Hôm nay, 24/10/2013, Viện Công tố Rumani thông báo đã truy tố về tội “diệt chủng” ông Ioan Ficior, trưởng một trại cải tạo thời Cộng sản, nơi mà cả trăm nhà đối lập đã bỏ mạng cách đây 50 năm.
Trong bản thông cáo, Viện Công tố cho biết, trong cương vị của ông từ năm 1958 đến 1963, Ioan Ficior đã thi hành một chế độ giam giữ “mang tính trấn áp, lạm quyền, vô nhân đạo” đối với các tù chính trị trong trại cải tạo Periprava, miền đông nam Rumani.
Theo các nhà điều tra, chế độ giam giữ nói trên nhằm mục đích “tận diệt các tù chính trị”, bằng cách bắt họ làm việc rất cực nhọc, trong cái rét kinh người, thiếu nước uống, thức ăn và thuốc chữa bệnh. Trong thời gian ông Ficior làm trưởng trại cải tạo từ tháng 8/1958 đến 11/1963, 113 tù chính trị đã chết trong trại này.
Vào giữa tháng 9 vừa qua, Viện nghiên cứu tội ác Cộng sản của Rumani đã đề nghị Viện Công tố truy tố ông Ficior về tội diệt chủng. Năm nay 85 tuổi, ông Ficior khi trả lời phỏng vấn một nhật báo Rumani đã chối bỏ trách nhiệm của ông về cái chết của các nhà đối lập trong trại cải tạo do ông điều hành.
Tổng cộng, hơn 600 000 người Rumani đã bị tuyên án và giam cầm vì những lý do chính trị dưới thời Cộng sản, từ năm 1945 đến 1989, theo số liệu của Viện bảo tàng tưởng niệm nạn nhân Cộng sản Sighet. Thế nhưng, cho tới nay, rất ít cựu lãnh đạo Cộng sản nước này phải ra trước vành móng ngựa vì đã hết thời hiệu truy tố.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, mọi nhà thờ, mọi sinh hoạt, mọi bài báo rầm rộ theo chủ đề : Loan báo Tin Mừng. Lời Chúa sai đi đươc nhấn mạnh, được quảng bá, được lập đi lập lại. Những bài hát với những lời “có cánh’ được hát vang, được trình bày, được “làm cho Thánh lễ thêm phần sốt sắng”.Tôi tự hỏi ngày mai thì sao ? Hoa sẽ trên bàn thờ sẽ tàn, chủ đề Thánh lễ sẽ đổi, bài hát sẽ thay, mọi người sẽ quên ? và đâu lại vào đấy.
Tôi có bi quan lắm không ? Bao nhiêu người đang ngày đêm miệt mài với công cuôc loan báo Tin Mừng, bao người trẻ tiếp nối bước chân hăng hái lên đường, bao nhiêu hy sinh âm thầm, bao nhiêu lời nguyện cầu, bao nhiêu những đóng góp cho việc truyền giáo, tôi có bi quan lắm không ?
Nhưng sao còn bao nhiêu người, mênh mông là người chưa biết Chúa, bao nhiêu vùng, bao la là vùng chưa biết Chúa, quá nhiều gía trị, quá nhiều lãnh vực chưa có dấu ấn Tin Mừng. Xã hội của tôi đang sống còn bạo lực, còn vô cảm, còn gian ác, còn mưu mẹo điêu ngoa lọc lừa, còn dối trá, còn bất công, còn chà đạp nhau.
Trong bài nói chuyện về Tân phúc âm hóa, Đức Thanh Cha Phanxico đưa ra một hình ảnh : “bước ra tiền đình đức tin”, tiền đình nhà thờ dành cho những người chưa có đức tin, những người dự tòng dừng ở đây, nghe xong lời Chúa thì ra về, họ chưa được vào trong ngôi nhà đức tin của Hội Thánh. Bước ra tiền đình Đức Tin nghĩa là ra khỏi nhà mình, đến với những người chưa tin, chưa biết Chúa. “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”, nghĩa là đi trong bình an để loan báo Tin Mừng. Hội Thánh không giữ chúng ta ở lại mãi trong ngôi nhà đức tin, nhưng bảo chúng ta ra đi.
Ở lại và lo chăm chút cho ngôi nhà của mình là đi ngược lại những gì Chúa Giêsu và Hội Thánh mong muốn. Narcis là tên của một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, anh ta hãnh diện về vẻ đẹp của mình, anh ta chiêm ngắm vẻ đẹp của mình trên mặt nước, anh ta đã lộn cổ xuống giếng khi đang chiêm ngắm và thỏa mãn về mình. Đức Thánh Cha Phanxico cảnh báo chúng ta về tình trạng Narcisism. Nhiều cộng đoàn tín hữu đang bị rơi vào tình trạng này, cái nguy hiểm là hãnh diện về thành tích của mình, sự giàu có sang trọng của mình, truyền thống của mình. Nhiều cộng đoàn đang rầm rộ tổ chức các lễ mừng to lớn của mình, diễn văn ca tụng, hoa nến tưng bừng.
Muốn thay một bộ bàn ghế tiếp khách ở nhà xứ đáng giá hàng trăm triệu, hãy nhớ đến những ngôi nhà nguyện rách nát ở vùng sâu. Muốn đổi gạch trong nhà thờ cho hợp thời trang, dự toán lên đến hàng trăm triệu, có khi là 1 tỷ, hãy nhớ đến những trẻ thơ thiếu sách thiếu vở đến trường, … Thời buổi thông tin không thể không thấy, cả nhân loại trở nên một ngôi làng, chỉ môt cái click chuột, không thiếu những hình ảnh vùng sâu vùng xa hiện ra, anh Lazaro không còn nằm nơi vệ cửa, nhưng anh đang rất cụ thể ngay trên màn hình của chúng ta, cách gương mặt của ta vài tấc.
Hãy bước ra tiền đình đức tin, Hãy ra chỗ nước sâu, nước sâu chứ không phải chỗ nước nông !
Chúa có phải là của riêng tôi hay riêng một ai đó chăng?
Trưa nay trong lúc tôi với má tôi ngồi trò chuyện, tôi có nói với má tôi rằng: “tối nay con phải tới đường Nguyễn Thị Nhỏ để tập trung lên xe đi hành hương, nhưng con không biết đường đó ở đâu, vì chưa bao giờ con đi đường đó”. Má tôi liền nói rằng: “mày xin Chúa của mày chỉ đường đi, vì có Chúa tụi bây chỉ đường thì không bị lạc mà trễ giờ “. Tôi là một tân tòng, trong gia đình chỉ có mình tôi là người theo đạo, , còn các thành viên khác thì chưa nhận biết Chúa.
Chỉ một câu nói thật nhẹ nhàng và đơn giản như vậy, đã làm cho tôi hơi bất ngờ và chợt nhớ ra đã nhiều lần tôi cũng nhờ Chúa và Mẹ dẫn đường đến nơi một cách an toàn và đúng thời gian.
Cách đây khoảng 4 năm, trong nhóm Kinh Thánh Cầu Nguyện mà tôi sinh hoạt. Cô trưởng nhóm nói tôi đến dự một buổi sinh hoạt khá đặc biệt ở Giáo Xứ Mai Khôi ở đường Trần Bình Trọng. Nhận lời xong thì tôi mới nhớ là mình chưa biết giáo xứ đó nằm ở đâu, hỏi thì cô trưởng nhóm có hướng dẫn nhưng lại nói thêm là nằm trong cùng của một con hẻm. Lúc nghe thì thấy đơn giản, nhưng khi đi thì mới biết là xa quá so với nhà của tôi. Chạy xe tới đường Trần Bình Trọng thì có nhiều con hẻm, thế là tôi vội vàng nói với Chúa và Mẹ là xin dẫn con đi đúng hướng kẻo con bị trễ giờ thì tiếc lắm. Quả thật, sau khi tôi thỏ thẻ với Chúa và Mẹ như thế thì tôi đã quẹo đúng con hẻm dẫn đến ngay cổng nhà thờ.
Sau lần đó, mỗi khi tôi đi đường thấy có vẻ bị lạc thì tôi vội vàng xin Chúa và Mẹ dẫn đi.
Cách đây hơn một năm, gia đình tôi có giúp những đứa cháu họ của má tôi. Trong đó có một con bé vào để luyện thi đại học. Mặc dù cô bé cũng cố gắng và dồn nhiều công sức để ôn luyện. Gần đến ngày đi thi đại học thì cô bé ấy xin tôi cho được đi lễ cùng, vì là người ngoại đạo, cô bé ấy cũng chỉ biết nói với Chúa trong Thánh Lễ là: “Chúa ơi, đi thi với con vì con sợ”.
Rồi cũng đến ngày thi đại học, cô bé ấy hỏi tôi là làm sao biết Chúa sẽ đi thi cùng. Lúc đó tôi hướng dẫn thêm cho cô bé làm dấu Thánh, đó là dấu chỉ cho Chúa biết là mình làm gì và ở đâu đều có Chúa ở cùng. Và cô bé ấy đã vào phòng thi với thái độ rất tự tin.
Khi đón cô bé trước cổng trường sau buổi thi, tôi nghe cô bé ấy kể lại rằng: “đề thi năm nay quá khả năng của em, em nhìn đề không thấy có chút gì trong những đề em đã học. Sợ quá lúc đó em chỉ biết làm dấu Thánh và xin Chúa giúp em và em chỉ biết làm bài một cách máy móc, nhưng em thấy vui vui và không thấy sợ gì cả”.
Cho đến ngày có kết quả thi, thì cô bé ấy đã đậu vào một trường cao đẳng. Đó là một kết quả mà cô bé ấy cũng như gia đình không nghĩ tới, vì thật sự thì cô bé ấy đã bị mất căn bản từ những năm cấp ba ở trường tỉnh. Điều rất đặc biệt là cô bé này là con trong một gia đình không biết Chúa và là một gia đình thờ đạo ông bà sinh sống ở Phan Thiết.
Người thứ hai là một đứa em gái họ nhà bên Nội của tôi, cô này đã gần 35 tuổi mà vẫn chưa hiểu gì cho lắm về tình yêu hôn nhân và chưa tìm được người yêu. Vì gia đình cô ở quê miền tây – Bạc Liêu nên chuyện hôn nhân của cô ấy khá quan trọng đối với gia đình cô ấy. Ba má cô ấy luôn lo lắng cho chuyện hôn nhân của cô con gái út và theo như tôi được biết thì hai bác của tôi cũng hay cúng hay cầu xin nhiều nơi. Nhưng tất cả gần như vô vọng, có lần tôi nghe bác trai tôi nói buồn rằng: “số nó chắc ở vậy, không lấy được chồng” .
Một hôm nhân dịp Thanh Minh, gia đình đứa em trai tôi và ba tôi phải về quê ở Bạc Liêu để viếng mộ ông bà nội tôi. Tôi cũng tham gia đi cùng, nhưng ngoài việc tôi đi viếng Thanh Minh, tôi còn mục đích khác là viếng Giáo Xứ Tắc Sậy ở Hộ Phòng có mộ cha Phanxico Trương Bửu Diệp.
Mấy đứa em tôi tuy không biết Chúa nhưng chúng đã chứng kiến nhiều ơn lành và phép lạ mà qua cha Diệp. Nên khi nghe tôi nói đi cha Diệp thì tụi nó hưởng ứng và đi cùng. Trong chuyến đi cũng có nhỏ em con bác ruột của tôi, nó thì đi cho vui chứ không biết cầu xin gì.
Tới nơi thì tôi nói nó xin khấn những mơ ước của nó, nó nói là nó không biết vì truyền thống gia đình nó chỉ biết cúng vái ông bà và trời Phật. Lúc đó tôi chợt nhớ đến nhưng ưu tư của hai bác tôi, tôi nói nó cùng xin khấn với tôi, xin cha Diệp cầu với Chúa ban cho nó hiểu về tình yêu hôn nhân là gì. Thế là chúng tôi thành tâm xin khấn với những lời khấn đơn sơ và phó thác hoàn toàn.
Bẳng đi khoảng hơn một tháng sau khi xin khấn, thì nhỏ em tôi báo cho tôi một tin vui là đã tìm được người yêu và chúng nó cũng đang tính chuyện cưới xin. Tháng 11 tới đây sẽ là ngày cưới của chúng nó, tôi thấy rất vui và chỉ biết tạ ơn Chúa và cám ơn cha Diệp đã cầu thay chúng tôi.
Trong bài chia sẻ này, tôi đưa ra một vài chứng nhân gần gũi với tôi và tôi hiểu rõ. Họ đều là những người không biết Chúa và đều thuộc những gia đình thờ ông bà, thờ thần thánh và Phật.
Đọc đến đây thì chắc quý vị cũng đã rỏ câu trả lời cho câu hỏi ở đầu bài viết, Chúa thật sự là của ai rồi. Tôi xin khẳng định Chúa chẳng của riêng ai, chẳng thuộc lứa tuổi nào, lại càng không phân biệt lớn nhỏ, không phân biệt màu da, chủng tộc. Chúa là của mọi người, của toàn nhân loại chúng ta. Ngài chỉ cần ta thành tâm, đơn sơ và biết tin tưởng hoàn toàn khi cầu xin thì sẽ được Ngài chúc phúc và đồng hành.
Nguyện xin Tình yêu của Chúa, Mẹ Maria và các Thánh luôn chúc phúc và cầu thay cho chúng con trong suốt cuộc đời của chúng con, để chúng con luôn được sống trong ơn nghĩa con cái của Ngài, hầu danh Cha chúng con luôn được tôn vinh và cả sáng.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường rời Hà Nội hôm 15/10, nhưng dư âm của chuyến công du của giới chức từ nước láng giềng phương bắc của Việt Nam vẫn chưa lắng dịu. Một trong những vấn đề được bàn luận nhiều trên các trang mạng xã hội những ngày qua là bản thỏa thuận giữa giới chức hai nước về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội. Tin cho hay, ý tưởng thành lập Viện này ở Việt Nam đã được nhen nhóm từ năm 2009, nhưng theo nhận định của giới quan sát, những mối căng thẳng ở biển Đông đã làm cho dự án này bị trì hoãn. Nhưng Bắc Kinh đã tỏ ra dịu giọng hơn trong chuyến thăm của ông Lý vì theo đánh giá của các chuyên gia, ‘Trung Quốc muốn tỏ ra rằng họ không hiếu chiến’ trong bối cảnh nước này ‘đang bị cô lập trong vấn đề tranh chấp lãnh hải’.
Ngay cả Trung Quốc, thời kỳ Cách mạng văn hóa cũng đã đạp đổ hoàn toàn cả Khổng học cũng như Nho giáo. Bây giờ họ muốn dựng lại để tạo ảnh hưởng đối với các nước lân bang hay là các nước mà họ muốn gây ảnh hưởng.
Tiến sỹ Nguyễn Nhã nói.
Tiến sỹ Nguyễn Nhã, nhà sử học có nghiên cứu về Trung Quốc, cho rằng Viện Khổng tử là ‘một trong những ý đồ của Bắc Kinh muốn sử dụng ảnh hưởng về văn hóa để thể hiện quyền lực mềm đối với Việt Nam’. Ông nói: “Ngay cả Trung Quốc, thời kỳ Cách mạng văn hóa cũng đã đạp đổ hoàn toàn cả Khổng học cũng như Nho giáo. Bây giờ họ muốn dựng lại để tạo ảnh hưởng đối với các nước lân bang hay là các nước mà họ muốn gây ảnh hưởng”. Báo chí trong nước đưa tin, Viện Khổng Tử ‘giảng dạy tiếng Hoa; đào tạo giáo viên Hoa ngữ; tổ chức thi trình độ tiếng Hoa; chiếu phim Trung Quốc; tư vấn du học; tổ chức các hoạt động trao đổi văn hóa, hữu nghị’. Trong khi đó, blogger Paulo Thành Nguyễn cho rằng Viện Khổng tử là một trong những công cụ để Trung Quốc ‘thể hiện mộng bá quyền’. Người từng lập cơ sở kinh doanh với ‘cam kết không bán hàng hóa Trung Quốc’ còn nói thêm rằng Trung Quốc đã truyền bá văn hóa của nước này ở Việt Nam ‘qua con đường phim ảnh từ lâu rồi’. Ông nói: “Đó là một trong những mục đích để thể hiện bá quyền về văn hóa và giải trí. Tất cả đều lồng vào thông điệp mà Trung Quốc muốn gửi đến người dân Việt Nam để thông quá đó để rao giảng về văn hóa của họ”.
Đó là một trong những mục đích để thể hiện bá quyền về văn hóa và giải trí. Tất cả đều lồng vào thông điệp mà Trung Quốc muốn gửi đến người dân Việt Nam để thông quá đó để rao giảng về văn hóa của họ.
Ông Paulo Thành Nguyễn nói.
Về tác động của quyền lực mềm của Trung Quốc đối với Việt Nam, người được coi là cha đẻ của thuyết quyền lực mềm, Giáo sư tại Đại học Harvard Joseph Nye từng nhận định với VOA Việt Ngữ rằng ‘Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là Khổng giáo, trong một thời gian dài’. ‘Ngoài ra, Trung Quốc còn tìm cách truyền bá tư tưởng của mình. Người Trung Quốc cho rằng quá trình thích nghi của Đảng Cộng sản trong khi thực thi nền kinh tế thị trường là điều hấp dẫn đối với Việt Nam’, ông Nye nói. Theo Tiến sỹ Nhã, sự mở rộng văn hóa của Trung Quốc ‘không phải là hướng có lợi cho Việt Nam’. Ông nói: “Trung Quốc đã muốn và thể hiện quyền lực mềm trong kinh tế, và theo tôi, Trung Quốc đã khá thành công. Hàng hóa của Trung Quốc tràn lan và sự nhập siêu của Việt Nam thì quá lớn. Như thế theo tôi cũng là một sự lệ thuộc. Chỉ khi nào mình cân bằng được thì lúc đó mình mới thực sự thể hiện sự độc lập, tự chủ của mình”. Trong một bài viết trên blog của mình, blogger Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Hán – Nôm ở Hà Nội, cho rằng giới lãnh đạo Việt Nam ‘có một sự hiểu biết rất hạn chế về văn hóa của Trung Quốc’.
Để những học viện Khổng Tử như thế tồn tại ở Việt Nam đòi hỏi những nhà lãnh đạo về tư tưởng và văn hóa phải có sự hiểu biết sâu sắc, một bản lĩnh vững vàng. Nếu không, nó sẽ là cuộc xâm lăng về mặt văn hóa.
Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện viết.
Nhà nghiên cứu về văn hóa Việt Nam – Trung Quốc viết: “Việc tuyên truyền, gây sức ép cũng như ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc lên Việt Nam là quá mạnh. Có những công trình tu bổ hoặc xây mới mang đậm dấu ấn Trung Quốc. Có hàng loạt các ngôi chùa từ Nam chí Bắc trùng tu, trang trí theo kiểu Trung Quốc”. “Để những học viện Khổng Tử như thế tồn tại ở Việt Nam đòi hỏi những nhà lãnh đạo về tư tưởng và văn hóa phải có sự hiểu biết sâu sắc, một bản lĩnh vững vàng. Nếu không, nó sẽ là cuộc xâm lăng về mặt văn hóa”, ông Diện viết. Theo tờ Nhân dân Nhật Báo của Trung Quốc, hiện có khoảng hơn 400 Viện Khổng Tử do Trung Quốc tài trợ đặt tại các trường đại học trên toàn thế giới, trong đó có cả Mỹ và nhiều nước châu Phi.
Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.
Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau.Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.
Cả hai người trêncó thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.
Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ.Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết.Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay.Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.
Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” .Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.
Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.
Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu. Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai, mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ).Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.
Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục.Chị là người biết sống trong nỗi chết.Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình.Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.
Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.” Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.
Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên,giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa,đi gần,nào đó của mình.
Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ứoc đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.
Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.
Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (Robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (Chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già.Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.
Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt, lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.
Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.
Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Goh, v.v. Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.
Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích
Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu.Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.
Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.
Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết(*)
Chắc lúc đó, chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.
Ngày Chúa nhật hôm đó có một bà lão đến gặp nó trước giờ lễ , bà dúi vào tay nó một phong thư có một ít tiền lẻ trong đó, với một lời gửi gắm: ‘xin cha cầu nguyện cho con gái con, sắp sửa đến ngày sanh đứa cháu ngoại đầu tiên, xin cho hai mẹ con được mẹ tròn con vuông’. Nó trả lại phong thư cho bà không dám nhận, nói với bà rằng, đây là bổn phận của con mà, bà cầm đi để về mua thuốc bổ cho con bà! Nhưng bà nhất quyết không chịu, bà nói, cha ơi con dâng cho Chúa, để giúp những người đói khổ khác chứ đâu có cho cha! con muốn dùng cơ hội này để xin cha cầu nguyện cho con và đứa cháu tương lai của con….
Thế là thánh lễ đó nó đã thật sốt sắng cầu nguyện cho người mẹ trẻ ấy. Đúng một tuần lễ sau, người mẹ già lại đến gặp nó trước giờ lễ, lần này trông nét mặt của bà có vẻ lo lắng hơn nhiều, rồi bà cũng dúi vào tay nó một bì thư, nó vừa nhìn bà vừa hỏi, con bà đã sanh chưa? Bà trả lời với nét mặt đầy nỗi lo âu, thưa cha, xin cha cầu nguyện cho cháu con, mẹ nó vừa sanh non, và cháu đang yếu lắm… nó cầm phong thư mà lòng ngổn ngang, chẳng lẽ Chúa đã không nhận lời của người Mẹ đó? phải chăng Chúa cũng từ chối lời cầu nguyện của nó trong thánh lễ? Rồi thánh lễ hôm đó nó cũng dâng thật là sốt sắng, xin Chúa cho đứa trẻ được khoẻ mạnh và bình yên…
Ngày Chúa nhật kế tiếp lại đến, nó đã trông ngóng để gặp người giáo dân ấy, hy vọng biết thêm thông tin về sức khoẻ của cháu bà ta, và rồi cũng đúng sát giờ lễ bà xuất hiện, không đợi bà lên tiếng nó vồn vã hỏi thăm, bà ơi cháu bà sao rồi? Với hai hàng nước mắt lăn dài rút trong bóp ra một bì thư khác, xin cha cầu nguyện cho linh hồn cháu con tên thánh là ….. nó khựng lại, tự nhiên nó cảm thấy mọi thứ xung quanh trở nên tối tăm bất thường. Nó dúi phong thư lại tay bà, thôi bà cầm đi, con sẽ cầu nguyện cho cháu của bà! nó nói với tâm trạng vừa buồn, vừa trống vắng vừa chao đảo trước một hoàn cảnh mà nó không bao giờ nó nghĩ mình sẽ đối diện… bà lão đã liên tiếp cầu xin Chúa, và bà có xin gì cho riêng mình đâu, chỉ là cho đứa cháu và con gái mình… một lời cầu xin quá đỗi bình thường, quá chân thành, và xứng đáng, vậy mà đã không được nhậm lời, nhưng nếu bà không có gì sai trong lời cầu xin này, chẳng lẽ là nó đã có gì sai? chẳng lẽ nó không xứng đáng trước mặt Chúa?? Nhưng bà lão cũng nhất định bắt nó nhận phong thư đó với lời nói quả quyết,cháu con mất rồi, cha coi đây là món quà con thay cháu gửi đến những đứa trẻ mất mẹ nhe cha…
Và nó đã dâng thánh lễ ngày hôm ấy, đó là thánh lễ buồn nhất của nó, nó cảm thấy bất lực trước Chúa, xấu hổ trước bà lão vì mình không thể giúp bà được gì ngay cả lời cầu xin đơn sơ… nó cảm thấy mình giống như một vị linh mục kém cỏi nhất của thế gian này, rồi trong kinh nguyện của ngày hôm đó nó có phần oán trách Chúa, Chúa ơi tại sao lại là con, tại sao… tại sao Chúa đã im lặng? … buổi tối hôm nó với phong bì của bà lão và tất cả số tiền xin lễ nó nhận được lang thang vào trong bệnh viện như một người mất hồn, gặp chị nữ tu điều dưỡng mà nó vẫn thường cộng tác với chị, gửi tất cả những gì nó đang có trong tay cho chị: ‘có người nhờ em gửi cho chị, để chuyển cho những ai đang cần chị nhe’ rồi nó lầm lũi ra về như một tên trộm…
Thế đó, sáng ngày hôm sau, nó nhận được tin của vị nữ tu trực đêm trong bệnh viện: thưa cha, con nhờ Cha chuyển lời cám ơn cho vị ân nhân đó, nhờ số tiền đó mà đã giúp được một em bệnh nhân người dân tộc cần truyền máu và nằm viện có tiền chi trả và còn mua được hai hộp cơm cho hai mẹ con họ nữa…
Nó mừng quá, hy vọng tuần lễ sau có dịp gặp bà lão ấy để cảm ơn và dùng tin này để an ủi bà, thế nhưng nó không còn thấy bà đi lễ nữa, suốt một hơn một năm trời sau đó, thánh lễ nào nó cũng cầu xin Chúa gìn giữ đức tin của gia đình bà….
Phải chăng có người cầu nguyện Chúa trả lời, có người không? Theo nó thì không phải vậy, Chúa sẽ luôn luôn đáp trả lời cầu nguyện của chúng ta! Nhưng liệu chúng ta có nhìn ra điều đó hay không?
Còn nhớ hình ảnh bà goá cầu nguyện đòi công bằng trước một ông quan toà vô tâm trong Phúc âm thánh Luca, và rồi ông quan toà cũng phải đáp lại đòi hỏi của bà ta! Ngày xưa nó từng nghĩ rằng Chúa muốn dùng cách làm của bà goá để ám chỉ việc phải cầu nguyện để Chúa nghe nhiều quá mệt mà đáp lời như vị quan toà kia!
Nhưng thật ra Chúa không hề dùng ông quan toà vô tâm để mô tả cho hình ảnh của Chúa, cho bằng việc Chúa muốn dùng ví dụ bà goá ấy đã cầu nguyện không ngừng với Chúa khi bà đi đòi lại công bằng cho mình…việc đòi lại công bằng là đối với quan toà, việc cầu nguyện là đối với Chúa,chính cầu nguyện đã làm cho bà có đủ can đảm và kiên nhẫn để đi đến cùng, để rồi từ một người không có tiếng nói trước công chúng và quan toà ( đồng nghĩa với goá phụ thời xưa ), bà đã dùng tiếng nói trong kinh nguyện của bà để làm thay đổi lòng dạ vô tâm của ông quan toà ấy… và đem lại lẽ công bằng cho bà.
Cầu nguyện liên lỉ mở lòng chúng ta ra với Chúa, chúng ta không còn là một khối tách biệt với Chúa nhưng được thông phần, được kết hiệp trái tim mình với trái tim Chúa, đến một mức độ mà đời sống chúng ta được nuôi dưỡng bởi sức mạnh và lòng thương xót của Chúa, và từ đó dần dần chúng ta trở nên giống Chúa trong cảm thức và trong hành động của mình, đến mức độ mà mình có thể hy sinh và yêu thương như Chúa yêu thương.
Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, không phải qua đó để thay đổi ý Chúa Cha, không phải để làm cho quân lính gục ngã trước chân Ngài, nhưng qua cầu nguyện Ngài đi đến cùng trên con đường mà Chúa Cha đã đã muốn Ngài đi qua… các môn đệ lúc bấy giờ, đã không cầu nguyện liên lỉ và do đó, họ thay vì đi theo Chúa, đã bỏ Chúa và trốn Chúa và chối Chúa.
Rồi đến ngày nó phải chia tay cộng đoàn của nhà thờ đó để chuyển công tác khác, sau thánh lễ hôm đó có nhiều giáo dân đến chào chia tay nó, có một người phụ nữ trẻ đến trao cho nó phong thư để xin lễ, rồi vì quá đông người nó không kịp nói gì hơn ngoài lời chào và cám ơn cô ấy.
Trên đường đi xa, nó tình cờ phát hiện phong thư ấy vẫn còn nguyên trong một ngăn cặp , mở ra thì thấy dòng chữ quen thuộc nguệch ngoạc của bà lão năm nào: – ‘thưa cha chân con không khoẻ, nên con nhờ con gái con đến gặp cha để xin hai thánh lễ tạ ơn, con xin một lễ tạ ơn cho con gái con đã quay lại với Chúa, sau nhiều năm nó bỏ Chúa, chắc cũng nhờ cú shock bị mất con, nó mới biết mình cần Chúa, con xin một lễ nữa cho cháu con cũng vừa mới chào đời cách đây hai tháng nhờ hồng ân Chúa, cuối cùng nó cũng sinh được mẹ tròn con vuông …. con chúc cha đi bình an “
Đến lúc này, nước mắt trên má lăn dài, nó phát hiện ra rằng chính lời cầu nguyện của bà lão, đã thay đổi chính nó… làm cho nó biết khiêm tốn hơn và biết trông đợi vào Chúa, biết lắng nghe Chúa theo cách của Ngài …và nó tin rằng cầu nguyện không phải là để thay đổi Chúa mà là để thay đổi chính mình để mình có thể nghe được Chúa, nhận biết Chúa và trở nên một với trái tim yêu thương của Ngài. Amen
Lâu nay, ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc, hầu như ai cũng biết sự mâu thuẫn gay gắt giữa ba người đứng đầu bộ máy cầm quyền tại Việt Nam: Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng; Trương Tấn Sang, chủ tịch nước; và Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng. Những mâu thuẫn ấy được bộc lộ rõ rệt qua các cuộc tranh chấp quyền lực kéo dài nhiều năm, thậm chí, như trong trường hợp giữa Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, kéo dài nhiều thập niên, lúc cả hai còn là những cán bộ lãnh đạo cấp địa phương. Chúng không có gì bí mật cả. Mọi người đều biết. Tuy nhiên, liên quan đến các mâu thuẫn ấy, có một khía cạnh đáng chú ý hơn: Cách xây dựng và củng cố quyền lực của mỗi người. Có lẽ, một lúc nào đó, khi những người trong cuộc lên tiếng, chúng ta sẽ có bức tranh đầy đủ hơn về điều này. Còn bây giờ, nhìn từ bên ngoài, điều chúng ta có thể thấy được là những chiến lược chung. Chiến lược ấy, ở Nguyễn Phú Trọng, là nhắm đến việc tập hợp các lực lượng bảo thủ và giáo điều trong đảng, những người còn tin tưởng vào sức mạnh và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội (so với chủ nghĩa tư bản); ở Nguyễn Tấn Dũng, là ban phát ân huệ để mua sự trung thành của quân đội và công an (bằng nhiều cách, trong đó, có cách phong tướng cho thật nhiều người, ví dụ, riêng cuối năm 2012, có đến 49 tướng công an mới!) và các giám đốc công ty quốc doanh, những nơi làm ăn béo bở nhất hiện nay. So với Nguyễn Phú Trọng, chiến lược củng cố quyền lực của Nguyễn Tấn Dũng coi bộ có hiệu quả hơn. Điều đó có thể thấy dễ dàng qua các cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai bên trong mấy năm vừa qua: Nguyễn Phú Trọng chỉ thắng ở vòng tranh chấp thuộc Bộ Chính trị (gồm, trước, 14 người; hiện nay, 16) nhưng lại thua Nguyễn Tấn Dũng ở cấp Trung ương đảng (bao gồm 175 người). Thua từ cuộc vận động thi hành kỷ luật đối với Nguyễn Tấn Dũng trong hội nghị Trung ương 6 (tháng 10/2012) đến cuộc vận động đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị trong Hội nghị Trung ương 7 (tháng 5/2013). Thế còn Trương Tấn Sang? Trước, khi còn là Thường trực Ban Bí thư Trung ương đảng, có vẻ như ông khá được lòng giới trí thức. Nhiều người cho ông có tâm huyết và viễn kiến, khao khát làm một cái gì đó hữu ích cho đất nước. Tuy nhiên, từ sau Đại hội XI, khi ông lên làm chủ tịch nước, dường như niềm tin ấy dần dần nguội lạnh. Người ta không còn hy vọng hay chờ đợi gì ở ông nữa. Trương Tấn Sang cũng không thể cạnh tranh với Nguyễn Phú Trọng trong việc tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng giáo điều vốn từ lâu vẫn nghi ngờ ông. Ông càng không thể cạnh tranh với Nguyễn Tấn Dũng ở hai mặt trận: một, với các cán bộ trong quân đội, công an và doanh nghiệp vì trong tư cách chủ tịch nước, vốn chỉ là hư vị, ông không có gì để ban bố ân huệ cho họ; và hai, với dân chúng miền Nam, quê gốc của ông, ông cũng bị Nguyễn Tấn Dũng, cũng là người miền Nam, tranh giành quyết liệt. Ngay cả khi Trương Tấn Sang có liên minh với Nguyễn Phú Trọng, ông cũng không thể thắng. Bởi vậy, không có gì lạ khi mấy năm gần đây Trương Tấn Sang chuyển hướng sang vận động quần chúng, những người dân bình thường. Ông thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ với cử tri, chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh. Ở các cuộc gặp gỡ ấy, bao giờ ông cũng tập trung vào một đề tài chính: chống tham nhũng. Khi hô hào chống tham nhũng, có lúc ông không ngần ngại chĩa mũi dùi thẳng vào Nguyễn Tấn Dũng, dưới cái tên đã đi vào lịch sử: “đồng chí X”. Hơn nữa, hầu như bao giờ ông cũng kêu gọi quần chúng chủ động và tích cực hơn nữa trong trận chiến chống lại tham nhũng – đôi khi được hiểu là chống lại “đồng chí X”. Với những mục tiêu và chiến lược củng cố quyền lực khác nhau như vậy, khẩu khí của ba người lãnh đạo Việt Nam cũng khá khác nhau. Nguyễn Phú Trọng thường xuất hiện trong các hội trường với thính giả là các đảng viên, ở đó, ông lè nhè đọc các bài diễn văn cũ rích vốn thường được nghe trong mấy thập niên về trước, lúc chế độ Cộng sản chưa bị sụp đổ ở Liên xô và Đông Âu. Nguyễn Tấn Dũng thường xuất hiện trong các hội nghị với các cán bộ vừa có quyền vừa có tiền để huênh hoang báo cáo về các thành tích họ đã đạt được. Còn Trương Tấn Sang thường xuất hiện trong các cuộc họp mặt ở địa phương với áo sơ mi trắng có vẻ rất hiền lành và giản dị để nói về những thao thức của ông trước những vấn đề nghiêm trọng của đất nước. Thật ra, trong cái gọi là “những vấn đề nghiêm trọng của đất nước” ấy, Trương Tấn Sang hoàn toàn né tránh những vấn đề bức thiết như quan hệ với Trung Quốc và vấn đề dân chủ hay nhân quyền ở Việt Nam. Ông chỉ tập trung chủ yếu vào một khía cạnh: tham nhũng. Đóng vai tiên phong trong mặt trận chống tham nhũng, Trương Tấn Sang thường lặp đi lặp lại một số điểm: Một, ông hiểu và thông cảm với những bức xúc của quần chúng; hai, bản thân ông cũng bức xúc và sẽ sẵn sàng vứt bỏ mọi chức tước, trở về làm dân thường, sống một cách giản dị như mọi người khi ông cảm thấy không có cách nào thực hiện được ý nguyện của mình; và ba, kêu gọi mọi người tiếp sức với ông bằng cách can đảm tố giác bọn tham nhũng. Nhắm vào các điểm ấy, có khi Trương Tấn Sang khá thành thực. Thành thực ít nhất ở hai điều. Thứ nhất, thừa nhận nạn tham nhũng đang tràn lan ở Việt Nam. Hình ảnh không phải chỉ một con sâu mà là “cả một bầy sâu” tham nhũng là của ông. Cách nói “làm gì cũng ăn hết trọi, loang lổ chỗ nào cũng có tiêu cực” cũng là của ông. Thứ hai, thừa nhận là đảng đã bế tắc trong việc chống tham nhũng: Họp hành, rất căng; chỉ thị, rất nhiều, nhưng tham nhũng vẫn hoàn tham nhũng; cuối cùng, ông kêu gọi: “mọi người cũng cần phải ra tay, chứ không còn cách nào”. Dĩ nhiên, việc chuyển giao trách nhiệm chống tham nhũng từ các cơ quan chức năng sang quần chúng chỉ là một hình thức mị dân. Dân chúng tố cáo tham nhũng nhưng không có ai giải quyết hết thì sao? Hơn nữa, làm sao bảo vệ những người dân dám tố cáo tham nhũng? Thấp cổ bé miệng, mỗi lần tố cáo là một lần đối đầu với tai họa. Trương Tấn Sang cũng thừa biết, ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không có cơ chế nào để bảo vệ người dân trong nỗ lực chống tham nhũng cả. Biết vậy, tại sao ông vẫn kêu gọi dân chúng vào một mặt trận mà ông biết chắc chắn sẽ vô hiệu? Thật ra, ông chỉ cần được lòng dân chúng mà thôi. Điều ông nhắm tới không phải là chống tham nhũng mà là tập hợp lực lượng cho ông. Trước, không phải trong nội bộ giới lãnh đạo đảng không từng có các cuộc tranh giành quyền lực. Có. Hầu như lúc nào cũng có. Nhưng phần lớn chỉ tập trung trong nội bộ đảng viên, đặc biệt đảng viên cao cấp. Do đó, chúng nằm ngoài tầm mắt của dân chúng. Còn bây giờ, phạm vi để tranh thủ rộng hơn, không chỉ giới hạn trong Trung ương đảng mà lan ra mọi đảng viên, và thậm chí, cả quần chúng. Khi phạm vi tranh thủ mở rộng như thế, các thủ đoạn chính trị cũng trở thành lộ liễu hơn. Trong chính trị, các thủ đoạn càng lộ liễu bao nhiêu càng mất tác dụng bấy nhiêu. Trong đó, cái mất lớn nhất là niềm tin.
Vào năm 1983 tại Sierra Vista, bang Arizona, một bé gái ra đời không có cánh tay. Cô bé có thể sống lây lất, trong tình huống không ai đặt nhiều kỳ vọng nơi cô. Nhưng 14 năm sau, bé gái ấy không chỉ sống khỏe mạnh mà còn giành được đai đen Taekwondo của Liên hiệp Taekwondo Quốc tế. Sau đó trong thời gian theo học ngành tâm lý tại trường đại học Arizona, cô trở thành người không tay đầu tiên giành được đai đen Taewkondo của Hiệp hội Taekwondo Hoa Kỳ. Vào ngày 10 tháng 10 năm 2008, cô gái đặc biệt này đã có được bằng lái máy bay và vào năm 2011, tổ chức Kỷ lục Thế giới Guinness công nhận cô là người đầu tiên lái máy bay bằng chân. Hiện nay, bé gái sơ sinh không tay năm nào nay đã trở thành một diễn giả quốc tế đã đặt chân tới 20 quốc gia xuyên suốt sáu châu lục với hy vọng chia sẻ những thông điệp truyền cảm hứng sống cho mọi người trên khắp thế giới. Cô gái ấy là Jessica Cox. VOA Tiếng Việt đã may mắn có cơ hội được trò chuyện với cô gái phi thường này qua Skype. Xin mời quý vị cùng theo dõi bài phỏng vấn với cô Jessica Cox do Hồng Hoa thực hiện.
VOA: Xin chào chị Jessica. Chân thành cảm ơn chị một lần nữa đã nhận lời phỏng vấn với đài VOA. Được biết, hiện chị là một diễn giả quốc tế có những bài diễn thuyết truyền thông điệp cảm hứng trên khắp thế giới và chị cũng có một tổ chức hoạt động mang tên chị nhằm đem lại động lực sống cho mọi người. Vậy khi còn nhỏ, điều gì hay ai là nguồn cảm hứng, động lực sống của chị?
Chị Jessica Cox: Cha mẹ tôi ủng hộ tôi rất nhiều trong mọi việc. Mẹ tôi thường nói với tôi rằng Thượng đế dành cho con một kế hoạch riêng và con có thể làm bất cứ điều gì con muốn. Bà nói với tôi điều đó mỗi khi tôi nổi giận hay không chắc chắn về bản thân mình. Bà đã khích lệ tôi, và phần nào giúp tôi trở thành con người tôi ngày hôm nay. Bà là nguồn động lực, nguồn cảm hứng cho tôi như thế.
Còn cha của tôi là người đã tạo ra cho tôi một nền tảng cơ bản là hãy biết chấp nhận. Bạn sẽ không bao giờ thấy tôi là một nạn nhân. Ông là người truyền cho tôi sức mạnh để tin tưởng một điều rằng tôi không phải là nạn nhân của một tật nguyền nào đó, mà đơn giản đó là con người thật của tôi. Vì thế mà cha tôi đã cho tôi sự tự tin mạnh mẽ này, còn mẹ tôi luôn nói với tôi là tôi có thể làm bất cứ điều gì.
VOA: Vậy việc trở thành một phi công cũng do cha mẹ chị khuyến khích chị hay đó là ước mơ của riêng chị?
Chị Jessica Cox: Thực tế thì cha mẹ tôi không có khuyến khích tôi trở thành một phi công, mà đó là điều mà tôi tự mình quyết định. Thực ra trong gia đình tôi, không có ai làm phi công cả. Tôi chưa bao giờ ngồi trong một chiếc máy bay động cơ đơn trong đời cho tới khi tôi có trải nghiệm ngồi trong đó, và chỉ tới lúc đó tôi mới có quyết định trở thành một phi công. Lúc đó tôi lên 21 tuổi. Tôi đã sống suốt 21 năm mà không hề biết cảm giác ngồi trong một chiếc máy bay cỡ nhỏ nó như thế nào cho tới giây phút đó.
VOA: Trong cuộc sống hàng ngày, khi đó chị đã phải đối mặt với những khó khăn gì?
Chị Jessica Cox: Điều khó khăn rõ ràng nhất là tôi khác biệt với những người còn lại và phải đối phó với những bạn nhỏ khác, những người luôn đặt ra cho tôi những câu hỏi không phải lúc nào cũng lịch sự, đôi khi rất xấu. Những thử thách mang tính tinh thần cũng là những điều tôi phải đối mặt. Một vài thách thức bên ngoài như tự mình mặc quần áo, thật không đơn giản cho nhiều người nếu phải tự mặc quần áo bằng chân. Đó đã trở thành một hành trình của riêng tôi xuyên suốt 10 năm, tự mình tìm cách trở thành một con người độc lập.
Khi còn nhỏ, tôi sống gần trường tiểu học nên có lúc tôi đi bộ, có lúc cha mẹ đưa tôi tới trường. Đến năm tôi lên lớp 8, tôi bắt đầu đi xe buýt đi học cho tới hết năm lớp 9. Sau đó khi học cấp 3 thì tôi đi học cùng anh trai nên chúng tôi cùng lái xe tới trường.
Bạn biết không, điều ngạc nhiên là có rất nhiều bạn nhỏ đã rất tò mò, một cách bản năng thôi, là tại sao tôi bị mất tay, trong khi thực ra tôi chưa bao giờ có tay từ khi tôi chào đời cả. Vì thế mà có nhiều lúc mà chúng tò mò và muốn hỏi tôi. Một số người thì cũng không lịch sự cho lắm. Có những đứa nhỏ khá ồn ào và cũng không lễ phép. Chúng có chọc ghẹo tôi. Nhưng ngoài những điều đó thì phần lớn, tôi phải nói là tôi rất may mắn vì có được những người bạn tốt dám đứng lên bảo vệ tôi. Khi tôi đi học bằng xe buýt, tôi có gặp được nhiều người bạn tốt mà tôi nghĩ là khi bạn có ít nhất một người bạn, chuyện gì cũng có thể trở nên dễ dàng hơn.
VOA: Được biết là chị đã đi nhiều quốc gia để diễn thuyết, vậy chị có thể kể tên một vài quốc gia chị đã từng tới được không?
Chị Jessica Cox: Tôi đã từng đến Sri Lanka, Malaysia, Italy, Hy Lạp, Vatican, El Savador, Guatamala, Canada, Mexico. Tôi vừa đến Hàn Quốc năm nay. Ngoài ra còn có Ethiopia, Kenya, Ghana. Như vậy tôi đến châu Phi ba lần rồi.
VOA: Đã đi diễn thuyết nhiều như vậy nên có lẽ chị cũng đã có nhiều trải nghiệm đáng nhớ trong mỗi lần diễn thuyết. Vậy câu chuyện nào khiến chị ấn tượng nhất?
Chị Jessica Cox: Một trong những bài diễn thuyết mà tôi sẽ không bao giờ quên đó là lần tôi diễn thuyết ở Ghana, Châu Phi. Lý do mà tôi sẽ không bao giờ quên lần đó là vì có một người phụ nữ đã tới gặp tôi trên sân khấu. Cô ấy cũng là một người sinh ra mà không có tay. Khi cô ấy kể cho tôi nghe câu chuyện của cô ấy và đó là một câu chuyện buồn. Khi cô ấy sinh ra, cộng đồng nơi cô ấy sống nghĩ rằng cha mẹ cô ấy nên bỏ rơi cô ấy. Lúc còn là một đứa trẻ sơ sinh, người ta khuyến khích mẹ cô đem cô vào rừng và bỏ cô ấy ở đó vì họ không nghĩ là cô ấy có cơ hội sống sót. Quả thực rất khó khăn khi nghe chuyện của cô ấy. Nhưng mẹ của cô đã quyết định không nghe theo mọi người mà bỏ rơi cô. Bởi vì có một người qua đường nói với mẹ cô rằng bà không nên bỏ rơi mà nên tiếp tục nuôi dưỡng con, nên cho cô ấy một cơ hội sống. Và bà đã làm như vậy. Bà ấy lén lút nuôi cô con gái Louise của mình, và Louise giờ đã đã trở thành một cô giáo mầm non. Cô ấy thường dạy những đứa trẻ rằng khác biệt không có vấn đề gì cả. Cho dù không có tay, nhưng cô ấy vẫn tiếp tục sống và tạo ra sự khác biệt cho thế hệ kế tiếp, và hy vọng rằng chúng có thể thay đổi suy nghĩ về những người khuyết tật.
Câu chuyện này đã truyền cảm hứng rất nhiều cho tôi và cũng tác động rất lớn đến tôi vì tôi đã may mắn sinh ra ở đây, được tiếp tục sống cho dù không có tay. Nhưng ở những nước khác, không phải ai cũng may mắn có được cơ hội này. Nếu có người bị tật nguyền ở một bộ phận nào đó, đôi khi họ sẽ bị bỏ rơi cho đến chết hay bị đem đến một trại mồ côi hay một viện chăm sóc nào đó. Đây quả là một trải nghiệm giúp tôi mở mang được thêm nhiều điều.
VOA: Nếu có ai một ai đó sống ở một nước kém phát triển hoặc đang phát triển nói với chị rằng bởi vì chị vốn đã được sinh ra và lớn lên ở Mỹ, một quốc gia phát triển, nên chị có nhiều cơ hội tốt hơn họ như việc được đi học, được thực hiện những giấc mơ của mình, hay làm bất cứ điều mà chị muốn. Vậy chị sẽ nói với họ điều gì?
Chị Jessica Cox: Tôi cho rằng câu nói đó là đúng khi tôi nhận được nhiều cơ hội tốt. Nhưng bây giờ, tôi sẽ là người tận dụng cơ hội của mình, là được sống trong một nền dân chủ, góp tiếng nói của mình để một công ước về người tàn tật sẽ được thông qua. Công ước này về cơ bản sẽ giúp tất cả mọi người ở khắp nơi trên thế giới, dĩ nhiên từng nước cũng sẽ phải thông qua công ước đó, nhưng về cơ bản công ước này sẽ bảo vệ quyền lợi và tạo ra cơ hội đồng đều cho tất cả những người tật nguyền ở khắp mọi nơi. Vì thế tôi đang tiếp tay vận động để công ước này được thông qua, để nếu có ai sinh ra cũng như tôi, nếu họ không sống ở Mỹ mà ở một nơi khác, thì họ cũng sẽ được hưởng những quyền lợi mà tôi có khi ở nước Mỹ này.
Khi tôi tới nhiều nước diễn thuyết, tôi không chỉ muốn đem lại hy vọng, cảm hứng cho những người như tôi, mà còn hy vọng thay đổi suy nghĩ của bản thân những người khuyết tật rằng họ có thể thay đổi được thái độ của những người khác về họ, và còn cho cả thế giới thấy rằng nếu ai đó bị khuyết tật, không có nghĩa là không thể làm được những gì mà họ muốn.
VOA: Ước mơ khi chị còn nhỏ là được trở thành một phi công và bây giờ chị đã làm được điều đó. Vậy ước mơ, nguyện vọng tiếp theo của chị là gì?
Chị Jessica Cox: Chúng tôi đang thực hiện một bộ phim tài liệu với hy vọng là có thể ảnh hưởng tới nhiều người hơn nữa, ngoài những người mà tôi đã có cơ hội được gặp. Với bộ phim tài liệu này, chúng tôi hy vọng sẽ được tiếp cận hàng triệu người khác, sẽ truyền cảm hứng cho họ theo cách mà tôi đã làm khi diễn thuyết trên sân khấu. Bộ phim này được thực hiện để giúp tôi đến với những người ở những nơi mà tôi không bao giờ có cơ hội tới thăm, bởi vì dù sao tôi cũng chỉ là một người thôi và tôi không thể đến gặp mọi người ở khắp nơi trên thế giới được. Chúng tôi đang thực hiện bộ phim tài liệu này và đang hy vọng sẽ nhận được thêm nhiều sự ủng hộ về tài chính, dù ít dù nhiều, để có thể biến ước mơ đưa bộ phim tới mọi người trên khắp nơi trở thành hiện thực. Chúng tôi đã thực hiện hết các cảnh quay và đang trong giai đoạn hậu kỳ để có thể hoàn thành bộ phim trọn vẹn và đem bộ phim đó tới thế giới. Vì vậy, nếu có ai quan tâm muốn tìm hiểu thêm về bộ phim này thì có thể ghé thăm website của tôi ở địa chỉ Rightfooted.com
VOA: Trong số rất nhiều điều mà chị đã chia sẻ với những khán giả của mình, điều gì là quan trọng nhất mà chị muốn họ ghi nhớ?
Chị Jessica Cox: Có nhiều người thấy những gì mà tôi đã làm được, và họ nhận ra rằng không có gì là không thể. Nhưng trên tất cả, tôi nghĩ, thông điệp quan trọng tôi muốn gửi tới mọi người là sự chấp nhận. Tất cả mọi người, cho dù là có khuyết tật hay không, đều cần phải chấp nhận con người thật của chính họ. Đó là điều mà tôi hy vọng mọi người có thể hiểu là họ cần phải chấp nhận những thử thách riêng mà cuộc sống dành cho họ và bản thân họ. Và đó cũng chính là điều mà tôi cũng phải học cách chấp nhận, đương đầu với nó trong suốt cuộc đời. Không phải lúc nào tôi cũng là một con người tràn đầy tự tin, nhưng tôi phải chấp nhận con người của tôi và phát triển sự tự tin của mình. Và đó là điều mà tôi hy vọng có thể chia sẻ với mọi người. Thông điệp của tôi đó là không có giới hạn nào cho chúng ta cả mà chỉ có chúng ta giới hạn khả năng của chính chúng ta thôi. Một thông điệp quan trọng khác đó là phải chấp nhận con người thật của chúng ta và hãy luôn yêu thương chính mình.
VOA: Một lần nữa xin chân thành cảm ơn những chia sẻ của chị Jessica đã dành cho VOA. Xin chúc chị những điều tốt đẹp nhất trong sự nghiệp bao gồm việc phát hành bộ phim tài liệu và những chuyến đi diễn thuyết khắp thế giới, và trong cuộc sống.
Jessica Cox-Người phụ nữ lái máy bay bằng chân đầu tiên của thế giới.
(TNO) Một bức tượng chúa Jesus bằng đồng cao hơn tượng Chúa Cứu thế ở Rio de Janeiro (Brazil), đã xuất hiện tại Syria, báo The Moscow Times đưa tin ngày 22.10.
Bức tượng mang tên “Tôi đến để cứu thế giới” là công trình của ông Yury Gavrilov, một người Nga đang điều hành Quỹ St. Paul và St. George, một tổ chức ở London (Anh).
Dự án được Nhà thờ Chính thống Nga và Chính phủ Nga ủng hộ.
Nga đang đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết khủng hoảng tại Syria và có một căn cứ hải quân tại quốc gia này.
Bức tượng do một nhà điêu khắc Mỹ tạc tại Armenia. Bức tượng được an vị vào ngày 14.10, trên một đỉnh núi gần thành phố Saidnaya và gần Tu viện Cherubim nhìn xuống một tuyến đường hành hương lịch sử đến Jerusalem từ độ cao hơn 2.000 m so với mặt nước biển.
Bức tượng có chiều cao 39 m bao gồm bệ tượng, cao hơn 1 m so với tượng Chúa Cứu thế ở Brazil. Công trình này có thể được nhìn thấy từ các nước và nhà nước láng giềng như Li Băng, Jordan, Palestine và Israel.
Mọi hoạt động quân sự tạm ngưng tại khu vực trong thời gian bức tượng được lắp đặt. Dự án bức tượng này đã được xúc tiến từ năm 2005 và không liên quan gì đến cuộc khủng hoảng hiện tại ở Syria, theo Komsomolskaya Pravda.
Quỹ St. Paul và St. George của ông Gavrilov hy vọng công trình này sẽ góp phần đem lại hòa bình cho khu vực.
Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh vốn là một huyện nổi tiếng “chó ăn đá gà ăn muối” trong những năm trước đây. Thế rồi ngành du lịch phát triển, với địa hình tương đối cao ráo, có bờ biển chạy dọc quốc 1, cách mặt đường từ 700m đến 1km, một địa hình khá lý tưởng để phát triển du lịch.
Ngành du lịch vào cuộc, các điểm du lịch mọc lên dọc bờ biển Kỳ Anh, giá đất tăng vùn vụt… Đây cũng là lúc người Kỳ Anh đối diện với nhiều nguy cơ, trong đó, đáng kể nhất là nguy cơ đất đai lọt về tay người Trung Quốc và thanh niên bị nghiện ngập
Đầy rẫy người Trung Quốc
Một người lái taxi tại thành phố Hà Tĩnh, quê gốc Kỳ Anh, cho chúng tôi biết: “Đó, quá nguy hiểm, sợ nó (người Trung Quốc) cài kiết cái gì vào(các công trình của Trung Quốc tại Kỳ Anh – Hà Tĩnh). Hôm nọ tôi chở ba bốn chục người đi hát karaoke. Thấy người Việt Nam mình nói nó khắt khe lắm, hở động một tý là nó đuổi việc ngay, họ bảo thằng này khó tính lắm, động một tý….
“Tất cả cũng do hám tiền, đói tiền, cái đất Hà Tĩnh này, toàn thanh niên hư hỏng hết, cha mẹ chiều, bán đất cho con cái ăn chơi, đua đòi…Thanh niên ở đây có làm gì đâu, có buôn bán gì đâu, toàn thanh niên nơi khác tới làm.
Một người lái taxi”
Tất cả cũng do hám tiền, đói tiền, cái đất Hà Tĩnh này, toàn thanh niên hư hỏng hết, cha mẹ chiều, bán đất cho con cái ăn chơi, đua đòi. Vay tiền ngân hàng mua xe này xe nọ cho con cái.Thanh niên ở đây có làm gì đâu, có buôn bán gì đâu, toàn thanh niên nơi khác tới làm. Tụi nó đập đá loạn xạ, nó tự chế bài hát của nó, nó bảo trai Hà Tĩnh không biết đập đá, không biết ăn chơi không phải là trai Hà Tĩnh.”
Theo chân người lái taxi này, chúng tôi thăm huyện Kỳ Anh và hết sức bàng hoàng khi chứng kiến cảnh tượng đập vào mắt mình là hàng trăm nhà hàng có bảng hiệu viết bằng chữ Trung Quốc, thậm chí có nhiều nhà hàng không tiếp khách Việt Nam.Chủ của nhà hàng là những người Trung Quốc sang mua đất, mở doanh nghiệp, mở nhà hàng và mở nhiều dịch vụ khác phục vụ cho khách vip người Việt và ưu tiên phục vụ cho người Trung Quốc ở Hà Tĩnh.
Một công ty Trung Quốc ở Kỳ Anh. RFA
Một người dân Kỳ Anh yêu cầu giấu tên, buồn bã nói với chúng tôi rằng dân Kỳ Anh đã thật sự đánh mất mình, họ không còn là chủ của mảnh đất cũng như cảm giác là người dân bản xứ cũng không còn mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giàu có và hách dịch của người Trung Quốc. Đặc biệt, tuy mới sang Kỳ Anh sống chưa bao lâu nhưng các nhóm người Trung Quốc ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằng.
“Người dân bản xứ cũng không còn mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giàu có và hách dịch của người TQ. Đặc biệt, tuy mới sang Kỳ Anh sống chưa bao lâu nhưng các nhóm người Trung Quốc ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằng”
Họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở Kỳ Anh. Cho dù các ban ngành an ninh, công an ở Kỳ Anh vẫn hoạt động nhưng hình như họ chẳng xem ra gì bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh.
Ông này nói thêm rằng hiện tại, huyện Kỳ Anh trong mắt ông cũng giống như một tiểu khu đặc biệt của người Trung Quốc, ở đó, mọi thứ quyền lợi và quyền lực dồn về tay họ, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở Kỳ Anh tỏ ra lép vế và xu phụ, xun xoe người Trung Quốc. Với đà này, chẳng bao lâu nữa, người Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh mặc dù chẳng ai muốn thế nhưng đành phải thế vì họ đã có mọi thứ cần có của một ông chủ trên đất Việt Nam.
Thanh niên hư hỏng
Một bà mẹ yêu cầu giấu tên, cho chúng tôi biết thêm là ở Kỳ Anh, có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện ngập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm. Vì phần lớn những gia đình bán đất cho người Trung Quốc, chơi thân với người Trung Quốc đều có con làm việc cho người Trung Quốc và đều là đầu mối của sự hư hỏng ở các thanh niên đồng trang lứa.
Một cơ sở sản xuất nhỏ của Trung Quốc ở Hà Tĩnh. RFA
Nghĩa là những thanh niên chơi thân với người Trung Quốc thường dắt người Trung Quốc về xóm chơi, lân la và rủ thanh niên các xóm đi chơi, ban đầu thì đi chơi bình thường, nhưng sau vài tháng, những thanh niên này lâm vào nghiện xì ke, ma túy, không cách nào gở ra được nữa. Lúc đó, sẵn tiền bán đất của gia đình, họ bắt đầu ăn chơi sa đọa. Cách đây không lâu, có một thanh niên Kỳ Anh đã lên thành phố Hà Tĩnh đâm đầu vào xe tải tự tử. Trước khi chết, anh ta để lá thư lại cho người mẹ với nội dung rằng anh đã hết đường, anh đã nợ người Trung Quốc một số tiền quá lớn và họ luôn đe dọa anh. Nhưng với danh dự của một người đàn ông, anh không thể để mình tiếp tục sai lầm nên chọn con đường chết.
“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện ngập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm.
Một người dân Hà Tĩnh”
Người mẹ vừa kể chuyện nói thêm rằng dù rất buồn khi nghe tin người thanh niên nghiện ngập đáng tuổi con của bà bị chết một cách vô lý, oan uổng. Nhưng dẫu sao bà cũng hy vọng cái chết của anh thanh niên này giúp cho nhiều thanh niên khác tỉnh ngộ ra, thoát khỏi con đường nghiện ngập.
Một người tên Hùng, là cha của hai thanh niên đang nghiện ngập, đau xót nói với chúng tôi rằng ông quá bàng hoàng và tuyệt vọng trước cơn nguy biến của gia đình. Đùng một cái, mảnh đất Kỳ Anh hiền hòa, nghèo khổ và chân chất bỗng dưng trở nên chộn rộn, nhặn xị, chẳng đâu vào đâu. Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc.
Vì trước khi người Trung Quốc có mặt ở Kỳ Anh, thanh niên ở đây không biết gì về rượu chè, đến khi họ sang làm ăn, níu kéo thanh niên Kỳ Anh chơi bời, nghiện ngập, thậm chí thanh niên Kỳ Anh bây giờ còn có một bài hát riêng với nội dung đã là thanh niên Kỳ Anh mà không biết đập đá, hút hít, chích choác thì không phải là con người, không phải là thằng đàn ông, không phải là dân Hà Tĩnh. Và cứ trên đà như thế, càng ngày, thanh niên Kỳ Anh càng hư hỏng.
Thế hệ tương lai hỏng tận gốc. Thế hệ già ngã xuống, mọi thứ ở Kỳ Anh sẽ nhuộm màu Trung Quốc. Và rồi đây, Kỳ Anh sẽ thành một tiểu khu của người Tàu.
Câu nói của ông Hùng làm chúng tôi bàng hoàng sực nhớ ra ở trên biển Đông, người Trung Quốc đã lấn lướt, bắt bớ, đánh đập, hành hạ ngư dân Việt, dọc các bờ biển đã có mặt người Trung Quốc và ở tít tận cao nguyên, các vùng trọng điểm cũng đã có mặt người Trung Quốc.
Một dự cảm chẳng yên lành khi chúng tôi tạm biệt Kỳ Anh.