Thời điểm để lãnh đạo VN thay đổi tư duy?

Thời điểm để lãnh đạo VN thay đổi tư duy?

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-05-23

000_Hkg9817100-600.jpg

Tàu hải giám Trung Quốc (màu trắng, phía sau) ngay sát tàu Việt Nam trên Biển Đông hôm 14/5/2014

AFP photo

Cơ hội cho Việt Nam?

Sự kiện giàn khoan Trung Quốc chiếm lĩnh vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2 tháng Năm là cơ hội cho Việt Nam tranh thủ hậu thuẫn trên mặt trận ngoại giao, đồng thời cũng là cơ hội để giới lãnh đạo thay đổi cái não trạng, cái tư duy về nước bạn 16 chữ vàng 4 tốt này.

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nguyên trưởng Nhóm Tư Vấn Lãnh Đạo Bộ Ngoại Giao Việt Nam, hiện là thành viên của tổ chức Minh Triết Làm Chủ Biển Đông, khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với phóng viên Thanh Trúc. Ông cho biết thêm:

TS Đinh Hoàng Thắng: Rõ ràng từ một tuần nay, trên mặt trận ngoại giao, không riêng Việt Nam mà cả Trung Quốc cũng thế.

Đầu tiên là đại sứ Trung Quốc lên CNN để xuyên tạc và bôi nhọ Việt Nam như thế nào thì tin tức quốc tế đã đưa rồi. Phó đại sứ Trung Quốc ở Indonesia cũng lên truyền thông viết bài đã kích Việt Nam như thế nào. Cái mà Trung Quốc tập trung trên mặt trận dư luận trong tuần qua là biến mình từ một tác nhân gây chuyện thành một nạn nhân, đặc biệt lấy cớ là có những vụ biểu tình đập phá để biến mình thành nạn nhân.

“Cái biểu hiện ra bề ngoài như một đường lối một chủ trương như vậy là cái rất mới, thể hiện lập trường của Việt Nam ngày càng tăng lên so với cái vi phạm của Trung Quốc.
-TS Đinh Hoàng Thắng”

Việt Nam thì nhân chuyện thủ tướng đi sang Philippines ông đã có bài phát biểu rất cương quyết rất thẳng thắn và đã lên án Trung Quốc khá nặng. Tất nhiên đây không phải lần đầu tiên bởi vì ở ASEAN thì ông cũng đã nói nhưng mà ở Philippines thì cường độ nặng hơn và rõ ràng hơn. Thế rồi ngoại trưởng Việt Nam cũng vừa điện đàm với ngoại trưởng Mỹ và nội dung điện đàm được hai bên công khai là phía Việt Nam hưởng ứng yêu cầu của phía Mỹ muốn tăng cường những cuộc thăm của các hạm đội hải quân Mỹ ở các cảng biển của Việt Nam.

Tất cả những biểu hiện ấy cho thấy trên mặt trận ngoại giao từ thủ tướng đến phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng đã có những hoạt động rất tích cực để không chỉ tố cáo và xiển dương chính nghĩa mà với Hoa Kỳ cũng đã có sự phối hợp hành động.

Thanh Trúc: Thưa tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, có phải ông muốn nói sự kiện giàn khoan Trung Quốc, nay ở ngay trong vùng biển Việt Nam, buộc giới lãnh đạo phải thay đổi cách nghĩ và phải tìm ra chính sách đối phó hữu hiệu hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Tôi muốn nói cái mọi người có thể thấy rõ nhất là những biểu hiện công khai. Lần lượt tất cả những vị đứng đầu đảng, nhà nước, quốc hội đều có tuyên bố rõ ràng về vấn đề lên án và phê phán Trung Quốc. Kể cả ông chủ tịch nước lẫn ông thủ tướng đều lần đầu tiên khẳng định Việt Nam có thể tính đến khả năng đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế. Cái biểu hiện ra bề ngoài như một đường lối một chủ trương như vậy là cái rất mới, thể hiện lập trường của Việt Nam ngày càng tăng lên so với cái vi phạm của Trung Quốc mà không có thay đổi gì cả.

Còn gọi thế nào là đủ thì cái này cũng khó. Chúng ta thật ra cũng chưa biết ý đồ sâu xa của Trung Quốc là còn dấn lên tới đâu nữa.

Được đằng chân, lân đằng đầu

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng quan sát các binh sĩ Việt Nam vận hành hệ thống điều khiển tên lửa phòng không S-300 do Nga chế tạo, trong chuyến thăm tiểu đoàn tên lửa phòng không 64 thuộc sư đoàn phòng không 361 đóng tại Hà Nội , hôm 13/01/2014.

Thanh Trúc: Nhiều người nghĩ Trung Quốc được đằng chân sẽ lân đằng đầu, ngoài mặt trận ngoại giao như ông nói thì Việt Nam còn có thể làm gì hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Chúng ta không nên nhìn việc hạ đặt giàn khoan 981 như một hiện tượng đơn lẻ mà phải nhìn nó trong một chuỗi các hành động, một bước trong hàng loạt các chính sách mà mục tiêu cao nhất là để Trung Quốc xóa nhòa trước dư luận thế giới về việc Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, biến mình từ một kẻ đi gây sự thành một nạn nhân. Đó là đường lối rất nhất quán của Trung Quốc và phải nói họ có nhiều việc làm để hỗ trợ cho cái đó.

Như vậy về phía Việt Nam vũ khí ở đây là gì? Trước mắt cho đến nay mà nói hành động quân sự là chưa thể tính đến. Mặc dầu có những người trách nhiệm trong chính quyền cũng nói rằng Việt Nam sẽ tận dụng mọi phương tiện mọi biện pháp để giải quyết vấn đề này, chứ còn vấn đề độc lập dân tộc, vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề biển đảo là không thể đem ra đổi chác, không thể có một nhân nhượng nào hết. Tôi thấy như vậy là quyết tâm của lãnh đạo Việt Nam rất cao.

Thanh Trúc: Xin ông đừng quên là trước giờ nhà nước Việt Nam không cho phép người dân biểu tình chống Trung Quốc. Mặt khác, ông thấy những cuộc biểu tình biến thành bạo loạn ngày 13 và 14 liệu có gây khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam không?

“Trong cái rủi có cái may, dầu sao đây cũng là cái để Việt Nam nhìn lại, còn làm đến mức nào thì còn tùy thuộc vào nhiều biến số khác.
-TS Đinh Hoàng Thắng”

TS Đinh Hoàng Thắng: Việc gây bạo loạn thì cái đó cho tới bây giờ mọi người Việt Nam, tôi nghĩ người Việt Nam bên ngoài người ta cũng biết, rằng đây không phải là những người trong hàng ngũ biểu tình, lại càng không phải là những người Việt Nam yêu nước. Là vì những vụ biểu tình vừa rồi tôi cũng có tham gia thì tôi biết người ta đi rất có trật tự rất có ý thức chứ không ai lại đi đập phá để riot (bạo loạn) như vậy cả. Đây chắc chắn là có những hành động mờ ám, có những bàn tay tổ chức. Ai thì chắc chắn cơ quan an ninh của Việt Nam biết, vấn đề là người ra có đưa ra xử hay không thì tôi không biết. Tôi chắc chắn những người này không phải là những người yêu nước và như vậy họ đang tiếp tay cho Trung Quốc. Từ việc hạ đặt giàn khoan, từ việc có những hành động bạo loạn trong nước dẫn đến chuyện Trung Quốc rút người rồi rút công ty về, thì cái này họ muốn gây một hình ảnh xấu trước quốc tế về Việt Nam là một đất nước không ổn định, một đất nước thích bạo lực, thích đập phá.

Như vậy, về mặt âm mưu của Trung Quốc thì không thể kể xiết được. Việt Nam đã là nạn nhân nhiều năm trước đây, hàng ngày ngư dân Việt Nam vẫn bị đập phá bị chèn ép bị hăm dọa ở trên biển. Cho nên cũng không ngạc nhiên khi nghe tin Trung Quốc tập trung quân ở biên giới.

Thế còn có gây khó khăn cho kinh tế Việt Nam không thì đương nhiên. Về mặt phát triển kinh tế thì rõ ràng nền kinh tế của Việt Nam quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong cái rủi có cái may, dầu sao đây cũng là cái để Việt Nam nhìn lại, còn làm đến mức nào thì còn tùy thuộc vào nhiều biến số khác.

Thanh Trúc: Ông cho rằng trong cái rủi có cái may, xin ông nói rõ hơn?

TS Đinh Hoàng Thắng: Theo tôi việc Trung Quốc đặt giàn khoan có nhiều vấn đề mới. Đây là lúc các nhà lãnh đạo các nhà quản lý của Việt Nam phải nhìn nhận lại vấn đề để mình sau này có cân đối cân bằng trong phát triển. Còn đúng là nếu cứ theo cái đà này thì Trung Quốc bất cứ lúc nào cũng có thể gây khó khăn.

Đối với Việt Nam không phải chỉ vấn đề biểu tình như chị nói đâu, nó đặt ra vấn đề quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ nay phải được nhìn nhận dưới một góc độ khác. Nó sẽ ít tính cách tuyên truyền mà tiếng Anh gọi là “get to the point” là nó phải đi vào cái nội dung của nó, đi vào cái thực chất của nó. Tôi cho đây là một cái tốt bởi vì cách đây mấy năm khi Trung Quốc hăm dọa, đe dọa tàu thuyền của ngư dân ngoài biển thì báo chí Việt Nam chỉ được đưa rằng đây là tàu lạ, nước lạ. Nhưng ngược lại bây giờ thì báo chí lại nói công khai là âm mưu bành trướng, âm mưu xâm lược, âm mưu độc chiếm biển Đông. Tôi nói trong cái rủi có cái may là vì Trung Quốc làm thế tự nhiên nó được giải phóng, ở một mặt nào đó người Việt cái chuyển cái nhận thức.

Một vấn đề nữa là ngay trong nhận thức sâu xa của người dân, trong nhận thức sâu xa của lãnh đạo, người ta phải thấy rằng không thể quét cái đống rác vào dưới cái tấm thảm mãi được mà đến lúc phải gọi sự việc đúng tên của nó. Đây là thời điểm, đây là bước ngoặt để từ người dân đến nhà lãnh đạo thay đổi cái não trạng, thay đổi cái tư duy.

Thế còn biểu tình thì nó là chuyện tự nhiên trong một xã hội dân sự, tất nhiên Việt Nam hiện nay chưa hoàn toàn là một xã hội dân sự nhưng mà nó phải tiến đến đó sớm hay muộn. Chính những hành động của Trung Quốc vừa rồi mở ra nhiều khả năng, mở ra nhiều giải pháp, mở ra nhiều cái tư duy để cho con người được suy nghĩ được hành động một cách khác nhau vì mục đích cao cả nhất là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng.

httpv://www.youtube.com/watch?v=imiGacXwA4Y

Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị

Việt Nam chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị

Thanh Phương

Sau nhiều năm im lặng, mãi đến những năm gần đây, chính quyền Việt Nam mới lên tiếng giải thích về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng lần đầu tiên, Hà Nội vừa chính thức tuyên bố công hàm đó là vô giá trị, tức là không hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng, mà nhiều người gọi là « công hàm bán nước », đã được đưa ra trong bối cảnh như thế nào ? Ngày 04/09/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố với quốc tế quyết định của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam).

Sau đó, ngày 14/09/1958, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói trên của chính phủ Trung Quốc và “sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.

Từ đó cho đến nay, đối với Bắc Kinh, bức công hàm nói trên của Thủ tướng Việt Nam là đồng nghĩa với việc Hà Nội thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thật ra, từ lâu, nhiều chuyên gia đã phân tích rõ là công hàm Phạm Văn Đồng chẳng có giá trị nào về mặt pháp lý trên vấn đề chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, bởi một lý do đơn giản là hai quần đảo này vào thời đó thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong bài báo ngày 20/07/2011, tờ Đại Đoàn Kết cũng đã công nhận rằng vào thời điểm năm 1958, Hoàng Sa và Trường Sa “tạm thời thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa” và chính phủ này “đã liên tục thực thi” chủ quyền trên hai quần đảo đó và đặc biệt đã quyết liệt chống trả sự xâm lược của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Hơn nữa, vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền trên hai quần đảo này.

Nhưng đó chỉ mới là ý kiến của một tờ báo chính thức, được đăng tải vào lúc đó để xoa dịu dư luận, không chỉ đang phẫn nộ về những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, mà còn rất bất bình trước hành động đàn áp người biểu tình phản đối Trung Quốc. Nay, trong bối cảnh Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, lần đầu tiên chính phủ Hà Nội chính thức tuyên bố công hàm đó là không hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong cuộc họp báo quốc tế hôm qua, 23/05/2014 ( lần thứ ba kể từ đầu vụ giàn khoan HD-981 ), phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Trần Duy Hải đã nhắc lại lập luận rằng công hàm ( mà ông gọi là công thư ) Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi lẽ hai quần đảo này lúc đó nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, được Pháp giao lại vào năm 1956, phù hợp với Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc có tham gia.

Việt Nam đã phải chính thức tuyên bố công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị trong bối cảnh mà chính phủ Hà Nội đang cố vận động sự ủng hộ của quốc tế bằng cách nêu rõ những cơ sở pháp lý và lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Việt Nam.

Hà Nội cũng đang xem xét việc khởi kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế. Trong cuộc họp báo quốc tế hôm qua, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.

Những sự mất mát từ Biển Ðông

Những sự mất mát từ Biển Ðông

  • VOA

Nguyễn Hưng Quốc

22.05.2014

Cuộc tranh chấp ở Biển Đông, xoay quanh việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 đến khu vực thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, chưa biết sẽ dẫn đến đâu. Tuy nhiên, hiện nay, người ta đã thấy rõ một số khá lớn những sự mất mát.

Mất mát đầu tiên, thuộc về chính quyền Việt Nam, là uy tín về khả năng đối phó với hiểm họa xâm lấn biển và đảo của Trung Quốc. Từ cả chục năm nay, một số khá đông giới trí thức Việt Nam đã nhận ra sai lầm của nhà cầm quyền Việt Nam trong các chính sách liên quan đến Trung Quốc, chủ yếu tập trung vào khẩu hiệu Bốn Tốt và phương châm 16 Chữ Vàng. Nhưng chính quyền vẫn bất chấp những lời phê phán và cảnh báo ấy. Nhiều người vẫn cứ tin chính phủ. Tin một cách mù quáng, nhưng vẫn tin. Bây giờ, khi tranh chấp nổ lớn, giới quan sát quốc tế, trên các tờ báo lớn, đều nhận thấy rõ là chính quyển Việt Nam hoàn toàn lúng túng, không biết đối phó ra sao cả. Sự lúng túng ấy cho thấy, lâu nay, mặc dù được nhiều người cảnh giác, họ vẫn ngây thơ hoặc lì lợm không tin và do đó, không chuẩn bị trước một chiến lược nào cho nhất quán và hiệu quả. Sự lúng túng ấy, như tôi đã từng phân tích trong bài “Trung Quốc đã thắng trên Biển Đông”, là một sự thua cuộc. Thua ngay từ ván đầu.

Mất mát thứ hai, thuộc lãnh vực kinh tế, qua các cuộc xuống đường bạo động của các công nhân Bình Dương và Hà Tĩnh khiến nhiều nhà máy và công ty bị đập phá, hôi của, hoặc phải đóng cửa. Trước mắt, các cuộc bạo loạn này sẽ dẫn đến ba cái hại: Một, số công nhân thất nghiệp sẽ gia tăng; hai, số nhà máy và công ty cần một thời gian mới phục hồi lại nhịp điệu sản xuất như trước; và ba, nhiều công ty và nhà máy của Trung Quốc sẽ ngần ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam. Điều này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới. Khi sự phát triển chậm lại, gánh nặng sẽ oằn lên, trước hết, trên đôi vai của giới thợ thuyền.

Nhưng mất mát thứ ba này, theo tôi, là quan trọng nhất: dân chủ và nhân quyền có nguy cơ bị đe dọa nặng nề.

Khi cuộc tranh chấp mới bùng nổ, chính quyền tự đứng ra tổ chức và cho phép một số nhóm xã hội dân sự tổ chức xuống đường biểu tình chống Trung Quốc tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Ngỡ như từ đó, chính quyền sẽ dần dần hợp pháp hóa các cuộc biểu tình chống ngoại xâm của dân chúng. Nhưng có vẻ như không phải. Sau các cuộc bạo loạn của các công nhân ở Bình Dương và Hà Tĩnh, nhân danh việc tái lập trật tự và an toàn xã hội, chính quyền ra tay bắt bớ những người họ cho là đứng sau lưng xúi giục quần chúng. Và, quan trọng hơn, tăng cường sự theo dõi đối với những người vốn thường xuyên mang tư tưởng chống Trung Quốc. Trên facebook, mấy ngày vừa qua, khá nhiều người cho biết chung quanh nhà của họ lúc nào cũng đầy nhóc công an và an ninh khu vực canh giữ cả ngày lẫn đêm. Họ đi đâu cũng có người bám theo sau. Mức độ theo dõi, như vậy, nghiêm trọng hơn hẳn trước đây. Chúng ta không thể loại trừ khả năng, sắp tới, có thể sẽ có một số người bị bắt với lý do xúi giục dân chúng bạo loạn.

Hầu như đã thành quy luật trong sinh hoạt chính trị trên thế giới từ trước đến nay: Khi đất nước đối diện với đe dọa từ bên ngoài, cái bị bóp chết đầu tiên chính là dân chủ và nhân quyền. Điều đó xuất phát từ hai nguyên nhân chính: Một, trong văn hóa chiến tranh, quần chúng thường có khuynh hướng tạm gác lại các bất đồng và tinh thần phản kháng để tập hợp chung quanh chính quyền. Tinh thần phê phán thường bị thay thế bởi tinh thần phục tùng. Kẻ thù càng lớn, nguy hiểm càng nhiều, người dân càng dễ quay về với chính phủ để chờ đợi mệnh lệnh. Hai, các chính phủ cũng thường lợi dụng văn hóa chiến tranh ấy để củng cố quyền lực của mình và loại trừ dần những kẻ đối lập hoặc bất đồng chính kiến trong xã hội.

Một trong những luận điểm nhà cầm quyền thường đưa ra nhiều nhất là: Để bảo vệ độc lập và chủ quyền, cần, trước hết, đánh thắng kẻ thù; muốn đánh thắng kẻ thù, cần sự đoàn kết; để đoàn kết, mọi người phải ủng hộ chính quyền; và để ủng hộ chính quyền, mọi người phải tự hy sinh những sự khác biệt về quan điểm, hay rộng hơn, tư tưởng; nói cách khác, hy sinh tự do. Và khi mỗi người tự hy sinh tự do của mình, cả nước sẽ hy sinh dân chủ.

Các luận điểm, nghe, có vẻ có lý, nhưng vì tính chất “có vẻ có lý” ấy, chúng trở thành nguy hiểm. Lý do: mọi người phải ngoan ngoãn đứng sau lưng chính phủ, nhưng nếu chính phủ sai thì sao? Hoặc, ngay cả khi chính phủ không hoàn toàn sai nhưng họ lại lợi dụng điều ấy cho các mưu đồ độc tài và trục lợi cho riêng họ thì sao? Một ví dụ rất rõ: Từ khi vụ tranh chấp chung quanh giàn khoan HD-981 bùng nổ, người được hưởng lợi đầu tiên có lẽ là bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế. Trước, bà bị phê phán gay gắt vì cả sự bất lực lẫn sự vô cảm trước sự xuống cấp của ngành y tế, và nhất là, trước sự lan tràn của bệnh sởi. Bây giờ, hầu như không ai quan tâm đến những vấn đề ấy nữa. Ngay cả khi có thêm vài chục hay vài trăm trẻ em bị chết vì dịch bệnh ấy, người ta cũng không quan tâm: Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía Biển Đông.

Đó là lý do tại sao, trên khắp thế giới, từ trước đến nay, tất cả các chế độ độc tài đều muốn chiến tranh: Họ dùng chiến tranh bên ngoài để trấn áp người dân trong nước. Chắc chắn chính quyền Việt Nam đã học và ứng dụng bài học ấy, không phải bây giờ, mà từ cả sáu, bảy chục năm qua.

Với những kẻ nhẹ dạ, luận điệu ấy dường như có sức thuyết phục lớn. Sau năm 1975, có lúc có người đổ trách nhiệm làm mất miền Nam cho những người hay lên tiếng chống lại chính quyền. Hiện nay, không ít người cũng hăm he như thế với kiểu nghĩ: trong cuộc đấu tranh chống lại Trung Quốc, không những mọi sự phê phán nhắm vào chính quyền có hại mà bất cứ ý kiến đượm vẻ hoài nghi nào cũng đều có tác dụng tiêu cực: Chúng làm nản lòng mọi người để người ta chấp nhận thua cuộc ngay cả trước khi thực sự chiến đấu.

Chưa biết có đánh nhau hay không và chưa biết ai thua ai thắng nhưng hai nạn nhân đầu tiên đã xuất hiện: dân chủ và nhân quyền.

 

Việt Nam cứu xét ‘giải pháp quốc phòng’ vụ TQ hạ đặt giàn khoan

Việt Nam cứu xét ‘giải pháp quốc phòng’ vụ TQ hạ đặt giàn khoan

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng

23.05.2014

Việt Nam đang cứu xét giải pháp đưa Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế để giải quyết cuộc tranh chấp đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn về các vùng biển đang trong vòng tranh chấp giữa hai nước ở Biển Đông.

Báo Financial Times dẫn lời ông Ernie Bowers, một chuyên gia về các vấn đề Á Châu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS), đánh giá khả năng Hà nội sẽ theo chân Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Quốc tế tại La Haye, là có xác suất 75% sẽ xảy ra.

Ông Bowers là người quen thuộc với cuộc tranh luận ở Việt Nam về liệu có nên tiến hành giải pháp pháp lý chống Trung Quốc hay không.

Cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông đã âm ỉ từ nhiều năm qua, nhưng căng thẳng tăng cao đáng kể trong 3 tuần qua, sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan nước sâu khổng lồ vào Biển Đông, và lần đầu tiên khởi sự khoan dầu trong vùng biển mà Việt Nam cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vì chỉ cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý.

Hôm nay truyền thông báo chí do nhà nước Việt Nam kiểm soát, dường như muốn đẩy mạnh phương án này. Trang bienphong.com đăng bài viết với hàng tít “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để kiện Trung Quốc.” Trang mạng này dẫn lời Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ khẳng định như vừa kể.

Ông Trục nói rằng nếu Hà nội không cương quyết ngăn cản bước leo thang của Trung Quốc lần này, thì nó sẽ tạo ra một tiền lệ để Trung Quốc sau này tiến sát vào bờ biển Việt Nam và các quốc gia khác trong vùng để khai thác dầu khí. Ông Trần Công Trục cho rằng vụ hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một cuộc “xâm lược mềm”, rất nguy hiểm và rất khó đối phó.

Hơn 100 tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc đang trong tình trạng đối đầu căng thẳng gần giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong vùng lãnh hải Việt Nam.

Hãng tin Reuters tường thuật, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nói chính phủ của ông đang cứu xét một loạt “giải pháp quốc phòng” khác nhau chống Trung Quốc, kể cả giải pháp pháp ly, sau khi Bắc Kinh di chuyển giàn khoan dầu vào các vùng biển đang trong vòng tranh chấp với Việt Nam ở Biển Đông.

Quyết định của Việt Nam theo chân Philippines đưa cuộc tranh chấp ra trước Tòa Án Trọng Tài quốc tế sẽ làm Bắc Kinh giận dữ. Trung Quốc vẫn muốn giải quyết tranh chấp qua các cuộc thương thuyết song phương, nhưng một số nước ASEAN, nhất là Philippines, tin rằng quốc tế hóa cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc là giải pháp duy nhất đối với các nước nhỏ trong cuộc đối đầu ở Biển Đông.

Trả lời một cuộc phỏng vấn do Reuters thực hiện qua email hôm thứ Năm, ông Nguyễn Tấn Dũng gạt giải pháp quân sự sang một bên.

Trả lời câu hỏi của phóng viên Reuters, rằng liệu Việt Nam có nghĩ tới việc giải quyết những căng thẳng bằng các phương tiện quân sự. Ông Nguyễn Tấn Dũng viết:

“Quý vị hỏi về các biện pháp quân sự à. Không, Việt Nam đã chịu đựng quá nhiều gian khổ và mất mát do các cuộc chiến xâm lược gây ra trong quá khứ rồi. Chúng tôi chỉ mong muốn có hòa bình và hữu nghị để xây dựng và phát triển đất nước.”

Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam sẽ không bao giờ là nước khởi sự một cuộc đối đầu quân sự, trừ phi bị buộc vào thế phải tự vệ.

Tuy nhiên ông Nguyễn Tấn Dũng lập lại quyết tâm sẽ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, kể cả chủ quyền các vùng lãnh hải và biển đảo, là quyền thiêng liêng.

Nhưng mặt khác, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào chống một nước khác.

Trong khi đó, Hoa Kỳ đã dùng những từ ngữ cứng rắn và quyết liệt hơn khi nói đến cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Ông Kurt Campbell, từng là nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ đặc trách vùng Đông Á, nói rằng Hoa Kỳ đã quyết định đi theo một hướng tiếp cận mạnh mẽ hơn về cái gọi là đường 9 đoạn tại Biển Đông, vạch ra vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền ở Biển Đông, bởi vì ASEAN ngày càng bực dọc hơn về tình trạng thiếu tiến bộ trong các cuộc đàm phán với Bắc Kinh.

Tuần trước, ông Lê Lương Minh, Tổng thư ký ASEAN, kêu gọi Trung Quốc hãy rời các vùng biển của Việt Nam để xoa dịu cuộc khủng hoảng ở quần đảo Hoàng Sa. Lời phát biểu của Tổng thư ký ASEAN đã khơi lên một phản ứng mạnh từ Bắc Kinh, nói rằng ông Lê Lương Minh đã “làm ngơ sự thật, vi phạm lập trường trung dung của ASEAN, và đơn phương đánh đi những tín hiệu sai lạc.”

Ngoại trưởng Việt Nam sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ về Biển Đông

Ngoại trưởng Việt Nam sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ về Biển Đông
Friday, May 23, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Phạm Bình Minh sẽ gặp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry để “trao đổi nhiều vấn đề,”phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN xác nhận như vậy hôm 23 tháng 5, 2014.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry bắt tay ngoại trưởng CSVN Phạm Bình Minh khi hai người mở họp báo chung ở Hà Nội ngày 16/12/2013. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Trong cuộc họp báo ở Hà Nội hôm Thứ Sáu, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN Lê Hải Bình xác nhận rằng “hai bên đang sắp xếp thời gian đảm bảo phù hợp nhất” mà lý do chính yếu được hiểu là các bối rối của Việt Nam cần đồng minh trong việc đối phó khó khăn ở thế yếu với Trung Quốc. Tuy nhiên, không thấy nói hai ông ngoại trưởng sẽ gặp nhau ở đâu.

Khi được hỏi nội dung cuộc họp sẽ được chuẩn bị, ông Lê Hải Bình cho hay ngoài những vấn đề song phương và khu vực “tất nhiên sự việc Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam sẽ được nhắc đến.”

Hôm 21 tháng 5, 2014, ông Phạm Bình Minh có cuộc điện đàm với ngoại trưởng Mỹ John Kerry vào lúc tình hình căng thẳng giữa Việt Nam và Trung quốc vẫn diễn ra ở khu vực giàn khoan HD981 trong vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Luật Biển.

Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) tường thuật cuộc điện đàm cho biết, ông Phạm Bình Minh đã “thông báo (với ông Kerry) về những diễn biến mới nhất liên quan đến việc Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; cho biết Trung Quốc liên tục gia tăng số lượng tàu, trong đó có tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh và tàu đổ bộ lớn… khiến tình hình rất căng thẳng.”

Ông Phạm Bình Minh được tường thuật “Khẳng định Việt Nam đã hết sức kiềm chế, kiên trì thông qua đối thoại, tránh xung đột, đồng thời kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu hộ tống khỏi khu vực vì đây là hành động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, đe dọa ổn định, an toàn trên biển, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.”

Theo hãng tin AP, nói chuyện với Ngoại trưởng CSVN, ông John Kerry “bầy tỏ quan ngại về những hành động khiêu khích của Trung Quốc khi đem dàn khoan và rất nhiều tàu bảo vệ tới vùng biển tran hchấp với Việt Nam. Vì vậy đã tạo ra căng thẳng ở khu vực và dẫn tới các vụ bạo động nhắm vào các hãng xưởng ngoại quốc tại Việt Nam.”, theo lời bà phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Jen Psaki.

Theo lời bà Psaki thuật lại, ông Kerry khuyến cáo hai bên nên kềm chế để làm giảm cường độ căng thẳng, bảo đảm cho tàu bè qua lại và giải quyết các tranh chấp xuyên qua các biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế. Cách đây ít ngày, Ngoại trưởng Mỹ cũng đã lên ánh hành động Trung quốc đem giàn khoan HD981 tới vùng biển tranh chấp với Việt nam là “khiêu khích” và là nguyên nhân của sự căng thẳng.

Trong cuộc họp báo ở Bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Psaki nói ông Kerry mời ông Phạm Bình Minh đến Washington DC “để tham khảo một loạt rộng rãi về các vấn đề song phương và khu vực vốn là một phần của thỏa thuận Đối tác Toàn diện giữa hai nước”.

Nhiều nhà phân tích thời sự quốc tế cho rằng Việt Nam đang cảm thấy cô đơn vì không có một đồng minh nào khi phải đối phó với một nước Trung Quốc to lớn, hùng mạnh kinh tế và quân sự và càng ngày càng lộ rõ tham vọng bá quyền bành trướng.

Một số nhà phân tích thời sự cũng cho rằng khi Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn, có thể sẽ được Washington bãi bỏ lệnh cấm bán võ khí sát thương. Đây là điều các lãnh đạo Việt Nam khi gặp các giới chức cao cấp Hoa Kỳ đều kêu ca nhưng đến nay vẫn chưa thấy phía Mỹ nhúc nhích. Một trong những điều kiện được đặ ra là Việt Nam phải cải tiến nhân quyền mà điều này cũng không thấy Hà Nội nhúc nhích, nếu không muốn nói mỗi ngày một tệ hại hơn.

Khi đến Việt Nam hồi giữa Tháng 12 năm ngoái, Ngoại trưởng Mỹ loan báo chương trình viện trợ gần 40 triệu USD cho một số nước Đông Nam Á trong đó có 18 triệu đô la giúp Việt Nam mua 5 tàu tuần tra biển cỡ nhỏ. Tuy nhiên, cái mà Việt Nam đang muốn từ Mỹ là các máy bay tuần tra biển Orion P-3, các dàn radar và nhiều thứ khác. (TN)

 

Tình hữu nghị” nay là hiểm họa của kinh tế Việt Nam

Tình hữu nghị” nay là hiểm họa của kinh tế Việt Nam
Friday, May 23, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .-Mâu thuẫn về chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng có thể sẽ là lý do khiến Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế, khiến kinh tế Việt Nam suy sụp.

Cửa khẩu Móng Cái. Mở rộng cửa để nhập cảng đủ thứ từ Trung Quốc, dễ dãi trong việc tiếp nhận đầu tư, nhà thầu từ Trung Quốc, khiến kinh tế Việt Nam càng ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và nay, sự lệ thuộc đó trở thành nguy cơ khiến nền kinh tế có thể bị suy sụp. (Hình: Báo Quảng Ninh)

Đó là điều đang khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại bởi kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc. Kể từ năm ngoái, các chuyên gia kinh tế ở Việt Nam đã liên tục cảnh báo về sự lệ thuộc Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, sau khi có hàng loạt dữ liệu đáng lo.

Ví dụ, năm 2013, xuất cảng của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ tăng 7% nhưng nhập cảng từ Trung Quốc tăng 28%. Tốc độ gia tăng của nhập cảng từ Trung Quốc gấp 4 lần so với tốc độ xuất cảng và chênh lệch về cán cân thương mại trong quan hệ với Trung Quốc càng lúc càng lớn.

Hồi trung tuần tháng 12 năm 2013, tại một hội nghị bàn về việc thực hiện thỏa thuận thương mại tự do, Bộ Công Thương Việt Nam xác nhận, chỉ trong 10 năm, từ 2001 đến 2012, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng 76 lần, từ 210 triệu USD hồi 2001, thành 16 tỷ USD vào năm 2012.

Tháng 6 năm 2013, sau khi có thống kê cho biết, bốn tháng đầu năm 2013, Việt Nam chi 40.2 tỷ USD cho việc nhập cảng, trong đó có tới 10 tỷ USD chỉ để nhập cảng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, hàng hóa của Trung Quốc. Ông Võ Trí Thành, một chuyên gia kinh tế, khẳng định, điều đó cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liêu của Trung Quốc.

Nếu Trung Quốc ngừng xuất cảng chúng sang Việt Nam, sẽ có hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam hấp hối vì không kịp ứng phó. Lúc đó, ông Thành than rằng, cả khả năng cạnh tranh lẫn công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam quá yếu, vì vậy Việt Nam đang phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc cả về hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.

Nay, những cảnh báo đó có nguy cơ trở thành hiện thực. Trò chuyện với BBC, ông Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách – Phát triển, cho rằng, Việt Nam phải chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất”: Trung Quốc “cắt đứt quan hệ thương mại và đầu tư” do mâu thuẫn về chủ quyền.

Ông Thọ lo ngại là vì: Cán cân thâm hụt thương mại luôn luôn nghiêng về phía Việt Nam, khoảng 20 tỷ Mỹ kim/ năm. Hàng loạt những công trình rất quan trọng về năng lượng, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam do Trung Quốc đầu tư và đảm nhận. Trong thương mại tiểu ngạch giữa hai bên, lợi thế cũng nghiêng về phía Trung Quốc.

Có những dấu hiệu cho thấy “kinh tế ngầm” – do các thế lực giấu mặt điều hành, thực hiện các thương vụ gây tổn hại cho kinh tế, tài nguyên Việt Nam, kết hợp rất chặt chẽ với đối tác Trung Quốc.

Bà Phạm Chi Lan, cựu Phó Chủ tịch Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam, xác nhận, “nếu Trung Quốc đình chỉ quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam, Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn” vì Trung Quốc là phía thực hiện rất nhiều dự án ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc khiến cho các dự án đó không thể tiến hành bình thường thì Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các chương trình phát triển. Chưa kể việc trì hoãn hoàn thành các dự án đó còn gây thêm tốn kém.

Một chuyên gia kinh tế khác tên là Bùi Kiến Thành nói thêm, sự phụ thuộc về nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu vào Trung Quốc sẽ khiến nhiều ngành công nghiệp lớn, sử dụng nhiều nhân công như may mặc, tê liệt nếu Trung Quốc “cắt đứt quan hệ kinh tế”, bởi đa phần vật liệu của những ngành này nhập cảng từ Trung Quốc. Ông Thành lưu ý, Trung Quốc đang đảm nhận việc thi công tất cả những nhà máy điện lớn nhất tại Việt Nam nên phải xem xét chúng ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, kinh tế Việt Nam như thế nào.

Để đối phó với “tình huống xấu nhất”, các chuyên gia kinh tế cho rằng, chính quyền Việt Nam phải sớm có giải pháp phát triển nội lực của doanh giới, xã hội. Xây dựng, củng cố những mối quan hệ khác với các quốc gia trong khu vực, với Nhật, Nam Hàn. Xích lại gần hơn với Liên minh châu Âu (EU). Tìm kiếm sự đồng thuận để trở thành một bên trong Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Ông Phạm Qúy Thọ tin rằng, đó sẽ là một trong những nội dung chính trong cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Việt Nam và Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi ông Phạm Bình Minh đến Hoa Kỳ theo lời mời của ông John Kerry. (G.Đ)

 

Tôi theo đạo Công giáo

Tôi theo đạo Công giáo

Chuacuuthe.com

download

VRNs ( 22.05.2014) – Sài Gòn-  Đức Tin không là chiếc gối êm để tôi ngả lưng tựa vào, mà là năng lực hoạt động của tôi” (Helen Keller).

Tôi viết với ý thức đầy đủ rằng con đường của mỗi người vào Công

giáo đều kỳ diệu, con đường mà người đó phải theo, nhưng ý thức (và biết ơn), người đó có thể ao ước và làm bạn với những người hướng dẫn mình.

Tôi sinh trưởng trong một gia đình Tin Lành, “đi nhà thờ” với cha mẹ ở một ngôi làng nhỏ ở New England.

Ở Hoa Kỳ và tại ĐH Oxford, tôi đọc thơ của thi sĩ Gerard Manley Hopkins và các bài tâm linh của ĐHY John Henry Newman, tôi bắt đầu nhận thấy điều gì đó mà tôi phải gọi là “đói khát tâm linh”. Tôi cũng bị thu hút bởi Giáo hội sơ khai (đặc biệt là Thánh Phaolô), các Giáo phụ, sự hy sinh của các Kitô hữu đầu tiên, và sự chia sẻ của Kitô giáo đã củng cố đức tin của họ, giúp họ nhận biết vinh quang của Đức Kitô.

Đây phải là Giáo hội Công giáo thánh thiện. Các tín điều là giáo lý bất biến, không thể cãi lại. Tôi ấp ủ các điều đó với ý thức rằng tôi được mời gọi để làm vậy. Và tôi phải làm.

Cuộc trở lại của tôi mất nhiều năm, và mãi tới năm 2010 tôi không mới được gia nhập Giáo hội Công giáo, khi tôi đã 70 tuổi. Tôi tĩnh tâm một thời gian dài tại cơ sở của Hội Opus Dei; một linh mục hướng dẫn tôi và trả lời các câu hỏi của tôi, có một câu hỏi liên quan Giáo hội có vẻ “căng” vào lúc đó. Linh mục cố gắng giải thích… Tôi còn nhớ thời gian kéo dài khoảng 60 phút, và tôi nói: “Thưa linh mục, tôi sẵn sàng rồi”. Linh mục nói: “Tôi biết mà. Tôi luôn cầu nguyện cho ông”. Tôi cảm thấy cõi lòng thanh thản.

Tôi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy tại Washington, Lm C. John McCloskey hỏi tôi nhận thánh bổn mạng nào.

Tôi nói: “Thánh Thomas More”. Một giờ sau, một lễ sinh tới hỏi tôi có muốn tham quan trường của nhà thờ không. Tôi đồng ý. Tôi đi theo cậu bé. Thật lạ lùng, trước mặt tôi là một bức tượng đồng: Thánh Thomas More.

Thánh Thomas More là người Anh, sinh ngày 7-2-1478 và mất ngày 6-7-1535, là luật sư, triết gia, tác giả, chính khách, và nhà văn hóa thời Phục Hưng.

Cảm giác rất lạ, tôi không thể diễn tả. Tôi biết Công giáo đúng là Giáo hội thật của tôi.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

JOSIAH BUNTING (*) Tướng về hưu Josiah Bunting là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Hoa kỳ (American Studies Center), thuộc Viện Nghiên cứu (Intercollegiate Studies Institute) và là chủ tịch Hội Harry Frank Guggenheim ở TP New York. Ông đã từng là sĩ quan phục vụ trong quân đội tại Việt Nam và là người quản lý Học viện Quân đội tại Virginia trong 8 năm.

 

Việt Nam họp báo công bố bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa, Trường sa

Việt Nam họp báo công bố bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa, Trường sa

RFA

23.05.2014

NDDD-305.jpg

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Ông Lê Hải Bình phát biểu tại buổi họp báo công bố bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa, Trường sa hôm 23/5 tại Hà Nội.

Courtesy TNO

Việt Nam tổ chức cuộc họp báo quốc tế lần thứ ba về tình hình tại khu vực Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam.

Tin cho biết, cuộc họp báo được bắt đầu từ vào lúc 4 giờ chiều hôm nay. Chủ trì cuộc họp báo có ông Lê Hải Bình, quyền Vụ trưởng Vụ Thông tin báo chí, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam; đại tá Ngô Ngọc Thu, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thanh Hà, hàm vụ trưởng Vụ Luật Pháp Quốc tế Bộ Ngoại giao Việt Nam; ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên Giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam; ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

Nội dung chính của cuộc họp báo quốc tế hôm nay của Việt Nam được cho biết công bố bằng chứng chứng minh Hoàng Sa, Trường sa là của Việt Nam.

Ông Trần Duy Hải, phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam lặp lại tại cuộc họp báo là từ nhiều thế kỷ nay các triều đại phong kiến Việt Nam đã khẳng định chủ quyền một cách hòa bình, liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa. Sau này Pháp thay mặt Việt Nam quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông này cũng nhắc lại việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về chủ quyền biển đảo của các quốc gia sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Vào ngày 7 tháng 5, Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức cuộc họp báo quốc tế lần thứ nhất nói về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam. Ngày 17 tháng 5, cuộc họp báo quốc tế lần thứ hai cũng do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức nói về việc bảo đảm trật tự, trị an tại một đố địa phương trên cả nước, an toàn cho người dân và các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài sau đợt bạo động vào các ngày 13 và 14 tháng 5 tại các khu công nghiệp như ở Bình Dương và Hà Tĩnh.

Tranh chấp biển đảo: Tư lệnh Mỹ tố cáo chiến lược « ăn cả » của Trung Quốc

Tranh chấp biển đảo: Tư lệnh Mỹ tố cáo chiến lược « ăn cả » của Trung Quốc

Đô đốc  Samuel Locklear, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương

Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương

REUTERS

Trọng Nghĩa

Nhân một diễn đàn về an ninh châu Á mở ra hôm nay, 23/05/2014 tại Manila, Tư lệnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương đã nhấn mạnh nhu cầu thỏa hiệp và đối thoại giữa các bên có tranh chấp lãnh thổ tại các vùng biển Châu Á. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền đang căng thẳng giữa Trung Quốc với các láng giềng Việt Nam, Philippines và Nhật Bản tại Biển Đông và Hoa Đông, Đô đốc Samuel Locklear đã lên tiếng cảnh báo chống lại chiến lược được ông gọi là « ăn cả (winner-take-all) » hay là độc chiếm mà nhiều nước cho là Bắc Kinh đang sử dụng.

Là diễn giả trong phiên họp về chủ đề an ninh châu Á trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Thế giới khu vực Đông Á, tổ chức ở Manila, chỉ huy trưởng Hạm đội Mỹ vùng Thái Bình Dương đã thẩm định rằng châu Á đang biến thành một khu vực bị « quân sự hóa mạnh nhất » trên thế giới hiện nay, đồng thời là vùng có tăng trưởng kinh tế rất nhanh. Tình hình đó nêu bật tầm quan trọng của đối thoại để đảm bảo sao cho tranh chấp không dẫn đến xung đột vũ trang.

Sau khi cho rằng : « Điều quan trọng nhất là ý chí tôn trọng các quy định của luật pháp, tham gia các diễn đàn quốc tế để giải quyết các vấn đề và giải quyết tranh chấp… », Đô đốc Locklear kết luận : « Ta không thể có một thái độ người thắng ăn cả. (Giải pháp cho tranh chấp) sẽ đòi hỏi sự thỏa hiệp, sẽ đòi hỏi đối thoại ».

Trong phát biểu của mình, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương đã nói đến một loạt những tranh chấp chủ quyền khác nhau ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, tồn tại từ hàng chục năm nay, nhưng đã căng thẳng hẳn lên trong thời gian gần đây trước các hành động bị đánh giá là ngày càng quyết đoán của Trung Quốc.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, ngay cả tại các vùng biển cách xa đất liền Trung Quốc cả ngàn cây số và nằm sát bờ biển của các nước láng giềng như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.

Sau những chỉ trích của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Đô đốc Locklear dĩ nhiên đã lên tiếng bảo vệ nỗ lực của Mỹ trong việc xây dựng các liên minh an ninh ở châu Á, kể cả với các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Đối với vị Tư lệnh Mỹ, các liên minh, đó, mà một số có từ cuối Đệ nhị Thế chiến, đã bảo đảm cho an ninh toàn khu vực, và góp phần giúp khu vực cường thịnh về kinh tế. Theo ông chính Trung Quốc cũng được hưởng lợi nhờ tình hình an ninh đó, chứ không riêng gì Hoa Kỳ.

Vụ giàn khoan: Mỹ ủng hộ Việt Nam kiện Trung Quốc

Vụ giàn khoan: Mỹ ủng hộ Việt Nam kiện Trung Quốc

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới - Đông Á, ở Manila, Philippines. Ảnh chụp ngày 22/05/2014.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới – Đông Á, ở Manila, Philippines. Ảnh chụp ngày 22/05/2014.

Reuters

Trọng Nghĩa

Sau vụ Bắc Kinh cắm giàn khoan dầu trong vùng biển Việt Nam, trong một bài phỏng vấn dành cho hãng tin Anh Reuters hôm 21/05/2014, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã không loại trừ khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế. Phủ Tổng thống Mỹ vào hôm qua, 22/05/2014, đã lên tiếng hậu thuẫn cho mọi giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, kể cả việc dùng đến các thủ tục pháp lý quốc tế.

Theo hãng tin Anh Reuters, trả lời câu hỏi của báo chí về các tuyên bố mới nhất của Thủ tướng Việt Nam, ông Patrick Ventrell, một phát ngôn viên của Nhà Trắng, cho biết là Washington sẽ ủng hộ việc Việt Nam kiện Trung Quốc ra trước các định chế quốc tế để giải quyết vụ Trung Quốc triển khai giàn khoan tại vùng Biển Đông mà họ đang tranh chấp với Việt Nam.

Đối với ông Ventrell : « Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong việc duy trì hòa bình và ổn định ; tôn trọng luật pháp quốc tế ; thương mại hợp pháp không bị cản trở ; và tự do hàng hải và hàng không trong khu vực Biển Đông ».

Trên cơ sở đó, phát ngôn viên Nhà Trắng xác nhận : « Hoa Kỳ ủng hộ việc sử dụng các biện pháp hòa bình và ngoại giao khác nhau để quản lý và giải quyết các bất đồng, bao gồm cả việc sử dụng trọng tài hoặc các cơ chế pháp lý quốc tế khác. »

Trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin Anh bằng văn bản, khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc ra trước quốc tế đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gợi lên khi ông xác định rằng : « Việt Nam đang xem xét nhiều biện pháp phòng vệ khác nhau, bao gồm cả các hành động pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế ».

Lời dọa kiện trên đây của Việt Nam, kèm theo tuyên bố ủng hộ của Mỹ sẽ làm Trung Quốc tức giận thêm. Ngay từ hôm qua, sau tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trung Quốc đã tỏ thái độ phẫn nộ và tiếp tục cho rằng giàn khoan HD-981 nằm trong vùng biển thuộc chủ quyền của Bắc Kinh.

Trong thời gian qua, bất chấp các sức ép của Trung Quốc, Philippines vẫn tiếp tục xúc tiến vụ kiện Bắc Kinh ra tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc về những đòi hỏi quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông. Vụ kiện này của Manila cũng đã được Washington ủng hộ.

 

Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý nghĩa ‘đường lưỡi bò’

Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý nghĩa ‘đường lưỡi bò’

Biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam.

Biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam.

Duy Ái

22.05.2014

Các học giả Đài Loan mới đây cho biết Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ ở Đài Bắc làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn mà Đài Loan vẽ ra năm 1947 và được Trung Quốc dùng để làm cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông. Các học giả này nói rằng yêu cầu mà Washington đưa ra 2 lần trong 3 tháng vừa qua vẫn chưa được thỏa mãn vì chính phủ của Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc đó sẽ làm bùng ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Giữa lúc cuộc đối đầu kịch liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc vì vụ giàn khoan đang tiếp diễn ở Biển Đông, các học giả Đài Loan cho biết Hoa Kỳ hồi gần đây đã yêu cầu chính phủ của đảo quốc tự trị này làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn, thường được gọi là đường lưỡi bò, mà họ vẽ ra năm 1947 và đang được Trung Quốc sử dụng để khẳng định yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.

Theo tường thuật của thông tín viên Hải Nhan của ban Hoa Ngữ đài VOA tại Hồng Kông, việc này được giáo sư Trần Nhất Tân của Đại học Đạm Giang tiết lộ tại một cuộc hội thảo ở Hồng Kông về vấn đề Biển Đông hôm 19 tháng 5 vừa qua.

Ông Trần Nhất Tân cho rằng yêu cầu của Washington đối với Đài Bắc có mục đích làm suy yếu lập trường của Bắc Kinh đối với đường 9 đoạn mà họ dùng từ năm 1949 để cho rằng hầu như toàn bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.

Chính phủ Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc 'làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn' sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Chính phủ Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc ‘làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn’ sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Giáo sư Trần Nhất Tân nói rằng Đài Loan không thể thỏa mãn yêu cầu của Mỹ vì họ e rằng làm như thế sẽ gây phương hại cho mối quan hệ hài hòa giữa hai bờ eo biển Đài Loan và tạo ra rất nhiều vấn đề chính trị vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp.

Ông Tôn Dương Minh, Phó Chủ tịch Quỹ Viễn cảnh Giao Lưu Đài Loan-Trung Quốc, cũng tán đồng nhận định đó. Ông nói rằng việc thỏa mãn đòi hỏi mà Hoa Kỳ đã 2 lần đưa ra trong 3 tháng vừa qua là rất nguy hiểm, vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp, xác định lại đường biên giới của Trung hoa Dân quốc; và như thế có thể bị diễn giải là một hành động tuyên bố Đài Loan độc lập trên pháp lý, làm phát sinh rất nhiều vấn đề chính trị phức tạp.

Vào cuối năm năm 1947, Trung Quốc, với quốc hiệu lúc đó là Trung Hoa Dân Quốc và do chính phủ Quốc Dân Đảng lãnh đạo, đã vẽ đường 11 đoạn trên biển Đông, gọi đó là quốc giới. Tháng 2 năm 1948, bản đồ lưỡi bò xuất hiện công khai lần đầu tiên với bốn nhóm đảo mà Trung Quốc gọi là Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa. Trong 4 quần đảo này, quần đảo vốn có tên Nam Sa được đổi thành Trung Sa và quần đảo Đoàn Sa được đổi thành Nam Sa.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố thuộc chủ quyền của mình.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố thuộc chủ quyền của mình.

Trong khi đó, các nước khác ở Đông Nam Á, trong đó có Philippines, Malaysia, Brunei và mới đây là Indonesia, cũng có yêu sách chủ quyền đối với các quần đảo mà Trung Quốc gọi là Đông Sa và Nam Sa.

Từ khi công bố đường lưỡi bò tới nay, Đài Loan và Trung Quốc chưa bao giờ nói rõ ý nghĩa của ranh giới đó là gì, dù hai chính phủ ở Đài Bắc và Bắc Kinh đã có nhiều hành động trên thực tế trong ranh giới này. Theo Bách Khoa Mở Trung Quốc, có 4 cách giải thích về ý nghĩa pháp lý của đường 9 đoạn: (1) đó là đường ranh giới quốc gia hay quốc giới: có nghĩa là các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh là lãnh thổ của Trung Quốc và khu vực bên ngoài lằn ranh là thuộc về các nước khác hoặc là hải phận quốc tế; (2) đó là vùng biển lịch sử: Trung Quốc có quyền lợi lịch sử đối với tất cả các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh; (3) đó lằn ranh trên biển, với các đảo trong lằn ranh thuộc chủ quyền Trung Quốc và Trung Quốc có quyền chủ quyền đối với vùng biển và tài nguyên dưới đáy biển không thuộc vùng nội thủy bên trong lằn ranh; và (4) đó là đường ranh phạm vi các đảo, với các đảo bên trong lằn ranh và vùng biển lân cận là một phần lãnh thổ Trung Quốc, do Trung Quốc quản hạt và kiểm soát.

Chẳng những các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc và Đài Loan phản đối và bác bỏ đường 9 đoạn, nhiều nước khác trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, cũng không ngớt Trung Quốc yêu cầu làm rõ ý nghĩa của đường ranh mà chính các chuyên gia công pháp quốc tế của Bắc Kinh và Đài Bắc cũng không thống nhất ý kiến với nhau.

Tại một cuộc họp hôm 17 tháng 5 ở Đài Bắc, cựu dân biểu Lâm Trọc Thủy của Đảng Dân Tiến cho biết ngay cả các học giả về công pháp quốc tế của Quốc Dân Đảng cũng cho rằng các qui định của luật pháp quốc tế và luật biển hiện nay đều vô cùng bất lợi cho yêu sách về “vùng biển lịch sử”. Một học giả khác của Trung Quốc, ông Lý Lệnh Hoa, cũng cho rằng đường chín đoạn không có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp lý.

Bắc Kinh cho rằng hầu như toàn bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.
Ông Lâm Trọc Thủy, lý thuyết gia nòng cốt của phong trào đòi Đài Loan tách khỏi Trung Quốc để độc lập, nói rằng đường lưỡi bò không hề có trong lịch sử Trung Quốc trước đây mà thật ra là bắt nguồn từ Quần đảo Tân Nam mà Nhật Bản tuyên bố đòi chủ quyền từ năm 1939 và đặt dưới sự quản hạt của huyện Cao Hùng ở Đài Loan, khi đó là một phần lãnh thổ của Đế quốc Nhật. Ông Lâm nói rằng sau khi Nhật Bản bị đánh bại trong thế chiến thứ hai, chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch mới thừa hưởng quần đảo mà Nhật Bản gọi là Shinnangunto và xem đó là vùng biển của Trung Quốc.

Ông Lâm Trọc Thủy cũng cho rằng Trung Quốc có thể tranh giành chủ quyền quần đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa), nhưng không thể đòi chủ quyền đối với quần đảo “Nam Sa” (Trường Sa); và đó chính là lý do tại sao Bắc Kinh cực lực phản đối việc Philippines đưa vụ tranh chấp biển đảo này ra trước tòa án trọng tài quốc tế.

Cũng tại cuộc họp báo ở Đài Bắc, một học giả Đài Loan cho rằng chính quyền Tưởng Giới Thạch đã làm bừa khi đưa quân đến chiếm đảo Thái Bình (Việt Nam gọi là Ba Bình) ở “Nam Sa”. Tiến sĩ Hứa Văn Đường, thuộc Ban Nghiên cứu Lịch sử Cận đại của Viện Nghiên cứu Trung ương (Academia Sinica) của Đài Loan, cho biết tại Hòa hội Cựu Kim Sơn năm 1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ Shinnangunto nhưng không nói là từ bỏ cho nước nào. Thế mà Đài Loan vào năm 1956 đã đưa quân đến chiếm hòn đảo “Thái Bình”, nơi mà ông nói không phải là ngư trường truyền thống của ngư dân Đài Loan.

Ông Hứa Văn Đường cũng tiết lộ là sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã “tiện thể” tiếp thu Quần đảo Tân Nam từ tay Nhật Bản, nhưng lại không biết quần đảo này ở đâu, nên phải chạy tới Bộ Tư lệnh Mỹ ở Philippines để mượn bản đồ. Nhà sử học Đài Loan này nói rằng nhóm đảo mà Trung Quốc gọi là Nam Sa thật ra là nằm trong khu vực của nhóm đảo mà hiện nay có tên là Trung Sa.