SỢI NẮNG,
Em giữ hộ anh những sợi nắng vàng,
Còn vương trên tóc thiên đàng nhớ thương,
Em giữ hộ anh sợi nắng trên đường,
Để anh biết hướng về thăm quê mình,
Em giữ hộ anh sợi nắng ghập ghình,
Để anh còn biết bóng mình trăng in,
Em giữ hộ anh sợi nắng lung linh,
Để anh được đọc hồi kinh nguyện cầu,
Em giữ hộ anh sợi nắng đậm sâu,
Đan trong kẻ lá đượm màu quê hương,
Em giữ hộ anh sợi nắng vấn vương,
Để cho anh gặp người thương ướm lời,
Em giữ hộ anh sợi nắng tuyệt vời,
Cùng chung xây dựng khắp nơi thanh bình,
Em giữ hộ anh sợi nắng thật xinh,
Để anh nói tiếng chung tình cùng em…
Em giữ hộ anh sợi nắng thật mềm,
Để anh cột lại những đêm trăng đầy…
Em giữ hộ anh sợi nắng nồng say,
Hai ta uống cạn kiếp này có nhau…
ERSKINE PARK.10/10/2012.
Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Chuỗi Mân Côi và Thánh Đa Minh
Tác giả: Robert Feeney
Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được
kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.
Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.
Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).
Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.
Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.
Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được
nhiều người yêu mến và kính trọng.
Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa
Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.
Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen (*) đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.
Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho
những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.
Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng
ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”.
Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới
nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.
Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”.
Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng
thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.
Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của
thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.
Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống
chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.
Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài
khuyến khích người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.
Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.
Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?
Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.
Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” –từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh,
người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích
ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.
Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH
Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.
Tặng phẩm của scapular
Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia
nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu cho ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.
Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?
Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:
1. Tội nhân được tha thứ.
2. Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.
3. Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.
4. Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.
5. Người nghèo được giúp đỡ.
6. Tu sĩ được canh tân.
7. Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.
Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ CatholicDigest.com)
(*) Albigensianism (Albigensianian): Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc
tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là lạc giáo thời Tòa án Dị giáo (Inquisition hoặc Catharism).
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Mới đếm tới bảy tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.
BA ME QUE – PD – Huong Lan – BP (HD)
SÀI GÒN MƯA NẮNG,
Mưa Sài Gòn nước ngập thành sông,
Xe cũng bơi sóng lượn chập chồng,
Người lặn hụp tranh từng nhịp thở,
Số kiếp nghèo đầy những bất công…
Nắng Sài Gòn nóng cháy khô da,
Khói bụi mù bao kẻ không nhà,
Đêm nằm giường đất chăn sương đắp,
Ngày uống tương lai xót ruột rà…
Người Sài Gòn giờ thay đổi mới,
Học không nhiều lại nhậu đến nơi,
Làm khơi khơi chơi bời tới bến,
Đến khi nào đất nước tàn thôi…
Cảnh Sài Gòn đêm về tươi sáng,
Hút thâu đêm đốt cháy bạc vàng,
Trong phòng trà uống cạn đời hoang,
Dân kêu khổ người nghe cũng chán…
Nghề Sài Gòn muôn người buôn bán,
Máu tươi thận mới nữa lá gan,
Người bán đêm về mơ oằn oại,
Người mua ngay ngáy sống lo âu…
Sài Gòn ơi…bạc quá biết về đâu?
Nghe hụt hẫng chìm tận đáy nỗi sầu!!!
Liverpool.3/10/2012.
Song Như.
ĐÊM TRĂNG,
Vầng trăng lắc lẻo trên cao,
Đêm đêm thức giấc rơi nhào xuống sông,
Vàng trên sóng nước bềnh bồng,
Chèo thuyền vớt hết mặn nồng trao em,
Tim hoang lạnh thấm ướt nhèm,
Tình anh gói trọn bên thềm nhớ thương,
Sương mờ ấp ủ vấn vương,
Em về bến ấy mà hương vẫn còn…
Liverpool.2/10/2012.
Song Như.
Có thể thật lòng yêu kẻ thù ?
Đăng bởi pleikly lúc 2:17 Sáng 9/10/12
VRNs (09.10.2012) – CatholicHerald – “Thiên Chúa nói với Môsê: Hãy nói với toàn thể cộng đồng về con cái Israel và hãy nói với họ. Hãy nên thánh, vì Tôi là Đức Chúa, là
Thiên Chúa của ông, là Đấng Thánh”.
Sách Lê-vi tóm tắt các giới răn khác theo giới răn này: Như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta cần nên thánh. Sự thánh thiện mô tả mọi thứ mà Thiên Chúa đặt lên trên sự sáng tạo sai trái. Sự thánh thiện là điều gì đó hơn cả việc giữ trọn lề luật như nô lệ. Nên thánh là
vào trong ý nghĩ và trái tim của Chúa, phân xử như Chúa phân xử, hiểu như Chúa hiểu.
Khi những câu trong sách Lê-vi mở ra, chúng ta bắt đầu đánh giá hố ngăn cách (gulf) giữa thói quen tội lỗi của con người và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhiều người coi sự thù hằn là cách phản ứng tự nhiên nhất đối với sự thiệt hại mà chúng ta chịu. Sự thánh thiện mà
chúng ta được mời gọi đòi hỏi cách phản ứng khác, đó là cách phản ứng có vẻ đi ngược với bản chất. Bạn không được thù ghét anh em, bạn không được trả thù, bạn không được đố kỵ.
Một trong các hậu quả của tội là xu hướng phê phán thù hận. Sách Lê-vi loại trừ điều này bằng giới răn, được Chúa Giêsu lặp lại, rằng chúng ta phải yêu người như chính mình. Giới răn quá quen thuộc đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng làm ngơ sự thay đổi cơ bản của con tim mà giới răn ám chỉ. Tội lỗi khiến chúng ta tự nhận là “trung tâm vũ trụ”, vô tình xác nhận rằng mọi thứ phục vụ chính mục đích của chúng ta. Yêu người như chính mình đảo lộn ý nghĩ này. Đây là sự thánh thiện mà Thiên Chúa đặt chúng ta lên trên tội lỗi, đưa chúng ta vào ý nghĩ và trái tim của Thiên Chúa.
Tiếp theo Bài Giảng Trên Núi, Phúc âm nhấn mạnh hố ngăn cách giữa sự thánh thiện và thái độ tội lỗi đã thâm căn cố đế (ingrained attitudes of sin). Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” có vẻ rất cân xứng. Điều gì đó trong chúng ta bắt đầu nổi loạn khi chúng ta được khuyên không chống lại kẻ độc ác, đưa má cho người ta vả, không chỉ đưa áo trong mà
đưa luôn cả áo ngoài cho kẻ áp bức mình.
Sự không thoải mái mà chúng ta cảm thấy đã ăn rễ sâu trong chúng ta. Chúng ta bị giằng co: sự công thẳng và ân sủng. Đức Kitô không đến thế gian này để đối xử công thẳng với chúng ta. Ngài đến để mạc khải tình yêu của Chúa Cha, một hồng ân vượt trên mọi thứ mà chúng ta đáng hưởng. Bài Giảng Trên Núi mời gọi chúng ta đạt đến sự thánh thiện để đối xử với tha nhân bằng sự độ lượng mà chúng ta đã lãnh nhận. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, và hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện.
Chỉ là tự nhiên để cảm thấy bất xứng trước các yêu cầu của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi. Chúng ta có thực sự yêu kẻ thù và làm điều tốt cho những người làm hại mình? Thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô đặt yêu cầu của Chúa Giêsu ngược với những ân sủng mà chúng ta lãnh nhận.
“Bạn không nhận ra mình là đền thờ của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần sống trong bạn sao?”. Đó là tặng phẩm của Chúa Thánh Thần mà chúng ta có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, độ lượng như Ngài. Thánh Phaolô tiếp tục làm tương phản sự khôn ngoan của thế gian với sự điên dại của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của thế gian đòi hỏi sự công bình. Sự điên dại của Thiên Chúa là ân sủng vị tha. Đây là tính thánh thiện mà chúng ta
được mời gọi.
ĐGM David McGough
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ CatholicHerald.co.uk)
BẢN CHẤT KINH MÂN CÔI
Căn cứ vào bản chất, Kinh Mân Côi là một kinh có giá trị tuyệt đỉnh, vượt trên tất cả mọi kinh nguyện khác, xét về ba phương diện sáng tác, diễn xuất và nội dung như sau:
Về phương diện sáng tác: Hai kinh chính họp lại thành Kinh Mân Côi, đó là Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng. Ngoài Kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy, Kinh Kính Mừng – kinh nòng cốt và kinh chính yếu của Kinh Mân Côi-, là lời ngợi khen của Chúa Cha nói với Mẹ qua sứ thần Gabriel và của Chúa Thánh Thần nói với Mẹ qua bà thánh Isave (Lc
1,41-42). Kinh Thánh Maria, phần cuối của Kinh Kính Mừng, là lời tuyên nhận của Chúa Giêsu nói với Mẹ qua Giáo Hội, Nhiệm Thể của Người, qua Công đồng chung Êphêsô năm 431.
Còn lời nào giá trị hơn Lời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kinh Mân Côi là tổng hợp Lời của Thiên Chúa Ba Ngôi, do đó, đã có một giá trị vô cùng. Trong một lá thơ đề ngày 04/04/1970, chị Lucia đã viết như sau: “Kinh Mân Côi là kinh nguyện đẹp lòng Thiên Chúa nhất, vì nhờ Kinh Mân Côi, chúng ta chúc tụng Ngài cách tuyệt hảo nhất.”
Về phương diện diễn xuất: Lời Kinh Mân Côi nói chung và Kinh Kính Mừng nói riêng, về
nội dung, chẳng những là lời của Thiên Chúa Ba Ngôi, về hình thức, còn là lời mà cả trời đất tuyên tụng và tuyên nhận Mẹ nữa.
* Sứ Thần Gabriel là đại diện của các thần trời, đã chúc tụng khen Mẹ bằng lời của Chúa Cha, Đấng đã sai ngài đến với Mẹ (Lc 1,26): “Kính mừng Maria đầy ơn phúc! Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ” (Lc 1,28).
* Bà Isave là đại diện của các thánh, đã chúc mừng Mẹ bằng lời của Chúa Thánh Thần, Đấng mà bà “được tràn đầy” (Lc 1,41) khi vừa nghe lời Mẹ chào: “Bà có phúc hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1,42).
* Giáo Hội là đại diện của con cái Thiên Chúa nói riêng và của loài người đã được dựng nên theo hình ảnh Ngài nói chung, đã tuyên nhận Mẹ bằng lời của Chúa Giêsu là Đầu của mình (Ep 1,22): “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử.”
Trong lời kinh Thánh Maria này, Mẹ chẳng những được Giáo Hội, qua con cái mình, trực tiếp tuyên nhận Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, khi họ đọc: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, gián tiếp, Mẹ còn được con cái mình tuyên nhận Mẹ là Mẹ Nhân Loại nói chung và Giáo Hội nói riêng, khi đọc: “Cầu cho chúng con”, là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, khi đọc: “là kẻ có tội”, và là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, khi đọc: “khi này và trong giờ lâm tử”.
Do đó, còn lời kinh nào giá trị cao cả cho bằng lời kinh mà cả đất trời đồng thanh tuyên xưng và chúc tụng Đấng đã nói tiên tri về chính mình: “Thiên Chúa đã thương đến phận hèn tôi tớ của Ngài; từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48). Khi đọc Kinh Kính Mừng cũng là Kinh Mân Côi, chính là chúng ta hợp với tất cả trời đất cùng lời Thiên Chúa Ba Ngôi tuyên tụng Mẹ của mình vậy.
Về phương diện nội dung: Vì Kinh Mân Côi là lời Thiên Chúa Ba Ngôi chúc khen Mẹ qua các thụ tạo tốt lành của Ngài, bởi thế, Kinh Mân Côi chứa đựng một ý nghĩa vô cùng sâu
xa. Chính ý nghĩa vô cùng sâu xa này đã làm Kinh Mân Côi có một giá trị khôn sánh.
(Trích từ Chuỗi Mân Côi trong đời sống hằng ngày của tác giả Paula Hoesl do Trầm Tĩnh Nguyện phóng tác)
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=5ObYbyCsMB4&feature=related
HUE XUA – Ngoc Ha