nghèo” nói 26 trong số 35 nước có thu nhập thấp trên thế giới là ở châu Phi.

Bác sĩ Kim cho biết nhiều người nghèo không được tiếp cận với nước sạch và điều kiện vệ sinh:

“Những người cực nghèo vẫn sống dưới mức 1,25 đô la một ngày như cách đây 30 năm. Và để thoát khỏi cảnh nghèo, những người nghèo ở nông thôn sẽ phải tăng thu nhập của họ nhanh hơn nhiều so với phần còn lại của các nước đang phát triển. Chiến lược của chúng ta sẽ giúp các nước nhận trợ giúp giải quyết vấn đề lớn nhất của họ, đó là tạo công ăn việc làm, chống biến đổi khí hậu, là những việc gây thiệt hại rất nhiều đối với người nghèo trên thế giới.  Ngoài ra, chúng ta cũng cần giúp họ đối mặt với các vấn đề bất ổn và xung đột.”

Báo cáo cho biết dù số lượng người nghèo phái nam và phái nữ bằng nhau, tình trạng nghèo khó vẫn còn chênh lệch về mặt giới tính. Người nữ trong độ tuổi từ 15 đến 30 có khoảng một năm ít học hơn những người nam nghèo cùng nhóm tuổi.

Giám đốc Ngân hàng Thế giới nói thêm, nếu các mục tiêu giảm nghèo được đáp ứng, cần phải có sự hỗ trợ vốn mạnh mẽ cho Hiệp hội Phát triển quốc tế, gọi tắt là IDA. IDA cung cấp các khoản vay cho các chương trình cải thiện tăng trưởng kinh tế và điều kiện sống. Ông Kim cho biết:

“Với sự hỗ trợ vốn mạnh mẽ, chúng tôi dự định sẽ tăng nguồn kinh phí của IDA cho những nước bất ổn và bị ảnh hưởng bởi xung đột đến mức 50 phần trăm trong ba năm tới. Chương trình của chúng ta cho các cuộc họp thường niên năm nay cho thấy ngân hàng tập trung vào nhiều  thách thức về phát triển quan trọng, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, tiếp cận tài chính, năng lượng, vai trò của khu vực tư nhân và bình đẳng giới tính.”

Trong một tin tức có liên quan, IMF thông báo rằng các nước thành viên đã cam kết tài trợ cho Quỹ Giảm nghèo và Tăng trưởng.

Quỹ này giúp IMF cho các quốc gia có thu nhập thấp vay với lãi suất bằng không. Nguồn tài trợ cho Quỹ đến từ gần 4 tỉ đôla lợi nhuận do bán 403 tấn vàng dự trữ.

Mùa thu cuộc tình

Mùa thu cuộc tình

Tiểu Tử

Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.

Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết ” làm ” một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già  cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…

Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là ” đi chợ Tàu ” chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những  khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ  (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…

Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. “Chắc lá đã rụng đầy”, ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…

Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : “Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?” Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…

Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình. Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : “Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !”. Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : “Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?”. Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến “cái ngày không còn có nhau” đó.

Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng “văn phạm Nhà Nước”. Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…

Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy ! “Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !”. Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ “Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa” Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :

– Ông Georges ! Ông Georges !

Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :

– Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : “Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai”. Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : “Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !”. Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :

– Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?

Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :

– Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !

Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng “Nhưng mà… Nhưng mà…” trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

– Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !

Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !

Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu “Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai” Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là “thằng Năm trúng số độc đắc” hoặc “đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy”. Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !

Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó “sáng” ra mới được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn “nét” lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…

…Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải “bỏ bụng” một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho “lấy có” và ăn cũng cho “lấy có”. Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu “hai đứa gặp nhau” (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi “hai đứa hẹn hò” (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…

-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh :

– Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !

Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.

Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :

– Ông chờ đón bạn à ?

Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :

– Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.

Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…

Lại nghĩ đến bà Năm. Bả  điệu” lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có “gout”. Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái “gout” để vào đâu cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu “Gái không con mà nom cũng mòn con mắt”, nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !

Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục “điệu” như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận  và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có “tác phong cách mạng” thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng “Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”, bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : “Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được”…

Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : “Ông Năm !” Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : “Ông Năm…”

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : “Mai !” Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng “Ông Năm” như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : “Sao vầy nè ?”. Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : “Sao vầy nè… Trời ?”. Tiếng “Trời” nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà “tụi nó” chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !

Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

– Thôi mình về đi em !

Tiếng “em” thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng “em” mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

– Để em xách !

Tiếng “em  cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :

– Để anh xách cho.

Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :

– Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.

Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra “tụi nó” đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : “Quân khốn nạn !”

-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

– Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?

Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :

– Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.

Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !

Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :

– Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn.

Bà Năm dịu dàng :

– Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…

Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng “hai đứa” nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ “hai đứa” vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.

Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :

– Cây thánh giá này đây ?

Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :

– Để em soạn đồ ra.

Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.

Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…

Vừa làm bà vừa nói :

– Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.

Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :

– Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.

Có tiếng bà Năm nói :

– Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !

Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răn, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !

Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…

Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :

– Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.

Bà Năm nghi ngờ :

– Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.

Ông Năm cười sảng khoái :

– Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.

Ông vui vẻ :

– Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?

Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

– Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?

Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :

– Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !

Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…

Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.

Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : “Mình !”. Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng “mình” nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng “mình” mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng “mình” gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng “mình” cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng “mình” ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng “mình” gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng “mình” đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…

Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ ?

-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…

…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. “Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?”. Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho “nhân dân”. Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !

Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều…

Tiểu Tử

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

VẤN ĐỀ 17: Tôn giáo chủ trương những giáo thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ. Tôn giáo giảng dạy sự hèn nhát, sự tự khinh, sự ti tiện, sụ sỉ nhục, sự phục tòng… là những tính nết của loài vật (Mega I,6 trang 278).

TRẢ LỜI:

Đây chẳng qua chỉ là những bài bác mang tính chủ quan, thiên kiến và sai lầm như sau:

1. Ki-tô giáo không phản tiến bộ, mà trái lại đã chiếu ánh sáng văn minh cho nhân loại:

Thực vậy, lịch sử các nước văn minh giàu mạnh ngày nay đã cho thấy: hầu như bất cứ ở đâu, khi người ta mở lòng đón nhận đức tin Ki-tô giáo, thì ở đó ánh sáng văn minh cũng ngự trị thay thế cho tình trạng tối tăm lạc hậu kém văn minh. Nhờ Thánh Kinh và giáo lý mới đem lại sự tiến bộ cho nhân loại về các lãnh vực như khoa học, văn hóa, luân lý như sau:

– Tiến bộ về khoa học: những phát minh khoa học, kỹ thuật tân tiến hiện đại hầu hết đều do các nhà bác học là tín đồ Ki-tô giáo cống hiến cho nhân loại. Trong số các khoa học gia thế kỷ 19, có tới 92% có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ vạn vật. Cũng nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, các vị này đã say mê tìm hiểu những kỳ công của Tạo Hóa và đã khám phá ra những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, những máy móc phục vụ hạnh phúc con người theo lệnh truyền của Thiên Chúa sáng tạo như sách Sáng Thế đã ghi lại như sau: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28).

– Tiến bộ về văn hóa: Mỗi khi Tin Mừng loan truyền đến đâu, thì cũng tác động về phong hóa đến đó. Những hủ tục lạc hậu của các dân tộc bán khai như: Tảo hôn, giết người tế thần… đã dần dần bị đào thải khi họ được tiếp xúc với các nhà thừa sai truyền giáo và được học hỏi giáo lý đức tin. Nền văn minh Ki-tô giáo cũng đã cống hiến cho kho tàng nghệ thuật của nhân loại những tác phẩm sáng giá nhất về mọi phương diện: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, văn chương, thi phú, âm nhạc… và rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thánh của tôn giáo hiện nay vẫn đang được lưu giữ trưng bày tại hầu hết các viện bảo tàng nổi tiêng nhất thế giới như: Vatican, Louvre, Metropolitan, Prado, Smithsonitan…

– Tiến bộ về luân lý: Giáo lý tình thương của Ki-tô giáo đề cao công bằng vị tha bác ái đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách ứng xử giữa người với người, đến các chủ nghĩa tốt đẹp trên thế giới, đến các luật pháp quốc gia và các hiến chương tuyên ngôn quốc tế…

Như vậy, có thể nói: hầu như mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại đều bắt nguồn từ người tín hữu hoặc đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo thuyết Ki-tô giáo.

2. Giáo lý Ki-tô giáo không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại: chính giáo lý này đã mạnh mẽ bênh vực những người xấu số cách hữu hiệu nhất.

Thực vậy, Thánh Kinh Ki-tô giáo là một thông điệp của tình thương. Trong bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su công bố, các người nghèo khổ được Chúa ưu tiên quan tâm và ban ơn cứu độ:

1)Thái độ của Đức Giê-su về vấn đề của cải và sự giàu nghèo:

-Trong Tám Mối Phúc, Đức Giê-su đề cao người nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Tin Mừng Lu-ca đã ghi lại lời Đức Giê-su quyết liệt hơn: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20), và “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6,24).

-Đức Giê-su đã dạy môn đệ về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc như sau: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!  Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu ?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,23-27).

-Đức Ma-ri-a trong kinh Ngợi Khen cũng đã ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho người nghèo như sau: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,58).

-Thánh Gia-cô-bê cũng cho biết Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi mà người nghèo phảỉ chịu bằng việc ưu tiên ban đức tin và ơn cứu độ như sau: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?” (Gc 2,5).

2) Đức Giê-su cổ võ sự công chính và dạy các môn đệ phải tha thứ:

Cần ăn ở công bình ở đời này, để tránh khỏi phải đền trả ở đời sau: “Thầy bảo thật cho anh biết: Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26).

Cần chu toàn cả hai bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân: “Thế thì của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

-Cần biết quảng đại tha thứ: Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su dạy môn đệ cầu xin Thiên Chúa tha tội với điều kiện họ phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Người cũng giải thích thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,12).

3) Đức Giê-su bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội:

-Phụ nữ được Thiên Chúa dựng nên ngang hàng với nam giới khác với lập trường cho rằng phụ nữ ở bậc thấp hơn nam giới và phải hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới: Đức Giê-su nói: “Các ông không đọc thấy điều này sao?: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6).

-Người cũng rút lại luật cho phép ly hôn trong thời Cựu Ước: Khi ấy, những người biệt phái đến gần vá hỏi thử Chúa Giê-su rằng: Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: Mô-se đã truyền cho các ông thế nào? Họ thưa: “Mô-sê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giê-su đáp lai: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Mô-sê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,2-9).

4) Đức Giê-su chống lại những bất công xã hội và đề cao sự khiêm nhường phục vụ cùng sự quảng đại chía sẻ cơm áo cho người nghèo:

-Người nói với các người Pha-ri-sêu tranh giành chỗ ngồi phải biết khiêm tốn khi được mời tham dự liên hoan: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

-Người cũng yêu thương chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành và dạy anh ta sự quảng đại chia sẻ: “Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

5) Đức Giê-su khuyên dạy môn đệ phải có lòng bác ái, thương yêu những người nghèo khổ, khuyết tật, bất hạnh và bị bỏ rơi, vì ý thức rằng phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Sau đây là một số lời Đức Giê-su dạy đức yêu người:

Yêu người như yêu mình: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39).

Yêu thương lẫn nhau là dấu hiệu môn đệ thực sự của Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

-Yêu người nghèo khổ vị họ là hiện thân của Chúa: Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong vai trò Vua Thẩm Phán đến phán xét chung mọi người về như sau: Bấy giờ Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

3. Những điều tôn giáo đề cao như: Khiêm tốn phục vụ tha nhân; Làm chủ các dục vọng xấu và các thói hư; Lấy đức báo oán: đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét làm hại mình, để biến thù thành bạn; Can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải trong cuộc sông; Vâng phục quyền bính hợp pháp trong đạo ngoài đời… Tất cả những điều này đêu không phải là những điều tiêu cực, là những tính nết của loài vật… như có người đả kích. Trái lại, đây còn là những nhân đức anh hùng mà những kẻ tầm thường không thể thực hiện được, nhưng chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ can đảm, vững tâm bền chí, thánh thiện nhân ái… mới có thể làm được mà thôi.

Còn những người tự cao tự đại, thiếu sự kiên nhẫn chịu đựng, dễ bất mãn nổi loạn do lòng tham lam bất chính thôi thúc… Đó mới thực là những lý thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ, và mới cần được kiềm chế loại trừ.

TÓM LẠI: Ki-tô giáo không những không phản tiến bộ, trái lại đã đem ánh sáng văn minh đến cho nhân loại về mọi phương diện: khoa học,văn hóa, luân lý… Giáo lý Ki-tô giáo dạy không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại còn bênh vực lớp người xấu số bất hạnh một cách mạnh mẽ và hữu hiệu nhất. Những điều tôn giáo đề cao như: sự khiêm tốn phục vụ, hãm dẹp các dục vọng thói hư, lấy thiện báo ác, nhẫn nhịn chịu đựng các khó khăn gặp phải, vâng phục quyền bính đạo đời… Tất cả đều đươc mọi người công nhận là tốt và cần được thực hiện. Như vậy, những lời chỉ trích tôn giáo nói trên đều sai lầm, chủ quan và đầy thiên kiến… nên các tín hữu chúng ta không cần phải quan tâm.

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết giới thiệu khuôn mặt khiêm tốn hiền hòa của Chúa cho tha nhân chua nhận biết Chúa. Xin cho chúng con biết sông yêu thương phục vụ Chúa trong mọi người như lời Chúa dạy, được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong kinh Hòa Bình, để chúng con tích cực làm chứng cho Chúa và xứng đáng trở thành môn đệ thức sự của Chúa như lời Chúa dạy hôm nay: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

LM ĐAN VINH – HHTM

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

Human Rights Watch : Các nhóm thánh chiến và đối lập Syria giết gần 200 thường dân

Human Rights Watch : Các nhóm thánh chiến và đối lập Syria giết gần 200 thường dân

Cuộc tấn công vào Lattaquié đã khiến nhiều người thiệt mạng, theo nguồn tin từ giới bảo vệ nhân quyền.

Cuộc tấn công vào Lattaquié đã khiến nhiều người thiệt mạng, theo nguồn tin từ giới bảo vệ nhân quyền.

REUTERS/Handout

RFI

Hôm nay, 11/10/2013, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch công bố một bản báo cáo, theo đó, các nhóm thánh chiến và lực lượng nổi dậy, đã giết hại 190 thường dân. Sự vụ xẩy ra tại các khu làng theo hệ phái Hồi giáo alaouite, ở Syria, trong tháng Tám vừa qua.

Trong báo cáo 105 trang, Human Rights Watch – HRW – cho biết đã tiến hành điều tra tại chỗ và phỏng vấn 25 người, kể cả những người sống sót sau vụ quân nổi dậy tấn công vào 10 ngôi làng của người theo hệ phái Hồi giáo Alaouite, ngày 04/08, ở tỉnh Lattaquié, nơi được coi là thành trì của Tổng thống Bachar Al Assad.

Theo HRW, vào ngày đó, có ít nhất 190 thường dân đã bị giết hại, trong số này có 57 phụ nữ, 18 trẻ em, 67 người đã bị hành quyết, mặc dù trong tay họ không có súng ống hoặc tìm cách bỏ chạy. Đối với HRW, đó là những thường dân không có vũ trang, không làm gì để có thể đe dọa hoặc làm cho người ta nghĩ rằng họ là những người chống lại cuộc tấn công.

Vẫn theo HRW, có ít nhất 20 nhóm có vũ trang đã tham gia vào cuộc tấn công và chiếm được 10 ngôi làng của người Hồi giáo Alaouite. Ngày 18/08, quân đội chính phủ Syria đã chiếm lại được các ngôi làng này.

Ngay lập tức, phe đối lập Syria đã lên án các vụ hành quyết thường dân tại 10 ngôi làng. Trong thư ngỏ gửi HRW, Liên minh đối lập Syria đã lên án mọi hành động vi phạm nhân quyền do các tổ chức có vũ trang thực hiện. Liên minh cũng nhắc lại cam kết ton trọng các luật lệ quốc tế liên quan đến nhân quyền

Một người Trung Quốc tự cắt chân vì không đủ tiền trả viện phí

Một người Trung Quốc tự cắt chân vì không đủ tiền trả viện phí

Medical sign

Medical sign

11.10.2013

Truyền thông Trung Quốc cho biết một người đàn ông ở vùng nông thôn đông bắc đã dùng dao cắt trái cây, cưa, và dụng cụ gãi lưng để cắt chân của mình vì không có tiền để trả chi phí y khoa và không muốn tiếp tục đau đớn không chịu nổi.

Theo bản tin báo chí, ông Trịnh Diêm Lương, 47 tuổi, sống ở Bảo Định, chẩn bệnh năm 2012 thấy bị chứng nghẹt tĩnh mạch và các bác sĩ nói rằng tĩnh mạch trong chân phải của  ông đã hỏng hoàn toàn.

Chứng bệnh này làm ông rất đau đớn và các thuốc giảm đau không giúp được gì.

Bản tin nói vì không đủ khả năng trả chi phí điều trị, ông Trịnh Diêm Lương quyết định cắt chân mình khi thấy bắt đầu mưng mủ và biến sang màu đen.

Ông đã mất 4 răng hàm khi cắn xuống vì quá đau trong lúc tự cắt chân.

Viêm nhiễm giờ đây lan sang chân trái, và ông tìm cách tự chữa bằng iốt và gạc.

Ông muốn có một chân giả để có thể tiếp tục nuôi gia đình.

Nguồn: Totonto Sun, The Independent

Cuộc viếng thăm của cụ Phan Bội Châu tới DCCT Huế

Cuộc viếng thăm của cụ Phan Bội Châu tới DCCT Huế

Đăng bởi lúc 9:09 Sáng 10/10/13

VRNs (10.10.2013) – Sài Gòn – Cách đây hơn 70 năm (1936), cụ Phan Bội Châu (1867-1940), đã tới thăm Dòng Chúa Cứu Thế ở Huế. Sau cuộc thăm viếng, cụ có viết một bài di bút và đăng trên báo Vì Chúa của cha Nguyễn Văn Thích (số 3, ngày 2-10-1936). Hôm qua trên bloganhvu có đăng lại bài viết này và giới thiệu là lấy trên facebook của một người quen. Chúng tôi xin phép đăng lại để quý đọc giả biết về cuộc thăm viếng của một danh sĩ, một nhà cách mạng Việt Nam thời Pháp thuộc tới một cơ sở của DCCT.

THAM QUAN TRƯỜNG DÒNG CHÚA CỨU THẾ NGÀY 27-05-1936

…Khi Châu mới vào cửa, lên tới thềm, bấm chuông cửa, sau nửa phút đồng hồ, thì thấy một người học trò ở trong ra, đưa Châu lên phòng trên lầu, Châu vừa vào tới nơi, thời cha H, Ngài liền đứng dậy bắt tay, mời Châu ngồi, trên sắc mặt ra cái vẻ xuân phong hào khí, vừa nghiêm túc vừa ôn tồn, phảng phất như toàn bức tinh thần của nhà tông giáo phát hiện ra trước mặt Châu.

Sau nửa phút đồng hồ ngài với Châu ngồi đối diện, liền nhả lời vàng ngọc mà nói với nhau. Châu rằng: “Cụ lấy tư cách một nhà văn nhân học sĩ, tới viếng trường Dòng này, tôi rất mực hoan nghênh. Bởi vì tư cách nhà văn nhân trái hẳn tư cách nhà chính trị. Của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ từ tạ văn nhân, mà lại rất vui lòng cho những bậc văn nhân thưởng thức”.

Tôi trả lời: “Vâng! Tôi vào tham quan nhà này có hai mục đích chính:

Một là: muốn biết tinh thần bác ái của nhà tông giáo.

Hai là: muốn nếm được chân lí, chắc Ngài cũng sẵn lòng chỉ dẫn cho tôi”.

Ngài rằng: “Tốt lắm! Tốt lắm! Nay tôi xin dẫn Cụ đi xem”.

Tôi đáp: “Vâng! Tôi thiên vạn cám ơn. Ngày này thiệt là ngày vinh hạnh của đời tôi”

Đoạn rồi Ngài lấy tư cách của chủ nhân dẫn tôi đi xem khắp ba tầng lầu. Bắt đầu xem ở Cung thánh, đến phòng dạy, phòng ăn, phòng ngủ, đến phòng diễn thuyết, phòng thầy tu. Trong các phòng quy mô rất thanh khiết, vừa chỉnh đốn vừa khang trang.

Đoạn rồi Ngài cùng vị giảng sư đưa tôi lên sân lộ thiên ở tầng trên, sân này là một chốn thường làm rất thanh cao, rộng rãi, tô bằng xi măng nhuốm sắc vàng, vừa khoan khoái vừa bình thản tưởng như những lúc trăng trong gió mát, mây tạnh trời quang, mà đặt chân vào trên sân này, thời in như đứng vào trong bức kính đồng. Tứ bề nước biếc non xanh, thảy ánh vào trong đôi cặp mắt, cảnh Tiên cõi Phật, e chẳng gì tốt hơn! Nhưng tiếc quá, lúc đó đương khi sau mùa hạ, mặt trời còn nép nấp ở trong đám mây mù, khiến cho kém bớt mấy phần hứng vị.

Ở trong lúc tham quan các phòng, mà khiến cho tôi được phần lợi ích riêng, là khi vào xem tàng thư viện. Trong viện đủ các thứ sách: sách chữ Tây, sách chữ Tàu, sách chữ Nam, thứ sách gì cũng có, mà người quản lí ở trong viện, lại là người tôi đã có duyên tương thức một lần, là ông cố G, cữu biệt trùng phùng cảm tình sâu đậm. Ông cho tôi mượn hai bản sách, bổ thêm óc chân lí cho tôi rất nhiều, tôi cám ơn về phần riêng ông nhiều lắm.

Kể từ khi bắt đầu vào nhà, cho đến lúc thăm bàn thờ Đức Mẹ, được thấy các việc trong ngoài, phúc con mắt của Phan Bội Châu, thật quá chừng đội ơn Chúa.

Ấy là đại lược đầu đuôi ở trong cuộc tham quan trường Dòng Cứu Thế. Về mặt hình thức thì biểu hiện ra những quy mô khoan bình thanh nhã, mà nhất là về mặt tinh thần, biểu hiện ra cái thái độ hòa bình nhân ái. Vì thế bắt buộc tôi phát sinh ra mấy mối cảm tưởng sau đây:

Mối cảm tưởng rằng thứ nhất là thấy trường Công Giáo trọng tinh thần mà không trọng vật chất, trọng thành ý mà không trọng hư văn. Bởi vì khi cha H, Ngài tiếp tôi vẫn dùng bằng lễ tân chủ, nhưng thuốc không, trà không, mà bánh rượu cũng không, nhất thiết những hình thức giả toàn là không ráo. Nhưng mà ở trong đôi tròng con mắt, biểu hiện ra cái vẻ rất nhân từ, mà quý hóa nhất lại là những nụ cười rất tự nhiên hòa nhã, những tiếng nói rất chân thành, thật thà.

Sách Nho có câu rằng: “Bất thành tắc vô tật, cố quân tử thành chi vi quý“, nghĩa là: Hễ việc gì không ý chân thật, thời có việc ấy mặc dầu cũng in như không. Cho nên những bậc quân tử rất quý trọng ở đạo thành.

Mối cảm tưởng thứ hai là rõ được đạo thờ Trời ở trong Công Giáo rất phù hợp với chân lí trong đạo Nho xưa.

Sách xưa có câu rằng: “Tế như tại, tế thần như thần tại“, nghĩa là hễ tế lễ Trời hay tế Thần, phải thường thường nhất tâm thành kính, như có Trời có Thần ở bên mình vậy. Chẳng một phút đồng hồ nào, mà quên lững Trời với Thần thế mới là tế.

Nay tôi được cung chiêm bàn thờ thánh ở trong trường nhà Dòng. Thấy nghiêm túc quá mà chẳng thấy phiền vãn, thấy cung kính mà chẳng thấy lễ vật. Ngọn đèn cây nến, biểu hiện ra cái vẻ quang minh, xem lễ đọc kinh, tỏ ra cái tính hòa mục, ngoài bấy nhiêu hình thức, chẳng thấy gì là mùi tục. Thế chẳng phải là tế như tại hay sao? Thật ta nên cảm phục.

Ấy là hai mối cảm tưởng như trên kia, chính vì một giờ đồng hồ tham quan nhà trường Cứu Thế.

(Báo Vì Chúa số 3, ngày 2-10-1936)

TRẢ LỜI VỀ “CÂU CHUYỆN TÔN GIÁO”

LTS: Tháng trước đây có người trong Giáo đồ mời cụ Sào Nam chơi nhà trường Cứu Thế. Sau đó Cụ có viết một bài, tỏ lời khen ngợi tôn chỉ đức Giáo Chủ…. Nhân đó, có tiếng truyền nhau rằng cụ Sào gần đây theo Giáo. Nhiều người viết thư lại bản báo hỏi. Bản báo kể lại với Cụ. Cụ đã viết trả lời như sau:

Đối với tôn chỉ các Giáo, như “Chúng sinh bình đẳng”, và “Kiêm ái chúng sinh”, chuyên một mục đích “Xả thân cứu thế” như đạo Chúa, đạo Phật, khi nào Cụ cũng tôn kính quý chuộng. Chính hồi Cụ Đông độ đã có nhiều bạn giáo đồ là đồng chí.

Vậy đối với tôn giáo, vẫn tôn kính các giáo lí hợp với nhân đạo đó, chứ không phải mê tín đem hương hoa cầu nguyện hay là tin cái thuyết “xuất thế” như ai đã tưởng.

(Tiếng Dân ngày 31-12-1936)

Theo Phan Bội Châu Toàn Tập – Tập 7 Văn xuôi 1925-1940 – Trang 504-507

http://bloganhvu.blogspot.com/

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Đăng bởi lúc 2:27 Sáng 11/10/13

VRNs (11.10.2013) – Gia Lai – 1- Trong những ngày tháng cuối cùng của Năm Đức Tin này, chúng ta hãy đọc lại một vài đoạn liên quan đến Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II (bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Piô X) như ý nguyện của Hội Thánh qua Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin” của Đức Bênêđiktô XVI.

Ad Gentes (Sắc Lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Hội Thánh),

Chương I, 6:

“Ðược gọi chung là “việc truyền giáo” tất cả những công cuộc đặc biệt giúp đỡ các nhà rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội 14* đang đi khắp thế gian để thực hiện chức vụ rao giảng Phúc Âm, và “trồng” Giáo Hội vào các dân tộc, cũng như những nhóm người chưa tin Chúa Kitô; những công cuộc này được hoàn thành nhờ hoạt động truyền giáo, và phần nhiều được thực hiện trong những địa hạt nhất định mà Tòa Thánh đã công nhận. Mục đích riêng của hoạt động truyền giáo này là rao giảng Phúc Âm (evangelizatio) và trồng Giáo Hội vào các dân tộc hay những nhóm người mà Giáo Hội còn chưa bén rễ 34. Như thế, do hạt giống lời Chúa (bản dịch chính thức bằng tiếng Pháp: nées de la Parole de Dieu), các Giáo Ðoàn địa phương một khi đã được thiết lập đầy đủ khắp nơi trên thế giới, phải lớn lên, và, một khi thực sự tự mình có đủ sức sống và trưởng thành, nghĩa là đã được thiết lập Hàng Giáo Phẩm riêng, phải hiệp nhất với dân trung thành; đồng thời có những phương tiện hầu như tương ứng để sống đầy đủ đời sống Kitô giáo, các Giáo Ðoàn đó phải góp phần vào lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Phương tiện chính để gieo trồng các Giáo Ðoàn này là việc rao giảng Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô; chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm, để sau khi con người đã được tái sinh do lời Thiên Chúa (coi 1Phêrô 1,23) sẽ nhờ phép Rửa mà gia nhập Giáo Hội, một Giáo Hội, với tư cách là thân xác của Ngôi Lời nhập thể, được nuôi dưỡng và sống động bằng lời Chúa và bánh thánh thể (coi Cv 2,42).”

Lumen Gentium – Hiến Chế về Hội Thánh – chương 2 số 17:

17. Tính cách truyền giáo của Giáo Hội. Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21) khi Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, lệnh mà Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Ðồ để chu toàn khắp cõi đất (x. CvTđ 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông Ðồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor 9,16), và vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Phúc Âm (opus evangelizandi). Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho cả thế giới. Bằng việc rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Thánh Tẩy, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân thể Chúa Kitô, hầu nhờ đức ái, họ tăng triển mãi trong Người cho đến khi đạt tới viên mãn. Thực ra, những gì (bản tiếng Pháp: germes de bien) thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con người. Mỗi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần truyền bá đức tin 21. Tuy bất cứ ai cũng có thể ban phép Thánh Tẩy cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất, xây dựng Nhiệm Thể bằng hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miệng tiên tri: “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Mal 1,11) 22. Như thế Giáo Hội vừa cầu nguyện vừa hoạt động để toàn thể vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân Thể Chúa Kitô và Ðền Thờ Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Kitô là thủ lãnh muôn loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng lên Chúa Cha Ðấng Tạo Thành vũ trụ. (Bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Pio X).

2- Làm rõ một vài từ

VIỆC TRUYỀN GIÁO: Từ chính thức của HT là MISSIO do bởi động từ MITTERE có nghĩa là gửi đi, sai đi. Ý nghĩa này được nói rõ trong chính bản văn Công Đồng: “Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21)… vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm.” Việt Nam quen dùng từ TRUYỀN GIÁO (thiếu ý “được sai”, “được gửi đi” rất căn bản trong căn tính thừa sai của HT). Có người nói là SỨ MẠNG và SỨ VỤ. Từ sau Công đồng Vatican II, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (Congregatio pro Propaganda Fidei) được đổi là Thánh Bộ Phúc Âm Hóa (Congregatio Evangelisationis): Không còn “truyền bá” như trong ý “truyền giáo” của Việt Nam, mà là “phúc âm hóa”.

PHÚC ÂM HÓA – dịch từ EVANGELIZATIO. EVANGELIUM trước đây chúng ta gọi là PHÚC ÂM, nay chúng ta quen gọi là TIN MỪNG. Muốn có một động từ Việt cho EVANGELIUM, chúng ta bắt buộc phải dùng từ PHÚC ÂM HÓA (hán việt), không dùng được từ TIN MỪNG HÓA (vì lẫn cả hán cả việt). Trong bản văn trên, khi gặp từ EVANGELIZATIO, dịch giả đã dịch là rao giảng Phúc Âm. Rõ ràng dịch như thế là chưa lột hết ý của EVANGELIZATIO. Vậy ta có thể đồng ý chăng EVANGELIZATIO là làm cho tất cả thành PHÚC ÂM, thành TIN MỪNG? Và chúng ta cũng hãy khẳng định ngay với nhau: TIN MỪNG hay PHÚC ÂM là CHÍNH CHÚA YÊSU KITÔ.

3- Những yếu tố làm thành căn tính truyền giáo (thừa sai – nature missionnaire – missionary nature) của Hội Thánh qua hai bản văn trên đây: HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA – PHÚC ÂM và PHÚC ÂM HÓA – CẦU NGUYỆN – CHÚA THÁNH THẦN – GIÁO ĐOÀN – GIÁO HỘI – TRỒNG GIÁO ĐOÀN, TRỒNG GIÁO HỘI SỐNG BẰNG LỜI CHÚA và THÁNH THỂ, TRƯỞNG THÀNH VÀ TIẾP TỤC PHÚC ÂM HÓA VỚI HỘI NHẬP VĂN HÓA.

4- SỨ VỤ JRAI

Từ 1969 đến 1988: Chia sẻ cuộc sống làm Jrai với Jrai. Học sống, học làm, học nói… với Jrai. Giai đoạn Nazareth. Theo Yêsu Nazareth.

Từ 1988 đến 2005: Khi người Jrai xin nhập Đạo, chúng tôi chỉ có cuốn Tân Ước Jrai. Chúng tôi cùng người Jrai đọc và cầu nguyện theo Lời Chúa (Xin thể hiện cho tôi theo như Lời của Ngài). Lời Chúa được coi như Bí Tích – Lc 11, 9-13. Tiêu chuẩn để nhận ra lòng tin của người dự tòng là khi họ bắt đầu biết cầu nguyện (như Ông Kpă Hui-Ama Bloach, Bà Yă Nay H’Pip, Con Ama Tit…). Đánh máy một câu Lời Chúa cho mỗi ngày: trong gia đình ai biết đọc thì đọc cho mọi người cầu nguyện theo. Dần dần lập những nhóm cấu nguyện trong các làng. Nên di chuyển từ nhà này qua nhà khác. Đặc biệt chú ý tới những gia đình có người đau yếu, già cả, gặp khó khăn… Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Mỗi tuần có một ngày cho nam giới, một ngày cho nữ giới, một ngày cho giới trẻ, một ngày cho những người phục vụ Lời, qui tụ về Nhà Trung Tâm, đọc Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Lời Chúa lan tràn. Lời cầu nguyện lan tràn. Ơn Chúa lan tràn. Nhiều người trở lại. Người ta kêu anh chị em dự tòng Như Plei Tao Klah), tân tòng (như Plei Buch Sor) đi loan báo Lời Chúa và cầu nguyện. Một sứ vụ cầu nguyện (ĐTC Phanxicô: Đi vào sứ vụ bằng hai đầu gối). Một sứ vụ như thế phù hợp với những người hèn mọn. – Và đối với dự tòng là đọc theo Kêrygma – Lời Khởi Giảng – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA. Vị giảng thuyết của Nhà Giáo Hoàng, Cha Raniero Cantalamessa, trong bài giảng thứ nhất Mùa Vọng, thứ sáu 07.12.12, tại Vatican trước sự hiện diện của Đức Bênêđictô XVI và giáo triều Rôma:

“Thời đầu HT, có sự phân biệt giữa kêrygma (khởi giảng) và điđakhê (huấn giáo). Trong kêrygma, mà Phaolô cũng gọi là « Tin Mừng »,  có liên quan đến hoạt động của TCh trong Đức Kitô Yêsu, đến mầu nhiệm vượt qua chết sống lại, diễn đạt bằng những mệnh đề ngắn về đức tin, như mệnh đề trong lời lẽ của Phêrô vào ngày Ngũ Tuần : «Các ông đã thủ tiêu Ngài bằng cách đóng đinh Ngài vào thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy và tôn Ngài làm Chúa» (coi Cv 2, 23-36), hay câu : «Nếu bạn tuyên xưng nơi miệng bạn : Đức Yêsu là Chúa và nếu bạn tin trong lòng bạn : Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy từ cõi chết, bạn  được cứu » (Rm 10,9).”

“Điđakhê, trái lại, chỉ giáo huấn ban cho những người đã đón nhận đức tin, sự triển khai, đào tạo toàn diện của tín hữu. Người ta xác tín (nhất là Thánh Phaolô) rằng đức tin đích thật, chỉ xuất hiện với kêrygma. Kêrygma không phải chỉ là tóm kết của đức tin hay là một phần của đức tin, nhưng là mầm giống từ đó xuất hiện mọi thứ còn lại. Bốn tin mừng cũng được viết ra sau, chính là để quảng diễn kêrygma…. Và ngày hôm nay, chính chúng ta – trước tiên là các giám mục, các nhà giảng thuyết, các giáo lý viên – phải làm nổi bật cái tính cách « đặc biệt » của kêrygma như là thời điểm nẩy mầm của đức tin.” Tất cả Tân Ước được viết theo khuôn mẫu Kêrygma. Tất cả Phụng Vụ và các Bí Tích của Hội Thánh được xây dựng theo khuôn mẫu Kêrygma. Đỉnh điểm mà đón nhận và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa để Ngài đổ tràn Thần Khí cho (Cv 2, 32-36), để Chúa Thánh Thần thánh hóa (thần hóa, linh hóa) để làm con của Cha (Gal 4, 6), “sống bởi Thần Khí, thì cũng theo Thần Khí mà tiến bước” (Gal 5,25). Thần Khí luôn luôn làm chứng và lôi kéo chúng ta làm chứng với Ngài (Ga 15, 26-27). Ngài luôn xuất phát như trong ngày Hiện Xuống. Ngài là linh hồn của Hội Thánh Thừa Sai.

“Đừng sợ hãi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và rộng mở con tim cho các sự mới mẻ của Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 250.000 thành viên các phong trào, và hội đoàn giáo dân trong thánh lễ cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng 19 tháng 5, là lễ Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Đức Thánh Cha nêu bật ba yếu tố gắn liền với hoạt động của Chúa Thánh Thần: đó là sự mới mẻ, hòa hợp và sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Ngài nói:

Sự mới mẻ ở đây không phải là vấn đề phải có cái mới, không phải là việc tìm kiếm cái mới để vượt thắng sự nhàm chán, như thường xảy ra trong thời đại chúng ta. Sự mới mẻ mà Thiên Chúa mang đến trong đời ta là điều gì đó thật sự mang lại sự viên mãn, niềm vui đích thực, sự thanh thản đúng nghĩa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chỉ muốn thiện ích cho chúng ta.

Đề cập tới sự hòa hợp là hoa trái hoạt động của Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:

Bề ngoài xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo Hội, bởi vì Người đem tới sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Người tất cả điều này, trái lại, là nguồn mạch to lớn cho sự phong phú, vì Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất; sự hiệp nhất không có nghĩa là sự đồng nhất, nhưng dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Trong Giáo Hội Chúa Thánh Thần tạo ra sự hài hòa.

Điểm sau cùng là sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta mở cửa để ra ngoài, để loan báo và làm chứng cho cuộc sống mới của Tin Mừng, để thông truyền niềm vui của đức tin, của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Điều đã xảy ra tại Giêrusalem cách đây 2000 năm không phải là một sự kiện xa xăm với chúng ta, nhưng là một sự kiện ảnh hưởng tới chúng ta, và là một kinh nghiệm sống động trong chúng ta”.

Đức Thánh Cha đã cảm ơn các tất cả các phong trào, cộng đoàn, đoàn thể, hiệp hội. Ngài nói: “Anh chị em là một ân sủng, và là sự phong phú cho Giáo Hội. Chính anh chị em là sự giầu có của Giáo Hội.”

Cũng trong những ngày ấy, có người hỏi Đức Thánh Cha:

HT mời gọi chúng con vào «tân phúc âm hóa». Con nghĩ rằng tất cả chúng ta ở đây đều nghiệm thấy mạnh mẽ thách đố ở ngay trung tâm những trải nghiệm của chúng ta. Vì thế, thưa Đức Thánh Cha, con xin ĐTC giúp con và giúp tất cả chúng con hiểu và sống thách đố này của thời đại chúng ta. Theo ĐTC, điều gì là quan trọng nhất mà chúng con phải nhìn vào để tiến hành phần vụ mà chúng con được kêu gọi thực thi? Câu trả lời của ĐTC Phanxicô:

Cha sẽ chỉ nói ba từ.

Từ thứ nhất là Yêsu. Điều gì quan trọng nhất ? Đó là Yêsu. Nếu chúng ta dựa vào tổ chức, vào những điều khác, những điều tốt lành, mà không có Yêsu, chúng ta chẳng tiến lên được, chẳng đi tới đâu. Yêsu là quan trọng nhất. Bây giờ, Cha muốn trách chúng con một tí, nhưng một cách huynh đệ, giữa chúng ta với nhau. Anh chị em đã hô lên trong quảng trường : « Phanxicô, Phanxicô, ĐGH Phanxicô ». Nhưng Yêsu, Ngài đâu rồi ? Cha muốn chúng con kêu lên : « Yêsu, Yêsu là Chúa, và Ngài thực sự ở giữa chúng ta ». Từ giờ, không « Phanxicô » nữa, nhưng là « Yêsu » !

Từ thứ hai là: Cầu nguyện. Nhìn vào khuôn mặt của ĐCT, nhưng nhất là, và điều này liên hệ với điều Cha đã nói trước, nghiệm thấy được Chúa nhìn mình. Chúa nhìn chúng ta, Ngài nhìn chúng ta trước. Đó là điều mà Cha nghiệm thấy khi ở trước sagrario (Nhà Tạm) khi Cha đi cầu nguyện, buổi tối, trước Chúa. Vài lần Cha có thiếp ngủ chút ít ; thật sự, vì mệt nhọc suốt ngày, bạn cũng thiếp ngủ chút chút. Nhưng Ngài thì Ngài hiểu Cha. Cha cảm thấy cả một niềm an ủi khi Cha nghĩ là Ngài nhìn Cha. Chúng ta nghĩ là chúng ta phải cầu nguyện, nói, nói, nói… Không ! Bạn hãy để cho Chúa nhìn bạn. Khi Ngài nhìn bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh và giúp bạn làm chứng về Ngài – bởi vì vấn đề là chứng từ đức tin, phải không ? Trước là « Yêsu », rồi « cầu nguyện » – chúng ta cảm thấy ĐCT nắm lấy tay chúng ta. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này là : để cho Ngài dẫn đưa ta. Đây là điều quan trong hơn bất cứ tính toán nào. Chúng ta là những người loan báo Tin Mừng đích thực khi chúng ta để cho Ngài dẫn ta. Chúng ta hãy nghĩ tới Phêrô ; có lẽ ngài đã ngủ trưa, sau bữa ăn, và ngài có một thị kiến, thị kiến về tấm khăn với mọi thứ sinh vật, và ngài đã nghe Chúa Yêsu nói điều gì đó mà ngài không hiểu. Lúc đó, có nhiều người không phải là do thái đến tìm ngài để đến một căn nhà, và ngài đã thấy CTT ở đó. Phêrô đã để cho Chúa Yêsu dẫn để đi tới việc phúc âm hóa đầu tiên cho Muôn Dân, không phải là người Do Thái : đó là một điều không thể tưởng được vào thời đó (coi Cv 10, 9-33). Và tất cả lịch sử là như thế, tất cả lịch sử ! Để cho Yêsu dẫn. Ngài đích thật là lãnh đạo, vị lãnh đạo của chúng ta, là Yêsu.

Và từ thứ ba, làm chứng. Yêsu, cầu nguyện – cầu nguyện: để cho Chúa dẫn dắt – và tiếp đến là làm chứng. Nhưng Cha muôn thêm. Để cho Chúa Yêsu dẫn dắt đưa ta tới những bất ngờ của Chúa Yêsu. Người ta có thể nghĩ rằng phúc âm hóa, là chúng ta phải lên chương trình xung quanh một cái bàn, nghĩ rằng phải có những chiến lược, phải có những dự án. Điều quan trọng là Yêsu và để cho Ngài dẫn dắt. Sau đó chúng ta có thể soạn những chiến lược, nhưng đó là thứ yếu.

Cuối cùng là, làm chứng. Thông truyền đức tin chỉ có thể thực hiện bằng làm chứng và đó là yêu mến. Chứ không phải bằng những ý tưởng của chúng ta, nhưng là bằng tin mừng được sống trong hiện sinh của chúng ta và mà CTT làm cho sống trong chúng ta. Đó như là hiệp lực giữa chúng ta và CTT, và điều đó dẫn tới việc làm chứng. Như Đức GP II và Bênêđictô XVI đã nói, thế giới ngày nay rất cần tới những chứng nhân. Chứ không nhất thiết là những vị thầy, nhưng là những chứng nhân. ACE đừng có nói nhiều quá, nhưng hãy nói bằng tất cả cuộc sống của ACE : sống gắn kết, đúng rồi, một đời đời sống gắn kết! Một đời sống gắn kết ở chỗ sống đạo Kitô như là một sự gặp gỡ với Chúa Yêsu dẫn ta đến với tha nhân, chứ không phải sống như một hiện tượng xã hội. Về mặt xã hội, chúng ta là như thế, chúng ta là những kitô hữu, khép lại trên chính mình. Không, không phải như thế ! Mà là làm chứng !

Giuse Trần Sĩ Tín, CSsR

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Posted on 09/10/2013 by danchuahiepthong

Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.

Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.

Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.

Trích: Lẽ Sống

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Posted on 09/10/2013

Bài nói chuyện của cha Nguyễn Uy Sĩ trong “Đêm Gia Đình” hằng tháng do Gia Đình Nazareth tổ chức tại Trung Tâm Công Giáo Giáo phận Orange County.

Mở đầu bài nói chuyện cha cho biết cha sẽ “nói thẳng, nói thật” dựa vào thực tế đời sống…Con cháu chúng ta sống giữa sự pha trộn của hai nền văn hóa khác biệt nhau: Cha mẹ sống theo văn hóa Việt, con cháu lớn lên, đi học sống theo văn hóa Mỹ. Sự tác động qua lại của hai nền văn hóa này rất phức tạp gây nhiều khó khăn trong đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống đức tin. Cha đề nghị 7 cách thức đễ giúp con cháu chúng ta sống đức tin Công Giáo tốt hơn.

1. Hãy tạo những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ về Đức Tin Công Giáo

Kỷ niệm đẹp về ngày rước lễ lần đầu chẳng hạn, hay những lúc gia đình quây quần ấm cúng đọc kinh tối, những lần đưa đón con đi học giáo lý về lúc trời mưa gió…mẹ con rủ nhau đi ăn phở cho ấm hoặc cả nhà cùng cầu nguyện chung với nhau trước những biến cố quan trọng của gia đình…Khi nhớ lại những kỷ niệm đẹp này sẽ giúp con cháu giữ đức tin sống động hơn.

Nếu không tạo được những kỷ niệm đẹp thì ít ra đừng tạo ra những ấn tượng xấu trong đời sống đức tin như la rầy quát mắng ép con đọc kinh tối dài lê thê “vừa đọc, vừa ngủ” khiến mỗi lần nhớ tới là chúng thấy “ớn”!

Đôi khi đối với giới trẻ tham dự thánh lễ là tham dự một hình thức “lập đi lập lại” đến nhàm chán, rất “boring”! (có lần tôi nghe một cha giảng tỉnh tâm tiết lộ ngay cả các cha, có cha cũng không thích dâng lễ mỗi ngày!?). Trong khi cha mẹ lại cho đó là một cách sống đạo sốt sắng, nhiều khi “nghiện” đi lễ, không đi không được Nhưng chúng ta không có quyền áp đặt bắt chúng phải giống ta, chỉ còn có cách là dùng tình cảm để thuyết phục chúng. Hãy ân cần giải thích cho trẻ hiểu: “Chúa thương và ban ơn cho con rất nhiều.( bao nhiêu người khác không có).

Bây giờ mỗi tuần Chúa chỉ xin con một giờ dự lễ để thờ phượng, cám ơn Chúa, chẳng lẽ con hẹp hòi mà lại nở từ chối không cho Chúa 1 giờ sao”? Nói chuyện tình cảm thì trẻ dễ “thông” hơn là ép buộc.

Thỉnh thoảng cha mẹ cũng nên khéo léo “thưởng” con khi trẻ dự lể sốt sắng, giỏi trong nhà thờ…làm trẻ vui khi được khuyến khích sẽ dễ tiến bộ hơn!

2. Hãy Cho phép con lý luận về mọi vấn đề kể cả về Đức Tin

Văn hóa Việt Nam không cho phép đặt vấn đề hay thắc mắc đối với cha mẹ, thầy cô. Đó là hỗn láo, là vô lễ! Mọi việc “bảo sao, nghe vậy” hoặc “Đặt đâu, ngồi đó” vì “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” (Có ông bố “lăng nhăng” bị con bắt gặp, bèn đặt vấn đề thì bố cho là hỗn láo, mất dạy “chuyện của người lớn, chúng bây là con cái không được phép xía vào”!?).

Văn hóa Mỹ cho phép đặt vấn đề đối với mọi việc, có thắc mắc nhiều, trẻ mới có cơ hội mở mang kiến thức và hiểu rõ vấn đề. Nếu trẻ có thắc mắc chính đáng cần phải được trả lời đàng hoàng chứ không dùng lối “cả vú lấp miệng em”! Nếu trẻ thắc mắc về đức tin, đừng “bịt miệng” trẻ mà cứ ôn tồn giải thích cho chúng hiểu, nếu có “bí” thì tìm hỏi cha hay các soeur. Do đó đề nghị ông bà cha mẹ tham dự học các lớp thánh kinh để thông suốt và khỏi bị “bí”.

3. “Ngọt như đường cát, mát như đường phèn”

Lời nói của ông bà xưa vẫn rất đúng: “Nói ngọt, lọt tới xương” dù với văn hóa Việt Nam hay Mỹ, nhưng rất tiếc là ông bà cha mẹ Việt Nam lại thích lối “rầy la đe nẹt” con cháu để ép chúng vào khuôn khổ đạo đức như ý mình muốn, làm chúng có ấn tượng xấu với đời sống đức tin. Chúng ta đã quên mất câu “Nhập gia tùy tục”!

Muốn đạt kết quả tốt chúng ta nên dùng lời ngon ngọt, khuyến khích, khen thưởng sẽ hiệu quả hơn. Thánh Don Bosco cho biết “Một muổng mật ong bắt được nhiều ruồi, hơn một thùng phuy dấm”. Chúng ta phải rành “tâm lý”, ở đời ai chả thích khen, người lớn cũng thích mà trẻ thì lại thích hơn. Cha mẹ thầy cô giáo Mỹ hở ra một tí là khen tíu tít : “Good job” “Excellent”…(Tôi nhớ lúc còn đi dạy nhà trường in ra sẳn cho các cô giáo một trang giấy với cả vài chục cách khen, để cô giáo linh động áp dụng hằng ngày mà khen đủ cách cho học trò vui ).

Trong khi cha mẹ Việt Nam thì ngược lại, hở ra một tí là la rầy, bắt bẽ… “kẻo nó hư”! thành ra trẻ không cảm thấy thích thú khi thi hành những yêu cầu của cha mẹ, nhất là những việc thuộc đời sống đức tin. Nếu muốn sửa dạy, chúng ta cũng nhớ khen trước rồi mới sửa sau thì trẻ sẽ dễ tiếp thu hơn!

4. Cùng phục vụ xã hội, đi làm từ thiện với con cháu…

Khi chúng ta làm những việc từ thiện, bác ái, giúp đỡ người nghèo là chúng ta đang sống đức tin, thực hiện điều răn quan trọng chúa đã truyền dạy là “Chúng con hãy yêu thương nhau”. Chúng ta hãy rủ con cháu cùng tham gia, cộng tác với chúng ta trong các việc làm bác ái này, đừng âm thầm làm một mình! Đó là cách chúng ta giúp chúng phát triễn lòng thương người vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam:

Thuơng người như thể thương thân” hoặc “Thấy ai hoạn nạn thì thương

“Thương người và giúp đở người họan nạn” là điều tốt mà cả hai nền văn hóa Mỹ – Việt đều có. Trẻ con Mỹ cũng rất thương người. Rủ con cháu cùng đóng góp tiền giúp nạn nhân bảo lụt (“của ít lòng nhiều”) cùng đi phát thức ăn cho người vô gia cư…Nếu có dịp đưa chúng về Việt Nam thăm các trại nuôi trẻ mồ côi, người già neo đơn…để chúng ý thức hơn hoàn cảnh tốt đẹp mà Chúa đã ban cho chúng hiện nay.

Ngoài ra cùng đi làm việc từ thiện là cách phát triển tốt đẹp sợi dây thân ái gắn bó với nhau trong gia đình theo chiều hướng tốt đẹp nhất mà chắc chắn Chúa sẽ hài lòng và chúc phúc cho gia đình chúng ta!

5. Đừng phản ứng gắt gao khi con cháu bỏ lễ Chúa nhật…

Đức tin là mối tương quan giữa Chúa và con người. Mối tương quan nào cũng có lúc trầm, lúc bỗng, lúc gần gũi, lúc xa cách. Khi thấy con cháu lớn lên đi học xa, đi làm xa rồi bỏ lễ Chúa nhật, chúng ta đừng hốt hoảng phản ứng gắt gao, nhất là các bà mẹ đừng vật vả than khóc, thất vọng ê chề : “Lạy Chúa chúng bỏ nhà thờ, bỏ đạo mất linh hồn..”! Than khóc, u sầu không giải quyết được gì! Càng làm chúng xa cách chúng ta thêm! Chúng ta phải phản ứng trầm tỉnh, nhắc nhỡ nhẹ nhàng. Cầu nguyện cho chúng, nhắc nhỡ chúng cầu nguyện trước những sự việc quan trọng (thi cử, kiếm việc…) để Chúa ban ơn.

Nếu đã làm hết cách rồi mà không có kết quả thì cũng không nên áy náy, buồn phiền, hãy “phó thác cho Chúa” vì chúng đã lớn khôn rồi!. Chúng ta đã làm hết bổn phận của mình, phần còn lại giao cho Chúa lo liệu, rồi an tâm tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa trong mọi sự!

6. Hãy nhớ con cháu luôn quan sát cha mẹ…

Cha mẹ có thói quen hay xem thường con cháu còn nhỏ không biết gì!Thực ra chúng rất khôn và quan sát chúng ta một cách tinh tế! Chúng biết hết nhưng không nói ra, khi có dịp ngồi lại với nhau chúng luôn phê bình cha mẹ là “giả hình” vì cha mẹ đi nhà thờ đọc kinh sốt sắng, giảng dạy cho chúng những điều hay lẻ phải, nhưng khi chúng quan sát trong đời sống hằng ngày, chúng thấy cha mẹ lại làm ngược lại: nói xấu bạn bè, chê bai người này, phê bình người nọ, nói dối tối đa khi cần để có nhiều quyền lợi, đôi khi còn xúi chúng nói dối theo, không tôn trọng lẽ công bằng…mà vẫn sống vô tư như mình chẳng có lỗi gì!

Nhiều cha mẹ nếu thành khẩn nghiêm túc xét lại bản thân chắc sẽ giật mình vì chúng ta đã làm gương xấu cho con cháu! “Trăm nghe không bằng một thấy”, chúng ta hãy giảng dạy bằng đời sống và hành động theo phúc âm, chắc chắn sẽ có tác dụng giáo dục đức tin tốt hơn bằng lời nói suông! Đối với giới trẻ trắng đen phải rõ ràng minh bạch, chúng không thích kiểu “nói một đàng, làm một nẻo” hay mỉa mai hơn khi sửa lại câu nói để đời của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu mà vẫn thấy chí lý:

“Đừng nghe những gì cha mẹ nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cha mẹ làm”!

Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô cũng vừa đưa ra lời kêu gọi giáo dân đừng sống giả dối, mà hãy sống thành thật với Chúa và với mọi người!

7. Cầu nguyện với Chúa cho con cháu

+ Để thánh ý Chúa được thực thi trên đời sống con cháu

chứ không phải để ý con được thực hiện trên nó. Có cha mẹ, con muốn đi tu nhưng không cho vì tiếc! Có cha mẹ ép con phải học bác sĩ dù nó không thích! Cách đây vài năm ở vùng Graden Grove có một vụ án mạng con trai bóp cổ mẹ chết, chỉ vì bà mẹ cương quyết bắt con phải học bác sĩ dù con không muốn!. Thực ra ngành nghề nào cũng tốt, quan trọng là nhân cách tốt, chứ học ra bác sĩ mà bất nhân, bất lương (lừa gạt bệnh nhân, gian lận Medical…) thì xấu hổ lắm!

+ Ăn chay, hãm mình, hy sinh để cầu nguyện cho con cháu

Trước đây tôi vẫn nghĩ đó là truyền thống bên đạo Phật, họ ăn chay để cầu nguyện và cám ơn khi xin được ơn! Đây là một truyền thống tốt đẹp, chắc các bà mẹ nghe cha nói từ nay sẽ lo ăn chay hãm mình nhiều hơn để cầu nguyện cho con cháu.

+ Luôn nói với con cháu là mình đang cầu nguyện cho nó

Phần này tôi có kinh nghiệm vì tôi vẫn thường nói với con tôi “Mẹ cầu nguyện cho con mỗi ngày”, chúng nghe lơ là như không để vào lổ tai, nhưng khi chúng gặp khó khăn trong đời sống, hay trước những sự việc gì quan trọng là chúng nhớ gọi và dặn dò tôi “Mẹ nhớ cầu nguyện nhiều cho con nghen”! Như vậy là trong tiềm thức chúng vẫn tin vào lời cầu nguyện, vẫn tin vào Chúa…

Buổi nói chuyện được kết thúc bằng bài hát “Bao La tình Chúa” với sự hợp ca của tất cả mọi người để cùng thấm thía:

“Hồng ân chúa như mưa, như mưa
Rơi xuống đời con miên man, miên man
Nâng đỡ tình con trong tay, trong tay vòng tay thương mến

Đời có Chúa êm trôi, êm trôi, Chúa dắt dìu con luôn luôn không thôi
Có Chúa cùng đi con không đơn côi! Ôi tình tuyệt vời”!

Phượng Vũ

Dòng suối ân tình

Dòng suối ân tình

(Lc 17, 15)


Thiên Phúc


Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:

– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?

Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:

– Vì đôi mắt của con rất đẹp!

– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?

– Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.

Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
***
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13, 1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.

Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1, 4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4, 10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.

***

Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.

Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.

Têrêsa  Ngọc Nga