THẾ NÀO LÀ CẦU NGUYỆN?

THẾ NÀO LÀ CẦU NGUYỆN?

Cầu nguyện là lắng tai nghe tiếng Chúa nói với ta

Cầu nguyện là tiếp nhận những gì Chúa muốn ban cho

Cầu nguyện là đón nhận ơn tha thứ từ nơi Chúa

Cầu nguyện là quy hướng về Chúa mọi việc ta làm

Cầu nguyện là để Chúa chiếm ngự linh hồn mình

Cầu nguyện là tưởng nghĩ đến Chúa với tâm tình thân mật thiết tha

Cầu nguyện là tìm hiểu rằng ta được Chúa thương yêu giữ gìn coi sóc

Cầu nguyện là liên lạc với Chúa như với người thân mến yêu thương

Cầu nguyện là để mình chìm đắm trong Chúa; là biển cả yêu thương

Cầu nguyện là đi vào cảnh thinh lặng

Cầu nguyện là mến thương trò chuyện với Chúa

Cầu nguyện chỉ là việc hiệp nhất với Thiên Chúa

Cầu nguyện là tin rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý

Cầu nguyện là gỡ tấm màn để nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa

Cầu nguyện là sẵn sàng để Chúa có thể nói với ta những gì Người muốn nói

Cầu nguyện là phó thác để Chúa có thể làm ở trong ta những gì Người muốn làm

Cầu nguyện là tiến lại gần Chúa, để thấy rằng Chúa tuy xa song lại rất gần gũi

Cầu nguyện là đi sâu vào tâm hồn Đấng mình gọi là Cha, mặc dù mình tội lỗi bất xứng

Cầu nguyện là hướng mình về Chúa như hướng về mặt trời để được Người sưởi ấm tâm hồn

Cầu nguyện là xác tín rằng Thiên Chúa biết rõ hơn chúng ta những gì ta cần

Cầu nguyện là tìm cách hòa đồng ước muốn của mình với Thánh ý Chúa

Cầu nguyện là tin rằng Chúa không ngừng chăm nom săn sóc và phù trợ ta

Cầu nguyện là tin rằng có Chúa Quan Phòng, đếm từng sợi tóc trên đầu ta

Cầu nguyện là ngừng bước, là suy tư, là sắp xếp giờ giấc và việc làm theo ý Chúa

Cầu nguyện là mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa, để Người thông truyền cho ta Tình yêu bao la của Người

Cầu nguyện là để Thánh Thần Chúa đưa mình vươn lên tới Đức Chúa Cha trong Đức Chúa Con

Cầu nguyện là yên lặng nhìn ngắm Chúa, không cầu nói năng, là nói với Chúa bằng ánh mắt và bằng suy tư

Cầu nguyện là tiếng rên xiết lo âu, là lời khẩn cầu ơn cứu trợ, là việc chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa

Cầu nguyện là chấp nhận quyền ưu tiên của Thiên Chúa, là nhận Người làm chủ tế đời sống mình

Cầu nguyện là giữ thái độ phó thác của trẻ thơ, biết tin cậy vào sự chăm sóc của Thiên Chúa, là người Cha nhân hậu

Cầu nguyện là thay đổi ý định của mình và tôn trọng ý định của Thiên Chúa

Cầu nguyện là chấp nhận để một “người khác” (và đây là Thiên Chúa) “quấy rầy” mình.

Cầu nguyện là một cử chỉ xác tín rằng:

Thiên Chúa hiện hữu

Thiên Chúa đang nhìn xem ta

Thiên Chúa lắng tai nghe ta

Thiên Chúa trả lời và cứu trợ ta

Thiên Chúa thương ta như Cha thương con

 

Cầu nguyện là tất cả:

là nghe tiếng Chúa nói

là sẵn sàng làm theo lệnh Người truyền

là ngợi khen, chúc tụng,  cầu khẩn

Cầu nguyện là để Chúa cải hóa bản thân ta

Cầu nguyện là nhận thức rằng mình yếu đuối

Cầu nguyện là hành động của trẻ thơ,

biết mình vụng dại

biết mình hèn mọn

biết mình mỏng dòn

nhưng cũng biết rằng Chúa là “Mẹ hiền”

là “Người Cha vô cùng nhân hậu”

 

Cầu nguyện là thú nhận với Chúa:

tuy con yếu đuối

tuy con tội lỗi

tuy con đầy khuyết điểm,

nhưng vẫn được Chúa thương yêu.

 

Cầu nguyện đôi khi cũng là lời thú nhận với Chúa:

Con không hiểu việc Chúa làm

Không hiểu tại sao con phải đau khổ

Nhưng con vẫn tin rằng Chúa làm thế, để xảy ra như thế là vì yêu thương con

Cầu nguyện là xin Chúa hãy đến trong ta để hướng dẫn việc ta phấn đấu với ba thù

Cầu nguyện là vặn nút đài cho tâm hồn mình trùng với tần-số của Thiên Chúa

Cầu nguyện là gửi đi một lá thư, một bức điện tín và tin rằng Chúa sẽ nhận được

Cầu nguyện là chăm chú tiếp nhận thư từ điện tín từ trời cao Chúa gửi riêng cho ta

Cầu nguyện là dùng ngôn ngữ của Thiên Chúa, chứ không phải ngôn ngữ của trần gian

Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa ban mai, là then cửa cài khi đêm tối đến

Cầu nguyện là thứ võ khí vô song có sức mở rộng Trái Tim Thiên Chúa

Cầu nguyện là mến Chúa khi ăn, khi ngủ, khi sống giữa trần gian

Cầu nguyện là để Thánh Thần Chúa hành động trong ta, để Người uốn nắn tư tưởng và hành động của ta, hầu trở thành “đất sét trong tay người thợ gốm”

Cầu nguyện là để cho “nhựa sống thần linh” lưu chuyển trong ta và làm cho ta được sống.

Cầu nguyện là dành cho Chúa chút thì giờ để Người thực hiện trong ta không ưa nhưng Người lại muốn

Cầu nguyện là bắt nhịp cầu liên lạc với Đấng Vô-hình, mắt ta không nhìn thấy song tâm hồn ta lại cảm thấy đang hiện diện trong mình

Cầu nguyện là một giòng sông tự vẽ cho mình hướng chảy, tự tạo cho mình bề rộng mênh mông và chảy ra biển cả là Thiên Chúa

 

CẦU NGUYỆN LÀ NHƯ VẬY ĐÓ!

 

Michel Germain Guillot – NVH chuyển dịch

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

MÙA THI,

MÙA THI,

Kính tặng quý Thầy Cô
và các bạn LVC.

Ngày thi gần đến rồi,

Sao anh cứ quấy tôi,

Học bài mau kẻo trễ,

Thầy giáo cho điểm tồi…

Phượng rơi trên đầu gối,

Phấn lem quần trắng mới,

Mắt long lanh gần khóc,

Để tim anh bồi hồi…

Em nhắc chuyện cũ chi,

Lát nữa xong bài thi,

Anh ra ngoài cổng đợi,

Hai đứa đi ăn mì…

Trời mưa lầy lộ nhỏ,

Tuổi thơ như con đò,

Trôi theo dòng nước chảy,

Bao giờ trở lại cho…

Từ lúc vẫy tay chào,

Thời gian qua thật mau,

Ba mươi mùa phượng nở,

Bây giờ mới gặp nhau !!!

Liverpool.14/9/2012.

Song Như.

Tổ ấm

Tổ ấm

Tác giả: TRẦM THIÊN THU

Gia đình là tế bào cơ bản để tạo nên xã hội, là loại hình cộng đồng nhỏ nhất, và được ưu ái gọi là “tổ ấm”.

Dù ở thời đại nào và dù là ai, mỗi người đều có nguồn gốc là gia đình. Trong một cuộc thăm dò mang tính quốc tế, người ta đặt tiêu chí gia đình lên hàng đầu là 75%, và 95% chọn gia đình là một trong những thứ quan trọng trong đời sống.

Có nhiều điểm làm nền tảng gia đình, nhưng chúng ta có thể coi các điểm than chốt dưới đây là “chìa khóa” để tạo lập gia đình và để mở cửa hạnh phúc gia đình:

1. ÂN CẦN. Nói năng cộc lốc, thiếu lễ độ hoặc cư xử thô lỗ sẽ gây mất thiện cảm, làm các thành viên gia đình cảm thấy thất vọng. Nên tỏ thái độ ân cần, cởi mở, òa đồng, thương yêu và chân thành. Những điều tưởng chừng nhỏ bé đó mà lại có tầm quan trọng đáng kể. Tác dụng lời “cảm ơn” hay “làm ơn…” rất mạnh. Là con, là cháu nên xưng mình là “con” với các bậc trên (bác, chú, cậu, mợ, cô, dì,…) để tỏ sự gần gũi, thân mật. Đại từ “cháu” nghe rất xa cách. Là vợ chồng nên xưng với nhau là “anh, em” và cũng nên “vâng, dạ” cho ngọt ngào. Đừng “quen quá hóa lờn”. Lòng yêu thương chân thành sẽ tự nhiên toát ra sự ân cần.

2. PHỤC THIỆN. Không cần thái quá hoặc câu nệ “nghi thức”. Một câu “xin lỗi” chứng tỏ sự phục thiện. Nhân vô thập toàn. Không ai lại không lầm lỡ. Bề dưới xin lỗi bề trên đã đành, bề trên cũng rất cần xin lỗi bề dưới. Cha mẹ và con cái, anh chị em, vợ chồng,… đều phải biết chân thành xin lỗi nhau mới “phải phép”, ít ra cũng là lịch sự tối thiểu. Hối hận và tha thứ là việc cần thiết, nhất là trong gia đình, vì hằng ngày ra vào gặp nhau và đồng bàn mỗi bữa ăn, không thể nhìn nhau bằng những “tia lửa”. Ca dao phân tích: “Khôn ngoan
đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”
.

3. TRUNG THÀNH. Không được gay gắt, chì chiết, nói xấu nhau, nghi ngờ hoặc “dò
xét” nhau chi li. Hãy nhẹ nhàng sửa lỗi nhau, đừng bao giờ “vạch áo cho người xem lưng”. Có thể ganh đua nhưng không được ghanh tỵ. Chê trách người trong gia đình trước mặt người ngoài là tự chê trách mình. Tục ngữ nói: “Chị ngã, em nâng”, nhưng bênh vực nhau cũng phải bênh vực hợp lý theo lẽ phải chứ không thể “bao che”.

4. LỜI HỨA. Hứa và giữ lời hứa đều quan trọng như nhau. “Lời hứa” làm cho người ta háo hức chờ đợi và hy vọng. “Giữ lời hứa” làm cho người ta tin tưởng, khâm phục và hạnh phúc. Đừng bao giờ hứa nếu không thực hiện được, đừng hứa suông; cũng đừng nuốt lời hứa vì sẽ tự hạ giá mình. Đúng là “nói trước, bước không qua”. Hứa thì quá dễ, nhưng giữ lời hứa rất khó. Đừng khinh suất!

5. THA THỨ. Sự tha thứ khởi nguồn cho niềm tin tưởng và yêu thương vô điều kiện. Đó là một “phép mầu” tạo kết quả bất ngờ. Nó có thể tạo sự thay đổi ở người khác một cách mau chóng, nghĩa là bạn không phải lo tìm cách đối phó. Hãy kiên trì và nhịn nhục, hạnh phúc tuy đơn giản nhưng kỳ diệu vô cùng.

Để có một gia đình hạnh phúc, đúng nghĩa “tổ ấm” dễ chịu và thú vị nhất mà không ai bị “hụt hẫng” khi thấy sự chênh lệch giữa ảo tưởng và thực tế về gia đình hằng ngày, mỗi thành viên đều phải nỗ lực không ngừng, nhất là qua cách xử sự và lời nói dịu dàng. Đúng là “nói ngọt lọt tận xương”. Đồng thời cũng nên biết “vui với người vui, buồn với người buồn”. Quả thật, “hạnh phúc chỉ hoàn hảo khi nó được chia sẻ với người khác” (E. McKenzie).

Trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô nhắn nhủ về đời sống gia đình: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt
Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn  ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”
(Ep 5:21-33).

Thánh Phaolô cũng nhắn nhủ riêng từng người: “Hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14).

TRẦM THIÊN THU

nguồn:Maria Thanh Mai gởi

Khi đàn bà miền Tây… nhậu

Khi đàn bà miền Tây… nhậu

Chiếc ly “xây chừng” được chuyền tay nhau, chị Ba giữ phần cầm cái, rót rượu. Chị và các nữ “chiến hữu” uống sòng phẳng với đàn ông chúng tôi, không bỏ sót vòng nào.

Vừa nhậu, chị Ba vừa cười, nói: “Nam nữ bình đẳng, mấy em tới đâu, mấy chị tới đó”. Ban đầu uống 2 người 1 ly, nhưng sau 3 vòng đầu, tôi… sợ toát mồ hôi khi nghe chị Ba tuyên bố: “Đến vòng tăng tốc, mỗi người 1 ly, chị uống trước”…

Cảnh nhậu của phụ nữ miền Tây.

Cuộc nhậu nhớ đời ở Cà Mau.

Nghe đồn phụ nữ Cà Mau nhậu có tiếng, nên trong một chuyến công tác về đó, khi mấy đồng nghiệp rủ đi “so ly” với mấy chị em phụ nữ, tôi hào hứng nhận lời ngay. Chừng 11 giờ trưa, chúng tôi đã có mặt ở nhà anh Ba, một cán bộ huyện C.

Vừa thấy khách, anh Ba đã cười khà: “Nghe tụi bây xuống chơi, tao kêu chị Ba mày làm mồi bén đãi khách”. Không phải đợi lâu, chị Ba dọn lên đĩa vịt xiêm luộc chấm nước mắm gừng và thau tôm nướng đỏ au. Chị Ba xách ra can rượu đế 10 lít, tuyên bố: “Đây là tăng 1, tăng 2 tới bia”. Tôi nhẩm tính: Chỉ có 4 người chúng tôi, cộng với vợ chồng anh chị là 6, làm sao “cõng” nổi 10 lít rượu. Vừa dứt đã thấy chị Ba móc điện thoại alô, chưa đầy 5 phút sau 4 chị “chiến hữu” của chị Ba có mặt, ngồi vào bàn tiệc.

Chiếc ly “xây chừng” chạy quanh bàn nhậu, chị Ba làm “chủ xị”… Đến khi can rượu vơi hết phân nửa, chị Ba tuyên bố: “Bây giờ tăng tốc, chị uống sao mấy em uống vậy”. Nói xong, chị Ba rót liền 3 ly rượu, lần lượt uống hết từng ly, rồi rót rượu cho từng người. Vòng 3 ly đầu, tôi gắng gượng cầm cự, nhưng đến vòng thứ hai, vừa nốc xong, tôi vội vàng chạy ra hè “cho chó ăn chè”, trong khi  chị Ba và các “chiến hữu” ngồi cười ha hả. Anh Ba chủ nhà cũng chỉ khá hơn tôi một chút, chứ không cầm cự nổi với vợ và bạn vợ.

Khi đã ngà say, anh Ba ôm tôi tâm sự: “Mỗi tháng không dưới 20 ngày bà con, lối xóm mời đám giỗ, đám cưới, thôi nôi, đầy tháng, ăn mừng… Anh đi không xuể, chị Ba mấy em phải đi thế, bả nhậu riết rồi lên đô”. Chiều hôm đó, tôi “quắc cần câu” nằm trên võng, còn nghe chị Ba và các “chiến hữu” vừa thu dọn “chiến trường” vừa rủ nhau đi uống bia, hát karaoke…

Hôm sau trên đường về TP.Cà Mau, anh bạn tôi điện thoại cho ai đó rồi  cười nói: “Ghé xã Lương Thế Trân nhậu tiếp, có một nhóm nữ trẻ hơn đang sẵn sàng tiếp tụi mình”. Nhớ tới trận nhậu kinh hoàng hôm qua, tôi nổi da gà, nhưng vì tò mò, tôi gắng gượng đồng ý. Chúng tôi ghé vào một căn nhà lá nằm giữa các ao nuôi tôm. Trên bộ ván, 4 phụ nữ tuổi khoảng 30 – 40 đang ngồi “lai rai” chờ khách, trước mặt là mâm bánh xèo nhân tôm và một can rượu đế 10 lít đã vơi một phần ba. “Vào cửa bửa 1 ly”, “ngồi xuống uống 1 ly”, “cầm đũa dủa 1 ly”, tôi tá hỏa với 3 ly rượu “chào sân” theo đúng quy định của chủ nhà.

Chiếc ly không xoay vòng như trận nhậu hôm qua, ở đây mấy chị nhậu theo kiểu chia phe: 4 phụ nữ ngồi đối diện với 4 đàn ông chúng tôi, ly rượu chuyền qua lại liên tục giữa hai phe. Đến khi chị Năm chủ nhà quyết định tăng tốc lên 2 ly một lượt, tôi muốn hoa mắt, nhìn thấy phe bên kia có đến… 8 người. Chỉ thêm 1 vòng nữa, tôi giơ tay đầu hàng, xin ra võng nằm, sau lưng là tiếng “trăm phần trăm” của mấy chị.

Mua chuột về làm mồi nhậu – chuyện không phải hiếm của phụ nữ miền Tây.

Làm cán bộ phải biết nhậu!

“Không phân biệt nam nữ, làm cán bộ ở miền Tây mà không biết nhậu thì không phải là… cán bộ” – cô bạn tôi hiện đang làm Phó Giám đốc Sở TNMT tỉnh X nói xanh rờn. Bạn và tôi thân nhau từ hồi học trung học, sau này mỗi người một nơi, nhưng hình ảnh người con gái dịu dàng, có phần nhút nhát ngày nào vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.

 

Say  rượu đâm chết bố chồng
Chiều 9.9.2012, ông Trần Văn Kịp (45 tuổi, ngụ ấp  Bà Chăng, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu) ngồi nhâm nhi ly trà  nóng sau 1 ngày lao động mệt nhọc. Phút thư dãn của ông bất ngờ bị phá tan  khi cô con dâu 24 tuổi là Quách Hoài Thương đi nhậu ở đâu đó về say mèm, bị  bà nội chồng rầy la, Thương còn hỗn hào cãi lại.
Không chịu được, ông Kịp mắng cô con dâu quá đáng,  liền bị Thương cãi lại, suýt chút nữa ông bạt tai con dâu, may mà mọi người  kịp can ngăn. Nằm bức bối không ngủ được, ông Kịp lại la mắng con dâu, dẫn  đến xô xát giữa hai cha con. Bất ngờ, Thương chụp lấy con dao đâm 2 nhát chí  tử, làm ông Kịp tử vong.

Cho tới một ngày, tình cờ cùng có mặt trong tiệc nhậu, tôi không tin vào mắt mình khi thấy bạn liên tục nốc cạn những ly rượu đầy mà mặt không hề biến sắc. “Không uống không được bạn à” – cô ấy giải thích – “Ban đầu mình “né” dữ lắm, nhưng cuối cùng cũng phải nhậu”.

Rồi bạn kể cho tôi nghe có những cuộc làm việc cả ngày, nhưng cuối cùng chỉ được “gút lại” ở bàn nhậu. “Tửu lượng mình không cao như bạn thấy đâu. Phụ nữ tụi này khi nhậu phải biết “ăn gian” mới cầm cự nổi” – bạn tâm sự. Rồi bạn kể những màn “ăn gian” trong tiệc nhậu mà cánh cán bộ nữ dày công “nghiên cứu”, truyền tai nhau áp dụng: Trà trộn nước lã vào ly rượu trắng; cho nước trà vào ly rượu Tây; nhả rượu vào ly trà đá hoặc ra khăn tay; đổ rượu xuống gầm bàn… “Khi bị “đối phương” để ý, không “ăn gian” được, buộc phải uống, thì phương  cách cuối cùng là vào nhà vệ sinh móc cổ ói cho rượu bia ra hết, rồi nhậu tiếp.
Ban đầu rất khó chịu, nhưng dần cũng quen” – bạn thú nhận.

Sau lần nghe cô bạn cũ tâm sự về chuyện nhậu, mỗi lần dự tiệc nhậu có phụ  nữ tôi đều kín đáo quan sát, đúng như bạn tôi nói, các chị em đều khéo léo “ăn gian”. Họ đi nhậu phần nhiều vì “lễ nghĩa”, muốn cho công chuyện được thuận lợi, cho vừa lòng mọi người, chứ thực ra ít có người thấy “đã”. Tôi chợt thấy “thương” họ, họ trở thành nạn nhân của một thói quen hình thành đã lâu, ai cũng thấy không nên, nhưng không ai muốn sửa và dám sửa!

Tối trước, tôi đến rủ người bạn vốn sành sỏi trong chuyện ăn nhậu đi uống vài chai. Cửa vừa mở đã thấy bạn cười méo xệch miệng: “Tao phải giữ con cho đứa em gái, bữa nay nó đi nhậu tới tối”. Em gái của bạn là cán bộ cấp sở ở tỉnh Tiền Giang, hôm nay đi tiếp khách, nhờ anh trai rước và giữ đứa con học lớp 1, vì chồng cô công tác vắng nhà. Anh bạn cho biết, mấy cô bây giờ đi nhậu cũng “tăng 2, tăng 3”, sau rượu rồi tới bia, kết thúc bằng chầu karaoke, có bữa 9 giờ tối cô em mới ghé nhà anh rước con. “Phải thông cảm cho nó thôi, đi nhậu cũng là “công tác”, giữ con cho nó cũng như giúp nó công tác tốt”.

Những hệ lụy của đàn bà nhậu

“Một người chồng hư, chỉ hư người chồng. Một người vợ hư, hư cả gia đình”. Điều đó cũng đúng trong chuyện nhậu, khi người phụ nữ vốn là linh hồn của gia đình sa đà vào chuyện nhậu, hậu quả sẽ nặng hơn người chồng “nát rượu”. Tại TP.Mỹ Tho (Tiền Giang), người ta vẫn còn nhắc chuyện một phụ nữ đã đánh mất tất cả vào những trận nhậu nổ trời. Người phụ nữ này cũng thuộc loại sắc nước hương trời, có mái ấm gia đình, trước đây chẳng hề biết đến rượu bia. Nhưng về sau do quan hệ làm ăn, chị trở thành “cao thủ” nhậu lúc nào không hay, một mình có thể “cõng” cả chai Chivas loại 70cl, còn bia thì phải hơn nửa thùng.

Từ khi biết mùi bia rượu, ngày nào chị cũng có “độ”, nhiều khi một ngày “đánh” 2 – 3 trận. Người chồng không thể nào chấp nhận một người vợ hết say rồi xỉn, nên lẳng lặng chia tay, đứa con gái cũng đi theo cha vì không chịu nổi người mẹ lúc nào cũng nồng nặc mùi bia rượu, về tới nhà là lăn ra ngủ như chết. Chồng con bỏ rơi, chị càng nhậu bạo hơn và cặp bồ với một bạn nhậu. Nhưng sau một thời gian, anh chồng hờ cũng lẳng lặng chia tay với nữ đệ tử lưu linh thứ thiệt.

Mới đây, gặp lại đồng nghiệp ở Cà Mau, tôi hỏi thăm vợ chồng anh Ba và các chị ở huyện C ngày trước, anh bạn cho biết chị Ba bị bệnh xơ gan rất nặng, nhóm nhậu của chị cũng tan rã. Tôi thầm nghĩ, nhậu như các chị mà không bệnh mới là lạ. Cô bạn phó giám đốc sở của tôi chưa thấy bệnh gì, nhưng những tiệc nhậu triền miên đã làm cho vóc dáng “tơ liễu” ngày nào giờ trở nên quá khổ.

Cô em gái của bạn tôi cũng vậy, trong nhà có đủ các loại máy chạy bộ, máy đánh tan mỡ bụng, nhưng mỡ cứ tích tụ quanh người theo năm tháng. Hay chuyện bà Thúy Liễu đốt chết chồng là nhà báo mới đây vẫn còn gây đau xót nhiều người. Bà Liễu cũng từng là tay nhậu có hạng trong giới nữ ở TP.Tân An. Bà có một nhóm bạn nữ khoảng 4 – 5 người, thỉnh thoảng tổ chức “chén thù chén tạc”. Từ nhậu nhẹt, tới cờ bạc, rồi thảm họa, chỉ là những bước ngắn!

Nhưng nhậu đến mức để lại hậu quả như 2 cặp vợ chồng ở xã An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang thì đúng là “độc nhất vô nhị”. Chuyện của họ luôn là đề tài đàm tiếu ở các tiệc nhậu vùng rừng U Minh heo hút này. Họ là hàng xóm của nhau, thường xuyên ăn nhậu “đồng vợ đồng chồng”. Một tối, 2 cặp vợ chồng cùng ngồi nhậu hết 5 lít rượu. Rượu vào lời ra, một người chồng đề nghị “đổi vợ”. Anh chồng kia đồng ý. Hai cô vợ ban đầu phản đối, nhưng đến lúc say mèm thì “chơi luôn”.

Đến sáng tỉnh rượu, mọi chuyện đã rồi! Một trong 2 người lẳng lặng dắt cô vợ mới (đổi) ra đi sau khi để lại 1 cây vàng và mấy dòng cho người hàng xóm: “Cây vàng này tui bù lỗ cho chú vì vợ chú trẻ hơn vợ tui”.

Theo Kỳ Quan – Anh Hùng (Lao động)

 

DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

DẤU CHÂN TRONG SA MẠC

 

Tác giả: M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như trở bàn tay. Không ai là người có thể nắm giữ mạng sống. Cho dù giàu có, quyền cao chức trọng đến đâu, người ta cũng không thể nào thủ đắc được cuộc sống mình. Thế nhưng, thực tế trong cuộc sống, mọi người đều ra sức bảo tồn cuộc sống. Người khôn thì biết chọn lựa con đường khiến cho sự sống của mình được trường tồn hơn, kẻ dại thì tự hủy diệt chính mình.

Có nhiều cách khiến cho con người tự làm hại mình. Tựu trung cũng chỉ là lối sống ích kỉ,
hưởng thụ. Người chỉ biết ăn uống cho thỏa thuê khát vọng nhục dục, thì tự dẫn mình đến sự hủy hoại thân xác, làm mồi ngon cho những căn bệnh tai hại xâm nhập. Đó là cái chết về thân xác. Chưa kể đến cái chết tâm hồn. Những cái chết của lòng tham lam, ích kỉ, ghen tuông và thù hận, đã khiến cho con người sát hại, chiếm giết lẫn nhau.

Vậy thì, đâu là con đường duy nhất để có được sự sống đời đời? Thưa đó chính là con đường khổ giá. Đức Kytô, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới đến được vinh quang. Vậy thì chúng ta, là những đồ đệ của Ngài, chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập tự. Đó là con đường của tự hủy, yêu mến và hy sinh. Chỉ những ai quên bản thân, quên chính mình mới có thể bước đi trên con đường ấy được.

Đường thập giá là gì? Đó chính là con đường từ bỏ. Từ bỏ bản thân và vác khổ giá của chính mình chứ không phải của người khác. Đức Giêsu đã khẳng định như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,34)

Thập tự ở đâu? Thập giá là ở chỗ nào? Phải chăng hệ tại  chính bản thân? Bởi nó trái ngược với ý muốn, sở thích, tham vọng của tôi, cho nên nó trở thành thập giá. Thập giá bản thân thì nặng hơn thánh giá của tha nhân. Đức Giêsu, đã gánh trên vai mình cả thập giá và thánh giá nhân loại. Mọi lỗi lầm của con người, Ngài đã đón nhận vào hết thân thể để đưa lên cây thập tự làm của lễ hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên, bổn phận của chúng ta là
phải bước đi theo Ngài, vác lấy thập giá bản thân và gánh đỡ thánh giá tha nhân, để tất cả đều được cứu độ. Chỉ khi nào, thế giới biết chung vai gánh đỡ thánh giá của nhau, lúc ấy mới hy vọng có thái bình, thịnh vượng.

Nói vậy, Đức Kytô là ai? Ngài là ai để phải gánh lấy thập tự nhân loại. Ngài đã làm gì nên tội để phải gánh vác lỗi lầm thế gian?

Thưa, Ngài chính là Đấng của yêu thương. Ngài chính là đường của sự sống. Chỉ có một con đường duy nhất mang lại sự sống vĩnh cửu đó là con đường Kytô. Là con đường yêu thương và tận diệt. Là con đường khổ giá và vinh quang. Tất cả chúng ta, ai cũng có thể bước đi trên con đường ấy và đạt được hạnh phúc bất diệt, không còn đau khổ và phải chết, chỉ cần chúng ta biết từ bỏ… không còn biết mình là ai….!

Lạy Chúa, nhu cầu tự tôn bản thân thiết yếu như nhu cầu ăn mặc, bởi không ai có thể ghét chính bản thân mình. Con người sinh ra, đã được phú bẩm bản năng bảo tồn sự sống. Vậy mà Ngài lại dạy chúng con muốn theo Ngài, muốn sống vĩnh cửu thì phải từ bỏ chính mình. Bỏ Ngài, chúng con còn biết theo ai? Bởi chỉ mình Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là chốn phải tựa nương. Bỏ Ngài, chúng con biết chọn con đường nào để được hạnh phúc chứ? Xin giúp con, đã nhất quyết thì một lòng, kiên trung bước đi đến cùng. Dẫu thế gian là nước mắt, trái ngang và khổ đau…như một hoang mạc hoang vu, thì hệ tại ngay chính
nơi ấy đã có bước chân Ngài in dấu. Con không tự quyền chọn lựa nơi để sinh ra, nhưng con có tự do để chọn lựa chốn phải đi về. Xin cho con, chỉ cần can đảm, vững vàng đặt lên dấu chân Ngài, là có thể bước đến chân trời hạnh phúc.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Nguồn:Maria Thanh Mai gởi

 

Chuyện ngược đời

Chuyện ngược đời

(Lễ Suy tôn Thánh Giá, năm B)

 

Tác giả: Trầm Thiên Thu

 

 

 

Thánh Phaolô có một ước muốn làm “nổi da gà” và “rợn tóc gáy”, hoàn toàn không giống ai: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6:14). Hãnh diện về thập giá? Hãnh diện vì gặp đau khổ? Hãnh diện vì bị nhục nhã? Thật là chuyện ngược đời!

Cố giám mục Lambert de la Motte (16/1/1624-15/1/1679), vị thừa sai người Pháp,
cũng đã có ý tưởng “không giống ai” nên mới sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc
hẳn ngài phải cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới dám có
“sở thích” kiểu đó!

Thập giá là biểu tượng của sự đau khổ hoặc bất hạnh, vì đó là hình phạt tồi tệ
và ghê gớm nhất thời đó, như ngày nay là án tử hình. Cuộc sống thường nhật cũng
chẳng ai “mê” đau khổ, mà cố tránh như tránh quái vật hoặc ma quỷ vậy. Thế mà
những người thực sự yêu mến Đức Kitô lại “khoái” đau khổ. Quá ngược đời! Với
người không có niềm tin vào Đức Kitô, thậm chí có thể ngay cả một số người nhận
mình là người Kitô giáo, không thể hiểu được ý nghĩa của thập giá. Họ cho đó là
dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, là… “bó tay chấm com”.

Trách nhiệm và bổn phận là “gánh nặng” hằng ngày mà ai cũng có, mỗi người mỗi
kiểu và mỗi mức độ khác nhau. Thánh Phaolô tâm sự: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm, kính mến Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận khác – nhưng vẫn song song. Chẳng có trách nhiệm và bổn phận nào dễ dàng, vì thế mà luôn phải cố gắng. Mệt lắm! Thánh Phaolô cho biết phải “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn. Cái khó đối với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do hành động.

Vậy đâu là phần thưởng? Thánh nhân trả lời: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi
rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là
một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi
người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:18-19). Hoàn toàn tự
nguyện. Thánh nhân kể: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục
những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được
một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông
chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Cũng như “trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy,
nhưng chỉ có một người đoạt giải”, vì thế mà ai cũng phải cố gắng hết sức để
“chiếm cho được phần thưởng”. Không chỉ vậy, trước đó còn “phải kiêng kỵ đủ
điều”. Nghề nào cũng khó, ngành nào cũng mệt, muốn “chuyên nghiệp” về lĩnh vực
nào thì phải khổ luyện không ngừng. Người viết lách mà không viết thì bị “xuống
tay”, các văn nghệ sĩ không khổ luyện hằng ngày thì chẳng làm được trò trống
gì, các vận động viên không cố gắng khổ luyện thì đừng mong tranh tài,… Đơn
giản như học sinh đi học mà không chăm chỉ luyện tập thì không thể hoàn thiện
bản thân và không mong gì tươi sáng và đầy trách nhiệm như tục ngữ Việt Nam:
“Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.

Nhưng tất cả mọi hoạt động đó chỉ là để đoạt “phần thưởng chóng hư”. Còn chúng
ta, những người Kitô giáo, có một mục đích cao hơn, đó là “phần thưởng không
bao giờ hư nát”, là phúc trường sinh trên Thiên quốc. Không đạt được “phần
thưởng” Nước Trời là chúng ta phụ Tình Chúa, làm lãng phí giá Máu Cứu Độ của
Đức Kitô, là coi thường Lòng Chúa Thương Xót. Thánh Phaolô nói: “Vậy tôi đây
cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không
phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau
khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:26-27). Chúng ta
cũng phải quyết tâm vậy!

Chính Chúa Giêsu đã từng bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá mình
hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc 8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp” (Mt 7:13),
phải ăn chay, phải hãm mình,… Toàn những điều “làm khổ mình” thôi. Khó lắm!
Chúa không “chơi khăm” chúng ta mà chỉ muốn chúng ta “nên người”. Chứ Ngài “hô
biến” một cái là chúng ta vào Thiên đàng cả đám ngay, nhưng Chúa muốn chúng ta
tự thân cố gắng để có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa và giá trị của sự đau khổ,
đồng thời mới xứng đáng nhận phần thưởng. Có ăn lạt mới biết thương mèo. Có khổ
mới biết thương người khác.

Khổ luyện mình hằng ngày mới là thật lòng theo Chúa, chứ không thể ung dung tự
tại. Có chờ sung rụng thì cũng phải nhặt lấy, bỏ vô miệng, chứ chẳng bao giờ có
trái sung nào có thể rơi trúng ngay miệng mình – mà có trúng ngay miệng cũng
vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa. Việc đơn giản thế mà vẫn… mệt!

Có gian nan mới thành nhân, có đau khổ mới nên khôn, có thất bại mới biết cố
gắng vươn lên: “Thất bại là mẹ thành công” (Tục ngữ Việt Nam). Đức Phật được
người ta kính trọng vì ông đã cảm được nỗi đau khổ qua Tứ Diệu Đế. Các vĩ nhân
đều là những người đã từng nếm mùi gian khổ, các chính khách được thế giới tôn
vinh đều là những người đã kiên trì “nằm gai nếm mật”. Thật vậy, chẳng nếm mùi
gian khổ thì khó nên bậc siêu quần!

Nhưng phàm nhân chúng ta quá yếu đuối, ưa nhàn rỗi chứ không muốn “động chân,
động tay”. Kinh Phật nói: “Con người là nô lệ vì chưa hủy diệt được ý tưởng về
bản ngã trong nội tâm”. Đời là bể khổ. Có lúc chính chúng ta tự làm khổ mình.
Đời càng khổ thì chúng ta càng cần Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong
tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên
Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn khôn, là
Đức Vua, là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng ta
lại không đáng hơn chim sẻ ư?

Phúc thay người ở trong thánh điện và luôn được hát mừng Ngài. Nhưng muốn vậy
thì phải khổ luyện, phải dám “ngược đời” như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm khó. Ráng
mãi vẫn chưa được. Phàm nhân khốn nạn vậy đó. Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu.
Trăm voi không được bát nước xáo! Do đó chúng ta phải không ngừng kêu van: “Lạy
Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng tai, lạy
Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa là khiên mộc chở che, xin thương xem nhìn đến gương
mặt đấng Ngài đã xức dầu” (Tv 84:9-10). Nước Trời cực kỳ quý báu, không thể ví
với bất kỳ thứ gì. Thật vậy, “một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả
ngàn ngày” (Tv 84:11a). Người đời cũng nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại
ngoại” (một ngày ở tù dài đằng đẵng như ngàn năm), nói lên sự hạnh phúc của
cuộc sống tự do. Còn tác giả Thánh vịnh so sánh: “Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!” (Tv 84:11b).

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ, là khiên che, và tặng ban ân huệ
với vinh quang. Thế nên “ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành”
(Tv 84:12). Đó không là “dụ dỗ” hoặc “mồi chài” mà chắc chắn như vậy: “Trước
khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Vào một ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ tê tâm sự với các môn đệ thế này: “Mù mà
lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6:39). Rồi Ngài
nói thêm: “Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi”
(Lc 6:40).

Chúa Giêsu rất bình dân, Ngài thực tế mà có duyên, nghiêm chỉnh mà cũng có “máu” hài hước. Ngài đặt vấn đề: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người
anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6:41-42a). Lúc vui thì vui hết mình, mà lúc làm việc thì đâu ra đó. Cười cười mà “chết người” chứ chẳng chơi. Đừng thấy Chúa “nói nhẹ” mà tưởng Ngài “cho qua phà” rồi cả gan “được đằng chân, lân đằng đầu”!

Chúa Giêsu nói thẳng: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6:41-42b). Lại chuyện đạo đức giả. Thế gian nhiều loại người này, dù mức độ khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét loại người “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”.

Không sống giả nhân giả nghĩa, sống trong sạch và cương trực, đó cũng là “vác thập giá mình” mà theo bước Chúa Giêsu lên Can-vê. Lên đó không phải để ngắm trời, ngắm đất, hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ và ca hát, hoặc lên đó đốt lửa trại, mà lên đó để “chết”. Chết thật chứ không chết giả!

Nhưng rồi mọi đau khổ sẽ biến thành vinh quang, và người chết sẽ sống lại để được trường sinh. Trên cả tuyệt vời!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đủ can đảm mà sống “ngược đời” như Con Chúa đã tiên phong nêu gương, biết yêu mến Thánh Giá mà dám chết cho tội mình và chết vì chân lý. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Thầy thuốc của Lòng Chúa Thương Xót

Một bác sĩ trẻ tài năng nhưng khiêm nhường, sống rất nhân bản, sống yêu thương và phục vụ tha nhân theo tinh thần của Đức Kitô. Anh đúng là một nhà truyền giáo dù không được Giáo hội chính thức sai đi, là một tâm hồn vĩ đại, và là một thầy thuốc của lòng thương xót. Đó là một ơn gọi.

Xin trân trọng giới thiệu “tấm gương  sáng” của bác sĩ trẻ Công giáo này để cùng học hỏi…

 

BS Thomas Heyne được nhận Giải thưởng uy tín năm 2012 là Giải Ho Din
của ĐH Y dược Tây nam Texas.

Đức tin Công giáo của anh ảnh hưởng gia đình, và nhiệm vụ tới các nước thuộc Thế giới thứ ba đã khiến anh muốn phục vụ “những người nghèo nhất trong những người nghèo” theo tinh thần của Chân phước Mẹ Teresa Calcutta. BS trẻ Thomas Heyne 28 tuổi, bang Dallas, tốt nghiệp đã ĐH Dallas khoa Lịch sử và Sinh học, có bằng thạc sĩ thần học của ĐH Oxford ở Anh, và hoàn tất chương trình Fulbright Fellowship về nghiên cứu tôn giáo.

Trước khi tới Boston làm việc tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, chuyên khoa nhi, anh đã trả lời phỏng vấn của NCRegister về mối quan tâm tới nhân đạo trong lĩnh vực y khoa.

Xin anh cho biết về gia đình và việc thụ hưởng nền giáo dục Công giáo.

Tôi là con thứ 6 trong 8 anh chị em: Em gái kế tôi là nữ tu đã vĩnh khấn. Chị tôi tốt nghiệp ĐH Công giáo Hoa Kỳ, có gia đình và là luật sư bảo vệ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Cha tôi là BS Roy Heyne, chuyên khoa nhi, mẹ tôi là BS Elizabeth Heyne và là nhà tư vấn tâm lý. Cha mẹ tôi quan tâm các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đã thành lập Trung tâm Phát triển Trẻ em Sinh thiếu tháng để chăm sóc các gia đình của các em này. Cha mẹ tôi thực sự hít thở không khí Tin Mừng. Cha mẹ đưa chúng tôi đi lễ hằng ngày tại tu viện Xitô và lần chuỗi Mân Côi chung hằng đêm trước khi đi ngủ. Công việc của cha mẹ tôi làm vì người nghèo (và vì chúng tôi) là tấm gương sáng ghi sâu trong lòng chúng tôi.

Điều gì thúc đẩy sự quan tâm của anh về ngành y và đặc biệt là nhu cầu cần thiết về y tế của người nghèo?

Chắc chắn tôi ảnh hưởng giáo dục. Có 5 thế hệ gia đình tôi làm y bác sĩ và y tá, có thể ngành y đã mã hóa gen của chúng tôi. Hồi nhỏ, Matthêu 25:31-46 nói về cuộc phán xét, Chúa Giêsu nhắc tới việc phục vụ “những người bé mọn nhất là phục vụ chính Ngài”, Thánh Phanxicô Assisi và Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã sống như vậy và cuộc đời các ngài đã
in đậm trong tôi. Theo tôi, chúng ta phải hợp lý hóa các giáo huấn của Đức Kitô về sự nghèo khó. Tôi càng đi nhiều, càng nhận thấy nhiều người sống trong những điều kiện hầu như không được nghe đến ở Hoa Kỳ. Ý tưởng phục vụ “những người nghèo nhất” có vẻ vừa hợp lý vừa tốt lành.

Công tác y tế của anh ở Mexico, Haiti, Ấn Độ, các nước Phi châu và Mỹ châu Latin đã ảnh hưởng anh thế nào?

Từ viễn cảnh y tế, tôi học thêm các lĩnh vực y học mà tôi không biết: Người ta không gặp nhiều bệnh sốt rét, bệnh leishmaniasis (do ký sinh leishmania gây ra), bệnh sởi, bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), chứng kwashiorkor (suy dinh dưỡng thể phù),… ở Hoa
Kỳ. Từ viễn cảnh nhân đạo, tôi thấy những con người sống với phẩm giá và niềm tin giữa những điều kiện sống đau khổ. Tôi khâm phục sự đại lượng và cao quý của họ.

Ngay cả khi chúng ta nhận phần thưởng này hay phần thưởng nọ, ngay cả trong những ngày chúng ta hạnh phúc nhất, chúng ta cũng chỉ có thể nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Nếu gặp hoàn cảnh tương tự, có bao nhiêu người làm được hơn? Tôi nghĩ tới một em bé sắp chết đói mà tôi gặp ở Uganda, nhiều người bị mất chân hoặc mất tay ở Haiti, hoặc một phụ nữ bị bệnh lao xương nặng ở Ấn Độ. Những người này có thể đã làm được những điều vĩ đại hơn nếu họ có cơ hội tốt như chúng ta.

Từ viễn cảnh tâm linh, tôi đã đến những nước hầu như không nghe nói tới Phúc Âm hoặc các nước Công giáo vẫn có nhiều người hầu như không biết gì về đức tin. Sau khi học các trường Công giáo, tôi và một bác sĩ Tin Lành cùng đi công tác, tôi bắt đầu phản ánh sâu sắc về giáo huấn Công giáo đối với sự ủy thác nhiệm vụ.

Qua sự hấp thụ giáo dục, anh đã được một số giải thưởng và rất tích cực đưa ra các sáng kiến. Điều gì thúc đẩy anh thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả tại ĐH Tây Nam Texas?

Huynh đoàn Thánh Basiliô là một hội “lạ” trong trường y dược. Tôi cảm hứng từ một thành viên trong khoa đề nghị rằng chiến lược ở trường thuốc không nên chỉ là sinh tồn mà còn là tiến bộ (nỗ lực làm thánh, phát triển đức tin và giúp đỡ người khác cũng làm như vậy).
Trường y dược là cơ hội minh chứng đối với người khác, giúp họ đến gần đức tin và đến gần tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Thánh Basiliô Cả là giám mục GP Caesarea, thế kỷ IV, là người mở bệnh viện công đầu tiên cho người nghèo (gọi là Basiliad). Chọn ngài là Thánh bảo trợ, chúng tôi muốn nhấn mạnh sự ảnh hưởng tích cực mà Công giáo đối với y tế, nhất là đối với người nghèo.

Thành công của nhóm không là gì, chỉ  có 200 người (cả Công giáo và không Công giáo) trong vòng 2 năm thành lập nhóm. Những người đến với những buổi nói chuyện buổi trưa của chúng tôi vì chất lượng giới thiệu, thường do các bác sĩ địa phương đảm trách hoặc các phát ngôn viên được hoan nghênh như Peter Kreeft. Qua những buổi nói chuyện này, cũng như việc phục vụ và tâm linh, chúng tôi cố gằng loan truyền tình yêu của Thiên Chúa, của
Giáo hội và lòng nhân đạo.

Anh có dự định riêng cho tương lai?

Tôi nói được tiếng Tây Ban Nha và tôi thích văn hóa Latin, cho nên tôi nghĩ tới việc hành động ở một trong các nước nghèo đói của Mỹ châu Latin, có thể mở một bệnh viện Công giáo hoặc hỗ trợ một tổ chức Công giáo phi chính phủ nào đó. Dĩ nhiên, tôi muốn một chiều kích tâm linh đối với công việc của tôi. Tôi cũng nghĩ tới việc giúp mở một trường học,
giúp một giáo phận hoặc một tổ chức tôn giáo về các chương trình giáo dục.

Các khó khăn về y tế ở Hoa Kỳ thì sao?

Bạn không cần là một thầy thuốc cũng có thể nhận ra rằng hệ thống y tế ở Hoa Kỳ có những vấn đề quan trọng. Nhưng, thành thật mà nói, nhu cầu y tế và các vấn đề của các nơi như Uganda hoặc Haiti làm còi cọc các mối quan tâm của chúng ta.

Một vấn đề khác là vấn đề đạo đức hoặc chính trị đối với cuộc sống. Đặc biệt vào lúc này, chúng ta phải tiếp tục cầu nguyện cho việc giải quyết tích cực về nhiều vấn đề đang được giải quyết tại các tòa án. Chúng ta được mời gọi yêu thương và và bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, những người già, nhữn người nghèo và những người nhập cư.

Đối với tôi, các vấn đề trong HHS [Health and Human Services – lệnh y tế và con người] là nghiêm trọng. Ngay khi còn là sinh viêt y khoa, tôi đã cố gắng tìm cách hoàn tất phần việc liên quan sản phụ khoa mà không vi phạm lương tâm (một số thầy thuốc cho rằng thuốc phá thai hầu như là thuốc chữa bệnh). Khó để là một người Công giáo tích cực trong
cộng đồng y dược ngày này. Đó là lý do khác mà chúng tôi thành lập Huynh đoàn Thánh Basiliô Cả, nhằm “củng cố các bác sĩ tương lai đang bị áp lực đè nặng trên đe dưới búa”.

Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã ảnh hưởng ơn gọi y tế của anh thế nào?

Tôi may mắn được làm việc với các nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionary of Charity) ở nhiều nước, tấm khăn sari trắng với đường viền xanh luôn khiến tôi vui. Mẹ tôi đã đưa Mẹ Teresa tới Dallas để mở cơ sở của Dòng Truyền giáo Bác ái. Mẹ Teresa sống cơ bản, giản dị
và chính thống về Phúc Âm – cầu nguyện tập trung vào Thánh Thể, trực tiếp phục vụ những người nghèo và những người bị bỏ rơi, nhân đức tôi luyện trong sự nghèo khó, khiết tịnh và bác ái. Cách sống đó nói mạnh với thế giới hậu hiện đại. Mẹ Teresa luôn vui vẻ, tươi cười, đó là châm ngôn sống cho mọi người: “Hãy mỉm cười về mọi thứ, hãy dâng tất cả cho Chúa bằng một nụ cười vui vẻ”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Maria Thanh Mai gởi

 

BỎ THẦY, CON THEO AI?

BỎ THẦY, CON THEO AI?

Tôi nổi giận, và Ngài bảo:  HÃY THỨ THA

Tôi run sợ, và Ngài bảo:  CAN ĐẢM

Tôi nghi hoặc, và Ngài nói:  HÃY TÍN THÁC

Tôi bồn chồn không ngơi, và Ngài nói: TĨNH LẶNG

Tôi thích đi con đường riêng của mình, và Ngài bảo:  HÃY THEO TA

Tôi muốn lập kế hoạch riêng của mình, nhưng Ngài bảo:  HÃY QUÊN ĐI

Tôi nhắm tìm của cải vật chất, và Ngài bảo:  HÃY BỎ LẠI ĐẰNG SAU

Tôi muốn được bảo đảm, nhưng Ngài nói:  TA CHẲNG HỨA HẸN GÌ

Tôi thích sống ̣đời riêng của mình, và Ngài nói:  TỪ BỎ CHÍNH MÌNH

Tôi nghĩ mình tốt lành, nhưng Ngài bảo:  TỐT LÀNH THÔI CHƯA ĐỦ

Tôi thích làm ông chủ, và Ngài nói:  PHỤC VỤ

Tôi thích ra lệnh cho người khác, nhưng Ngài nói:  HÃY HỌC VÂNG LỜI

Tôi kiếm tìm tri thức, và Ngài nói:  HÃY TIN

Tôi thích sự rõ ràng, nhưng Ngài lại nói bằng:  DỤ NGÔN

Tôi thích thi ca, Ngài lại nói CHUYỆN THỰC TẾ

Tôi yêu sự yên tĩnh của mình, còn Ngài lại muốn TÔI BỊ QUẤY RẦY

Tôi thích bạo lực, và Ngài bảo: BÌNH AN Ở CÙNG CHÚNG CON

Tôi rút gươm ra, nhưng Ngài bảo:  NÉM ĐI

Tôi nghĩ đến trả thù, nhưng Ngài bảo:  ĐƯA MÁ BÊN KIA

Tôi nói về trật tự, và Ngài bảo:  TA ĐẾN ĐEM GƯƠM GIÁO

Tôi căm ghét, nhưng Ngài bảo:  HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ

Tôi muốn gieo hoà hợp, và Ngài nói:  TA ĐEM LỬA XUỐNG THẾ GIAN

Tôi thích làm người lớn nhất, nhưng Ngài bảo:  HÃY HỌC LÀM TRẺ NHỎ

Tôi muốn ẩn thân, và Ngài nói:  ÁNH SÁNG PHẢI CHIẾU SOI

Tôi kiếm tìm chỗ nhất, nhưng Ngài bảo:  XUỐNG CHỖ CUỐI CÙNG

Tôi thích được quan tâm, và Ngài nói:  ĐÓNG CỬA LẠI MÀ CẦU NGUYỆN

Không, tôi không hiểu Ông Giêsu này. Ngài khiêu khích tôi làm tôi bối rối.

Cũng giống như nhiều môn đệ khác, tôi muốn đi theo một ÔNG THẦY KHÁC, chắc chắn
hơn và ít đòi hỏi hơn.

Nhưng tôi cảm nhận như Phêrô:  “Tôi không biết ai khác có LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI”

 

Sưu tầm

Maria Thanh Mai gởi

Ba cuộc đời – ba cách chết

Ba cuộc đời – ba cách chết

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.
Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ” cho
người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha”.

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi”. Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá đến với anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết
đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh  nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.
Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen

 

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Thánh Gioan Kim Khẩu, Giám Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh

Thánh Gioan Kim Khẩu, Giám Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh

Ngày 13/9

 

Thánh Gioan Kim Khẩu sinh tại Antiôchia nước Syria, năm 347, cha Ngài là một sĩ quan quân đội, đã qua đời ít lâu sau khi Ngài sinh ra. Mẹ Ngài goá bụa vào tuổi đôi mươi đã từ khước tái hôn để dành trọn tình mẫu tử vào việc giáo dục con cái. Vì vậy thánh nhân liên tiếp được hướng dẫn sống đời cầu nguyện thinh lặng. Gioan còn được mẹ ký thác cho Libaniô, nhà hùng biện thời đó, dạy cho Ngài thuật ăn nói. Thánh nhân nhanh chóng bắt kịp rồi qua mặt thầy về khoa này. Một ngày kia, khi đọc bài tập của Gioan, Libanio đã phải thốt lên:

– “Phúc cho những Hoàng đế nào được tán tụng như vậy”. 20 tuổi, Gioan đã biện hộ trứơc tòa án với một tài năng đặc biệt khiến nhiều người thán phục. Gioan một thời gian đã để mình bị lôi cuốn theo nhiệt tình của dân chúng. Nhưng rồi Ngài đã sớm nhận ra mối nguy của danh vọng và dứt khoát giã từ pháp đình để tự hiến cho Thiên Chúa. Sau khi học thánh kinh, Ngài theo thánh Meletô (+381). Giám mục Antiochia, là người đã dạy dỗ, rửa tội và phong cho Ngài tác vụ đọc sách.

Năm 374, thánh Gioan ẩn mình trong miền núi Syria, thụ giáo với môt tu sĩ thánh thiện trong 4 năm. Sau đó Ngài ẩn mình trong một hang đá hai năm để cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh. Ngài ngã bệnh vì cuộc sống quá khắc khổ, Ngài trở lại Antiochia và được thánh Melatiô phong chức Phó tế năm 318. Năm 386, Ngài thụ phong Linh mục và bắt đầu giảng dạy, một phận vụ mà lúc ấy chỉ do các Giám mục phụ trách. Suốt 38 năm, tài lợi khẩu của Ngài thật đặc biệt có sức lôi cuốn cả dân thành Antiochia.

Ngày 26 tháng 2 năm 398, thánh Gioan được tấn phong Giám mục thành Constantinople. Ngài mau mắn sửa đổi lại Tòa Giám mục. Ngài bán của cải, phân phát cho người nghèo khó và xây dựng một nhà thương, Ngài lo lắng nhổ tận gốc rễ những lạm dụng trong giáo đoàn. Với tất cả sự hùng biện, Ngài công kích những người sống vô kỷ luật xa hoa. Ngay tại triều đình, Hoàng Hậu vận động chống lại thánh nhân.

Thánh nhân đã mạnh dạn lên tiếng:

– “Hãy nói với Hoàng Hậu rằng: Gioan Kim Khẩu chỉ sợ có một điều, không phải lưu đày tù tội, cũng không phải nghèo túng và phải chết đi nữa, mà chỉ sợ phạm tội thôi”.

Và Ngài đã bị lưu đày nơi Cucusus ở Armenia. Đức Giám mục tại đó tiếp đón Ngài nồng hậu. Đức Giáo hoàng Innocentê I, gởi đặc sứ tới Constantinople triệu tập một công đồng để dàn xếp nội vụ. Nhưng các thành viên bị tống giam và thánh Gioan Kim Khẩu còn bị lưu đầy đi xa hơn nữa. Lúc ấy Ngài đã già nua. Cuối cùng Ngài bị bất tỉnh và được đưa vào nguyện đường thánh Basiliô gần miền Cappadocia. Nơi đây sau khi chịu các phép bí tích cuối cùng, Ngài qua đời ngày 14 tháng 9 năm 407. Năm 438 xác thánh nhân được long trọng rước về Constantinople. Vị tân Hoàng đế và em gái ông đã hối hận vì tội lỗi của cha mẹ họ.

Kim Khẩu có nghĩa là miệng vàng. Tài lợi khẩu và việc rao giảng đã khiến cho thánh nhân xứng đáng mang danh hiệu này. Tên Ngài cũng dính liền với phụng vụ thánh Gioan Kim Khẩu, thịnh hành ở Đông phương. Tuy nhiên thánh nhân nổi tiếng vì chính con người của Ngài hơn là tài giảng thuyết. Ngài là một khuôn mặt có ảnh hưởng lớn lao và sống động thời đó. Qua các bài giảng của Ngài, chúng ta thấy phản ảnh một con người nhẫn nại và đầy sức sống. Qua các tác phẩm và nhất là qua các thư từ của Ngài, ngày nay chúng ta cảm được thế nào là một con người đầy nhân bản.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã nêu cao tinh thần học hỏi và nhất là với một đời sống nhiệt thành, trung kiên. Ước gì chúng ta cũng biết học nơi thánh nhân tinh thần ấy.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

Bà Gaelle là tín hữu Công Giáo Pháp được rửa tội và theo học giáo lý
trong thời niên thiếu. Bà từng đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ cho đến khi xưng tội và rước lễ lần đầu. Sau đó thì xa lìa Giáo Hội, tuy vẫn thỉnh thoảng đến nhà thờ vào những dịp lễ lớn cùng với gia đình. Nhưng đó chỉ là hành động tôn giáo hoàn toàn vì ”thói quen”. Không hơn không kém.

Lớn lên đi vào cuộc sống bà thi hành một nghề nghiệp đôi khi nặng chĩu âu lo và đầy xúc động. Cứ mỗi lần như thế bà cảm thấy nhu cầu đẩy cửa bước vào một thánh đường để kín múc nhiên liệu thiêng liêng.

Rồi bà gặp đức lang quân, xuất thân từ một gia đình Công Giáo sống đạo chân thành. Hai vợ chồng có ba con và đều xin rửa tội cho cả ba đứa.

Dòng đời lặng lẽ trôi qua cho đến khi một biến cố đau thương xuất hiện trong đại gia đình. Người anh họ của bà Gaelle đột ngột từ trần sau một tai nạn thảm thương. Mặc dầu đau đớn vô cùng, nhưng Thánh Lễ an táng – do các thân nhân trong gia đình chuẩn bị chu đáo – diễn ra thật đẹp và thật trang trọng. Đặc biệt, chính Đức Tin kiên cường của hiền thê người quá cố là động lực khiến bà Gaelle đặt lại vấn đề tôn giáo của mình. Bà như được mời gọi phải canh tân cuộc sống nội tâm. Bà ngỡ ngàng kêu lên:

– Ôi Đức Tin Công Giáo tuyệt đẹp! Ôi sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu đáng quý
biết bao! Tôi thật sự cảm nhận sự hiện diện của THIÊN CHÚA là CHA khoan nhân,
là Đấng từ ái vô biên!

Biến cố thứ hai góp phần vào việc đưa bà Gaelle trở lại với Giáo Hội Công Giáo là
khi gia đình bà dọn về sống nơi thành phố Orléans cách thủ đô Paris 120 cây số.
Thái độ đón tiếp niềm nỡ của giáo xứ mới như gieo vào lòng bà ước muốn phải đi
xa hơn trên con đường thiêng liêng. Bà liên lạc với một nhóm gồm những người
”tái khởi hành” ở cùng trường hợp như bà để chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức. Bà
Gaelle kể lại lộ trình thiêng liêng trải qua như sau.

Trong nhóm, mỗi người đều hoàn toàn tự do đặt các câu hỏi. Không ai có mặc cảm bị xét đoán. Nhóm không đông người lắm khiến cho việc trao đổi dễ dàng. Câu hỏi của người này cũng giúp ích cho người kia và chúng tôi cùng tiến bước trong thanh thản an bình. Chúng tôi cũng được nghe giải thích về một số việc thực hành đạo hoặc được làm sáng tỏ về một số kinh đã dọn sẵn. Chẳng hạn đối với tôi, trước đây tôi rất khó đọc Kinh Tin Kính. Giờ đây tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi đọc Kinh này. Rồi chúng tôi đọc Kinh Thánh. Nhờ một số văn bản Kinh Thánh,chúng tôi đào sâu ý nghĩa Lời của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và tìm cách ứng dụng vào đời sống thường nhật.

Tôi không hối tiếc gì về hành trình trở về với Đức Tin Công Giáo. Hay nói theo ngôn ngữ ngày nay là ”tái khởi hành”! Trái lại tôi cảm thấy thật hài lòng. Bởi vì, khi đi vào hành trình thiêng liêng lúc đã trưởng thành giúp tôi ý thức rõ ràng hơn về Đức Tin của tôi. Chính tôi chọn lựa con đường trở về với Giáo Hội Công Giáo. Nếu tôi làm cuộc hành trình này lúc còn nhỏ tuổi, hẳn sẽ có một hiệu quả khác. Phần tôi năm nay đã 40 tuổi rồi. Tôi ước ao tiếp tục học hỏi và đào sâu về Lời Chúa. Tôi cũng ghi tên tham dự một khóa huấn luyện trong giáo phận.

… Đó là một trường hợp tín hữu Công Giáo Pháp trở về với Đức Tin và việc sống đạo. Thời gian gần đây, Giáo Hội Công Giáo Pháp hân hoan đón rước con số đông đảo các người trưởng thành xin học đạo, lãnh phép rửa tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Lý do nào thúc đẩy họ đi đến quyết định chọn Kitô Giáo? Thưa là vì hầu hết họ cùng có ước nguyện chung về sự sống, về tình yêu và muốn tìm kiếm một ý nghĩa cho cuộc đời.

Người tân tòng không bao giờ nói suông trên lý thuyết. Trái lại, họ đi vào thực tế. Họ kể lại cuộc đời họ. Nếu họ kể lại cuộc đời mình chính vì họ linh cảm rằng, những gì không có lợi lộc vật chất lại ẩn chứa một giá trị khác. Nhưng họ không biết diễn tả ra sao. Họ chưa có thể nói về THIÊN CHÚA và tác động của Ngài trong đời sống của họ. Đây là điều khó khăn vì họ đang ở trong giai đoạn đầu. Họ chờ đợi THIÊN CHÚA tỏ lộ cho họ. Và THIÊN CHÚA dần dần tỏ lộ trong thời gian họ học giáo lý. Có các Linh Mục hướng dẫn và có các người đồng hành với các tântòng để giúp họ tiến đến cuộc gặp gỡ thân tình với Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Một người tháp tùng các tín hữu tân tòng kể lại kinh nghiệm như sau.

Niềm hạnh phúc lớn lao nhất của chúng tôi là tham dự vào tiến trình biến đổi mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ tác động nơi mỗi tân tòng. Các khuôn mặt khép kín ban đầu dần dần tiếp nhận ánh sáng cho đến lúc hoàn toàn mở rộng cho tha nhân và cho cuộc sống!
Rõ ràng là có một ”cái trước” và một ”cái sau” của tín hữu tân tòng. Hiệu quả của
ơn thánh Chúa thật tuyệt vời!

… Ông Phaolô nói với các kỳ mục trong Hội Thánh Êphêxô rằng: ”Anh em hãy
ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm  người coi sóc. Hãy chăn dắt Hội Thánh của THIÊN CHÚA, Hội Thánh Người đã mua bằng Máu của chính mình .. Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho THIÊN CHÚA và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến .. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Đức Chúa GIÊSU đã dạy: ”Cho thì có phúc hơn là nhận”
(Sách
Công Vụ tông đồ 20,28+32+35).

(”Catholiques dans le Loiret”, La vie du diocèse d’Orléans, No 5, Mai 2012,
trang 14-15).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

10 cách xả giận trong đời sống gia đình

10 cách xả giận trong đời sống gia đình

 

Trong đời sống vợ chồng không thể tránh khỏi những lúc mâu thuẫn sinh ra xích mích và
tức giận. Những lúc nước sôi lửa bỏng ấy, làm thế nào để kiềm chế nóng giận.
Sau đây là 10 cách giải quyết trong những tình huống ấy.

 

 

Một cốc nước lạnh

Trong những lúc cả ông bà đều đang nóng như lửa và căng thẳng đó, một cốc nước lạnh
sẽ làm hạ hỏa, mang lại cảm giác dễ chịu trong mỗi người.

Nếu bạn đang “nóng” hãy cố trấn an mình bằng uống một cốc nước hay rửa mặt. Còn nếu
chàng đang trong tình trạng đó, hãy đưa ngay cho chàng một cốc nước để chàng kiềm chế cơn giận. Có thể chàng tiện tay hất ra, bạn nên kiên nhẫn, nhẹ nhàng. Chàng sẽ dễ chịu khi bạn can thiệp kịp thời.

Không chấp vặt

Khi cuộc khẩu chiến xảy ra nếu cả hai đều tỏ ra bất phân thắng bại sẽ chẳng bao giờ
dẫn tới một kết quả tốt đẹp. Để giữ cho gia đình êm ấp thì một trong hai phải biết bỏ qua cho nhau những thứ không quan trọng.

Cách tốt nhất, lúc đó người vợ/chồng cần bình tĩnh, tìm cách dò hỏi nguyên nhân tại
sao và tìm cách giúp người ấy chia sẻ, giải quyết khó khăn.

Bạn cũng không nên tỏ ra thờ ơ hay lạnh nhạt trước những hành động của người ấy.
Thái độ hoà nhã, thân thiện,vui vẻ của bạn sẽ làm vợ/chồng bớt căng thẳng.

Tự hòa giải

Giảng hòa luôn là một cách ứng xử tốt và khéo léo trong mối quan hệ vợ chồng. Biết
dừng đúng lúc trong mọi cuộc tranh cãi sẽ luôn làm tan biến mọi áp lực trong
gia đình. Cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, sóng gió và
chèo lái con thuyền hạnh phúc phụ thuộc rất lớn vào cả hai người.

Lúc này, bạn có thể nói những lời lẽ xuề xòa và tỏ ra chịu yếu thế so với đối
phương. Bằng sự hòa giải, bạn sẽ loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực trong đầu, làm
giảm những cơn căng thẳng thần kinh và giữ cho gia đình luôn hạnh phúc.

Đặt mình vào vị trí người ấy

 

Vợ/chồng bạn hay nổi cáu và thường về nhà gây gổ xích mích với bạn? Hãy chủ động tìm
hiểu nguyên nhân vì sao và tìm ra cách tốt nhất để giúp đỡ người ấy.

Vợ/chồng bạn hay mang bực dọc về trút lên đầu bạn? Hãy thử đặt mình vào người đã làm bạn giận, biết đâu bạn sẽ tìm được nguyên nhân của mọi việc. Bạn sẽ hiểu vì sao họ
cư xử hoặc có hành động như vậy.

Không gian riêng

Mỗi chúng ta cần có một không gian riêng để tĩnh tâm trở lại. Khi bạn đang căng
thẳng hay bực bội trong người, bạn nên vào phòng riêng hay những nơi mà bạn chỉ
có một mình. Không gian yên tĩnh và thoải mái sẽ làm bạn tốt hơn nhiều.

Viết ra những suy nghĩ của mình

Đây cũng là một cách rất tốt để giải thoát những bực tức trong người mình. Những
dòng nhật kí về những điều bạn đang suy nghĩ sẽ giúp bạn vơi đi những căng
thẳng.

Bạn có thể viết trên giấy, blog, email hay forum, biết đâu những tâm sự của bạn sẽ
được mọi người quan tâm và cùng chia sẻ. Lúc đó bạn sẽ có người đồng cảm.

Thư giãn

Hít thở sâu, thả lỏng cơ thể, nhắm mắt linh dim và tưởng tượng đến những gì tốt đẹp
nhất đang chờ đón bạn, mọi tức giận tan biến.

Bạn cũng có thể tham gia các lớp yoga để học cách trấn an và thư giãn cơ thể cũng
như tâm hồn. Bên cạnh đó các bài tập thê dục nhẹ nhàng như bơi, đi bộ cũng rất
tốt cho bạn.

Đi tắm

Những dòng nước chảy mơn man trên cơ thể bạn là một cách thư giãn lý tưởng, sẽ làm
bạn cảm thấy khoan khoái và lấy lại được tinh thần sau những mệt mỏi và căng
thẳng chuyện gia đình.

Bạn có thể nhảy vào hồ bơi vùng vẫy trong làn nước mát hoặc ngâm mình trong bồn
nước cùng với dược liệu và hoa. Bên cạnh đó tắm hơi và massage cũng là cách
giảm căng thẳng tốt nhất.

Cười lên

Chồng/vợ làm bạn tổn thương, nhưng tất cả vì hạnh phúc gia đình, mọi chuyện rồi sẽ qua.
Nếu bạn cố chấp hay để bụng càng làm bạn đau đầu, mệt mỏi, cảm giác bị tổn
thương, hạ thấp… rồi sẽ chẳng đến đâu nếu cả hai không nhường nhịn.

Hãy luôn mỉm cười vì nó có ích trong việc động viên bạn, giúp bạn yêu đời hơn. Nếu
người ấy đã xin lỗi bạn, bạn hãy bỏ qua và để quá khứ sang một bên, cùng nhau
sống hết mình cho ngày hôm nay và tương lai của cả gia đình.

Trò chuyện cùng nhà tư vấn

Những nhà tư vấn tâm lý luôn sẵn sàng chia sẻ mọi thắc mắc của bạn và họ sẽ có cách
giúp bạn xóa tan mọi bực tức trong người. Bạn dễ dàng trao đổi với họ qua các
phòng tư vấn, tổng đài điện thoại hay viết thư tư vấn.

Maria Thanh Mai gởi