“Buồn rơi giữa đêm mù lẻ loi,

“Buồn rơi giữa đêm mù lẻ loi,

sao người còn đi hoài đi mãi.
Cho tôi hoang vắng trong đêm dài, buồn rơi lẻ loi.
Nỗi muộn phiền trên vùng tóc rối, khi trời còn đi vào đêm tối.
Xin thương yêu sưởi ấm đôi môi.”
(Từ Công Phụng – Đêm Không Cùng)

(Rm 14: 9-13)

Buồn, mà lại rơi giữa đêm mù lẻ loi, như “hát sĩ” cất lên lời trong buổi nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 15.3.2014 với chủ đề “Đêm Vắn Tình Dài!” Như thế là quá buồn! Buồn, cả vào đêm vô cùng thánh thót, trong ngày lễ thánh rất yên vui! Thực-tế đời người có đêm buồn nào ra như thế? Có hôm nào, bầu bạn buồn đến như thế, không?

Hỏi ở đây, tức: đã trả lời một chút rồi. Trả một lời, như câu hát buồn và lẻ loi như sau:

“Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi, thương hình hài con người nhỏ bé

Nghe bơ vơ tiếng ru ai về, ngủ đi người yêu

Thôi nụ cười đêm đừng chợ tắt cho một loài hoa đừng héo hắt

Cho tôi vẫn vô cùng một mình.”

(Từ Công Phụng – bđd)

“Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi”, có lẽ và có thể cũng là nỗi buồn của ai đó, trong nhà Đạo từng viết đôi hàng trên báo điện, nay nhắn nhủ:

“Có lẽ, có những điều mà tôi đây, một nữ giáo dân lâu nay vẫn sống đạo bình thường nhưng vẫn tự hỏi: điều gì làm cho bọn trẻ ở đây đó, tự tìm đến cho mình một niềm tin vừa bắt gặp hay vẫn chỉ bực-bõ khi thấy cha mẹ mình chỉ tin vào những chuyện hình-thức hoặc bề ngoài gì đâu không à? Thật ra thì, có nhiều yếu-tố khả dĩ rất đánh động tâm-lý của trẻ em cũng rất nhiều, như: tánh tình lúc nắng lúc mưa, tâm trạng ở trường học, tâm-tình cùng bạn bè chòm xóm và/hoặc nỗi niềm quan-tâm đến đạo-giáo?

Hỏi thì hỏi thế chứ, mới đây bản thân tôi vừa được đọc một bài viết do vị Giáo sư đồng thời là nhà nghiên-cứu giáo-dục có tên là Vern L. Bengston có cho biết, là: những yếu-tố gây ảnh-hưởng khá nhiều lên niềm tin của con trẻ, rất mạnh mẽ mà ta có thể kể ra, chỉ vài điều thôi, cũng đủ để bà con suy-tư/xem xét thử thực/hư ra sao:

Thứ nhất, là: gương đẹp/gương xấu từ người lớn: điều này ai cũng biết. Nhưng, nó vẫn cần để nhắc nhở hết mọi người. Cha mẹ nào biết sống thực niềm tin của mình, thì con em họ sẽ cảm-kích tin vào những gì mình tặng ban cho chúng. Tận phần thâm sâu, con trẻ ra như “nói một đằng làm một nẻo” chẳng lý gì niềm tin do cha mẹ tặng. Trong khi đó, cha  mẹ chúng lại vẫn giữ nguyên niềm xác-tín như thế khi nuôi dạy chúng.

Thứ hai, là: quan-hệ tốt giữa cha mẹ và con cái: Cha mẹ có làm gương tốt cách mấy đi nữa, mà con cái lại không gần gũi thì chúng cũng chẳng bắt chước được những tính tốt của mẹ cha, khi tin tưởng và giữ Đạo. Quan-hệ trên có tốt, thì cả hai bên mới duy-trì được niềm tin cần có. Không tạo được như thế, thì con cái thấy những gì cha mẹ dạy chúng chỉ như một mớ những điều luật và lệ, thôi.

Kế đến, là: điều hay đẹp học được từ người cha, cách riêng: Thật sự thì đây mới là điểm son trong quá-trình học đòi/bắt chước những tốt đẹp, từ cuộc sống. Điều hay và đẹp từ người cha vẫn quan-trọng hơn thói quen tốt học được từ mẹ hiền, về chuyện đạo. Ở đây, ta vẫn thấy là: trong nhiều đạo-giáo, thần-linh hoặc Thiên-Chúa luôn mang hình-ảnh và cái đẹp từ người Cha Nhân Hiền. Con cái nào lại không gần gũi với người cha của mình, nếu không sẽ thấy thiếu sót khi muốn có quan-hệ tốt với Thần-linh Thánh Ái trong Đạo mình.

Một điều quan-trọng không kém nữa, là: Đừng bao giờ bó buộc hoặc thúc ép con cái mình về chuyện tin tưởng. Điều này ai cũng thấy rõ, là: cha mẹ nào càng bó buộc con em mình đi nhà thờ dự lễ lạy hoặc quá gắt gao với con cháu, chẳng chóng thì chày, đến tuổi trưởng-thành rồi, tự nhiên chúng sẽ tự mình bỏ bê nhà thờ cách dễ dàng và nhanh chóng. Với cha mẹ, cần nhất phải tạo bầu khí sao đó có thể khích-lệ con em mình sống niềm tin, nhưng đừng bao giờ ép buộc chúng.

Và cuối cùng, là: biết sống hạnh-phúc với niềm tin của chính mình. Bởi, không có động-lực nào có thể thuyết-phục con cái mình bằng việc: cứ để chúng thấy được rằng cha mẹ chúng thực sự sống niềm tin của các vị ấy. Và, có làm thế, cha mẹ cũng như con cái mới vui hưởng cuộc sống an vui, nhiều ý-nghĩa” (x. Tamara Rajakariar, Passing on your faith to your kids, MercatorNet 12/2/2014).

Thật ra, nói nguyên-tắc, cũng không khó. Nhưng, nói về cảm nghiệm mình từng sống niềm tin của riêng mình, mới thật không dễ. Dễ hay không, tưởng cũng nên lướt qua một đoạn đường để nhìn vào kinh-nghiệm từng trải của một số độc-giả vẫn không ngại lên tiếng.

Nhưng, trước khi làm thế, đề nghị bạn và tôi, ta lại nghe câu nghệ sĩ từng hát mãi:

“Tìm nhau từng đêm mông lung nên không cùng

Và đêm xanh xao nên đêm gầy

Đêm bơ vơ như cuộc đời chúng mình

Và em, và tôi, và đôi môi dậy tiếng hát là chứng tích một cuộc tình

Trên giòng sông vỗ cánh bay đi

Và em, và tôi, và đôi môi dậy tiếng hát là chứng tích một cuộc tình

Trên giòng sông vỗ cánh bay đi

(Từ Công Phụng – bđd)

Trong giòng đời rộn rã, lại cũng có rất nhiều người, nhiều vị cũng từng đặt vấn đề về niềm tin, thẳng như thế. Trong số những vị có ý-kiến phản-hồi với người viết bài này, lại đếm được vài ba vị, rất như sau:

Trước nhất, là ý-kiến của vị nữ-lưu không cho biết địa chỉ, nhưng vẫn đề tên như sau:

“Có thể nói rằng: cùng với 4 phần 5 những người từng chối bỏ niềm tin của mình, tôi mong rằng mọi sự diễn tiến, cũng khác biệt. Gia đình nào có con cái vẫn còn tiếp tục làm thế trong một hai thế hệ, đều nắm chắc rằng con cháu họ cũng từng tham-gia vào công-tác thiện-nguyện trên căn bản rất đều đặn. Những người này đều am tường rằng: hiểu/biết niềm tin thôi cũng chưa đủ, dù có đi nhà thờ dự lễ lạy, học giáo-lý như thời của thế hệ trước, cũng chưa ăn thua gì. Khi xưa, bọn tôi vẫn từng tập sống niềm tin, từng tham-gia ban hát này khác, nhưng chẳng bao giờ đặt nặng chuyện giúp người đói bụng có của ăn, xung-phong làm thiện-nguyện ở viện dưỡng-lão, hoặc bệnh-viện hoặc làm một vài việc gì đó tỏ bày tình-thương với người khác. Đó mới là chuyện quan-trọng và cần-thiết đối với người Công-giáo. Và tôi nhớ tôi vẫn là bà mẹ rất qui-củ và nguyên-tắc, vì là người Công-giáo, vào thời nào cũng thế thôi” (ý kiến của Anniem).

Và, ý-kiến của một người tên John:

“Tôi từng biết, là: bọn trẻ thời nay có còn tiếp tục đi nhà thờ nữa hay không khi chúng lớn khôn, điều này còn tùy thuộc nhiều vào việc cha của chúng có đi nhà thờ nhiều hơn mẹ của chúng không? Đối với tôi, xem như chuyện này nghe có vẻ hơi chõi một chút. Có vị nào chủ-trương như thế không, xin lên tiếng cho bà con biết”.

Và ý-kiến của một trai nam nhi tên là Shaun Braun như sau:

“Để có ý-kiến phản-hồi với bạn nào đó vừa mới hỏi, tôi không nghĩ là mình nên chất đầy nhà thờ bằng số người trẻ, nhiều tóc trên đầu, vẫn tham dự đủ mọi nghi-thức rất Đạo. Tôi vẫn ủng-hộ mạnh-mẽ việc hội-nhập niềm tin đi Đạo vào với nền văn-hoá nói chung, đặc biệt là văn-hoá phương Tây trong đó Kitô-giáo là cột-trụ trọng-yếu, rất vững chãi,. Cả đến chuyện hội-nhập niềm tin vào cuộc sống, cũng thế. Điều tôi muốn đề-nghị với các bạn là: văn-hoá có nền-tảng gia-đình vẫn được tôn-giáo nhẹ nhàng đưa niềm tin len lỏi vào cuộc sống để rồi tự nó lớn mạnh cách tự-nhiên. Thêm vào đó, là phần đóng góp của giáo-dục cách rõ rệt.

Nói cách khác, con trẻ phải lớn lên trong môi-trường qua đó, niềm tin là thành-phần tự-nhiên, chứ không phải là một bộ môn thêm vào. Văn-hoá gia-đình có niềm tin thẩm-nhập cũng giúp con trẻ thu thập được các giá-trị đạo-đức theo cách nào đó khiến chúng thấy được là các giá-trị này phải là thành-phần lý-lịch riêng của chúng, hơn những gì mà giới truyền-thông hoặc cộng-đồng nhóm-hội/đoàn-thể từng mong muốn.

Việc hội-nhập niềm tin vào với nền văn-hoá đương nhiên cần thiết để đặt con trẻ mình vào những gì tốt đẹp nhất từng được suy-nghĩ và nói đến, như tác giả Matthew Arnold có tỏ bày trong văn-chương và khoa-học, vv. Con trẻ phải được đặt mình đưa vào với mọi sự tốt lành/hạnh-đạo cùng các yếu tố như: Chân Thiện Mỹ dưới bất cứ hình-thức nào có thể được, dĩ nhiên, kể cả âm-nhạc và nghệ-thuật cổ-điển. Lý-tưởng ra, thì khi tăng-trưởng để trở-thành người lớn, chúng có thể đóng góp vào việc phong-phú-hoá nền văn-minh nhân-loại và giúp chữa lành những rạn-nứt giữa niềm-tin và văn-hoá từng dẫn đưa mọi người vào tính-chất nghèo-nàn của đời sống mang danh là hiện-đại” (ý-kiến của một người tên Shaun Braun).

Nối tiếp ý-kiến của độc-giả ở trên, chi bằng ta đi vào vườn hoa truyện kể để sẽ nói lên cùng một ý-tưởng về những gì được hiến tặng từ trên. Truyện kể rằng:

Cậu bé sinh ra không có vành tai như bao người khác. Nhìn vào gương, trông rất là kỳ dị.Trước khi đi học, cuộc sống của cậu bé trong gia đình vẫn rất ổn, vì cha mẹ yêu thương cậu hết mực và ai cũng muốn mọi việc sẽ bình thường xảy đến với cậu. Nhưng, từ khi bắt đầu biết đến bạn bè và trường lớp thì cậu bé đã biết thế nào là bị trêu chọc, cô lập, mặc cảm. Một hôm, cậu bé chạy từ trường về, úp mặt vào đùi mẹ mà khóc nức nở. Trông cậu thật thảm thương. Cậu tự nói cho mẹ biết tấn bị kich của cậu với chúng bạn:

– Chúng nó bảo con là…quái vật

Mẹ hiền xoa đầu an ủi cậu và bằng giọng ngẹn ngào, bà nói với cậu:

– Con à! Dù có thế nào, thì con vẫn là con ngoan của mẹ. Cứ mặc kệ bọn chúng nói gì thì con vẫn sống tốt đẹp mà. Hãy tìm những điều đặc biệt của bản thân mình để xoá đi mọi khiếm khuyết, nếu có.

Cậu bé ngước mặt lên nhìn vào đôi mắt ngân ngấn lệ của mẹ và dường như hiểu ra được điều gì đó. Từ đó cậu bỏ ngoài tai những trò đùa của đám bạn và tiếp tục hoà nhập với cuộc sống mới. Mẹ cậu bắt đầu dạy cậu cách chơi piano, học những nối nhạc cơ bản để giúp cậu quên đi những cay đắng vấp phải trong cuộc sống khi hoà mình vào âm nhạc.

Dù không có vành tai nhưng cậu vẫn được tạo hoá ưu ái cho một gương mặt hoàn mỹ, thân hình cao lớn cùng trí óc nhanh nhạy. Rồi trong những giờ học nhạc cụ, cậu nhận thấy mình cảm âm rất tốt và yêu thích chúng. Giáo viên và các bạn quý mến cậu hơn. Khi lên lớp, đáng lẽ ra cậu sẽ được bầu làm lớp trưởng nếu như cậu không kỳ dị về đôi vành tai.

Cậu sẽ được đại diện lớp tham gia vào buổi hoà nhạc của trường nếu cậu giống như bao người khác. Mọi người sợ cậu sẽ làm khán giả giật mình, hoảng hốt khi cậu xuất hiện, họ sẽ chẳng nghe nhạc được khi mắt họ thấy khó chịu.Điều đặc biệt mà cậu yêu thích là chơi nhạc và biểu diễn cho mọi người nghe, còn bây giờ chỉ có riêng cha mẹ cậu lắng nghe cậu chơi đàn. Mọi thứ bắt đầu làm cậu chán nản, cậu cứ lẩn quẩn ở nhà với niềm đam mê âm nhạc ấy.

– Con không thể hoà nhập với mọi người mẹ ạ, con vẫn luôn bị xem là một loài nào đó khác với họ.

Người mẹ trách nhẹ khi thấy cậu buồn, nhưng tim bà cũng đau xót chẳng khác cậu. Bà thương con biết bao! Bà sẽ tìm mọi cách để biến cậu thành một người có đôi tai bình thường như mọi người để cậu tiếp tục ước mơ của mình.

– Chẳng lẻ không còn cách nào khác để giúp con của chúng tôi sao? Người cha hỏi vị bác sĩ gia đình. Bác sĩ nói:

– Tôi tin rằng tôi có thể giải-phẫu ghép vành tai cho cháu nhưng phải có người hiến tai cho cậu ấy.

Họ tìm đủ khắp mọi nơi, đưa đủ mọi tin nhắn, nhưng không một ai chịu hiến tặng hay bán vành tai vào thời điểm đó, riêng cậu trong lòng khấp khỏi hy vọng. Hai năm trôi qua mà không có kết quả gì tốt đẹp. Cha cậu bèn gọi cậu ra khỏi phòng ngoài rồi bảo:

– Con chuẩn bị đến bệnh viện để giải-phẫu. Bố mẹ đã tìm được người hiến tặng tai cho con rồi. Nhưng người ta buộc mình phải giữ bí mật.

Sau ca phẫu thuật thành công tốt đẹp, cậu mừng rỡ nhìn mình trong gương rồi ôm chầm lấy ba mẹ và mừng vui, hạnh phúc. Cuộc sống mới của cậu đã chính thức bắt đầu. Mọi người đồng ý cho cậu tham-gia ban nhạc của thành phố rồi ít lâu sau, cậu lên được vị trí của nhạc trưởng. Niềm vui mà cậu bị cướp mất từ lúc sinh ra bỗng dưng xuất hiện, cậu muốn tìm đến người đã hiến tặng cậu đôi tai, để cảm ơn, báo đáp nhưng ba mẹ cậu không biết người đó là ai, cả đến bác sĩ cũng không biết.

– Con cần biết Con cần biết ai đã cho con quá nhiều như thế? Nếu không con sẽ không thể đền đáp đủ công ơn của người ấy.

– Cha không nghĩ con có thể đền đáp được công ơn của người ấy đâu…Nhưng chưa biết được đâu con ạ.

Bước tiến mạnh trong sự nghiệp của cậu được mọi người công nhận. Tài năng của cậu không bị lãng quên như khi trước. Rồi cậu cũng lấy vợ sinh con. Có điều may, là: con trai của cậu không bị khuyết vành tai như cậu. Nếu nó giống cậu trước đây thì cậu không biết phải làm sao nữa? Liệu có một người giống như thế xuất hiện lại ban tặng món quà quý đó cho con cậu không? Nhiều năm trôi qua, bí mật sau kín đó vẫn không hé mở.

Có điều thay đổi làm cậu buồn phiền một chút, đó là mẹ của cậu. Dường như bà ít khi nghe cậu chơi nhạc như trước, mỗi khi cậu vui vẻ mời bà nghe cậu chơi đàn thì dường như bà ít quan-tâm đến tiếng đàn của cậu! Cậu nói chuyện gì với mẹ thì cũng phải nhắc đi nhắc lại hai ba lần bà mới chú ý. Có một nhà báo hỏi cậu về năng khiếu âm nhạc của cậu được thừa hưởng từ ai, thì cậu không dám nói là từ mẹ dù trước kia, bà là người chỉ cho cậu những nốt nhạc đầu đời.

Rồi cái ngày cậu mong mỏi cũng đến, bí mật về người đã hiến tặng cậu đôi tai cuối cùng sẽ xuất đầu lộ diện. Buổi chiều hôm ấy, cậu cảm thấy nỗi buồn mất mát lớn nhất trong đời mình, khi cậu đứng cạnh người cha bên chiếc quan tài mẹ cậu. Cậu thấy ông nhẹ nhàng đưa tay từ từ khẽ nâng mái tóc nâu đỏ của mẹ cậu lên: Bà đã không có tai gì hết.

– Mẹ con nói rằng bà rất vui nếu để tóc dài. Mẹ con để tóc như vậy rất đẹp đúng không?  Người cha thì thầm:

-Mẹ biết con sẽ không bao giờ chấp nhận để bác sĩ giải-phẫu khi người hiến tặng đôi tai cho con lại là bà.

Cậu lặng nhìn gương mặt người mẹ đáng yêu của mình cho thật kỹ để khắc ghi vào tâm khảm hình ảnh của tình thương-yêu, khó kiếm được. Cha cậu nói đúng, nét đẹp thật sự của con người không nằm ở bề ngoài nhưng ngay trong trái tim họ. Điều đáng giá đích-thực không ở những gì ta có thể nhìn thấy mà là những điều vô hình. Tình yêu thật sự không nằm ở những gì được thể hiện mà ta đươc biết, nhưng ở những điều làm được mà không ai biết. Món quà mẹ tặng cho cậu có lẽ chỉ có tình yêu thương mới tạo được. Cậu đã viết riêng một bản nhạc dành cho mẹ để mỗi ngày lại đến đàn trước bài-vị của bà trên bàn thờ…”

Truyện kể hơi dài, nhưng vẫn thế. Không thêm thắt, lý-sự dông dài. Và, người kể hôm nay vẫn muốn có lời bàn bảo rằng: cũng như thế, rất nhiều điều tốt đẹp trong đời người là do mẹ hiền hiến tặng cho con. Mẹ ban cho con của mẹ không chỉ sự sống, nét đẹp riêng của mẹ thôi, nhưng cả đến niềm-tin vô bờ bến đến từ Trên. Niềm tin ấy, sẽ làm cho con của mẹ nhớ mãi rằng: mọi cái hay/đẹp của gia-đình đều đến từ Trên cho mẹ cho con, và mọi người. Là con cái trong gia-đình, mỗi khi con trân trọng tình thương của mẹ, là con công-nhận mình có được niềm-tin như một thừa-kế từ cả người cha lẫn mẹ vẫn ưu-ái tặng không cho con.

Nghe kể thế rồi, tưởng cũng nên về lại với lời vang đấng thánh-hiền thường vẫn bảo:

“Mỗi người được Thiên Chúa

ban cho đặc sủng riêng,

kẻ thế này,

người thế khác…”

(1Cor 7: 7)

Và sau đó, ở tình huống khác, câu chuyện cũng khác, nhưng thánh Phaolô lại cũng bảo:

“Ngoài ra,

như Chúa đã định cho mỗi người làm sao,

như Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người thế nào,

thì cứ sống như vậy:

đó là điều tôi truyền dạy

trong mỗi Hội Thánh.”

(1 Cor 7: 17)

Sống có niềm tin như đấng thánh-hiền từng bảo ban, thiết tưởng ta cứ hiên ngang vùng đứng mà hát những lời thơ mà người nghệ sĩ, còn muốn hát:

“Niềm vui như mây trời còn trôi, trôi miệt mài trên giòng sông trắng

Trên hai vai tuổi xuân đã vang

Còn đâu niềm vui, trên nụ cười ru người đã tắt

Xin một lần diễm huyền mái tóc, đi vào đời cho ấm đôi môi

Buồn rơi trong đêm dài lẻ loi, buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi

Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi, trên tay người lẻ loi, trên tâm hồn lẻ loi.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Hát như người nghệ sĩ ở đời, như thế tức vẫn còn niềm vui sống, vẫn cứ hát. Còn hát là còn vui và rất vui. Dù, cuộc đời có gặp nhiều nỗi truân chuyên, trái khoáy hay gì gì đi nữa, vẫn cứ hát và cứ vui, với mọi người, trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn mình và bạn bè

Cứ vui mãi trong cuộc đời

Vẫn rất vui.

 

“Trầm lan nhẹ ngấm chốn không gian,”

“Trầm lan nhẹ ngấm chốn không gian,”

Giây phút buồn lây đền mộng vàng.

Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá,

Dám ôm hồn cúc ở trong sương.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 28: 16-20

Diễn tả chốn không gian an-bình, thi ca ngoài đời thường diễn tả, chỉ như thế. Trình-bày/thuật lại bình an ở nhà Đạo, thánh-sử Mát-thêu nay lại diễn bày một trình thuật nhiều ý-nghĩa hơn thế. Hơn thế, ra như thể một trình-thuật rất an bình đầy Lời Chúa ban cho ta hôm nay.

Trình-thuật Lời Chúa hôm nay, thánh Mátthêu diễn tả cho con người, vẫn đơn giản chỉ một câu: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây là lời diễn-bày nghe quen, không hề thiếu trong buổi Tiệc Thánh Thể, an bình đầy tình thương rất thực tế. Nhưng, thực tế hôm nay, ta lại thấy lời chúc lành ở đây như vẫn xa vời tầm tay với, của mọi người.

Hôm nay đây, khi ta nghe ai đó những là chào/hỏi: “Anh/chị khỏe không?”, hẳn là câu trả lời nhiều lúc cũng không mấy thông suốt. Người thì bảo: “lu bu lắm!”, kẻ lại nói: “Có lúc nào rảnh đâu! Làm chết bỏ, không có giờ nghỉ!…. toàn những việc không tên, ở đâu ấy.”

Nhiều lần, tôi tự hỏi: có bao giờ ta trả lời bạn bè người thân bằng những câu: “Đang nghỉ xả hơi đây”! hoặc:“cũng chỉ mới ngơi tay một chút!” hoặc “Tôi đang đi đang thăm hoa, vãn cảnh đây! Có gì không thế?” Tôi nghĩ câu trả lời như thế cũng rất hiếm. Có người còn cứ bảo: “Có đẻ bọc điều mới được hưởng những giờ phút như thế, còn thì lúc nào tôi cũng như người không mở mắt lên nổi, đấy thôi!”

Là tín hữu Đức Kitô, có lẽ ta cũng nên cẩn thận về tình trạng mải miết thi nhau mà bận với rộn. Đành rằng, cứ phải sống và dấn thân với thế giới bên ngoài, cũng là quà tặng nhận được từ Trên. Nhưng, cũng nên xét lại tình trạng bận rộn của mỗi người. Bởi, có thứ bận mà không rộn cho lắm. Và, bận chưa hẳn là điều tốt. Có thể, nó mang ý nghĩa của một chối từ hoặc né tránh. Chí ít, là để tỉnh thức với bạn bè người thân, cùng một nhóm.

Tin Mừng hôm nay, thánh Yoan cho biết Thánh Thần Chúa hiện đến với môn đệ Đức Kitô, là quà tặng đầu Chúa ban cho con người. Quà tặng, là sự bình an. Thoạt nhìn, mọi chuyện xem ra không được ổn. Và cũng hơi lạ.  Thực tế ai cũng biết, và điều này dễ hiểu thôi. Nhưng, khi đã chấp nhận bận rộn làm ăn rồi, sao cứ than. Than và ước, đại để như: Tôi vẫn muốn bình an trong tâm hồn, muốn có đôi phút thinh lặng để nghỉ ngơi, nhưng khổ nỗi làm sao được cả hai. Họat động có hiệu-năng và công việc dồn dập là hai thứ đối nghịch với an bình.

Nhiều lúc ta cứ tưởng, an bình-lặng thinh luôn ở tư thế của bông sen trong căn buồng tăm tối. Không phải thế. Quà bình an Đức Kitô ban tặng còn hơn thế. Bình an là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống đời thường. Nó là trạng huống tâm linh. Một thói quen tạo được sau biết bao chọn lựa nhất quán và liên lỉ. Quả thật, có người cùng lúc làm rất nhiều việc mà vẫn thản nhiên, an bình. Với họ, Bình an là vấn đề tâm linh, trí tuệ. Là, phương cách để sống. Sống cuộc đời người.

Ở thế kỷ thứ hai, triết gia Seneca đã thắc mắc sao bạn bè/người thân của ông vẫn để mất sự an bình họ cần đến. Chính vì thắc mắc này, mà ông đã ngồi xuống viết nguyên cuốn sách nói về sự nổi giận và phương cách đối phó. Ông nhấn mạnh sự kiện, là: bạn bè càng giàu sang càng dễ nổi nóng, tức giận.

Và từ đó, để luột mất đi sự an bình quý hiếm. Cuối cùng, ông dẫn chứng bằng niềm tin tưởng sắt đá rằng: lý do làm ta nổi nóng, là vì ta luôn nghĩ đến điều ta trông đợi và cầu mong, dù điều đó chẳng hợp tình hợp lý. Vẫn muốn làm sao cho tháng ngày đời mình, cứ êm đềm trôi chảy. Chảy chầm chậm. Trôi thanh thoát. Người giàu sang lại nghĩ rằng: họ có thể dùng tiền tài, của cải/vật chất mà mình có để mua cho mình cuộc sống sảng khoái, dễ chịu.

Ở đâu cũng thế. Lúc nào cũng vậy. Khi không đạt mộng ước thật bình thường, thì chuyện “nổi cơn thịnh nộ” là việc đương nhiên xảy ra. Thành thử, triết gia Seneca có lý khi ông nói: muốn an bình-lặng thinh, ta phải có đầu óc thực tế biết chấp nhận rằng: mọi sự trên đời đều có thể xảy đến, trái nghịch điều mình hằng mong ước.

Sự khôn ngoan mà hiền triết Seneca đề nghị, là: ta nên tỉnh táo biết rõ sự yếu mềm và mỏng dòn của mình. Và, của mọi người. Nếu biết rằng, cuộc sống cũng dòn mỏng như bản chất con người, ta sẽ đỡ vất vả hơn, khi chiến đấu với nó. Và như thế, ta mới đạt tình huống qua đó ta cần tha thứ cho người khác; cũng như, đón nhận sự thứ tha từ nơi họ.

Tha thứ là món quà thứ hai Đức Kitô tặng ban cho các môn đệ, trong ngày Thánh Thần Chúa hiện đến. Nếu quả tình, ta thực lòng muốn vun trồng sự an bình-lặng thinh để sống cuộc đời bình thường, bắt buộc ta phải chấp nhận đương đầu với những gì, ta không muốn thấy. Những gì ta mong né tránh, khước từ.

Nhưng oái oăm thay, những chuyện như thế thường hay đính kèm sự việc hằng xảy ra, trong quá khứ. Và, điều này gây tổn thương người khác, cách này hay cách khác. Đó, có thể là kinh nghiệm buồn đau mà người khác vẫn mang đến cho ta. Trừ phi ta biết tự tha thứ; hoặc thứ tha những người đã làm mình phiền. Bằng không, thì tình trạng bận và rộn có những xôn xao/ồn ào, hoặc bon chen sẽ để lại dấu ấn khó quên, nơi ký ức miên trường của mỗi người.

Điều không may, là: những xáo trộn như thế thường đi đôi với tình trạng rất bận và rất rộn. Chính vì thế, ta cứ phải đối đầu với những lầm lỗi mình từng mắc phải, trong thời gian qua. Đó còn là tình huống khiến cho sự an bình lặng-thinh cứ cao xa vời vợi, rời bỏ vòng tay mong chờ của chúng ta.

Tham dự Tiệc thánh hôm nay, dù ta ở vào tình huống có lầm lỡ/sơ xuất, hãy cứ cầu và mong Thánh Thần Chúa giúp ta nhận món quà đầu Chúa ban trong Lễ Ngũ Tuần có Thánh Thần Chúa hiện đến. Có như thế, ta mới mong rằng mình có thể tha thứ thật nhiều cho những ai đang tìm cách đóng đinh ta vào thập giá.

Và, tựa như Đức Chúa tỏ bày tình Ngài yêu thương cho mọi người, ta cũng hãy mừng vui hơn lên vì Thánh Thần Chúa đã thổi đến nơi ta, món quà cao quý ấy.  Quà là quà an bình-lặng thinh ta hằng mong ước.

Trong cảm-nghiệm một lời chúc bính-an đầy thương mến như thế, tưởng cũng nên trở về với thơ đời còn văng vẳng những lời rằng:

“Hãy tưới lên hoa giọt lệ nồng,

Đếm từng cánh một, mấy lần thương.

Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ,

Và hãy chôn sâu tận đáy lòng.”

(Hàn Mặc Tử – Mơ Hoa)

Giọt lệ nồng tưới lên hoa như thế, e rằng chẳng đếm được “mấy lần thương”. Lại cứ cho đi những mảnh xuân tàn-tạ”, tận đáy lòng, để rồi người người rồi sẽ nghe biết Thánh Thần Chúa vẫn cứ tặng bình an cho mọi loài, nên vẫn thương. Thương mãi thương hoài ngàn năm, rất vấn vương. Tận đáy lòng, của mọi người.

Lm Richard Leonard sj,

Mai Tá lược dịch

MÃI NHỚ ƠN CHA

MÃI NHỚ ƠN CHA

​Cha yêu hỡi, chắc cha đâu hay biết
Đã bao đêm, con da diết nhớ thương
Ước mong sao, cha vẫn sống giữa đời thường
Để con được sớm hôm thăm viếng
Được nghe cha, dù chỉ là một tiếng
Được ngắm nhìn bóng dáng cha yêu
Được đỡ nâng Cha khi tuổi xế chiều
Được Cha an ủi khi đời nhiều gian khó
Con nhớ mãi bóng hình cha ngày đó
Tiễn con đi cha rò rõ trông theo
Bởi thương cha con cương quyết chống chèo
Chôn kín trong lòng, ôm theo nỗi nhớ
Đã hai mươi năm, mà con cứ ngỡ
Kỉ niệm năm nào con vẫn nhớ y nguyên
Mãi đến hôm nay con vẫn giữ trọn lời nguyền
Ơn dưỡng dục, con nguyện luôn ghi nhớ
Đường con đi, còn gặp nhiều giông tố
Mất cha rồi, ai sẽ đỡ nâng
Chỉ có cha, Cha mới chẳng ngại ngần
Dù có phải, ngàn lần gian khổ
Bao nước mắt, bao mồ hôi cha đổ
Nhỏ xuống đời, nuôi con trẻ lớn khôn
Tiếc thương cha nay đã không còn
Cho con được đền ơn đáp​ nghĩa

Lệ Thu

From: tchoang2005 & Anh chi Thu Mai goi

 

MỘT TÀI TỬ ĐƯỢC CHỮA LÀNH

MỘT TÀI TỬ ĐƯỢC CHỮA LÀNH

http://www.abs-cbnnews.com/entertainment/05/28/14/

Một tài tử người Phi Luật Tân đã chia sẻ về ơn chữa lành mà anh nhận được. Trước đó, anh bị tai nạn ở phòng thể thao làm cho khuôn mặt anh bị nát và đầu anh bị lòi óc ra.

Anh Raymundo kể rằng anh đã nhận được một thị kiến trong lúc nằm điều trị tại bịnh viện sau khi anh bị một cái tạ nặng 95 pounds rớt ngay vào mặt của anh ngày  20/3/2014.

“Tôi ở trong tình trạng mê sảng. Tôi không mở mắt được trong vòng 3 tuần lễ. Tôi nghĩ mắt trái tôi bị mù. Bỗng dưng tôi nhận được 1 thị kiến về tương lai của mình. Thị kiến cho tôi thấy rằng tôi trở lại với công việc như trước và mọi sự Diễn ra tốt đep.”

“Tôi nghe một tiếng nói lớn mà không biết tiếng nói ấy xuất phát từ đâu. Dường như tiếng nói đến từ mọi phía. Tiếng nói bằng tiếng Anh:

‘Con sẽ chịu đau có 6 ngày thôi. Vào ngày thứ bẩy, Ta sẽ cho con khỏi bịnh, bởi vì Ta có một sứ mạng cho con. Ta muốn con tiếp tục làm những gì mà con đang làm.’

“Thế là tôi đáp lại tiếng nói trong tâm trí tôi. Rồi tôi nghĩ rằng có lẽ mình đang tưởng tượng. Khi mình ở trong tình trạn đau đớn thì mình chỉ muốn nghe những gì mà mình thích mà thôi.”

“Tiếng nói bảo tôi hãy cố gắng ngồi lên và tìm câu trả lời. Tiếng nói bảo tôi rằng tôi có đủ sức mạnh để ngồi hẳn lên. Và lúc ấy, tôi thấy thị kiến khuôn mặt Chúa Giêsu. Tôi vội gọi mẹ tôi vì mẹ đang ngủ nơi chiếc ghế gần giường bịnh của tôi. Khi mẹ tôi nhìn nơi chiếc mền của tôi thì bà cũng thấy khuôn mặt của Chúa Giêsu.”

“Khuôn mặt Chúa Giêsu hiện lên nơi tấm mền trong bịnh viện ngày 20/3/2014. Tôi vội vàng lên tiếng xin lỗi Chúa Giêsu vì tôi nghi ngờ sự hiện diện của Ngài.”

“Trong những ngày kế tiếp, các bác sĩ lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy khuôn mặt của tôi mau lành, các vết thương bắt đầu khép lại, kể cả cái đầu có lòi óc ra.

Các bác sĩ đồng ý sẽ giải phẫu cho tôi vào ngày 25/3/2014. Họ sẽ làm cho cái mũi bị gẫy dập được lành, đôi mắt, xương má của tôi được sửa lại, và họ đóng kín phần sọ bị lòi óc ra. Nếu cuộc giải phẫu thành công thì tôi sẽ không bao giờ bị bịnh kinh phong làm cho co giật.”

“Đến ngày thứ bẩy, tôi mở mắt ra và nhìn thấy mọi sự bằng hai con mắt. Tôi mượn một cái gương soi. Lạ lùng thay, mọi sự trên khuôn mặt tôi đã trở lại bình thường đúng y như lời Chúa Giêsu đã tiên tri, và những gì các bác sĩ nói rằng không thể chữa lành được thì nay tôi đã được chữa lành hoàn toàn vào ngày thứ bẩy.”

Theo anh Raymundo thì phép lạ xẩy ra qua là nhờ lời cầu bầu của Mẹ Thánh Ignacia del Espiritu Santo. Mẹ của anh Raymundo làm việc thiện nguyên cho một trung tâm chữa lành cũng mang tên vị chân phước này.

“Gia đình tôi nghĩ rằng sự chữa lành này là để góp phần làm nên phép lạ thứ hai để rồi Toà Thánh Vatican có đủ điều kiện phong thánh cho bà chân phước. Mẹ Ignacia sinh vào thập niên 1660s.”

“Trước đây tôi không nói nhiều về tôn giáo. Tôi đã thấy một người phụ nữ trong đêm ở bịnh viện. Lúc đầu tôi tưởng là Đức Mẹ Maria nhưng khi tôi nhìn thấy tấm hình của Mẹ Ignacia thì tôi biết rằng đúng là mẹ vì y phục và cách đứng ngồi của mẹ giống y như bức hình.”

Sau khi được chữa lành khỏi tai nạn trầm trọng làm cho anh suýt chết, anh Raymundo nói rằng anh học được nhiều bài học tốt như tha thứ, có thái độ tích cực, và có đức tin sâu đậm hơn.

Khi được hỏi về người huấn luyện viên thể thao giúp anh khi tai nạn xẩy ra thì anh Raymundo nói rằng:

“Nếu tôi không bao giờ tha thứ cho anh ta thì tôi không có đủ thái độ tích cực để tiếp tục sống, phải không? Và nếu tôi không có đức tin thì tôi sẽ tuyệt vọng. Nếu không có đức tin thì tôi sẽ không còn ý chí để sống. Vì tôi có đức tin mạnh và biết rằng cuộc sống vẫn đáng sống nên tôi có lý do để sống mà không bỏ cuộc.”

Kim Hà
31/5/2014

Nhiều người Mỹ hối tiếc vì Hoàng Sa 1974′

Nhiều người Mỹ hối tiếc vì Hoàng Sa 1974′

Thứ ba, 3 tháng 6, 2014

Hải quân Trung Quốc

Trung Quốc muốn khẳng định vị thế siêu cường quân sự số một thế giới, theo giới quan sát.

Trước những gì Trung Quốc đang thể hiện ở Biển Đông, Hoa Kỳ nay thấy ‘hối tiếc’ vì từng ‘bật đèn xanh’ để Trung Quốc chiếm thuận lợi các đảo ở Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1974, theo một nhà phân tích tình hình châu Á và Trung Quốc từ Mỹ.

Hoa Kỳ có vẻ đã đánh đổi một lợi ích ngắn hạn, để ngày nay nhận lấy việc để cho vị thế quân sự và chính trị chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương bị Trung Quốc thách thức, vẫn theo ý kiến này.

Trao đổi với BBC hôm 02/6/2014 từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói:

“Theo tôi biết, trong nội bộ hai đảng ở Mỹ là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, đúng là có nhiều người nuối tiếc.”

“Lúc đó Mỹ đang chơi lá bài Trung Quốc và Mỹ kéo những chiến hạm của họ ra xa để họ không can dự, để cho Trung Quốc có thể đánh chiếm.

“Theo tôi biết, trong nội bộ hai đảng ở Mỹ là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, đúng là có nhiều người nuối tiếc”

GS. Ngô Vĩnh Long

“Khi Trung Quốc lấy quần đảo Hoàng Sa, chiếm một số đảo ở Hoàng Sa và chiếm một số đảo ở Trường Sa, là cố tình để xây dựng cơ sở để chiếm lĩnh toàn bộ Biển Đông, gây mất an ninh và bắt chẹt thế giới.”

Theo Giáo sư Long, xâu chuỗi các sự kiện qua nhiều năm, có thể thấy những động thái của Trung Quốc tại Biển Đông nay đã là một vấn đề an ninh ở cấp độ thế giới mà không chỉ còn riêng ở tầm khu vực.

Ông nói: “Đây là vấn đề an ninh của khu vực, vấn đề an ninh của toàn thế giới, chứ không chỉ là vấn đề Trung Quốc đặt một giàn khoan hay là vấn đề tranh cãi chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc về đảo Hoàng Sa.”

Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho rằng chính giới Mỹ đã nhận ra ‘lỗi lầm’ khi tính toán sai và để Trung Quốc nay có điều kiện thuận lợi ‘thách thức’ và ‘lấn lướt’ Mỹ ở khu vực, đe dọa an ninh quốc tế. Nhưng nhà phân tích cũng liên hệ trách nhiệm với quốc tế và ở khu vực của Việt Nam trong đối sách với các thách thức của Trung Quốc.

Ông Long nói: “Lúc đó, Mỹ vẫn còn chơi lá bài Trung Quốc, Mỹ ủng hộ Trung Quốc rất mạnh. Nhưng bây giờ là lúc khác, bây giờ mọi người thấy rõ ràng rằng năm 1974 và năm 1988, và sau đó Mỹ để cho Trung Quốc chiếm một số đảo của cả Philippines là những lỗi lầm. Bây giờ Mỹ và các nước trong khu vực thấy đây là lỗi lầm, mà bây giờ họ thấy đây là sự đe dọa cho cả khu vực và cho cả thế giới.

“Nếu bây giờ Việt Nam không cương quyết, tôi nghĩ đây đúng là lúc mà không phải chỉ có một, hai, ba hay bốn người trong lãnh đạo ở Việt Nam sẽ bị lịch sử lên án sau này, mà nhiều người trên thế giới sẵn sàng lên án Việt Nam là không giúp họ bảo vệ an ninh trong khu vực và cho thế giới mà lại ỡm ờ.”

Hôm 30/5, Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng nói với hãng tin Mỹ Bloomberg rằng Việt Nam đã ‘chuẩn bị xong’ các bằng chứng và đã sẵn sàng để kiện Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải Dương 981.

Trong khi đó, hôm 31/5, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói với diễn đàn Shangri-La rằng quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn ‘tốt đẹp’ và kêu gọi Trung Quốc ‘cùng đàm phán’ với Việt Nam về vụ hạ đặt giàn khoan.

Bình luận về những phát biểu này, Giáo sư Long nói: “Tôi hy vọng rằng Việt Nam nói nhún nhường như thế, nhưng lại có đi đêm phía sau, tất nhiên nói nhẹ nhàng như vậy để mua thời gian, nhưng đằng khác chuẩn bị để có những quan hệ tốt hơn với Nhật Bản, Philippines, Malaysia và qua đó với Mỹ…

“Bề ngoài nói như vậy là một chuyện khác, nhưng tôi mong rằng phía bên trong có những bước đi chắc chắn, chứ nếu một sự thoái lui… thì cái đó rất đáng tiếc cho đất nước.”

‘Nước cờ không thể thối lui’

Về khả năng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể có ‘thỏa thuận ngầm’ để Việt Nam không kiện, nhà phân tích bình luận: “Không biết là lãnh đạo Việt Nam có nghĩ là họ có thể đàm phán song phương với Trung Quốc hay không, nhưng nếu họ làm như thế thì Việt Nam sẽ cô lập mình đối với toàn thế giới và như vậy Việt Nam sẽ bị Trung Quốc càng ngày càng bắt chẹt.

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói Việt Nam đã sẵn sàng kiện Trung Quốc.

“Đây là một cơ hội rất lớn cho Việt Nam để chứng minh cho thế giới biết rằng khi Trung Quốc lấy đảo Hoàng Sa và chiếm một số đảo ở Trường Sa là cố tình để xây dựng những cơ sở ở đó để chiếm lĩnh toàn bộ Biển Đông, gây mất an ninh và bắt chẹt thế giới.”

Theo Giáo sư Long, đây là thời điểm quyết định để Việt Nam xử lý dứt điểm vấn đề chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.

Ông nói: “Đây là một cơ hội rất tốt để Việt Nam vận động sự ủng hộ của thế giới. Bây giờ thụt lùi, thì rõ ràng không những mất mặt cho Thủ tướng Dũng, mà còn cho các nước khác thấy là họ ‘bị lừa’ hay sao đấy.”

Ông nói tiếp: “Tôi nghĩ rằng đã dũng cảm nói ra rồi, dân chúng ủng hộ rồi, thế giới họ cũng vỗ tay rồi, mà bây giờ rụt đi nữa, thì không những anh mất tiếng đối với thế giới, mà anh cũng để cho những đối thủ của anh ngay trong nước dùng cái đó để tấn công anh để hạ anh.

“Tôi nghĩ rằng những người ủng hộ đường lối của Thủ tướng nên thúc đẩy Thủ tướng. Nghĩa là đây là nước cờ cũng như là nước cờ cuối rồi mà anh đã đi một nước cờ như vậy, mà anh lại thối lùi nữa, anh sẽ không những thua mà lại có hại cho đất nước nữa,” Giáo sư Long nói với BBC.

Thất vọng lớn sau một tháng mất chủ quyền

Thất vọng lớn sau một tháng mất chủ quyền

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-02

06022014-hd981-namnguyen.mp3

053_4SOUTHCHINASEA20140529-600.jpg

Các thuyền viên của tàu tuần tra Cảnh sát biển Việt Nam trên vùng quần đảo Hoàng Sa hôm 28/5/2014.

AFP photo

Giàn khoan HD 981 của Trung Quốc với sự yểm trợ của phi cơ, tàu chiến, tàu hải cảnh, hải giám đã hạ đặt, khoan thăm dò và di chuyển ở vùng biển Việt Nam từ ngày 2/5 đến nay đã bước sang tháng thứ hai.

Tình hình bế tắc, vì sao?

Học giả Đinh Kim Phúc một nhà nghiên cứu biển Đông từ Saigon bày tỏ sự thất vọng lớn lao về các đối sách và cách thực hiện của nhà nước trong vụ giàn khoan HD 981. Ông nói:

“Vấn đề giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đến nay đã một tháng. Mặc dù Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố hết sức rõ ràng, những quan điểm được nhân dân ủng hộ. Nhưng rất tiếc rằng, hình như có một lấn cấn gì đó trong đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay về giải quyết vấn đề trong mối quan hệ với Trung Quốc… Và qua những phát biểu của Đại tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc phòng ở Singapore vừa qua đã làm cho mọi người thất vọng.”

Theo Học giả Đinh Kim Phúc, những hành động của Trung Quốc khởi nguồn từ năm 1956 khi đánh chiếm phần phía tây, phần phía đông quần đảo Hoàng Sa rồi đến năm 1974 là cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, đến năm 1988 đánh chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa và đỉnh điểm là giàn khoan HD 981 kéo vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Tất cả những hành động này Trung Quốc đã vi phạm điều 2 khoản 4 Hiến chương Liên Hiệp Quốc có nghĩa là dùng vũ lực đánh chiếm vùng lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Học giả Đinh Kim Phúc nhấn mạnh:

“Đây là một hành động xâm lược chứ không gọi là xung đột, cũng không gọi là va chạm trên biển, là một Bộ trưởng Quốc phòng mà lại hạ thấp tính chất xâm lược của Trung Quốc vẫn hy vọng Trung Quốc sẽ vì tình hữu nghị 16 chữ vàng 4 tốt để dời giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế lãnh thổ Việt Nam là một ảo tưởng.

Mình là người trong cuộc, mình là người bị xâm lược nhưng vẫn mong kẻ xâm lược ban bố cho một số đặc ân gì đó thì hoàn toàn là ảo tưởng. Tôi hoàn toàn thất vọng trong vấn đề này.
– Học giả Đinh Kim Phúc

Tôi đã thất vọng với phát biểu của ông Bộ trưởng Quốc phòng và tôi từng nói rằng, cái ý thức hệ đồng chí anh em đã không giải quyết được trọn vẹn thắng lợi của Việt Nam tại trận Điện Biên Phủ thể hiện ra Hội nghị Genève 1954.  Ý thức hệ cũng không cứu Việt Nam ra khỏi việc mất biển đảo và ngày hôm nay ý thức hệ đó đã chứng minh là lạc hậu lỗi thời nhưng một số người vẫn còn bám vào ý thức hệ đó thì tôi không biết rằng đây là  chiến lược hay chiến thuật.

Nhưng dù chiến thuật hay chiến lược thì vẫn là một sai lầm nghiêm trọng trong đối sách với bọn xâm lược, trong khi những cường quốc trên thế giới họ thấy được sức yếu của Việt Nam, thấy được chính nghĩa của Việt Nam, họ lên tiếng ủng hộ. Mình là người trong cuộc, mình là người bị xâm lược nhưng vẫn mong kẻ xâm lược ban bố cho một số đặc ân gì đó thì hoàn toàn là ảo tưởng. Tôi hoàn toàn thất vọng trong vấn đề này.”

Cơ hội đang bị bỏ lỡ

053_6SOUTHCHINASEA201405291135-200.jpg

Một lính hải quân trên tàu Cảnh sát biển Việt Nam quan sát tàu Trung Quốc trong vùng biển Đông hôm 27/5/2014. AFP photo

Dư luận rất thắc mắc về việc Nhà nước cứ mãi chần chừ chưa sử dụng biện pháp pháp lý, hay nói cụ thể khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Trên báo chí Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng giải pháp đấu tranh pháp lý đã được nhà nước chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon phát biểu:

“Tôi có cảm giác bộ chính trị Việt Nam luôn luôn có tình trạng ngần ngừ chần chừ và không quyết đoán, lúc này thì ông Nguyễn Tấn Dũng nói chờ Bộ Chính trị, nhưng mà tôi có cảm giác là Bộ Chính trị đang chờ ông Nguyễn Tấn Dũng. Còn ông Nguyễn Tấn Dũng lại có vẻ đang chờ ông Phạm Bình Minh, ông Phạm Bình Minh sắp tới có thể đi Mỹ theo lời mời của ông John Kerry. Tất cả mọi người chờ nhau, tóm lại là nhà nước Việt Nam hình như đang chờ động thái từ phía Mỹ. Phía Mỹ đã tuyên bố thẳng thắn thẳng thừng đối với Trung Quốc như vậy rồi thì người Việt Nam còn chờ cái gì nữa và nếu như người Việt Nam không hành động, thì làm sao phía Mỹ có thể ra tay được và có thể tăng cường hạm đội 7 để giúp cho Việt Nam bảo vệ lãnh hải trên biển Đông được.”

Phải chăng Việt Nam đang bỏ lỡ thời điểm thích hợp nhất để sử dụng biện pháp pháp lý chống lại việc Trung Quốc xâm phạm vùng biển chủ quyền Việt Nam. Học giả Đinh Kim Phúc đưa ra nhận định:

Phía Mỹ đã tuyên bố thẳng thắn thẳng thừng đối với Trung Quốc như vậy rồi thì người Việt Nam còn chờ cái gì nữa và nếu như người Việt Nam không hành động, thì làm sao phía Mỹ có thể ra tay được…
– TS Phạm Chí Dũng

” Tôi nghĩ rằng việc trung Quốc kéo giàn khoan HD 981, đây là thời điểm chín mùi để Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để bảo vệ chủ quyền của mình không còn thời cơ nào nữa cả. Vì bản thân Trung Quốc trong vấn đề biển Đông, không phải mới đây thời Tập Cận Bình, hay trước đây thời Hồ Cẩm Đào mà Đặng Tiểu Bình đã định nghĩa ‘chủ quyền thuộc ngã gác tranh chấp cùng nhau khai thác’, đây là phương châm bất di bất dịch của Trung Quốc và Trung Quốc ôm mộng nuốt trọn biển Đông cũng như biển Hoa Đông.

Đừng ảo tưởng đối với Trung Quốc và cũng đừng ảo tưởng đối với cường quốc nào vào bênh Việt Nam, bảo vệ Việt Nam, vì mỗi cường quốc họ đều có quyền lợi của họ. Việt Nam phải biết phát huy nội lực của mình để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ. Còn những ai không biết phát huy nội lực, không biết biến thời cơ thành sức mạnh, không tranh thủ được sự đồng thuận của thế giới thì lịch sử muôn đời sẽ nguyền rủa kẻ đó.”

Vào thời điểm ngày thứ 31, Trung Quốc duy trì giàn khoan HD 981 và lực lượng tàu chiến, máy bay chiếm cứ vùng biển Việt Nam, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, một nhà hoạt động xã hội dân sự hiện sống và làm việc ở Đà Nẵng nhận định:

“Bối cảnh Việt Nam có một bất hạnh đó là ở gần Trung Quốc, nó cài cắm người để nó lèo lái thì đó là một bất hạnh vô cùng cho dân tộc Việt Nam. Theo cái đà kiểu như thế này thì mất nước là cái chắc…”

Tuy vậy, GSTS Nguyễn Thế Hùng nhận định rằng, cùng tắc biến và đây là cơ hội cho một nước Việt Nam thay đổi xây dựng thể chế dân chủ, mọi người dân thực sự làm chủ đất nước của mình. Theo lời ông tới một lúc nào đó cả dân tộc sẽ vùng lên như là thác đổ thì không có thế lực nào ngăn cản được. GSTS Nguyễn Thế Hùng tin rằng thể chế dân chủ sẽ giúp cho Việt Nam thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc.

Nhật tạm ngưng hỗ trợ ODA cho Việt Nam

Nhật tạm ngưng hỗ trợ ODA cho Việt Nam

Thứ ba, 3 tháng 6, 2014

Nhiều dự án đường sắt ở Việt Nam sử dụng vốn ODA từ Nhật

Nhật Bản tạm ngưng viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vì cáo buộc hối lộ liên quan tới một dự án đường sắt, truyền thông Nhật đưa tin.

Đại diện chính phủ Nhật Bản đã thông báo cho phía Việt Nam về quyết định này tại một cuộc họp song phương nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong các dự án sử dụng ODA.

Thông tin trên trang web của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) Việt Nam cho biết cuộc họp này đã diễn ra hôm 2/6, với sự chủ trì của Thứ trưởng GTVT Nguyễn Ngọc Đông và ông Kimihiro Ishikane, Vụ trưởng Vụ hợp tác Quốc tế của Nhật Bản.

Tuy nhiên, trang Bộ GTVT Việt Nam không nói về quyết định đình chỉ của phía Nhật Bản mà chỉ dẫn lời ông Ishikane nói “để có thể tiếp tục triển khai những dự án ODA và nhận được sự thấu hiểu cũng như sự ủng hộ của người dân cả 2 nước thì cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc vụ việc này”.

Trong khi đó, các cơ quan truyền thông Nhật Bản nói Tokyo sẽ đình hoãn việc cho vay ODA giai đoạn 1 của dự án xây dựng đường sắt đô thị số 1.

Hãng tin AFP thì cho biết thêm các khoản cho vay mới cũng bị tạm ngừng.

Bản tin của hãng thông tấn AFP cho biết Nhật Bản cũng đã đình chỉ ODA cho Uzbekistan vì vụ việc liên quan JTC, và đang thảo luận với nhà chức trách Indonesia.

Tuy vậy, chính phủ Nhật Bản nói sẽ xem xét nối lại ODA cho Việt Nam tại một cuộc họp khác vào cuối tháng Sáu, dựa trên kết quả điều tra của Việt Nam.

Đặt điều kiện để nối lại ODA, Tokyo yêu cầu Hà Nội điều tra có xảy ra bê bối hay không trong các hợp đồng liên quan Tập đoàn Tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) và Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam

Tại một cuộc họp cuối tháng Sáu, Nhật Bản sẽ xem xét nối lại ODA sau khi xem kết quả điều tra và biện pháp phòng ngừa của Việt Nam.

Hồi đầu tháng Năm, cơ quan cảnh sát điều tra của Việt Nam đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 6 bị can nguyên là các viên chức ngành đường sắt Việt Nam.

Điều tra

“Để có thể tiếp tục triển khai những dự án ODA và nhận được sự thấu hiểu cũng như sự ủng hộ của người dân cả 2 nước thì cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc vụ việc này”.”

Ông Kimihiro Ishikane, Vụ trưởng Vụ hợp tác Quốc tế của Nhật Bản

Vụ việc nổi lên hồi cuối tháng Ba, sau khi báo Nhật Yomiuri Shimbun đưa tin Chủ tịch Tập đoàn Tư vấn Giao thông Nhật Bản (JTC) khai với cơ quan công tố Tokyo việc hối lộ một quan chức Việt Nam 80 triệu yen (tương đương 16 tỷ đồng) để giành dự án có sử dụng vốn ODA trị giá 4,2 tỷ yen.

Đây là một phần trong dự án xây dựng tuyến đường sắt trên cao ở Hà Nội.

Theo báo Nhật, ông chủ tịch tập đoàn khai đã chi tiền lại quả cho các quan chức ở Việt Nam, Indonesia và Uzbekistan.

Ông này được cho là đã ký vào bản khai. Trước đó ông đã tự nguyện đến làm việc với Văn Phòng Công tố Tokyo hôm thứ Ba ngày 18/3 sau khi Cục thuế Tokyo phát hiện JTC đã chi một khoản không minh bạch trị giá 130 triệu yen.

Trong tổng số 130 triệu yen chi không minh bạch này, 80 triệu yen là chi cho quan chức Việt Nam, còn 30 triệu chi ở Indonesia và 20 triệu chi ở Uzbekistan.

Tất cả đều với mục đích giúp cho JTC giành được hợp đồng các dự án có sử dụng vốn vay ODA của Nhật ở các quốc gia này.

Trong một diễn biến khác, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Việt Nam quyết định cho thay Tổng Giám đốc Đường sắt Việt Nam, trong bối cảnh đang có điều tra nghi án nhận hối lộ từ Tập đoàn JTC (Nhật Bản).

Ông Nguyễn Đạt Tường mất chức tổng giám đốc, để chuyển sang làm thành viên chuyên trách Hội đồng Thành viên của Tổng Công ty này.

Quyết định thay ông Nguyễn Đạt Tường đã có trong tháng Năm, nhưng được công bố chính thức hôm 3/6.

Ông Vũ Tá Tùng, nguyên phó tổng giám đốc Đường sắt Việt Nam, chính thức lên thay vị trí của ông Nguyễn Đạt Tường kể từ ngày 3/6. Ông Tùng cũng đang kiêm chức Tổng Giám đốc Đường sắt Sài Gòn khi có quyết định này.

Bộ Giao thông Vận tải không nói việc ông Nguyễn Đạt Tường mất chức tổng giám đốc là có liên quan tới cuộc điều tra nghi án nhận hối lộ từ Tập đoàn JTC (Nhật Bản).

Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng nói ông Tường là người “đạo đức trong sáng” nhưng “công việc anh làm không tốt nên buộc phải thay”.

“Anh đứng đầu một đơn vị, công việc trì trệ thì anh phải làm việc khác cho phù hợp, lý do chỉ có thế,” Bộ trưởng Thăng cho biết.

CHUYỆN CỦA BỆNH NHÂN TÔI

CHUYỆN CỦA BỆNH NHÂN TÔI

Bs. THANH THỦY

Tri’ch EPHATA 612

Chuyện thứ nhất

“Tốn hơn 2.500.000 đồng bao xe lên Sàigòn khám bệnh được gặp bác sĩ chưa đầy 5 phút !” Câu nói thật lòng của thầy giáo cũ làm tôi thấy ray rứt. Dù thầy không có ý mỉa mai nhưng sao hai con số cứ như lờn vờn, thách thức nhau. Quả thật, tôi cũng có những bệnh nhân từ Phú Quốc, Hà Tiên, Quảng Ngãi, Nha Trang lên thành phố khám bệnh. Cảm giác đầu tiên là tôi thấy đồng nghiệp của mình có lỗi. Có thể vì không giải thích rõ ràng cho bệnh nhân hoặc vì không có nhiều thì giờ để lắng nghe bệnh nhân, hay thậm chí vì bản tính cố hữu là không muốn nghe bệnh nhân nói nhất là những lời kể lể dông dài, ta thán ! Và tôi thấy mình cũng phạm lỗi nếu như không tìm ra đúng bệnh cho bệnh nhân. Bệnh nhân cất công tìm đến đây, vất vả vượt đoạn đường dài, bỏ cả công ăn việc làm chỉ mong gặp bác sĩ nói hết dấu hiệu bệnh tật, đôi khi thổ lộ cả nỗi lòng… Nhưng sao bác sĩ quá đỗi lạnh lùng ! Đôi khi bác sĩ thờ ơ khám bệnh chẳng buồn nhìn mặt bệnh nhân !

Chuyện thứ hai

“Bác sĩ ơi, lần trước bác sĩ quên cho tôi thuốc bao tử !”

“Có chứ, thuốc số 5 đó chị, tôi ghi rõ kế bên tên thuốc mà…” Chị ngập ngừng nhìn tôi: “Bác sĩ ơi, tôi không biết… chữ !”

“Vậy nhờ con cái đọc cho nghen…” Chị bỗng òa khóc nức nở. Chị có đứa con gái duy nhất mười ba tuổi. Chị chăm lo cho nó từ việc học hành cho đến ăn mặc, chỉ sợ con mình thua kém bè bạn trang lứa. Nhà chị nghèo, mồ côi cha, đông anh em nên thiệt thòi. Chị bù đắp cho con tất cả những gì chị từng thiếu thốn. Đứa con gái chỉ biết đón nhận và xem đó như là lẽ tự nhiên ! Con bé thường đến khám với tôi vì sốt, đau họng và ho. Trông nó không đến nỗi ương bướng. Tôi lân la trò chuyện.

Có hôm tôi nói: “Nếu cô là mẹ con, cô sẽ không cho con đi học.” Nó tròn xoe mắt nhìn tôi, tôi nhẹ nhàng nói tiếp: “Vì mẹ không biết chữ, cho con đi học là vô ích. Con nghĩ lại xem, cô nói đúng không ? Con may mắn được đến trường, con không thấy thương mẹ mình không biết đọc, biết viết sao ? Mẹ nhờ con đọc có mỗi cái toa thuốc, con nặng nhẹ mẹ đủ điều trong khi con có thể giúp mẹ học được chứ”… Bẵng đi một thời gian, tôi không nhớ đến mẹ con chị. Bỗng một hôm nhân Ngày Thầy Thuốc, tôi nhận một lẵng hoa hồng nhỏ xinh xinh kèm theo thiệp chúc mừng với dòng chữ nguệch ngoạc non nớt: “Bác sĩ ơi, mừng ngày Thầy Thuốc 27.2. Chúc bác sĩ vui khẻo ( khỏe ) và hạnh phúc. bệnh nhân không biết chữ.” Tôi lặng người xúc động, vui sướng.

Chuyện thứ ba

“Bác sĩ ơi, cứu con, con chỉ có một lần thôi mà… Ba con biết là giết con. Giúp con với bác sĩ ơi”. Cô bé nấc lên, sụp xuống chân tôi. Tôi nắm tay nâng cô bé đứng dậy. Thuyết phục cô bé giữ lại cái thai 10 tuần tuổi là vấn đề không đơn giản. Cô bé đang hoảng loạn. Tôi khuyên nhủ, dỗ dành cô bé. Miễn là cô bé chịu gặp chị bạn của tôi – một bà nội trẻ rất thông cảm và thương yêu cháu gái lỡ lầm. Nhờ tài “ăn nói” của chị, cô bé đồng ý về sống ở mái ấm.

Mái ấm chúng tôi tự nguyện giúp các em lỡ lầm. Mái ấm chúng tôi tìm gặp ba mẹ cô bé để thuyết phục họ chấp nhận cháu ngoại dù là ngoài ý muốn. Mái ấm chúng tôi không phân biệt bà mẹ và các bé. Đại gia đình mà ông ngoại – người sáng lập mái ấm – là người độc thân. Chúng tôi có hơn ngàn đứa cháu ngoại, đứa nào cũng thật dễ thương. Đôi mắt chúng trong veo. Nụ cười chúng ngây thơ. Những bà mẹ đơn thân nhưng lòng đầy can đảm dám giữ lại đứa con và quyết nuôi dạy chúng nên người.

Dù không nói ra chúng tôi thầm trách những người cha vô trách nhiệm, những con người bội bạc. Lối sống ích kỷ, thực dụng là căn bệnh trầm kha của thời đại…

Chuyện thứ tư

Bệnh nhân tôi đến khám định kỳ với mắt trái bầm tím. Ngoài giờ lái xe đưa rước học sinh, anh còn chạy xe ôm kiếm tiền cho con học thêm. Một cuốc xe đêm 50.000 đồng đến địa chỉ cụ thể. Gần đến nơi vị khách này bỗng nài xin đi xa hơn nữa, là phía sau nghĩa trang tối mịt. Anh hoảng sợ khi nghĩ đến chuyện cướp xe nên từ chối. Thế là nó xuống xe chẳng những không trả tiền mà còn vung tay đấm thẳng vào mắt anh. May là có người đi đường…

Anh thuộc diện Bảo Hiểm Y Tế hộ cận nghèo nên toa thuốc nào tôi cũng tính toán để anh khỏi phải đóng tiền vượt ngưỡng. Phòng khám tôi hỗ trợ người nghèo bằng cách không thu phí khám bệnh. Đó cũng là lý do vì sao tôi gắn bó với nơi này dù tiền lương không cao lắm. Anh bệnh mãn tính, chị vợ mới phát hiện bị u đại tràng. Anh lo lắng, bận bịu nuôi vợ bệnh, không thấy đến tái khám theo hẹn. Tôi thấy lo lo, mong cho gia đình nhỏ của họ bình yên…

Chuyện thứ năm

“Lâu quá chú không tới khám bệnh rồi thuốc đâu mà uống ?” Người đàn ông gầy gò gần bảy mươi tuổi nhìn tôi ngập ngừng: “Đợi con dâu cho tiền cô ơi ! Vài tháng nó cho năm, bảy chục ngàn…”

“Chú nhớ đừng tự ý bỏ thuốc nghen !”

“Khổ lắm bác sĩ ơi ! Con trai tôi bỏ đi lâu rồi, không tìm ra tung tích. Con dâu lấy người khác rồi dắt thằng đó về ở nhà tui…”

“Chú không nói gì sao ?”

“Tôi già rồi, sống nay, chết mai…” Hai giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má già nua, hốc hác.

Chuyện thứ sáu

Bà mẹ cõng con trai hơn 2 tuổi trốn Bệnh Viện Nhi Đồng tỉnh Đồng Nai, đi xe bus xuống Sàigòn tìm tôi. Bà mẹ không tin bệnh viện vì nằm hơn tuần lễ vẫn không biết bé bệnh gì và chuẩn bị ngày mai làm xét nghiệm máu đóng tiền đến 500.000 đồng. Trước đây tôi từng khám bệnh giúp hai cháu con của chị. Lần này bà mẹ cũng nhận toa thuốc không tốn tiền. Tiếc rằng hôm đó tôi không mang theo nhiều tiền gởi thêm cho hai mẹ con cháu…

Chuyện thứ bảy

“Lần sau không biết tui còn được khám bệnh nữa không, bác sĩ ơi !”

“Sao vậy anh ? Cao huyết áp, tim mạch anh uống thuốc mỗi ngày đó nghen !”

“Ở phường kêu tui đóng phân nửa tiền mua bảo hiểm.”

Anh ở nhà thuê, chạy xe ôm, vợ bệnh tật ở nhà nhận xếp bao bì ( giấy ), cô con gái làm công nhân lương tháng 3.500.000 đồng. Cô con gái đầu lòng mất từ nhiều năm trước vì điên loạn. Tìm đâu ra 300.000 đồng lúc này…

Chuyện thứ tám

Hai vợ chồng cùng bước vào. Người vợ trấn tĩnh chồng, khích lệ: “Nói với bác sĩ đi”. Người chồng được Bệnh Viện tỉnh VL. và Phòng Khám Loan Trâm chẩn đoán xơ gan, theo dõi ung thư. Hai vợ chồng khóc hết nước mắt, đành chờ chết. Không hiểu sao có người cùng ở Phước Định khám bệnh với tôi và hai vợ chồng quyết định đến Phòng Khám này… Rất may người chồng chỉ bị viêm gan B. Anh đều đặn, đúng hẹn mỗi tháng hai lần đi Sàigòn lãnh thuốc, định kỳ ba tháng kiểm tra lại bệnh. Tôi khuyên anh về Bệnh Viện VL. khám bệnh, lãnh thuốc nhưng anh ngại ở đó không cho đúng thuốc. Tiền thuốc anh hưởng theo bảo hiểm tốn kém không nhiều nhưng tiền xe hàng tháng ngốn mất 500.000 đồng. Vậy là cứ hai tuần tôi đăng ký khám bệnh, lãnh thuốc dùm anh và gởi về qua xe khách.

Chuyện thứ chín

Anh bị cường giáp, suy tim, uống thuốc liên tục gần một năm nay. Nhắc anh thử máu kiểm tra chức năng tuyến giáp, tim mạch, anh hẹn lần lữa vì không đủ tiền ( lý do này về sau tôi đoán biết ). Thử máu xong, nhận toa thuốc, anh nán lại tôi hỏi chuyện. Hai vợ chồng thiếu 300.000 đồng mua đậu đường bán chè, hỏi vay tiền thì bị buộc vay đủ 500.000 đồng, bắt phải trả 100.000 đồng tiền lời mỗi tháng. Người ta hẹn anh tối nay đến lấy tiền vay…

Chuyện thứ muời

Riêng anh không là bệnh nhân của tôi. Mùng 4 Tết năm đó tôi đi viếng Đất Thánh Tân Ngãi, ghé thăm Nhà Thờ Fatima Vĩnh Long. Tôi lang thang, bách bộ về nhà. Tôi nhác thấy anh lê lết, đôi chân teo quắt, hai bàn tay xỏ đôi dép kẹp rướn người chậm rãi đi mà như bò dưới ánh nắng gay gắt ban trưa. Tôi quay lại hỏi cặn kẽ về anh. Anh tên Bé, quê Trà Ôn, bỏ xứ lên Vĩnh Long lang thang bán vé số. Hơn tháng sau anh nhận chiếc xe lắc Kiến Tường trong niềm vui bất ngờ. Cám ơn soeur N. đã tin tôi dù chưa một lần gặp mặt, cám ơn nhà hảo tâm Kiến Tường giúp tôi dù chỉ nói chuyện qua điện  thoại. Cám ơn cha Sở Fatima Vĩnh Long vất vả tìm anh, rao trong Nhà Thờ như rao hôn phối, nhờ đó Giáo Dân dò tìm ra địa chỉ anh ở trọ.

Bệnh nhân của tôi khốn khó như vậy thì làm sao tôi dửng dưng cho được ! Trong cuộc sống tôi tự nhủ, nhắc nhở mình nhìn xuống. Nhìn xuống, nhìn xuống, cúi xuống thấp hơn, thấp hơn nữa để thấy những mảnh đời tơi tả, để mở chút lòng nhân ái, bao dung. Tôi giúp bệnh nhân không hề tính toán, có khi rất kín đáo – bệnh nhân không hề biết toa thuốc, tiền làm cận lâm sàng đã có người thanh toán mọi chi phí…

Thật là mâu thuẫn… khi tôi định sắm sửa cho mình, tôi cân nhắc từng li từng tí nhưng khi cho bệnh nhân tôi chẳng nghĩ ngợi điều gì ! Người nghèo ngay trước mặt tôi, người nghèo nhan nhản nơi tôi ở… Mỗi người có cách riêng tùy điều kiện và khả năng giúp họ, thì xin ai đó đừng buộc người khác đóng góp theo cách của mình ! Xin hãy mở lòng ra với mọi người…

Bs. THANH THỦY

 

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
HOA KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam, là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá , dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lam Kim Trong goi

Tướng Thanh bị chỉ trích vì gọi Trung Quốc là ‘bạn’

Tướng Thanh bị chỉ trích vì gọi Trung Quốc là ‘bạn’
Sunday, June 01, 2014

Nguoi-viet.com
SINGAPORE (NV) – Nhiều người bày tỏ sự thất vọng và phẫn nộ khi ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam gọi Trung Quốc là “bạn” và so sánh xung đột chủ quyền Việt-Trung như “mâu thuẫn gia đình.”

Ðại Tướng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Diễn Ðàn Shangri-La, Singapore. (Hình: Roslan Rahman/AFP/Getty Images)

Trong diễn văn tại Diễn Ðàn Shangri-La ở Singapore, ông Thanh nói rằng: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Cũng theo ông Thanh, “trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.”

Một blogger có nickname là “Cầu Nhật Tân” nhận định, phát biểu của ông Thanh đã đưa Hoa Kỳ và Nhật vào “thế việt vị.”

Trước đó, cũng tại diễn đàn này, diễn ra rong ba ngày, từ 30 Tháng Năm đến 1 Tháng Sáu, ông Chuck Hagel, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, công khai cáo buộc Trung Quốc gây bất ổn ở biển Ðông và xem vụ giàn khoan 981 là hành động đe dọa quá trình phát triển của khu vực. Ông Hagel nhấn mạnh, Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ khi có quốc gia khác coi thường luật pháp quốc tế.

Trước ông Hagel, với tư cách một diễn giả chính của diễn đàn, ông Shinzo Abe, thủ tướng Nhật, khẳng định Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực bảo đảm an ninh vùng biển và bầu trời, duy trì tự do hàng hải và tự do hàng không của các quốc gia ASEAN.

Ông Abe nhấn mạnh, tất cả các quốc gia phải tôn trọng luật pháp quốc tế. Cụ thể là các tuyên bố về chủ quyền trên biển phải dựa vào luật lệ quốc tế. Không quốc gia nào có thể dùng vũ lực hay hăm dọa để khẳng định chủ quyền. Tranh chấp về chủ quyền trên biển phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình.

Ở diễn đàn tại Singapore lần này, Việt Nam cử Ðại Tướng Phùng Quang Thanh dẫn đầu một phái đoàn gồm 20 viên chức tham dự. Ông Thanh là đại biểu duy nhất gọi Trung Quốc – bên tạo ra tình trạng căng thẳng do đòi chủ quyền gần như trên toàn bộ biển Ðông, khiến cộng đồng quốc tế lo ngại – bằng cụm từ “nước bạn láng giềng.”

Thay mặt chính quyền Việt Nam, ông Thanh “đề nghị Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước.”

Theo truyền thông Việt Nam, trong ngày 31 Tháng Năm, khi ông Thanh đang phát biểu ở Singapore, “nước bạn láng giềng” của ông Thanh đã gia tăng tấn công các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Lợi dụng ưu thế về kích thước, tàu cảnh sát biển mang số hiệu 3401 của “nước bạn láng giềng” đã đâm vào tàu cảnh sát biển mang số hiệu 8001 của Việt Nam sáu lần. Phóng viên của tờ Lao Ðộng cho biết, cũng trong ngày 31 Tháng Năm, một tàu vận tải lớn của “nước bạn láng giềng” đã cặp giàn khoan 981 để cung cấp thêm mọi thứ cần thiết cho giàn khoan này tiếp tục hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (G.Ð.)