PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Ngày còn bé con cứ thắc mắc, tại sao trên đất nước này cái gì cũng mang dấu ấn sự tôn vinh người Mẹ. Dòng sông lớn nhất ở phía Bắc đất nước ta quen gọi sông Hồng cũng còn có tên khác là sông Cái. Con đường nào lớn gọi là “đường cái”. Thứ tiếng ta nói hàng ngày cũng gọi là tiếng “Mẹ đẻ”.

Tổ Quốc thiêng liêng cũng được gọi với giọng tha thiết là “đất Mẹ”. Trên dải đất nhỏ hẹp mang hình chữ S này đâu đâu cũng có những đền thờ Mẫu. Bài học đầu tiên con trẻ được học cũng là từ trường Mẫu giáo và do các cô bảo mẫu truyền dạy. Đến cái đũa lớn nhất để xới cơm ở quê mình cũng gọi là “đũa cái”, “đũa cả”.

NHỚ LỜI MẸ DẶN

Mẹ không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”.

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Và con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời và nó đã trở thành lẽ sống của con.

Hôm con phỏng vấn xin việc vào công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con, con đã nói lại lời mẹ dặn.

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi”. Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con!

NHỮNG LÁ THƯ CŨ

Con và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây.

Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ”. Mẹ đã ngăn lại và bảo: “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỉ niệm.

Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỉ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thuỷ chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc!

HAI VÙNG SÁNG TỐI

Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền.

Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hoá ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “phúc đức tại mẫu, những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi”.

Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi!

BÀI HỌC LÀM GƯƠNG

Thấy con phàn nàn về sự chểnh mảng học tập của các cháu, mẹ bảo: “Con nhắc các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem vô tuyến. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con là cán bộ cũng không thông tỏ ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào?”.

Ngẫm kĩ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớp tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài.

Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu. Sao có mỗi bài học đơn giản rằng “muốn con chăm thì mẹ phải siêng, muốn con hiền thì mẹ phải thảo” mà con không nhớ, phải để mẹ nhắc nhở!

Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy sinh. Mẹ không đi học, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình.

Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh phúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức, nhưng không phải vô tình người ta mới chỉ phong danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và trong nhạc, trong thơ, nơi đâu cũng thấy vang lên những “Huyền Thoại Mẹ”, ” Tình mẹ”, ” Lòng mẹ”…

Đinh Thủy

Dòng Tên VN kỷ niệm 400 năm loan báo tin mừng trên đất Việt

Dòng Tên VN kỷ niệm 400 năm loan báo tin mừng trên đất Việt

Chỉnh Trần, S.J.

01/11/2014

Dòng Tên Việt Nam cử hành Năm Thánh kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng trên Đất Việt

Cách đây gần 400 năm, vào ngày 18.01.1615, ba nhà truyền giáo Dòng Chúa Giêsu (Dòng Tên) là linh mục Francesco Buzomi – người Ý, linh mục Diogo Carvalho – người Bồ Đào Nha và tu huynh António Dias – người Bồ Đào Nha đã đặt chân đến Đất Việt tại vùng biển Cửa Hàn – Đà Nẵng. Ý định ban đầu của họ là chăm sóc thiêng liêng cho một cộng đoàn Công Giáo người Nhật, những người đã chạy trốn khỏi các cuộc bách hại và đến sống ở Hoài Phố – Hội An.

Nhờ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, các nhà truyền giáo Dòng Tên đã khám phá ra một cánh đồng truyền giáo bao la và phì nhiêu nơi vùng đất Con Rồng Cháu Tiên. Khởi đi từ biến cố này Tin Mừng của Chúa Kitô đã dần dần được loan báo rộng rãi tại cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài và đã đâm hoa kết trái phong phú tại quê hương Việt Nam. Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, với phép của Tòa Thánh, Tỉnh Dòng Tên Việt Nam sẽ cử hành Năm Thánh mừng kỷ niệm 400 năm Loan Báo Tin Mừng tại quê hương Việt Nam từ ngày 18.01.2014 đến ngày 18.01.2015.

Trong một cuộc phỏng vấn do truyền thông Dòng Tên thực hiện, cha Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J., Giám tỉnh Dòng Tên Việt Nam, cho biết mục đích của Năm Thánh là để “Canh tân thiêng liêng cho anh em Dòng Tên Việt Nam; canh tân thiêng liêng cho (một số) tín hữu Công Giáo; khơi động tinh thần truyền giáo nơi (một số) giáo dân Công Giáo Việt Nam; giúp (một số) người Công Giáo Việt Nam biết về lịch sử truyền giáo tại quê hương; giúp (một số) người Việt Nam, ngay cả người không Công Giáo, biết về sự đóng góp của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho văn hóa dân tộc nhà (chữ quốc ngữ); cổ vũ ơn gọi Dòng Tên.”

Đức Thánh Cha Phanxicô, qua sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đã cho phép Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng Giám Mục phó Tổng Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh và Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, quyền ban phép lành Tòa Thánh cùng với ơn Toàn xá khi long trọng cử hành Thánh Lễ khai mạc Năm Thánh vào lúc 8 giờ 30 sáng thứ bảy ngày 18 tháng 01 năm 2014 tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn. Tòa Ân Giải Tối Cao cũng xác định các nhà thờ và nhà nguyện do Dòng Tên phụ trách được nhận ơn Toàn Xá gồm:

– Nhà thờ Hiển Linh (Thủ Đức),

– Nhà thờ Thiên Thần (Quận 2),

– Nhà nguyện cộng đoàn Đắc Lộ (171 Lý Chính Thắng, Quận 3, Tp. HCM),

– Nhà thờ Tạo Tác (Đà Lạt), nhà thờ Hoa Lư (Pleiku),

– Nhà thờ giáo họ Ngọc Mạch (Hà Nội)

– Nhà nguyện thánh Phanxicô Xaviê (Viêng Chăn, Lào).

Cũng theo cha Giuse Phạm Thanh Liêm, Dòng Tên sẽ tổ chức tĩnh tâm hằng tháng một ngày hoặc nửa buổi trước Thánh Lễ hằng tháng để lãnh nhận ơn Toàn xá; Thánh Lễ hàng tháng với chủ đề và bài giảng được chuẩn bị chu đáo, nhằm canh tân đời sống thiêng liêng của giáo dân và tu sĩ Dòng Tên; những khóa Linh Thao cho các thành phần dân Chúa ở những nơi và thời điểm khác nhau. Bên cạnh đó, Dòng Tên sẽ tổ chức các cuộc hội thảo, nhằm học biết và cổ võ cách thức loan báo Tin Mừng thích hợp với thế giới và con người ngày nay, qua việc nhìn lại lịch sử Loan Báo Tin Mừng tại quê hương Việt Nam.

“Chúng tôi hy vọng có được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của các bậc cha anh khi nhìn ngắm các ngài trên cánh đồng truyền giáo. Qua những hội thảo chuyên đề về chữ quốc ngữ, chúng tôi cũng hy vọng giúp giáo dân Việt Nam, và cả những người không Công Giáo, nhận ra những đóng góp của người Công Giáo vào nền văn hóa dân tộc Việt,” cha Giám tỉnh Dòng Tên nói.

Ngoài ra, nhà Dòng cũng tổ chức các cuộc hành hương Phú Yên (nơi sinh của Chân phước) và Phước Kiều (nơi chân phước Anrê Phú Yên tử đạo), với ao ước giúp những người tham dự, được ơn hoán cải, ơn canh tân đời sống, và ơn trở nên những tông đồ nhiệt thành như chân phước Anrê Phú Yên.

Để chuyển tải những thông tin liên quan đến Năm Thánh và đặc biệt để hưởng ứng lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô cũng như Đức đương kim Giáo Hoàng Phanxicô về việc sử dụng các phương tiện truyền thông trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, truyền thông Dòng Tên Việt Nam đã thiết lập trang web Loan báo Tin Mừng tại địa chỉ: www.loanbaotinmung.net Trang web này sẽ là nơi cung cấp những bài viết về thời đầu Dòng Tên đến Việt Nam, những bài viết về việc Loan Báo Tin Mừng và về chữ quốc ngữ, những hình ảnh cùng những slideshows về Năm Thánh, Hội Thảo, và Hành Hương…

Tưởng cũng nên nhắc lại, đặc sủng của Dòng Tên là bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá, trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng để được vị đại diện của Người là Đức Giáo Hoàng sai đi đến bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì theo các giá trị Tin Mừng nhằm Tôn Vinh Thiên Chúa Hơn và giúp ích cho con người hôm nay hơn, theo tinh thần chiêm niệm trong hoạt động.

Đặc sủng này được thể hiện qua sứ mạng phục vụ đức tin nối kết với thăng tiến công bình của Nước Thiên Chúa trong đối thoại với các nền văn hoá và các tôn giáo khác. Trong bối cảnh của một thế giới đang bị ảnh hưởng bởi trào lưu toàn cầu hóa, dẫn tới gia tăng những mâu thuẫn và xung đột, sứ mạng này được thực hiện ngang qua nhiều sứ vụ như giảng Linh Thao, giáo dục, tông đồ xã hội, mục vụ giới trẻ, suy tư và giảng dạy triết học và thần học, truyền thông… nhằm thiết lập những nhịp cầu hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và với môi trường thiên nhiên.

Về ơn gọi, cho đến năm 2013, tổng số tu sĩ Dòng Tên trên toàn thế giới là 17,287 tu sĩ, trong đó có 12,298 linh mục, 1,400 tu huynh, 2,878 học viên (ứng viên linh mục) và 711 tập sinh và đang phục vụ tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, riêng tại Việt Nam, số tu sĩ còn rất nhỏ bé. Vào thời điểm 01/06/2013, số tu sĩ Dòng Tên (kể cả tập sinh) là 197 (gồm 01 giám mục, 46 linh mục, 99 học viên, 18 tu huynh, 33 tập sinh). Vì thế hoạt động của Dòng Tên tại Việt Nam còn rất giới hạn. Ngoài công tác huấn luyện, công việc chính yếu của tỉnh Dòng là giúp Linh Thao cho mọi tầng lớp Dân Chúa, giúp linh hướng trong hai đại chủng viện, dạy thần học và linh đạo trong một vài học viện của các dòng, làm việc trong cánh đồng truyền giáo, làm tông đồ xã hội giúp người nghèo, đồng hành với các nhóm như sinh viên và công nhân, mục vụ giáo xứ…

Dòng Tên Việt Nam hân hoan chào đón các bạn trẻ có lòng ao ước phụng sự Chúa, phục vụ con người trong Giáo Hội theo linh đạo Dòng Tên. Các bạn có thể liên lạc với linh mục Antôn Nguyễn Cao Thắng, S.J., Giám đốc nhà Ứng sinh qua địa chỉ email: ongoidongten@gmail.com

Chỉnh Trần, S.J.

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”


Vũ Văn An

01/11/2014

Nhiều người thích đọc lời mô tả hết sức cổ điển về Giáo Hội trong cuốn tiểu thuyết của Myles Connolly, viết năm 1951, đã hơn 60 năm qua, tựa là Dan England and the Noonday Devil. Lời mô tả này nhắc ta nhớ rằng Giáo Hội không phải là một định chế mà là một Thân Thể, là Chúa Kitô. Xin nhường lời cho Myles Connolly:

Với tôi, Giáo Hội là tất cả những điều quan trọng ở khắp mọi nơi. Giáo Hội là thẩm quyền và hướng dẫn. Giáo Hội là hy vọng và bảo đảm. Giáo Hội là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo Hội là Đức Bà và Thánh Giuse. Giáo Hội là Thánh Phêrô và Đức Piô XII. Giáo Hội là giám mục và cha xứ. Giáo Hội là giáo lý và là mẹ đang cúi xuống nôi dạy ta đọc kinh tối. Giáo Hội là nhà thờ chính tòa thành Chartres và là túp lều với thánh giá trên nóc ở Ulithi. Giáo Hội là các tử đạo tại Colosseum và các tử đạo tại Uganda, các tử đạo tại Tyburn và các tử đạo tại Nagasaki. Giáo Hội là vị nữ tu già và cô dự tu mắt đầy tha thiết. Giáo Hội là gương mặt rạng rỡ của vị tân linh mục dâng thánh lễ mở tay, và là cậu bé giúp lễ ngái ngủ để lộ đôi giầy trắng chơi quần vợt đã cũ mèm dưới chiếc áo giúp lễ đen…

Giáo Hội là đỉnh tháp nhọn thoáng thấy từ cửa sổ xe lửa và là nhà thờ thu nhỏ hình thánh giá nhìn xa từ trên cao máy bay nhìn xuống. Giáo Hội là Thánh Lễ 6 giờ sáng với một nhúm thánh nhân vô danh tại chấn song rước lễ trong bóng tối mờ nhạt và là Thánh Lễ đại trào với đám đông vĩ đại và vẻ huy hoàng sáng lạn tại Nhà Thờ Thánh Phêrô… Giáo Hội là Ca Đoàn Nhà Nguyện Sistine và là đoàn rước kiệu Tháng Năm của trẻ em Trung Quốc miệng hát Lạy Nữ Vương Thiên Đàng ở Bắc Kinh.

Giáo Hội là tu sĩ Carthusian trẻ trung tại Monte Allegro và là tu sĩ Dòng Tên đang dạy nhận thức luận ở Tokyo. Giáo Hội là linh mục gốc Scheutveld của Bỉ đang chiến đấu chống bệnh ngủ tại Congo và là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đang tranh đấu chống thành kiến tại Vermont. Giáo Hội là tu sĩ Biển Đức, Augustinh, Thương Khó, Đa Minh, Phanxicô. Giáo Hội là mọi tu sĩ và đặc biệt Dòng Các Cha Xứ vĩ đại nhưng vô danh.

Giáo Hội là Nữ Tu Cát Minh đang đốt những ngọn nến cho buổi kinh chiều trong cái giá lạnh thê lương của Iceland và là Nữ Tu Đức Bà Namur đang may những chiếc khăn trùm Rước Lễ Lần Đầu tại Kwango. Giáo Hội là Nữ Tu Vincentian đang chăm sóc một người Da Đen Baptist sắp chết vì ung thư tại Alabama và là Nữ Tu Maryknoll đang đối diện với một ủy viên Cộng Sản tại Manchuria. Giáo Hội là Nữ Tu Dòng Trắng đang dạy những người Ả Rập nghề làm thảm tại Sahara và là Nữ Tu Chúa Chiên Lành tại St Louis đang cung cấp nơi ẩn náu cho một đứa trẻ bị bỏ rơi, một mái ấm cho con chiên lạc. Giáo Hội là Nữ Tiểu Muội của Người Nghèo đang thoa thuốc mỡ cho những vết lở loét của một ông già bị bỏ rơi ở Marseilles, là Nữ Tu Áo Xám đang phục vụ những người cùng khốn tại Haiti, là Nữ Tu Thánh Thể đang giúp một thanh niên Da Đen làm thơ tại New Orleans. Giáo Hội là Nữ Tu Bác Ái… Giáo Hội là tất cả các Nữ Tu khắp nơi.

Giáo Hội là người đàn bà nhăn nheo đang giữ cho tươi mát những bó hoa trước bàn thờ Đức Mẹ và là người nữ giáo lý viên trẻ đang dạy các tân tòng đi chân đất tại những đồi núi xa xôi. Giáo Hội là thiếu nữ đang từ bỏ cuộc chơi bài để lái các Nữ Tu tới trại giam và nhà người nghèo, và là người đàn bà tới từng cửa xin giúp đỡ các trẻ mồ côi. Giáo Hội là bà mẹ hãnh diện của vị linh mục và là bà mẹ đứt ruột đứt gan của tội nhân. Giáo Hội là tất cả các bà mẹ và bà chị bà em đang khóc, đang đau, và đang cầu nguyện để những người con trai,người anh, người em trai duy trì được đức tin.

….Giáo Hội là những bài giảng xấu và những bài giảng tốt, những ơn gọi giả và những ơn gọi thật. Giáo Hội là người thanh niên cao lớn đi Đàng Thánh Giá mỗi chiều và là người cha của mười đứa con đang đẩy xe đưa đứa con bệnh đi Lễ sáng Chúa Nhật tại Bệnh Viện Quận.

Giáo Hội là Thánh Martin và Thánh Martin de Porrès, Thánh Augustinô và Thánh Phocas, Thánh Grêgôriô Cả và Thánh Grêgôriô Thaumaturgus, Thánh Ambrôsiô và Charles de Foucault, Thánh Inhaxiô Tử Đạo, Thánh Thomas More và Thánh Barnaba. Giáo Hội là Thánh Têrêxa và Thánh Philomena, Gioan thành Arc và Thánh Winefride, Thánh Annê và Thánh Maria Euphrasia. Giáo Hội là mọi các thánh, xưa và nay, được nêu danh và không được nêu danh, và mọi kẻ tội lỗi.

Giáo Hội là tiếng bật ca Sáng Danh vào Thứ Bẩy Tuần Thánh và là hang đá tù mù trong Thánh Lễ hừng đông vào Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội là phẩm phục mầu hồng của Chúa Nhật Laetare (Hãy Vui Lên) và là chiếc áo khoác làm việc mầu lam của linh mục đang làm việc với các lao công tại một hầm mỏ ở vùng Ruhr.

Giáo Hội là những đôi giầy mới bóng loáng và các khuôn mặt đầy tôn kính của cô dâu và chú rể Tháng Sáu đang qùy trước bàn thờ phủ hoa trắng trong Thánh Lễ Hôn Phối, và là người mẹ trẻ tái nhợt, bối rối tại giếng rửa tội, vì niềm vui của bà trộn lẫn với nỗi lo âu khi thấy đứa con đầu lòng khóc lời phản đối nước rửa tội. Giáo Hội là hàng nối đuôi dài, mờ ảo, nhấp nhô các hối nhân đang đứng chờ ngoài tòa giải tội lúc chạng vạng của một buổi chiều mùa đông, mỗi người đều cách biệt và cô đơn một cách long trọng với các tội lỗi của riêng mình, và là hình ảnh đang khom lưng của một linh mục in bóng lên các chiếc đèn chiếu của xe cảnh sát trên xa lộ tối đen khi ngài đọc những lời kinh cuối cùng trên thân xác tan nát đang nằm trên vỉa hè bên cạnh chiếc xe bẹp dúm.

Giáo Hội là Kinh Magnificat và là kinh tạ ơn đọc trước các bữa ăn. Giáo Hội là cuốn sách lễ nhầu nát và là bức tượng sứt mẻ của Thánh Antôn, là chiếc hộp thu tiền cho người nghèo và là chiếc chuông nhà thờ đã nứt nẻ. Giáo Hội là Chiếc Cửa qua đó tôi bước vào đức tin và là Chiếc Cửa qua đó, nếu Chúa muốn, tôi sẽ ra đi về miền vĩnh cửu.

Chổi cùn, bút lông vô giá trị

Giáo Hội quả là các thánh và những người tội lỗi. Năm 1986, tại Đà Lạt Việt Nam, một người trở lại Đạo Công Giáo năm 1949 lúc Việt Nam đang cựa mình thật mạnh trong giấc mơ độc lập của mình, cũng có cùng một ý nghĩ ấy về Giáo Hội. Đó là ông Nguyễn Khắc Dương, cựu quyền khoa trưởng khoa văn Đại Học Đà Lạt, tác giả hồi ký Quia Dilexit Humilitatem Meam (Vì Người Thích Sự Khiêm Nhường Của Tôi). Bỏ ngoài các nhận định về chính trị, là những nhận định có thể gây tranh cãi, cuốn tự thuật này qúy giá ở chỗ cho ta cái nhìn rất trung thực của một người, sau khi đã trải qua nhiều kinh nghiệm tâm linh, cuối cùng đã chọn Thầy Giêsu làm lẽ sống trong lòng Giáo Hội.

Nguyễn Khắc Dương vốn là em ruột Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt, nên hồi nhỏ, đương nhiên không thích Đạo Công Giáo. Cũng như nhiều người khác, cậu tin rằng Đạo này có trách nhiệm dẫn đường cho Pháp cướp nước ta. Đạo này còn là “tà đạo” dạy những điều mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc… Người Công Giáo lại “cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công Giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ – thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công Giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi – con nhà khoa bảng, học thức – hơi có vẻ khinh đạo Công Giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc”.

Nhưng cậu ấm con quan này thi hỏng chương trình Việt vì môn chính tả, nên bà mẹ gửi vào Huế học chương trình Pháp không có môn chính tả tại tư thục Công Giáo Thiên Hựu. “Vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công Giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó”. Trước hết là sự tận tâm chức nghiệp của các linh mục giáo sư. “Điều thứ hai là ‘tình yêu người’ được bộc lộ ra qua cách đối xử”. Theo Nguyễn Khắc Dương, yêu khác thương. Khổng Giáo và Phật Giáo đều dạy thương người, thậm chí thương cả vạn vật nữa, “nhưng ‘yêu’ người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được”. Vì yêu là xem người yêu như “một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế… và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi”. Yêu không hẳn là một đức hạnh (vertu) mà là một tác phong (comportement) “bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng vị thượng tọa cậu quen biết, về mặt luân lý, “có lẽ ít linh mục Công Giáo nào sánh kịp”, có thể “liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một ‘ngã vị’. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mến của Ngài”.

“Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công Giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công Giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”.

Rồi nhờ học giáo lý, Nguyễn Khắc Dương khám phá ra Chúa Giêsu. “Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn – nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”.

Cậu cho rằng “sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): sa “personne” et sa “vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!… Thông minh, tài trí, dũng cảm… Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!”

Rồi cậu “gặp Pascal”, một thiên tài “cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa”

Nhưng hình như Đấng Giêsu này đã bị Giáo Hội do Người sáng lập, ít nhất là cái Giáo Hội trước mắt Nguyễn Khắc Dương, tức Giáo Hội Việt Nam đang ở lúc trưởng thành, phản bội. Vì cái Giáo Hội này đã biến “con chiên bổn đạo” thành “một đàn cừu của Panurge!”: khúm núm, khép nép, cúi đầu “trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố”, nhất là các cha cố Tây. Cậu cho rằng “Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo Hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng – cởi mở – tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó!”. Trái ngược “với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét”.

Nhưng biến cố 1945 đã quét sạch “cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính… Cái vỏ ‘cố Tây’ được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị ‘thừa sai’ của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard”. Hình ảnh vị “Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng năm 1945 “quả là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi” làm thay đổi hẳn tương quan của cậu đối với Giáo Hội. Từ từ, cậu nhận ra “trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp)”. Bầu không khí của cộng đoàn Công Giáo luôn “có cái gì thân hữu, đầm ấm”. Dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp, “nhưng vẫn là có nhau – nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau”. Cậu cho rằng “cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí…) là bản tính của Hữu thể”.

Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên… Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”.

Ngoài ra, “tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công Giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa… Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ”.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét ở bình diện con người, thì người và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường, đôi khi còn kém thua người khác. Nói chung, họ thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho Giáo. Nhưng “điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công Giáo nằm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô… Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công Giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là ‘bí tích của Đức Kitô’, là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự…”

Giáo Hội, vì thế, theo Nguyễn Khắc Dương “chỉ là chứng tích và là dấu chỉ” qua đó, cậu “tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động ‘hic et nunc’: Đức Giêsu Kitô”. Cái Giáo Hội này cũng có nhiều nét tiêu cực, không hẳn “đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Giáo Hội này đã “giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công Giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ… Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công Giáo không những với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công Giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế”.

Nguyễn Khắc Dương xác tín rằng: không thể tách Giáo Hội khỏi Chúa Giêsu, như tách rời một tổ chức với người sáng lập ra nó. Vì “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”.

Cô gái Công giáo Lizzie làm xôn xao cộng đồng mạng

Cô gái Công giáo Lizzie làm xôn xao cộng đồng mạng

chuacuu the.com


VRNs (12.01.2014) – Sài Gòn – Những ngày gần đây, một video trên trang mạng youtube đang gây sốt cộng đồng mạng với gần 2.5 triệu lượt xem. Video chiếu lại một buổi nói chuyện của Lizzie Velasquez để truyền lửa cho thế giới do TedTalk tổ chức.

Cô Lizzie Velasquez

Cô Lizzie Velasquez

Lizzie Velasquez được cộng đồng mạng đặt cho một cái tên khá ấn tượng vì nó không hề nói lên hình dáng bên ngoài của cô: ‘người phụ nữ đẹp nhất thế giới”.

Là một trong 3 người duy nhất trên thế giới mắc chứng bệnh lạ bẩm sinh từ khi còn trong bụng mẹ, Lizzie không thể phát triển và cơ thể cô gầy đến độ chỉ con da bọc xương. Chưa bao giờ cô tăng cân quá 26kg và còn mang một con mắt bị mù bẩm sinh.

Điều đáng nói, Lizzie là người Công giáo và chính cô xác nhận rằng: Đức tin đã giúp cô chiến thắng hoàn cảnh vô cùng khó khăn của mình.

Khi chuẩn bị rời khỏi ghế nhà trường, cô phát hiện một video nói về mình trên trang youtube, thu hút tới 4 triệu lượt truy tại cập thời điểm đó với cái tên “Người Phụ Nữ Xấu Nhất Thế Giới”.

Không biết ai đã phổ biến video ác nghiệt này, nhưng chủ nhân quyết không gỡ bỏ khỏi trang mình.

Thay vì giận dữ, tuyệt vọng hay trầm cảm, Lizzie đã vượt qua, tốt nghiệp đại học và 3 tập sách của cô viết đã được xuất bản sau đó, truyền cảm hứng cho rất nhiều độc giả.

Giờ đây, Lizzie đã trở thành một diễn giả nổi tiếng tại Mỹ, xuất hiện ở nhiều nơi và trên nhiều chương trình truyền hình. Với thân hình nhỏ bé của mình, Lizzie cũng tích cực hoạt động chống lại nạn bắt nạt trong học đường.

Tâm sự với mọi người, cô nói:  Niềm tin vào Thiên Chúa như tảng đá vững chắc giúp tôi vượt qua tất cả mọi thứ, chỉ cần ngồi một mình cầu nguyện và nói chuyện với Chúa và biết rằng Ngài ở đó là vì tôi.

Lizzie cũng có kế hoạch đi du lịch bất cứ nơi nào để làm chứng cho câu chuyện về sự kiên trì và đức tin của mình trong năm 2014 này.

httpv://www.youtube.com/watch?v=c62Aqdlzvqk#t=271

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN 10

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN 10

Phan sinh Trần

Ca ngợi Chúa trong lúc đang bị đau khổ là việc khó làm!

Kinh nghiệm của thánh Gióp được sách Cựu Ước chương môt và hai kể rằng trong một ngày, vào chỉ một buổi của ngày đó, thậm chí ngay trong cùng một thời điểm, Ông Gióp được cho biết là ông bị mất hết tất cả tiền của, toàn bộ gia nhân và mọi người con của ông dù là trai hay gái:

…Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp:

–          Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa:

–          Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người này còn đang nói thì một người khác về thưa:

–          Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa:

–          Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:

–          Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.

Ðức Chúa đã ban cho, Ðức Chúa lại lấy đi:  xin chúc tụng danh Ðức Chúa!”

Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.

… Xa-tan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. Bấy giờ, vợ ông bảo:

–          Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi

Nhưng ông Gióp đáp lại:

–          Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?

Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi.

Gương ca ngợi Chúa của ông Gióp thật là tuyệt, phần Tôi và Bạn, khi đang bị rủi ro, mất mát và đau bịnh, bị làm dân oan, bị đánh đòn oan, bị cướp đoạt tài sản, bị ức hiếp, bị khinh miệt,  … mà vẫn yêu mến Chúa và Ca ngợi Chúa thì thực lòng là khó, có khi, trong một số trường hợp,  sẽ là quá khó ! Học kinh nghiệm từ các Thánh, khi đó mình phải vận dụng hết tin yêu vốn có,  để xông vào cuộc chiến Đức Tin , trong cuộc chiến này, khi mà tiếng nói của Quỉ sẽ rền rỉ tố cáo rằng “Chúa bất công, Chúa không thương mày”, hay ma mảnh hơn, có thể  Quỉ sẽ chì chiết , “ mày quá hư đốn không đáng cho Chúa thương, đừng có  hy vọng viễn vông, Chúa không thể nào thương nổi mày đâu, hãy ngưng lại sự ca ngợi vô nghĩa của mày”. Ngay lúc đó, ta phải lấn át tiếng của chúng bằng lời ca ngợi, ta ca ngợi Chúa cho đến khi lời dèm pha của quân thù phải im bặt, cho đến khi chúng hoàn toàn thua trong cuộc chiến Đức Tin, ca ngợi Chúa cho đến khi ta vượt qua cơn thử thách, khi đã vượt qua được thử thách thì  bằng an và yêu thương của Chúa sẽ đến ngay tức khắc và bao phủ trùm chúng ta trong an ủi và trong niềm vui lớn lao của ơn Chúa , của sự giải cứu từ Chúa .

Bạn sẽ phân vân rằng trong thực tế đời nay, có nhiều chăng hành động ca ngợi Chúa trong thử thách ? sẽ có lời chứng nào để  minh họa ?

Vâng, tôi  xin trình bày lời chứng của Anh NT trong Nhóm học Kinh Thánh,  giáo xứ NL, anh NT kể như sau  :

–          Vào năm 2010 , tháng 9, tôi đang làm ở một hãng rất gần nhà , cách xa chỉ có 20 phút lái xe, sáng thì tôi có giờ đọc kinh thánh rồi mới ra xe đi làm, chiều về , sau giờ làm ,  trên đường lái xe về nhà thì tôi lại có thì giờ đến viếng Chúa Thánh Thể, ca ngợi Chúa trong ba mươi phút rồi mới về nhà.  Trong công việc tôi luôn hỏi ý Chúa trước các quyết định cần phải nói thật,  qua Lời Chúa, tôi được Chúa dậy  tôi cứ thẳng thắn trong công việc của mình, nếu cái gì sai thì cứ trình bày  là sai. Ông Giám Đốc của hãng thì thích như vậy, nhưng ngay lập tức, anh Manager , vốn còn rất trẻ đã rình rập từng lỗi nhỏ của tôi mà trình lên Director nhằm hại tôi vì anh sợ tôi có nhiều ảnh hưởng tốt hơn anh. Một ngày nọ tôi bị một lỗi trong công việc và tôi can đảm nhận hết trách nhiệm, đùng một cái, hãng quyết định cho tôi nghỉ việc. Thế là tôi bị thất nghiệp.

Tôi rất thắc mắc, và thưa với Chúa:

–          Thật là bế tắc cho con, dù sao, chỗ làm này cũng giúp cho con có thì giờ và cơ hôi ca ngợi Chúa, làm việc cho cộng đoàn…

Chúa ơi, Chúa biết con luôn cố gắng hết sức của mình, sao Chúa không giúp con tỉnh táo và kiểm soát sự cố này để cho người ta có cơ hội hại con. Con dâng trình sự việc lên và tin rằng Chúa có giải pháp tốt nhất cho con.

Tôi cũng đã áp dụng cách mà các Cha đã dậy trong các buổi tĩnh tâm, đó là “ Đừng để buồn sầu, đau khổ làm tê liệt sự ca ngợi của các con”. Có thì giờ nhiều, một mặt thì tôi lo tìm kiếm công việc mới, một mặt thì tôi Ca ngợi Chúa mỗi ngày mấy lần, sáng, chiều và tối. Còn đang hăng hái và bền bỉ ca ngợi Chúa thì khoảng chừng một tháng sau, tôi bị bệnh da vẩy nến, tên tiếng Anh là Psoriasis, bệnh này do hệ thống miễn nhiễm hoạt động quá mức làm cho da bị vẩy màu trắng trông giống như bệnh phong, sẩn đỏ, ngứa và có khi làm viêm tấy đau rát. Tôi bị sứt hết các móng tay giống như người cùi , đầu cũng bị tróc da trông rất gớm , lưng nổi sẩn đỏ , tróc da ở cổ chân, đùi, bụng, vai… Bênh nan y này , theo trình độ tiến bộ của y khoa  ngày hôm nay vẫn còn là bịnh không thể chữa dứt được, Bác sĩ đã nói rằng nó sẽ theo tôi suốt đời .  Tôi đi bốn bác sĩ trong đó có hai bác sĩ chuyên về bệnh ngoài da mà không giảm được bệnh, các loại steroid cream chỉ làm cho đỡ một thời gian rồi lại bùng phát trở lại. Bác sĩ cho biết nếu bịnh nặng thêm thì tôi sẽ phải chích Steroid thẳng vào người và ngay cả việc chích Steroid cũng chỉ có giá trị ngắn hạn.

Hình minh họa bệnh vẩy nến ở lưng– Psoriasis.

Điều nguy hiểm hơn nữa là bệnh lan vào trong lỗ tai làm cho tôi bị ù tai, không nghe rõ, chưa hết, khi tai tôi bị điếc thì miệng tôi phát âm tiếng Anh không còn chuẩn nữa. Tôi lo lắng, khi đi kiếm việc, vốn đòi hỏi sự chính xác trong liên lạc, trong truyền đạt thông tin thì  làm sao tôi có thể trả lời phỏng vấn việc làm một cách trôi chẩy để được tuyển dụng đây? Bế tắc tiếp nối bế tắc, tôi thốt lên: “Chúa ơi, không biết giải pháp nào Chúa sẽ làm cho con!”

Chưa hết, vài ngày sau, tôi lại bị thêm bệnh trĩ nội, đi tiêu ra máu, thật là họa vô đơn chí. Tôi cảm nhận được sự dè bỉu của vợ con về sự bất lực của mình. Có nhiều khi, tôi nổi góa và la hét làm cho càng có thêm các đợt cãi vã bùng nổ lớn trong gia đình mình. Tôi không chịu nổi vợ con và ngược lại chắc là không ai có thể chịu nổi tôi.

Những khi bình tâm lại, tôi thưa với Chúa:

–           Chúa ơi, con cảm ơn về những hoạn nạn thử thách Chúa gởi đến cho con, xin cho con luôn Tin Yêu Chúa dù cho hoàn cảnh của con có ra sao. Con biết Chúa có giải pháp tốt nhất cho con trong giai đoạn tập luyện thử thách đức tin, và rèn luyện kiên nhẫn này. Con ngợi khen quyền năng và tình thương của Ngài. Con xin Chúa một điều là dù có chết trong buồn tủi con vẫn luôn yêu mến Chúa không khi nào ngưng nghỉ.

–          Chúa tiếp tục thử thách tôi trong ba bốn tháng trời đằng đẵng, tôi biết Chúa sẽ cho tôi khỏi bệnh nhưng mà khi nào đây, rồi theo lời các Cha dậy, tôi không nản lòng, tôi còn tiếp tục xin các Cha cầu nguyện, tôi cũng xin nhân danh tên cực thánh của Chúa Giê Su để ra lệnh cho bệnh tật phải tan biến và mọi tế bào, cơ quan phải trở lại bình thường và lành mạnh để làm lợi ích cho con cái Đức Chúa Trời. Đến tháng sau, tôi mạnh mẽ tiến thêm một bước nữa trong đức tin đó là ngưng sử dụng các loại thuốc trị, vì tôi nhận thấy hoặc chúng không giảm bịnh hoặc là chỉ giảm lúc đầu rồi mất tác dụng dần cho đến mức vô dụng. Cơ thể tôi lờn thuốc trong một thời gian chỉ có 3-4 tuần, hầu hết mọi loại thuốc tôi đều đã dùng qua kể cả  rọi tia tím, xoa kem, tắm nước mặn, bôi các loại kem steroid, chích thuốc, uống trụ sinh, uống thuốc mới sáng chế, do đó , tôi quyết định phó thác hoàn toàn trong tay Chúa sau khi đã cố gắng theo sức lực và  tận dụng mọi khả năng về mặt nhân loại ( Y khoa, dưỡng sinh, thư giãn, nhịn ăn, đông y )…

–           Diễn tiến tiếp theo xảy ra, đúng như Lời Chúa đã phán, “ tin thì sẽ được, gõ thì sẽ mở cho”,  bịnh da  của tôi dịu dần và biến mất sau hơn hai tuần. Khi đi Bác sĩ khám lại về da của tôi, ông Bác sĩ hết sức khen ngợi về sự đột nhiên khỏi bịnh này và khuyến khích tôi cứ tiếp tục với giải pháp quá tốt đã làm cho tôi khỏi bịnh (Ông là một phật tử thuần thành và rất tốt nhưng có lẽ là Ông không tin nơi lời làm chứng về Chúa chữa lành). Chưa hết, trước đó, Chúa cũng đã cho tôi ngưng xuất huyết vì bệnh trĩ nội, vết trĩ co lại không làm cho tôi khó chịu nữa.

–          Từ lúc bắt đầu thất nghiệp đến tháng thứ sáu, Chúa cho tôi có một công việc mới làm theo hợp đồng trong sáu tháng, việc này hoàn toàn lý tưởng vì công việc tuy xa nhà nhưng rất thích hợp với khả năng của tôi, lương bổng nhiều gần gấp đôi so với mực lương trước đấy, (giống như trường hợp khi xưa, Chúa đã cho lại Ông Gióp gấp đôi tài sản, gấp đôi số con cái sau khi Ông giữ lòng trung thành mà vượt qua thử thách.) Rồi Chúa lại gởi cho tôi một công việc ổn định mới khi còn một tháng nữa mới đáo hạn hợp đồng việc làm cũ, việc mới có lương bổng cao, bảo hiểm y tế tốt, nhưng có lẽ điều tuyệt vời nhất, đúng như lòng mong ước từ bao năm qua của tôi, đó là Chúa cho tôi làm trong một Hãng với một ông Quản lý rất tốt. Cả hai Ông Giám đốc và Quản lý đều là người tin kính Chúa, họ quí mến và trọng nể tôi như là một chuyên viên cấp cao của hãng. Chúa còn cho tôi làm việc trong một văn phòng vừa mới vừa rộng rãi, sáng sủa,  tiện nghi, tôi có thể đóng cửa văn phòng riêng của mình lại và cầu nguyện bất cứ khi nào cần. Giờ giấc cũng rất là dễ dàng, mỗi sáng tôi đọc Kinh Thánh mỗi chiều lúc ba giờ, tôi ngưng công việc và Ca ngợi Lòng thương xót Chúa. Làm được năm tháng thì tôi được hãng  thưởng 5 ngàn đô, làm  khoảng tám tháng thì tôi được tăng lương 3%, và tiếp tục tăng mỗi năm 3% cũng như tiền thưởng cuối năm tương đương với 10% của tổng số  lương năm. Tôi biết rõ rằng đây hoàn toàn chỉ là sự tưởng thưởng của Chúa cho lòng trung thành và trung thực tin ở Lời Chúa, khả năng của tôi không đáng được như vậy.

Tóm lại, Chúa cho cao hơn mức mà lòng tôi có thể ước ao hoặc mường tượng ra được…

Bạn ơi, tôi xin kết thúc câu chuyện của anh TN ở đây,  tôi cho rằng Bạn đã rút ra nhận định này :

Trong gian truân con cái Chúa có thể vượt qua các khó khăn cũng như sự tuyệt vọng , ngã lòng  bằng cách Ca Ngợi . Ca ngợi bao gồm:  ngợi khen lòng thương xót Chúa, ngợi khen sự quan phòng đầy quyền năng, khôn ngoan của Chúa Cha, ngợi khen cách Chúa Giê Su đang rèn luyện để cho mình  lớn lên trong trường Đức Tin, ngợi khen Chúa Thánh Thần cho mình sức mạnh tinh thần chịu đựng đau khổ.

Qua một đợt thử thách, Chúa đã cho lại nhiều ơn lành quá mức khi xưa vì Chúa của Ông Gióp khi xưa và Chúa của chúng ta ngày nay là một.

Chúa kính yêu ơi !

Quả thực là Ngài tuyệt vời vô cùng !

Con xin cùng với Bạn con đây

dâng kính Chúa một lời ngợi khen từ đáy tim chúng con.

Bạn có thể  cùng tôi cất lên lời ca ngợi Chúa :

Phó thác. ( xin click vào link )

You are my All in All.

I love you Lord !

Không một ai có được niềm vui thực sự

Không một ai có được niềm vui thực sự, trừ khi người ấy được sống trong tình yêu thương.

1/Điều nên làm ngay

Trong một khoá học chuyên tu ngành tâm lý học, vị giáo sư ra đề bài về nhà: “Trong vòng một tuần, anh chị hãy đến gặp người mà mình quan tâm và nói với họ rằng anh chị yêu mến họ. Đó phải là người mà trước đây, hoặc đã lâu anh chị không nói những lời như vậy.”

Đề bài xem ra đơn giản. Thế nhưng, hầu hết cánh đàn ông trong lớp đều đã trên 30 tuổi và cảm thấy vô cùng khó khăn khi thể hiện đề bài này vì họ hiếm khi thể hiện tình cảm của mình với một ai đó.
Đầu giờ học tuần sau, vị giáo sư hỏi có ai muốn kể lại cho cả lớp nghe câu chuyện của mình hay không. Dường như ông chờ đợi một phụ nữ xung phong trả lời. Thế nhưng, một cánh tay nam giới đã giơ lên. Anh ta trông có vẻ xúc động lắm:
“Cách đây 5 năm, giữa tôi và bố có một bất đồng sâu sắc, và từ đó đến nay vẫn chưa giải quyết được. Tôi tránh gặp mặt ông ngoại trừ những trường hợp chẳng đặng đừng khi phải họp mặt gia đình. Nhưng ngay cả những lúc ấy, chúng tôi cũng hầu như không nói với nhau một lời nào. Vì vậy, tôi đã tự thuyết phục bản thân đến để xin lỗi và nói với bố tôi rằng tôi yêu ông ấy.
Quyết định ấy dường như đã làm giảm đi phần nào áp lực nặng nề trong lòng tôi. Đêm hôm đó, tôi hầu như chẳng chợp mắt được. Ngày hôm sau, tôi đến nhà bố mẹ và bấm chuông, lòng thầm mong bố sẽ mở cửa cho tôi. Tôi lo sợ rằng nếu mẹ mở cửa thì dự định của tôi sẽ không thành, tôi sẽ bày tỏ với mẹ thay vì với bố. Nhưng may quá, bố tôi đã ra mở cửa.
Tôi bước vào và nói: “Con không làm mất thời gian của bố đâu, con đến chỉ để nói với bố rằng bố hãy tha lỗi cho con và con yêu bố”.
Có một sự chuyển biến trên khuôn mặt bố tôi. Gương mặt ông dãn ra, những nếp nhăn dường như biến mất và ông bắt đầu khóc. Ông bước đến, ôm chầm lấy tôi và nói: “Bố cũng yêu con, con trai ạ. Nhưng bố chưa biết làm thế nào để có thể nói với con điều đó”.
Đó là thời khắc quý báu nhất trong đời tôi. Hai ngày sau, bố tôi đột ngột bị một cơn đau tim và vẫn còn nằm trong bệnh viện cho đến bây giờ. Nếu như tôi trì hoãn bộc lộ với bố, có lẽ tôi không bao giờ còn có cơ hội nào nữa”.
Dennis E. Mannering

2/ Bộ quần áo cũ.

Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội…ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm.
Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nnhàng:
-Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá.
-Nhưng bố thích mặc bộ này !
Tôi bắt đầu cau có:
-Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê không chăm sóc bố.
Ông già buồn rầu, lập lại:
-Bố thích bộ quần áo này lắm.
Tôi cũng cương quyết:
-Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó.
Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông minh mẫn như vậy:
-Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó.
Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ.
Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, tôi nên xét lại trái tim mình đã.

3/Bệnh và Lười.

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo. Tôi có la, nó ấp úng trả lời:
-Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.
Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho được.
Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:
-Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.
Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.
Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.
Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:
-Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích đó.
Tui vỗ về:
-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.
Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa. Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày, uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức …

– Bạn hãy dành thời gian cho những người xung quanh mình – cho dù chỉ là để làm một việc nhỏ nhoi.
Albert Schweitzer

Sài Gòn rầm rộ dịch vụ đòi nợ thuê

Sài Gòn rầm rộ dịch vụ đòi nợ thuê

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-01-08

RFA

Hình danh tính con nợ vay nóng.

Hình danh tính con nợ vay nóng.

RFA

Nghe bài này

Cuối năm, mọi thứ dịch vụ nở rộ để đón Tết, đặc biệt năm nay, dịch vụ đòi nợ thuê ở Sài Gòn phát triển một cách bất thường, hay nói cách khác là dịch vụ đòi nợ thuê đã tăng đột biến so với mọi năm. Nhiều chủ doanh nghiệp bỏ trốn vì sợ dịch vụ đòi nợ thuê đến tìm và cũng không ít trường hợp, con nợ bỏ nhà cửa, bỏ vợ con trốn đi biệt vô âm tín sau một lần dịch vụ đòi nợ thuê đến nhà. Không những con nợ bị hệ lụy mà cả vợ con của họ cũng khốn đốn vì dịch vụ này.

Đòi nợ thuê qui mô toàn quốc

Một người mệnh danh là sát thủ trong giới đòi nợ thuê cho biết: “Ví dụ ba trăm chai thì nó lấy trăm chai, đi làm bữa nay nguy cơ chừ nguy hiểm lắm! Vô đòi loạng quạng nó điện công an tới hốt đó! Có khi nó còn lấy cao hơn nữa, vì sao biết không, vì nó mắc nợ nhưng nhiều khi nó điện công an hoặc giang hồ khác tới nó cột mình luôn, chứ không phải tới đòi giỡn giỡn đâu nha! ĐM(chửi thề). Đòi phải đòi cho khôn chứ đòi bà điên bà khùng nó tới nó hốt mình luôn đó! Đòi thì phải được chứ, ĐM(chửi thề). Đòi mà không được thì đòi làm gì!”

Anh này cho biết thêm anh vốn là người gốc Đà Nẵng, theo chỉ định của các ông trùm, nhóm giang hồ miền Trung và miền Bắc sẽ hoạt động đòi nợ thuê ở miền Nam và ngược lại, các nhóm giang hồ miền Nam sẽ ra Bắc hoạt động trong dịp Tết này. Sở dĩ có sự hoán đổi địa điểm này là có hai lý do: Tránh tình trạng rò rỉ thông tin và; Tuyệt đối giải quyết con nợ.

Ở trường hợp tránh tình trạng rò rỉ thông tin, theo tay sát thủ đòi nợ thuê vừa nêu trên cho biết là lẽ thường, cùng là người một miền với nhau, rất dễ xãy ra chuyện các thành viên của nhóm đòi nợ thuê có bà con, quen biết dây mơ rễ má với con nợ. Một khi nhận lệnh, vì tình cảm, nhân viên đòi nợ thuê sẽ bật đèn xanh trước cho con nợ bỏ trốn hoặc nếu không bật đèn xanh thì cũng nương tay đối với con nợ, dẫn đến tình trạng làm việc không hiệu quả.

Công an điều tra một vụ đòi nợ thuê có dấu hiệu vi phạm pháp luật

Công an điều tra một vụ đòi nợ thuê có dấu hiệu vi phạm pháp luật (nguồn:petrotimes)

Chính vì thế, trong mỗi dịp trước tết ba tháng, các ông trùm đòi nợ thuê ở ba miền sẽ hoán đổi nhân viên với nhau. Mỗi lần hoán đổi như thế, các nhân viên sẽ được hưởng một số ưu đãi của các ông trùm, được ăn chơi xả láng sau mỗi phi vụ và được trả lương cao gấp rưỡi lần bình thường. Mức lương của nhân viên đòi nợ thuê căn cứ trên thâm niên làm việc và độ liều lĩnh, tàn sát của anh ta. Thường thì những nhân viên từng hành hung con nợ, thậm chí từng dùng đến dao kéo để gây tổn thương cho con nợ sẽ được trả lương cao hơn so với các nhân viên khác chưa từng như thế.

Hơn nữa, mục tiêu chính của dịch vụ đòi nợ thuê là phải lấy cho bằng được số tiền mà con nợ khó có khả năng thanh toán, bằng mọi giá và không từ một thủ đoạn nào. Những con nợ khó đòi luôn là thách thức uy tín của các ông trùm và cũng là cơ hội thăng hạng của các nhân viên. Ông trùm nào càng khét tiếng bao nhiêu thì chiêu thức thu hồi vốn cho chủ thuê càng phong phú và độc đáo bây nhiêu. Những trường hợp con nợ bỏ trốn, nếu xiết được nhà, buộc thế cho người thân của con nợ phải giao nhà cửa cho chủ nợ thì mức hoa hồng có thể lên đến 50% số tiền đòi được.

Anh này nói thêm là nghe 50% tưởng là nhiều nhưng trên thực tế, nó không nhiều, vì phần đông con nợ bỏ trốn đều vay nóng, vay nặng lãi nên có khi 50% số tiền đòi được lại lớn gấp đôi tiền gốc cho vay. Cách gì đi nữa thì người đòi nợ và người cho vay vẫn có lãi sau giao dịch này. Và để đạt hiệu quả triệt để, thuyên chuyển địa bàn đòi nợ của nhân viên là lựa chọn rất khéo léo của ông trùm. Nhất là khi có sự cố nào đó về nhân mạng, nhân viên đòi nợ thuê cũng dễ bỏ trốn hơn so với người trong vùng.

Con nợ rên xiết cuối năm

Một chủ doanh nghiệp bất động sản và buôn nhà cổ ở Sài Gòn than thở với chúng tôi rằng nếu như những năm trước anh làm ăn thịnh đạt bao nhiêu thì hai năm trở lại đây, anh tuột dốc thê thảm bấy nhiêu. Hiện tại, số tiền lương nợ công nhân của anh đã lên đến ba tỉ đồng. Cách đây sáu tháng, anh vay nóng số tiền năm tỉ đồng để trả lương công nhân và phục hồi một căn nhà cổ. Thế nhưng căn nhà không bán được, giá bất động sản lại rớt dài, đến thời điểm này, mọi mảnh đất và tài sản của anh không đủ để bù nợ hơn một trăm tỉ đồng của ngân hàng và hơn mười tỉ đồng cả vốn lẫn lãi tiền vay nóng.

Tiền nợ ngân hàng, dù sao cũng dễ chịu hơn vì có thể thế chấp tài sản, xoay xở đáo hạn để duy trì kinh doanh, còn nước còn tát, nhưng tiền vay nóng thì quá kinh khủng. Bắt đầu từ giữa tháng mười một âm lịch, chủ nợ đến đòi tiền lãi một cách gắt gao, công nhân thấy vậy cũng bỏ việc gần hết và quay lại đòi lương. Từ một công ty đang hoạt động, bỗng chốc trở thành công ty trốn nợ, doanh thu không có, các ngân hàng bắt đầu đến nhòm ngó tài sản, chủ cho vay nóng thì đưa giang hồ đến thương lượng.

Mà cách thương lượng của giang hồ đòi nợ thuê thì đặc biệt, họ giằng mặt, đe dọa và có thể bắt cóc con nợ giữa đường để đánh đập, mang đến chỗ vắng vẻ bắt ký giấy bán nhà hoặc liên tục khủng bố vợ con. Không thiếu những trường hợp con nợ bị dân đòi nợ thuê xẻo lổ tai, ấn đinh vào tay, hoặc dùng lưỡi lam rạch một dấu trên bụng để cảnh cáo nhưng con nợ chỉ biết im lặng chịu đựng chứ không dám tố giác.

Một con nợ khác tên Vĩnh, cho chúng tôi biết là hiện tại, mỗi ngày, công ty của anh xuất hiện ít nhất sáu lần dân đòi nợ thuê. Những tay đòi nợ thuê đi khắp thành phố, luân chuyển từ điểm này sang điểm khác vốn đã đánh dấu trên bản đồ con nợ do các ông trùm cung cấp. Nếu lỡ như bị họ đánh đập, cũng chẳng có ai dám đứng ra tố giác sự xâm phạm thân thể này vì họ đã có sự che chở từ bên trên. Hai chữ “bên trên” này, theo anh Vĩnh, nên hiểu như thế nào cũng được. Vì nếu không có bên trên che hở, làm sao họ có thể lộng hành như vậy được. Đương nhiên đã có sự ăn thông, chia chác giữa bên trên và bên dưới trong dịch vụ đòi nợ thuê.

Có thể nói, nếu như các doanh nghiệp vốn từng ăn nên làm ra phải rên xiết vì nợ nần trong dịp cuối năm thì dịch vụ đòi nợ thuê ở Sài Gòn trở nên sinh động, tràn trề hứa hẹn một mùa bội thu!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

TGM Ngô Quang Kiệt

Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống.  Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m.  Suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.  Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển.  Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới.  Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển.  Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết.  Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển.  Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội.  Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi.  Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.  Không ai nhận ra Người.  Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.

Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người.  Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.

Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.  Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng.  Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy.  Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ.  Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người.  Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.

Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người.  Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu.  Khiêm nhướng là một phép rửa.  Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút.  Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi.  Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50).  Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10, 38).  Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.

Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu.  Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.  Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới dìm mình trong dòng sông Gio-đăng.  Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ.  Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.

Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta.  Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa.  Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.  Đừng ngần ngại thay đổi đời sống.  Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người.  Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối.  Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung.  Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối.  Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50).

Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.  Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu.  Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta.  Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gỡi

 

TÊRÊSA – BÔNG HỒNG NHỎ

TÊRÊSA – BÔNG HỒNG NHỎ

Tác giả: Fr. Huynhquảng

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873 – 1897), một nữ tu bé nhỏ thuộc dòng kín Carmêlô thành Lisieux. Suốt cuộc đời ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn 24 năm sống trên dương thế, vậy mà chị đã để lại con đườg nên thánh thật tuyệt vời và đơn sơ biết bao. Lòng đạo đức và ơn thánh thiện Chúa ban cho chị đã lan rộng và nhanh trên khắp hoàn vũ. Vì lẽ đó, chị được Giáo hội phong thánh chỉ sau 28 năm từ khi qua đời. Chị còn được chọn làm bổn mạng các xứ truyền giáo, và gần đây vào năm 1997, Chị được nâng lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh – Thầy dạy cho chúng ta con đường nên thánh.

Khi bàn đến lòng khao khát nên thánh, ta không thể không nói đến lòng chung thuỷ và trung tín trong ơn gọi làm người và làm Kitô hữu. Sự chung thuỷ của mỗi con người chúng ta đến từ đâu? Động  lực lý do nào làm chúng ta cố gắng sống chung thuỷ và trung tín với ơn gọi của mỗi người? Thực sự con người có đủ khả năng để sống chung thuỷ như mình mong ước không? Những câu hỏi này được tìm thấy trong cuộc đời của Chị Têrêsa, đặc biệt trong lưu bút của Chị. Với những suy tư trong đời sống cầu nguyện, Chị Têrêsa giúp chúng ta tìm được sức mạnh để sống chung thuỷ và trung tín với ơn gọi của mình. Chị đã cho chúng ta thấy được rằng nếu chúng ta có sống chung thuỷ được là nhờ vào tình yêu chung thuỷ của Thiên Chúa chứ không phải sức của chúng ta.

Trong bài cuối của chủ đề Chung Thuỷ – Trung Tín, qua sự diễn giải của linh mục JacquesPhilippe, mục Sống Sao Cho Đẹp xin điểm lại một vài ý tưởng của Chị Têrêsa, đặc biệt về sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, để giúp chúng ta nhận định lại thật chính xác về sự chung thuỷ và trung tín mà chúng ta đang cùng nhau học hỏi và thực hành.

* * *

Đối với Chị Têrêsa, điều quan trọng và thiết yếu nhất trong đời sống đạo chính là tin tưởng vào lòng trung tín của Thiên Chúa. Hãy tin rằng, Thiên Chúa không dựng nên chúng với một mục đích tầm thường: sống – chết, tan biến như bao loài thụ tạo khác. Nhưng thực ra, Thiên Chúa muốn làm điều vĩ đại nơi mỗi con người chúng ta. Chúng ta được dựng nên với mục đích nên thánh, sống đời sống thần linh với Thiên Chúa. Đó chính là mục đích cao cả nhất trong công trình sáng tạo con người. Xác tín này dẫn Chị Têrêsa đến một niềm quả quyết chắc chắn rằng dù Chị bất xứng, yếu hèn, tội lỗi, Thiên Chúa không bao giờ và sẽ không bao giờ thay đổi kế hoạch nên thánh đối với con người. Thiên Chúa chung thuỷ và trung tín với con người bất kể con người có phản bội và khước từ Ngài đến bao nhiêu lần đi nữa. Chị Têrêsa chia sẻ với Mẹ Agnes, “Đừng nghĩ rằng con không không phạm tội nên con có lòng tín thác mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Xin hãy nói rõ cho mọi người biết rằng, nếu con có khả năng phạm các loại tội, thì con vẫn giữ nguyên lòng tín thác vào Chúa.” Niềm tín thác này thật đơn giản chỉ vì “Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là con của Ngài.”[1] Thật đơn sơ, nhưng chắc chắn biết bao.

Với sự đơn sơ xác tín ấy, Chị Têrêsa quả quyết, “Thiên Chúa không thể khơi gợi một lòng ước muốn [nên thánh] trong con người chúng ta nếu chúng ta không có cơ hội để có thể đạt được.”[2] Như thế, qua Chị Têrêsa chúng ta đi tới xác tín rằng, những khao khát nên hoàn thiện (dù vẫn thường sa ngã thất bại) trong con người của chúng ta thực sự là quà tặng của Thiên Chúa. Chúa cho chúng ta ơn khao khát và Chúa hứa giúp chúng ta đạt được sự thánh thiện ấy. Vì thế bao lâu ta còn nhận ra mình yếu đuối bất toàn, bấy lâu ta vẫn còn lòng khao khát nên hoàn thiện. Ôi, Thiên Chúa thật chung thuỷ và trung tín với ta biết bao – Miễn là chúng ta tín thác vào Ngài, Ngài sẽ dùng mọi phương nhằm giúp ta đạt được đời sống thần linh với Ngài.

Hơn nữa, sự trung tín của Thiên Chúa đối với chúng ta – là những tội nhân không hề lệ thuộc vào khả năng và nhận định của chính ta: Liệu rằng chúng ta có sống tốt hay không, có hạnh phúc hay không, có đạt được thành quả này nọ hay không. Nhưng thực ra lòng tin tưởng và trung tín của chúng ta chỉ dựa vào tình yêu của Thiên Chúa; vào sự trung tín, lòng ân cần, lòng thương xót vô bờ bến, vì quả thật Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Đúng như cha Jacques Philippe nhận định, “Nếu ta không đặt trọn đời ta vào sự trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa đối với mỗi người, chúng ta sẽ không bao giờ đạt được tự do thật sự bởi vì chúng ta chỉ loay hoay với sự yếu đuối bất toàn của chúng ta… ta lấy ta làm trung tâm thay vì là Chúa.”[3] Đó cũng là mối nguy hiểm trong đời sống tâm linh. Vì dù khi ta “Nại lý do tìm sự thánh thiện ta quá chi li với đời sống nội tâm bằng cách đánh giá và cân đo đông đếm [thành quả thiêng liêng]… Nguy hiểm của cám dỗ này là lấy ta làm trung tâm mà quên điều chính yếu trong đời sống đạo chính là ta nên tung mình vào lòng trung tín của Chúa với một lòng tin tưởng vô hạn vào Ngài.” Như thế, sự trung tín của ta không lệ thuộc vào khả năng thành bại hơn thua của ta, nhưng là từ niềm tin xác tín lòng trung tín tuyệt đối của Thiên Chúa dành cho mỗi người.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau để “tung mình” vào lòng trung tín không thay đổi của Thiên Chúa. Sự thất bại vẫn có thể xãy ra, nhưng hãy lấy Chúa làm trung tâm để ta lại được hồi sức, và luôn xác tín rằng: Kế hoạch vĩ đại mà Chúa chuẩn bị cho đời ta sẽ không bao giờ thay đổi.

Fr. Huynhquảng

 


[1]Bài giảng về Chị Têrêsa của Chân Phước John Paul II tại Lixieus , 2-6-1980.

[2]Philippe, Jacques (2012-06-07). The Way of Trust and Love – A Retreat Guided by St. Therese of Lisieux (Kindle Locations 156-157).

[3] Lược dịch từ: Philippe, Jacques (Loc. 1114 – 1122).

Tác giả: Fr. Huynhquảng

CHUYỆN KHÓ NGHĨ

CHUYỆN KHÓ NGHĨ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Thỉnh thoảng gia đình, người thân chia sẻ, trao đổi với nhau về cuộc sống.

Lòng người hết sức tự nhiên sẽ chạnh thương khi thấy những người nghèo sống thiếu thốn hay bị đẩy ra bên lề của cuộc sống.

Cách đây vài hôm, như mọi lần thăm hỏi, người cô vào đề ngay trước khi chia sẻ về cuộc sống đó là chuyện cô đọc được thông tin của một sinh viên nghèo nào đó phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Cô tìm địa chỉ để liên lạc chia sẻ nhưng chỉ biết tên của người sinh viên đó, ngoài ra không biết gì hơn về địa chỉ hay số điện thoại để liên lạc.

Cô kể ra và tôi nghe. Nghe tôi cũng đành chịu bởi lẽ cái biển người nghèo chạy ăn từng bữa và thiếu trước hụt sau quá nhiều. Chưa lo đủ cái ăn làm sao lo đến chuyện học nên dù có đậu đại học đi chăng nữa nhưng cổng trường còn ở thật xa với những người nghèo.

Những người tha hương cầu thực quá vất vả để lo toan cho cuộc sống. Thế nhưng, khi rảnh rỗi, họ đọc tin tức và đâu đó bất chợt gặp những hoàn cảnh khó khăn lòng của họ lại hướng về với những người nghèo, những người kém may mắn để sẻ chia.

Đây không phải là lần đầu tiên gặp những người có thiện ý sẻ chia như vậy. Nhiều lần nhiều lúc người thân cũng đã dò đến địa chỉ để sẻ chia dẫu rằng sự sẻ chia đó quá ít so với nhu cầu thực tế của những người nghèo. Nhưng, dù sao đi chăng nữa người nghèo cũng nhận được chút tấm lòng của người đồng loại.Với những người thân quen, với những tấm lòng chạnh thương là như vậy. Họ cũng phải đi cày, họ cũng phải quá vất vả để đi kiếm tiền nhưng họ tằn tiện để giúp những người đồng loại kém may mắn.

Trở về với thực tại của cuộc sống, không phải những ngày này nhưng quá khứ cũng đã có những câu chuyện buồn của cuộc sống. Những câu chuyện buồn đó là những đồng tiền được người ta chuyền tay nhau chi dùng một cách vô tội vạ. Số tiền đó không phải nhỏ. Người ta đem quy ra đầu người thì số nợ đó thật kinh khủng.

Chẳng phải là nhà kinh tế, cũng chẳng phải là nhà nghiên cứu nhưng nhìn thực tại sao mà đau lòng. Khi nhìn những con số ngàn ngàn tỷ mà người ta vung vít nó làm sao đó so với những nhu cầu nhỏ bé của những con người nghèo.

Cách đây không lâu, chuyện cậu bé đậu đại học nhưng người cha phải tá túc trong ống cống với nghề bơm vá xe và người mẹ làm thuê làm mướn thật đau lòng. Với ý chí, với nghị lực, cậu bé đã đủ điểm vào đại học nhưng cổng trường khép lại vì gia đình quá nghèo. Thật may mắn đến với cậu khi có gia đình kia mời gia đình của cậu về ở trong một phòng của gia đình và đồng thời quản lý các phòng trọ khác của gia đình để có kế sinh nhai và đắp đổi qua ngày.

Nghịch lý là đứng trước những cảnh nghèo như thế, những người nghèo lại mở lòng và đùm bọc lẫn nhau trong khi những người khác lại cứ thoải mái “đưa tiền ra cửa sổ”. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày một tăng khi người ta đánh mất quân bình của thu nhập. Người nghèo cảm thấy đuối khi phải lăn lộn với cuộc sống hàng ngày.

Ta thấy nghịch lý và mâu thuẫn khi số tiền bạc tỷ nhảy múa trong tay những người trục lợi để rồi những người nghèo chỉ mong có số lẻ như thế để đắp đổi qua ngày.

Dĩ nhiên trong xã hội nào cũng thế, cũng có những chuyện này chuyện kia trong đầu tư hay quản lý. Thế nhưng, khi những đồng tiền do công sức của người dân đóng góp lại chảy vào túi của những người nào đó, của nhóm người nào đó thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Và, khi khoảng cách giữa giàu nghèo ngày một tăng thì lại nảy sinh ra nhiều chuyện đau đầu cho con người và xã hội.

Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân không thể nào nghĩ ra được số tiền khổng lồ như thế mà nó cứ vui vẻ “nhảy múa và hát ca” trong tay của một số người.

Vài tỷ với một gia đình cũng chỉ là niềm mơ ước mà cả đời chẳng bao giờ có được. Nói gì đến tiền tỷ cho cam. Chỉ cần vài trăm triệu để mua căn nhà ở với mức bình dân trong xã hội hiện tại nhưng nằm mơ cũng chẳng hề có. Dẫu rằng không nghĩ ra nhưng rồi nó vẫn xảy ra. Những điều khó nghĩ đã xảy ra và để lại hậu quả tổn thấy vô cùng to lớn cho con người và xã hội.

Mới đây thôi, khi đoạn đường cao tốc nọ chưa kịp khánh thành thì đã phát hiện ra những điều thật khó nghĩ. Số tiền chạy ra khỏi công trình quá lớn so với số tiền thực tế để thi công. Và như vậy, chất lượng của con đường cũng sẽ chỉ đạt được với số tiền thực sự bỏ ra. Tất cả những thiệt hại như thế lại cứ phải đổ lên đầu của những người dân đen nghèo khổ. Không phải người ta không biết hậu quả để lại khi người ta làm như thế nhưng vì lý do nào đó thật khó hiểu và cũng chẳng ai lý giải được. Chỉ biết là ngày mỗi ngày cuộc sống càng thêm những gánh nặng của khó khăn, của bế tắt khi tìm kế sinh nhai.

Và, cũng qua những phương tiện thông tin đại chúng, còn có quá nhiều người nghèo chạy ăn từng bữa phải đương đầu với cuộc sống. Cánh cửa bước vào đời của những con người nghèo ngày càng hẹp lại và những lắng lo của cuộc sống ngày càng lớn. Thương thay cái phận nghèo.

Khi cuộc sống có quá nhiều điều khó nghĩ thì khi ấy càng nhiều điều phải lắng lo.

Vẫn là những trăn trở về những mảnh đời khó nghèo và chật vật phải đương đầu với cuộc sống ngày một khó khăn.

Anmai, CSsR

Bạo loạn ở nhà máy Samsung Thái Nguyên

Bạo loạn ở nhà máy Samsung Thái Nguyên

Samsung muốn biến Việt Nam thành nơi sản xuất smartphone quan trọng.

Samsung muốn biến Việt Nam thành nơi sản xuất smartphone quan trọng.

REUTERS/Baz Ratner

Thanh Phương

RFI

Theo tin báo chí trong nước, ngày 09/01/2014, đã xảy ra xô xát dẫn đến bạo loạn ở nhà máy Samsung Thái Nguyên. Công nhân xô xát với bảo vệ nhà máy và sau đó đã ném đá vào cảnh sát cơ động khi lực lượng này được điều đến để vãn hồi trật tự.

Nguyên nhân vụ xô xát là do bảo vệ nhà máy không cho một công nhân đem đồ ăn sáng vào nhà máy và đánh ngất xỉu một công nhân không có thẻ khi vào công trường làm việc.

Phẫn nộ vì những hành động nói trên, hàng trăm công nhân nhà máy Samsung Thái Nguyên đã đuổi đánh các bảo vệ, rồi đốt nhiều xe máy và các container dùng làm nơi ở và văn phòng của bảo vệ. Khi cảnh sát cơ động đến vãn hồi trật tự, công nhân đã dùng gạch đá chống lại.

Xô xát với bảo vệ và đụng độ với cảnh sát cơ động đã khiến hơn 10 người phải nhập viện, trong đó có ít nhất 5 người bị thương nặng, vẫn đang được cấp cứu. Cũng có tin cho là đã có một người chết, nhưng chính quyền tỉnh Thái Nguyên đã bác bỏ tin này và chỉ xác nhận có 11 người bị thương.

Những hình ảnh, clip video về vụ bạo loạn ở nhà máy Samsung Thái Nguyên đã được nhanh chóng phổ biến trên mạng Internet hôm nay.

Ông Dương Ngọc Long, chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên khẳng định với báo chí là sau ba giờ can thiệp, cảnh sát đã tái lập trật tự ở khu vực nhà máy Samsung. Chiều nay, các cơ quan chức năng tỉnh Thái Nguyên đã mở phiên họp khẩn về vụ xô xát ở nhà máy Samsung. Nhưng theo tờ Tuổi Trẻ, các phóng viên không được phép vào dự cuộc họp này.

Về phần hãng Samsung, trong một thông cáo đưa ra hôm nay (09/01/2014) bảo đảm là sẽ làm hết mình để tránh tái diễn những vụ xô xát tương tự, đồng thời khẳng định là công trình xây dựng nhà máy Samsung Thái Nguyên không bị ảnh hưởng.

Khu Tổ hợp Công nghệ cao của tập đoàn Samsung được khởi công xây dựng từ tháng 3/2012 tại Khu Công nghiệp Yên Bình (xã Đồng Tiến, Phổ Yên, Thái Nguyên ) với vốn đầu tư 2 tỷ đôla. Ý định của Samsung là biến Việt Nam thành một cơ sở sản xuất smartphone quan trọng.

Samsung và các tập đoàn công nghệ khác như Intel và Nokia hiện đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam, nơi có giá nhân công rẻ hơn Trung Quốc. Để thu hút đầu tư từ những tập đoàn này, chính quyền các địa phương có nhiều biện pháp ưu đãi, nhất là về thuế.

 

Người lính miền Bắc nghĩ gì về trận hải chiến 1974

Người lính miền Bắc nghĩ gì về trận hải chiến 1974

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-01-08

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 24/7/2011

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 24/7/2011. danlambao

danlambao

Nghe bài này

Hải chiến Hòang Sa diễn ra từ ngày 17 tới 19 tháng Giêng, năm 1974, qua đó, 74 chiến sĩ hải quân VNCH tử trận khi anh dũng bảo vệ Hoàng Sa của VN. Trong khi hiện có nhiều người dân Việt nói lên cảm nghĩ của mình về diễn biến này, thì câu hỏi được nêu lên là người lính bộ đội Miền Bắc dạo nào suy nghĩ gì về người lính Miền Nam đã hy sinh bảo vệ Tổ Quốc ?

Mọi người VN hy sinh bảo vệ đất nước đều phải ghi ơn

Trong thời gian gần đây, nhất là gần tới thời điểm kỷ niệm 40 năm ngày diễn ra trận hải chiến giữa hải quân VNCH và quân TQ xâm lược Hòang Sa của VN, ngày càng có nhiếu ý kiến của người dân Việt trong và ngòai nước bày tỏ lòng cảm phục trước sự hy sinh cao cả của 74 chiến sĩ VNCH khi ra sức bảo vệ Hòang Sa hồi tháng Giêng năm 1974. Đồng thời, công luận cũng ngày càng thắc mắc về tình trạng giới cầm quyền VN, cho tới giờ, vẫn chưa thấy chính thức vinh danh những người con thân yêu ấy của đất nước,  điều mà TS sử học Nguyễn Nhã từ Saigòn cảnh báo rằng “ chính phủ VN sẽ để mất thêm một cơ hội hòa giải dân tộc nếu chậm vinh danh những anh hùng tử sĩ VNCH đã bỏ mình để bảo vệ Hòang Sa trước quân xâm lược phương Bắc”.

Trong xu hướng mong đợi của người dân Việt như vậy, thì những cựu chiến binh bộ đội của Hà Nội suy nghĩ như thế nào về 74 chiến sĩ VNCH ấy đã vị quốc vong thân ? Cựu đại tá quân đội Nhân dân VN, nhà văn Phạm Đình Trọng, từ Saìgon, lên tiếng:

” Những người VN hy sinh để bảo vệ đất đai VN đều là những người con của Tổ Quốc VN, mang dòng máu VN. Tất cả những người đã hy sinh cho đất nước VN đều cao quý và đều là những đứa con yêu của dân tộc VN. Do đó sự hy sinh ấy (của chiến sĩ VNCH) phải được ghi nhận, phải được nhớ ơn

cựu đại tá Phạm Đình Trọng”

Những người VN hy sinh để bảo vệ đất đai VN đều là những người con của Tổ Quốc VN, mang dòng máu VN. Tất cả những người đã hy sinh cho đất nước VN đều cao quý và đều là những đứa con yêu của dân tộc VN. Do đó sự hy sinh ấy (của những chiến sĩ VNCH) phải được ghi nhận, phải được nhớ ơn. Và nhà nước thì phải ghi nhận, phải ghi ơn những người như thế. Nhưng cho tới giờ, nhà nước (VN này) chưa có làm được cái gì khiến mọi người VN thấy băn khoăn, thấy chưa phải đối với sự hy sinh cao cả đó.

Tài liệu về trận chiến Hoàng Sa năm 1974 của TC/CTCT VNCH

Tài liệu về trận chiến Hoàng Sa năm 1974 của TC/CTCT VNCH

 

Một cựu bộ đội VN đang ở Phú Quốc, ông Hùng, nhận xét như sau:

Rất tiếc vì 2 thể chế chính trị khác nhau. Chứ đến bây giờ, đáng lẽ người ta phải tôn trọng họ, bởi vì họ đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền, lãnh hải, lãnh thổ của VN. Theo quan điểm của tôi thì tất cả những người đó đều đáng được tôn trọng hết. Tất cả những người đó, thuộc quân đội VNCH, đã hy sinh vì đất nước VN, dòng nước biển của VN thì đáng được tôn trọng, dù cho 2 thể chế chính trị khác nhau, nhận thức khác nhau.

Từ Hà Nội, cựu đặc công của bộ đội VN, ông Phan Khang, khẳng định về hành động hy sinh của những người lính hải quân VNCH ấy khiến tòan dân Việt kính nể:

” Tất cả những người đó, thuộc quân đội VNCH, đã hy sinh vì đất nước VN, dòng nước biển của VN thì đáng được tôn trọng, dù cho 2 thể chế chính trị khác nhau, nhận thức khác nhau

một cựu bộ đội VN”

Những người hải quân đó của VNCH rất đáng khâm phục. Họ là những người đã xả thân vì đất nước, Tổ Quốc – đất nước đây là của chung – để chống xâm lược, thì mình rất kính phục, kính mến họ. Những người như Trung tá Ngụy Văn Thà…đã hy sinh trong tư thế rất dũng cảm. Hành động đó đã làm cho nhân dân, dân tộc ta kính nể.

Theo cựu bộ đội, ông Hùng, vừa nói, thì Hòang Sa và cả Trường Sa đều là lãnh thổ của VN ngày xưa cũng như VN bây giờ. Ông nhấn mạnh rằng hai nhà nước VNCH và Bắc Việt, dù thế nào đi nữa, thì đó cũng là lãnh thổ của VN.  Ông Hùng cho biết tiếp:

Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2011 đều có nhắc đến trận hải chiến bảo vệ Hoang Sa năm 1974

Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2011 đều có nhắc đến trận hải chiến bảo vệ Hoang Sa năm 1974. danlambao

Chế độ trước (Saigòn) bảo vệ lãnh thổ VN thì chế độ bây giờ cũng phải bảo vệ lãnh thổ VN. Đó là điều bất di bất dịch. Ngày xưa, do ý thức hệ của 2 bên, nhưng người VN đã bảo vệ lãnh thổ của VN, tức là Hòang Sa và Trường Sa. Bất cứ kẻ nào lấn chiếm thì hành động đó là xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của VN. Quân đội cũng là người con của VN để bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền quốc gia VN.

” ông Phạm Văn Đồng hòan tòan đứng về ý thức hệ CS, ý thức hệ gọi là đấu tranh giai cấp để ủng hộ TQ. Lúc ấy, ông hòan tòan không đứng về phía dân tộc; ông ta không đứng ở tư thế của người VN để nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của đất nước mà ông ta đứng về phía ý thức hệ của CS để ủng hộ ý đồ của Tàu cộng

cựu Đại tá Phạm Đình Trọng”

Sự mù quáng của ý thức hệ cộng sản

Nhắc đến hành động Bắc Kinh cưỡng chiếm biển đảo của VN, cựu đặc công Phan Khang lưu ý rằng:

Tôi cho là TQ từ xưa nay, cả nghìn năm Bắc thuộc là họ đã thể hiện ý đồ và hành động xâm lược VN rồi. Nhưng mà về phía bằng chứng lịch sử thì họ không thể nào có bằng cớ bằng VN hết. Vấn đề là họ ỷ thế nước lớn để thực hiện mưu tính bá quyền. Cho nên lúc nào họ cũng phát triển mưu đồ xâm lược VN. Thời nào cũng vậy, kể cả thời ông Hồ Chí Minh, họ tìm mọi cách để xâm chiếm, bành trướng. Người Hán thì không phải riêngVN, họ có ý định làm bá chủ cả thế giới.

Theo cựu Đại tá Phạm Đình Trọng thì Phương Bắc chiếm được Hòang Sa của VN bởi vì họ đã triệt để lợi dụng chiến tranh ý thức hệ vào thời điểm diễn ra cuộc “ buôn bán ”, sự mặc cả giữa Mỹ và TQ. Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận định rằng nếu như Mỹ không thỏa thuận cho TQ đánh chiếm Hòang Sa thì TQ không thể đánh chiếm được. Nhưng hai siêu cường đã thỏa thuận “đi đêm” với nhau để Mỹ đứng ngòai cuộc. Đại tá Phạm Đình Trọng cho biết tiếp:

TQ thực hiện được âm mưu chiếm Hòang Sa của VN. Đây chính là sự mặc cả, buôn bán nhau giữa 2 nước lớn, và họ đã hy sinh quyền lợi của nước nhỏ là VN. Nếu không có cuộc chiến tranh ý thức hệ thì TQ không khi nào có thể chiếm được Hòang Sa. Công Hàm Phạm Văn Đồng thể hiện rõ nhất cái ý thức hệ đó. Lúc đó, ông Phạm Văn Đồng hòan tòan đứng về ý thức hệ CS, ý thức hệ gọi là đấu tranh giai cấp để ủng hộ TQ. Lúc ấy, ông hòan tòan không đứng về phía dân tộc; ông ta không đứng ở tư thế của người VN để nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của đất nước mà ông ta đứng về phía ý thức hệ của CS để ủng hộ ý đồ của Tàu cộng.

Và, khi nhắc tới cái Công hàm Phạm Văn Đồng, nhà Văn Phạm Đình Trọng không quên nhấn mạnh rằng nó đã phản lại quê hương, dân tộc, mang lại hậu quả vô cùng tai hại cho quyền lợi của dân tộc, cho đất đai của dân tộc. Và điều này cũng thể hiện rõ nhất sự mù quáng của ý thức hệ CS.