Chuông Ngân Vang – AC&M
httpv://www.youtube.com/watch?v=9pO-_Lstavk
jingle bells
httpv://www.youtube.com/watch?v=O2MFducncsg
Bai Khong Ten So 8 -VTA -Khanh Ha -NNS
httpv://www.youtube.com/watch?v=sNk4R7ZCmvs&feature=em-share_video_user
httpv://www.youtube.com/watch?v=9pO-_Lstavk
httpv://www.youtube.com/watch?v=O2MFducncsg
httpv://www.youtube.com/watch?v=sNk4R7ZCmvs&feature=em-share_video_user
Tưởng Niệm Bác sĩ Richard Teo (1972-2012)
Dưới đây là bản ghi lại cuộc nói chuyện của Bác sĩ Richard Teo, một triệu phú 40 tuổi, là một bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4 đến chia sẻ với khóa nha D1 về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh vừa qua đời cách đây vài ngày vào 18/10/2012.
Chào tất cả các em . Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó
nghẹ. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Tôi sẽ chia sẻ vài suy nghĩ về cuộc sống của mình và rất hài lòng khi được các giáo sư mời đến đây. Hy vọng sẽ giúp các em cách suy nghĩ khi bắt đầu theo ngành để trở thành nha sĩ giải phẫu cũng như suy nghĩ về những việc chung quanh.
Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường
rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ.
Không những chỉ cần đi học ở trường giỏi, tôi cần phải thành công trong mọi lãnh vực – từ các hoạt động tập thể đến chạy đua, mọi điều. Tôi cần phải đoạt được cúp,
phải thành công, phải được giải, giải quốc gia, mọi thứ. Tôi rất ganh đua. Tôi vào trường y và trở thành bác sĩ. Chắc một số em biết rằng trong ngành y, giải phẫu mắt là một trong những chuyên khoa khó vào nhất. Tôi cũng vào được và được học bổng nghiên cứu của NUS phát triển tia laser để chữa bịnh mắt.
Trong khi nghiên cứu tôi có hai bằng phát minh- một về dụng cụ y khoa và một về tia lasers. Nhưng các em có biết không, tất cả các thành tựu này không mang lại cho tôi sự giàu có. Sau khi hoàn tất MOH, tôi quyết định rằng theo đuổi ngành phẫu thuật mắt mất quá nhiều thời gian trong khi ra ngoài làm tư kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu các em để ý, vài năm qua, ngành thẩm mỹ đang lên, kiếm được khối tiền. Vì vậy tôi quyết định bỏ ngành giải phẫu mắt giữa chừng và nhảy qua mở trung tâm giải phẫu thẩm mỹ trong tỉnh.
Các em có biết, rất mâu thuẫn, một người có thể không vui vẻ khi trả $20 cho một bác sĩ tổng quát, nhưng cũng chính người đó không ngần ngại trả $10,000 để hút mỡ bụng, $15,000 cho sửa ngực, vv… và vv . Không cần phải suy nghĩ nhiều, phải không? Tại sao lại muốn thành bác sĩ tổng quát mà không là bác sĩ thẩm mỹ? Do vậy, thay vì chữa bịnh, tôi quyết định trở thành người sửa sắc đẹp. Công việc làm ăn rất khấm khá. Bịnh nhân mới đầu chờ đợi một tuần, rồi 3 tuần, sau lên một tháng, 2 tháng, đến 3 tháng. Quá nhiều bịnh nhân. Tôi choáng váng. Tôi mướn một bác sĩ, hai bác sĩ, ba bác sĩ, rồi bốn bác sĩ. Chỉ trong vòng năm thứ nhất, chúng tôi đã lên hàng triệu phú. Nhưng chẳng thế nào là đủ vì tôi trở nên mê muội. Tôi bắt đầu khuếch trương tới Nam Dương, thu hút các “tai-tais” những người muốn có cuộc giải phẫu trong chớp mắt. Cuộc sống thật lên hương.
Tôi làm gì với mớ tiền dư thưà? Cuối tuần tôi tiêu khiển ra sao? Thông thường
tôi đến tụ tập tại câu lạc bộ đua xẹ hơi. Tôi sắm riêng cho tôi một chiếc xe đua. Chúng tôi đến Sepang ở Mã Lai và đua xe. Cuộc sống của tôi là thế đó. Với mớ tiền măt, tôi sắm chiếc Ferrari. Lúc đó chiếc 458 chưa ra, chỉ có chiếc 430. Một người bạn học cũ của tôi làm ngân hàng. Anh ta mua chiếc màu đỏ mà anh mong muốn từ lâu. Tôi sắm chiếc màu bạc.
Tôi làm gì sau khi có chiếc xe? Đến lúc mua nhà, xây cửa. Chúng tôi bắt đầu tìm
kiếm đất để xây nhà nghỉ mát. Tôi đã sống cuộc đời như thế nào? Chúng tôi nghĩ rằng phải cần hòa nhập với những người giàu có, nổi tiếng. Chúng tôi bắt đầu giao tiếp với mỹ nhân, người giàu sang và danh tiếng, như hoa hậu thế giới hay người sáng lập mạng internet, ăn uống ở mọi nhà hàng kể cả nhà hàng nổi tiếng của đầu bếp Michelin.
Tôi đã có được mọi thứ trong cuộc sống, đến tột đỉnh của sự nghiệp và tất cả. Đó là tôi của một năm trước đây. Lúc ở trong câu lạc bộ thể thao, tôi nghĩ tôi đã chế ngự được mọi chuyện và đạt đến đỉnh vinh quang.
Nhưng tôi lầm. Tôi không chế ngự được mọi chuyện. Khoảng tháng 3 năm ngoái, đột nhiên tôi bắt đầu bị đau lưng. Tôi nghĩ chắc tại tôi thường vận động manh. Tôi đi đến SGH và nhờ bạn học làm MRI để xem chắc là không bị trật đốt sống hay thứ nào khác. Tối hôm đó, anh ta gọi tôi và cho biết tủy sống thay đổi trong cột sống của tôi. Tôi hỏi như thế nghĩa là sao? Tôi biết nó có nghĩa như thế nào nhưng không thể chấp nhận sự thật. Tôi gần như muốn nói “anh nói thiệt sao?” tôi đang sắp sửa chạy đi tập thể dục. Ngày hôm sau chúng tôi có nhiều khám nghiệm hơn- PET scans- và họ tìm thấy tôi đang ở thời kỳ thứ tư của ung thư phổi. Tôi nghĩ “từ đâu mà ra thế này?”. Ung thư đã lan tới não, cột sống và nội tuyến. Các em biết, có lúc tôi hoàn toàn nghĩ mình đã chế ngự được tất cả , đã đạt đến tột đỉnh của cuộc sống, nhưng kế đó, tôi mất tất cả.
Đây là bản CT scan của phổi. Nhìn vào, mỗi chấm đều là nang ung thư. Và thật sự, tôi có cả chục ngàn nang trong phổi. Tôi được cho biết, ngay cả với hóa trị, tôi cũng chỉ còn được 3,4 tháng tối đa. Cuộc sống tôi bị nghiền nát, dĩ nhiên rồi, làm sao tránh
khỏi? Tôi chán nản, tuyệt vọng, tưởng rằng mình đã có mọi thứ trước đây .
Điều mâu thuẫn là mọi thứ tôi có được- sự thành công, cúp thưởng, xe cộ, nhà cửa, tất cả những thứ mà tôi nghĩ đã mang hạnh phúc đến cho tôi; khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Tôi chẳng thể ôm chiếc Ferrari mà
ngủ. Chuyện đó không thể xảy ra. Chúng không mang lại một sự an ủi nào trong mười tháng cuối cùng của cuộc đời tôi. Vậy mà tôi đã tưởng những thứ này là hạnh phúc; không phải vậy. Điều thật sự mang lại cho tôi niềm vui trong mười tháng cuối cùng là tiếp xúc với người thân, bạn bè, những người chân thành chăm sóc tôi, cười và khóc cùng tôi. Họ có thể nhìn thấy sự đau đớn, chịu đựng mà tôi phải trải qua. Đây
thật sự mang lại hạnh phúc cho tôi. Những thứ tôi sở hữu, đáng lý ra mang lại hạnh phúc, nhưng không. Nếu có, tôi đã cảm thấy vui khi nghĩ đến.
Các em có biết, Tết sắp đến. Trước đây, tôi thường làm gì? À, thì tôi thường lái chiếc xe hào nhoáng của mình một vòng, thăm viếng họ hàng, phô trương với bạn bè. Tôi tưởng đó là niềm vui, thật sự vui. Nhưng các em có nghĩ họ hàng, bạn bè tôi đang chật vật kiếm sống có thể chia sẻ niềm vui cùng tôi khi thấy tôi khoe khoang
chiếc xe bóng loáng? Chắc chắn là không. Họ sống khó khăn, đi xe công cộng. Thật sự những gì tôi làm chỉ khiến họ thêm ganh ghét, thậm chí có khi thành thù hận.
Những thứ này chúng ta gọi là đối tượng của sự ganh tị. Tôi khoe khoang để lấp đầy sự kiêu hãnh và cái tôi của mình. Chúng chẳng mang lại niềm vui cho bạn bè, người thân như tôi tưởng.
Để tôi chia sẻ với các em một câu chuyện khác. Khi tôi bằng tuổi các em, tôi ở khu King Edward VII. Tôi có một người bạn khá lạ lùng đối với tôi. Cô ta tên là Jennifer. Chúng tôi vẫn là bạn thân của nhau. Khi chúng tôi thả bộ, nếu cô ta thấy một con ốc sên trên đường, cô ta sẽ nhặt nó lên và đặt lại trong thảm cỏ. Tôi thắc mắc
tại sao phải làm như thế? tại sao phải để bẩn tay? chỉ là một con ốc sên. Sự thật là cô ta đã cảm được cho con ốc có thể bị đạp nát chết. Đối với tôi, nếu không tránh đường thì đáng bị đạp nát, chỉ là luật tiến hóa thội. Đối ngược nhau quá, phải không?
.Tôi được huấn luyện thành bác sĩ để có từ tâm, đồng cảm. Nhưng tôi không có. Sau khi tốt nghiệp y khoa, tôi làm việc ở khoa ung thư tại NYH. Hàng ngày, tôi chứng kiến cái chết trong khoa ung thư. Tôi nhìn thấy tất cả đau đớn mà bịnh nhân phải chịu đựng. Tôi thấy tất cả các thuốc giảm đau họ cứ vài phút phải bấm vào người. Tôi thấy họ vật lộn với hơi thở cuối, thấy tất cả. Nhưng đây chỉ là một công việc. Tôi đến bịnh xá mỗi ngày lấy máu, cho thuốc nhưng bịnh nhân có “thật” đối với tôi
không? Không Tôi chỉ làm công việc và nóng lòng về nhà để làm việc riêng của mình.
Sự đau đớn, chịu đưng của bịnh nhân “thật” không? Không. Dĩ nhiên là tôi biết tất cả các từ ngữ chuyên môn để mô tả về sự đớn đau mà họ phải trải qua, nhưng thật sự tôi không hề “cảm” được cho đến khi tôi trở thành bịnh nhân. Mãi đến bây giờ, tôi mới thật sự hiểu được cảm giác của họ. Nếu các em hỏi tôi, nếu được làm lại cuộc đời, tôi có muốn thành một người bác sĩ khác không. Tôi sẽ trả lời các em là Có. Vì bây giờ tôi thật sự hiểu đươc họ. Tôi phải trả giá đắt cho bài học này.
Ngay khi các em vào năm thứ nhất, bắt đầu hành trình để trở thành nha sĩ giải
phẫu, cho phép tôi thử thách các em hai điều.
Hiển nhiên, tất cả các em ở đây sẽ bắt đầu đi làm tư. Các em sẽ thành giàu có. Tôi bảo đảm với các em rằng, chỉ trồng răng, các em kiếm được bạc ngàn, mớ tiền không tưởng đươc. Và thật ra, không có gì sai trái với thành công, giàu có, tuyệt đối không gì sai trái. Điều phiền toái duy nhất là nhiều người chúng ta, như bản thân tôi, không thể kiềm chế được.
Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì càng tích tụ, càng có nhiều, tôi lại muốn nhiều
hơn. Càng ham muốn, tôi càng trở nên mê muội. Như tôi đã đề cập trước đây, tôi muốn sở hữu nhiều hơn, đạt tới đỉnh vinh quang như xã hội muốn đào tạo chúng ta. Tôi trở nên mê muội đến nỗi mà chẳng còn việc gì thành vấn đề đối với tôi nữa. Bịnh nhân chỉ là một nguồn lợi tức và tôi vắt cạn từng xu từ họ.
Nhiều khi chúng ta quên đi mình cần phục vụ ai. Chúng ta lầm lạc đến nỗi chẳng phục vụ ai cả ngoài chính mình. Điều đó đã xảy ra với tôi. Dù là ở y hay nha khoa, tôi có thể nói với các em ngay bây giờ rằng, trong khi khám bịnh, đôi khi chúng ta khuyên bịnh nhân chữa trị bịnh không hẳn có, vùng xám không rõ rệt. Và ngay cả khi không cần thiết, chúng ta cũng nói thêm. Ngay tại thời điểm này, tôi biết ai là bạn tôi, chân thành lo lắng cho tôi và ai chỉ muốn làm tiền tôi bằng cách bán buôn “hy vọng” cho tôi. Chúng ta đánh mất lương tâm vì chúng ta chỉ muốn kiếm tiền .
Tệ hại hơn, tôi có thể kể cho các em nghe, vài năm vừa qua, chúng tôi đã nói xấu đồng nghiệp, “đối thủ” của chúng tôi và không hề thấy khó chịu. Nếu hạ thấp được họ
xuống để nâng mình lên, chúng tôi làm. Điều đó đang xảy ra trong ngành y, nha và ở mọi nơi. Tôi thử thách các em không để đánh mất lương tâm mình. Tôi trả giá đắt cho bài học. Và tôi hy vọng các em sẽ không bao giờ phải như vậy.
Điều thứ nhì, nhiều người trong chúng ta muốn số lượng bịnh nhân, dù ở bịnh viên công hay tư. Tôi có thể kể cho các em nghe, khi tôi làm trong bịnh viện, với chồng hồ sơ bịnh lý, tôi chỉ muốn làm cho xong càng nhanh, càng tốt. Tôi chỉ muốn họ
ra khỏi phòng khám bịnh của tôi càng nhanh, càng tốt vì có quá nhiều bịnh
nhân. Thực tế là vậy. Đây chỉ là một công việc, một công việc thường nhật. Lúc đó, tôi có thật sự biết về cảm xúc của bịnh nhân của tôi như thế nào không? Không. Sự sợ hãi, nỗi lo âu của họ, tôi có thật sự hiểu điều gì họ đang trải qua không? Không, mãi cho đến khi sự cố xảy ra với tôi. Tôi nghĩ rằng đây là một lỗi lầm lớn nhất trong xã hội của chúng ta.
Chúng ta được huấn luyện để trở thành lương y, nhưng chúng ta không cảm được cho bịnh nhân. Tôi không đòi hỏi các em phải xúc động, vì như vậy cũng không chuyên nghiệp, mà chỉ hỏi chúng ta có thật sự cố gắng tìm hiểu nỗi đau đớn của họ không? Phần lớn là không, tôi có thể chắc chắn như vây. Do đó, tôi thử thách các em luôn đặt mình vào cương vị của bịnh nhân.
Bởi vì sự đau đớn, nỗi lo lắng, sợ hãi rất thực với họ mặc dù không thực đối với các em. Ngay hiện giờ, tôi đang chữa hóa trị lần thứ 5. Tôi có thể cho các em biết nó rất kinh khủng. Hóa trị là thứ mà các em không muốn ngay cả kẻ thù của mình phải trải qua vì bị hành, đau đớn, ói mửa. Cảm giác khủng khiếp! Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bịnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi !
Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bịnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất vv.vv.. Họ có thật. Chúng ta lựa chọn làm lơ hoặc chúng ta không muốn biết đến sự hiện hữu của họ.
Do đó đừng quên, khi các em được thành danh, với tay đến những người cần sự giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm điều có thể mang đến sự khác biệt lớn cho họ. Bây
giờ tôi ở vị trí của người tiếp nhận, tôi hiểu rõ, thấy khác khi có người thật sự chăm lo, khuyến khích mình. Nhờ vậy mà tôi vẫn có thể nói chuyện với các em hôm nay.
Tôi sẽ ngưng với lời sau, trong cuốn sách có tựa đề là “Những ngày thứ ba với Morris”. Có lẽ một số các em đã đọc cuốn này. Mọi người đều biết rằng sẽ có ngày phải chết, chúng ta ai cũng biết như vây. Nhưng sự thật, không ai tin, vì nếu tin chúng ta đã sống một cách khác. Khi tôi phải đối diện với cái chết, tôi lột bỏ mọi thứ, chỉ tập trung vào thứ thiết yếu. Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe bịnh hoạn nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Đừng để xã hội bảo ban các em cách sống. Đừng để môi trường bắt các em phải làm gì. Điều này đã xảy ra cho tôi. Tôi tưởng như vậy là hạnh phúc. Tôi hy vọng các em suy nghĩ lại và sẽ tự quyết định cuộc sống của chính các em. Không phải do người khác bảo ban mà là các em quyết định, sống cho mình hay mang đến sự khác biệt cho đời sống của người khác. Hạnh phúc thật sự không có được khi chỉ sống cho mình. Sự thật không như tôi đã tưởng.
Quan trọng nhất, tôi nghĩ niềm vui sướng thật sự là khi biết Thượng Đế. Không phải là chỉ biết về Thượng Đế khi như khi các em đọc Kinh Thánh- mà là bản thân biết đến Thượng Đế, tiếp cận với Ngài. Đây là điều quan trọng nhất mà tôi học hỏi được.
Tôi xin tóm lược, trong cuộc sống, chúng ta biết sắp xếp thứ tự trước sau càng
sớm, càng tốt. Đừng giống như tôi. Tôi không còn cách khác và đã phải trả giá đắt cho bài học. Tôi phải quay lại tạ ơn Thượng Đế vì Ngài đã cho tôi cơ hội sống- tôi gặp 3 tai nạn lớn trong quá khứ- tai nạn xe hơi đua. Tôi đua nhanh và xe muốn lật ngửa nhưng không hiểu sao vẫn sống sót. Mặc dù tôi được rửa tội, đây chỉ là hình thức, nhưng sự kiện xảy ra đã cho tôi cơ hội trở về với Chúa .
Vài điều tôi học được:
1) Tin tưởng vào Thượng Đế với cả tấm lòng. Điều này rất quan trọng.
2) Thương yêu và sống vì người khác, không chỉ cho bản thân mình.
Không có gì sai trái khi được giàu có cả. Tôi nghĩ hoàn toàn tốt vì được Thượng Đế ban ơn .
Nhiều người được hồng ân với sự giàu có nhưng vấn đề là chúng ta không biết kiềm chế. Có nhiều lại càng muốn có thêm. Tôi đã đi qua, lỗ đào càng sâu, chúng
ta càng bị lún, đến nỗi chỉ biết phụng thờ của cải và quên cả việc chính. Thay vì phụng thờ Thượng Đế, chúng ta thờ phượng sự giàu có. Đây là bản năng con người và rất khó thoát khỏi.
Chúng ta thành danh, đi làm, hiển nhiên, bắt đầu gây dựng sự giàu có. Tôi nghĩ, khi giàu sang và có cơ hội đến, các em nên nhớ, tất cả những thứ này không thuộc về
chúng ta. Chúng ta không thật sự sở hữu và có quyền hành. Những thứ này là quà tặng của Thượng Đế. Remember that it’s more important to further His
Kingdom rather than to further ourselves.
Tôi đã trải qua và tôi biết rằng sự giàu có thiếu đức tin sẽ thành trống rỗng . It is more important that you fill up the wealth, as you build it up subsequently, as professionals and all, you need to fill it up with the wealth of God.}
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 8/12
TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA
“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)
Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).
Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).
Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường và Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc và Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh Lặng vàChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.
Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.
Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.
Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.
Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.
Sài Gòn, ngày 07/12/2012
Antôn Lương Văn Liêm
Maria Thanh Mai gởi
Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.
Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.
Dù vậy chúng ta phải nắm vững :
1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.
2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.
Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.
Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.
Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.
Maria Thanh Mai gởi
Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)
Đăng bởi cheoreo lúc 1:40 Sáng 7/12/12
VRNs (07.12.2012) – Sài Gòn – Bài sám hối thứ ba này sẽ được nhà cầm quyền dùng làm bằng chứng, lên gân nội bộ và ra quân bắt cha Tín đi đầy, nhưng thật ra, bài này, cha Chân Tín vẫn kêu gọi sám hối mà thôi. Cũng có thể, người ta không chịu nổi việc làm xấu của họ bị gọi đích danh.
Ba bài giảng sám hối
(Mùa Chay, tháng 4/1990)
Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT
(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)
Bài giảng thứ ba
Sám hối tập thể Quốc gia
Trong bài giảng tối qua, tôi nói đến sám hối của Giáo hội: Giáo hội nhận sứ mạng của Chúa cha trong việc thu họp mọi người trong Chúa Kitô. Tôi đã nhấn mạnh Giáo hội Việt Nam chưa phấn đấu đủ để hoàn thành sứ mạng rao giảng Tin mừng; chưa phấn đấu đủ cho việc đào tạo linh mục, việc các dòng tu được hiện hữu và hoạt động; chưa phấn đấu để người Công giáo khỏi bị chèn ép, khỏi là công dân hạng hại; chưa phấn đấu đủ cho công việc giáo dục, y tế, xã hội của Giáo hội để phục vụ nhân dân, nhất là chưa phấn đấu đủ cho nhân quyền.
Hôm nay, trong buổi nói chuyện cuối cùng, tôi xin đề cập đến việc sám hối trên khía cạnh tập thể quốc gia.
Tại quốc gia này, trong 15 năm nay, Đảng CSVN đã một mình cai trị toàn cõi Việt nam trong một thời gian lâu dài hơn bất cứ chính phủ nào trước kia trong chế độ cũ: Bảo Đại được 7,8 năm; Ngô Đình Diệm, 9 năm; Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu chia nhau chỉ có 12 năm.
Đảng CSVN dính liền với các nước CS khác: trước nhất là Liên Xô, người anh cả; rối các nước Đông và Trung Âu; rồi đến Trung Quốc mà ngày xưa Đảng CSVN gọi là ‘môi hở răng lạnh’: ông Cuba đang gồng mình làm tiền đồn cho CS ở châu Mỹ; ông Bắc Hàn đang dựng một hệ thống độc tài cha truyền con nối.
Khỏi nói đến ông Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn là những chế độ đầy vi phạm đến quyền căn bản con người, mà chưa thấy một chút ân hận nào, thì làm gì có sám hối, có đổi mới.
Các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối, đã vạch những tội ác của các chế độ cộng sản theo đường lối độc tài tàn ác của Staline. Họ đã lên án lãnh tụ bất tài bất tướng của họ và tuyên bố từ nay tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do tín ngưỡng, trả tự do cho tù chính trị.
Tôi muốn dành thì giờ để nói đến Liên Xô và đất nước chúng ta.
A. SÁM HỐI TẠI LIÊN XÔ:
Trước hết ta nhìn về Liên Xô, đất nước của Lê nin, nơi phát xuất cách mạng xã hội chủ nghĩa trong 73 năm, lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN khắp thế giới, đất mẹ của Cách mạng XHCN Việt Nam.
1. Phim “sám hối”
Cách đây trên 20 năm, một cuốn phim Liên Xô tố cáo tội ác của chế độ độc tài của Staline, đã được thực hiện; nhưng chỉ cách đây vài ba năm, cuốn phim mới được xuất xưởng chờ cuộc sám hối của Liên Xô, và trong một thời gian ngắn, cuốn phim đã được thế giới nhìn nhận là kiệt tác: đó là phim ‘sám hối’ của Adbuladze. Cuốn phim mô tả một vụ án một người phụ nữ đã ba lần đào mả ông Varlam, thị trưởng của một thành phố nhỏ ở Liên Xô. Bà này là con của nạn nhân của ông thị trưởng này. Tại tòa, bà tuyên bố bà không thể để tên độc tài đó trong mồ, nếu cần bà còn đào nữa.
Đây là bản án dành cho một cơ chế quyền lực độc đoán, không dựa trên pháp luật, mà dựa trên sự mị dân và đàn áp. Phải giải thoát mọi người khỏi nỗi khiếp sợ và sự tôn kính không tự nguyện đối với ông thị trưởng tác oai tác quái, hình ảnh của Staline và cả một thế hệ lãnh đạo Liên Xô và các nước XHCN trong 73 năm qua. Y muốn trừ tận gốc tất cả những gì là sự sống và tài năng xung quanh y, bất mãn với mọi người, vì thế bỏ tù tất cả. Nhưng tất cả những vụ bắt bớ hành quyết nhục hình, y dùng bàn tay kẻ khác. Niềm khoái lạc thâm độc của y là rình rập một nạn nhân và mào đầu một trò chơi tàn bạo với kẻ thù mới, bằng cách chuẩn bị một màn công lý đẫm máu sẽ được bộ
hạ hoàn tất. Y nói: “Nếu muốn, chúng ta sẽ bắt được mèo trong phòng tối, kể cả
khi không có mèo.” Hoạt động chống lại con người tiêu biểu nhất của y là đã lấy
đền thờ làm chỗ thí nghiệm khoa học, rồi cho nổ tung nhà thờ, y muốn chặt đứt
rễ sống nuôi dưỡng và làm giàu đời sống tinh thần của nhân dân, xóa bỏ truyền
thống văn hóa. Đối với y, bốn người dân là bốn kẻ thù.
Y chết, đám tang lớn, có điếu văn ca ngợi. Một ngày sau, xác y được chôn cất đã bị quật lên đến ba lần do một người đàn bà, con của một nạn nhân. Ra tòa, bà nói còn quật lên nữa. Cuốn phim kết thúc với cuộc tự vẫn của cháu nội của tên độc tài vì nó ‘sám hối’ thay cho ông nội nó; đến lượt con trai cũng ‘sám hối’, bằng cách đào mồ bố và liệm xuống vực thẳm phơi thay cho đàn quạ. Cảnh cuối cùng là một bà cụ già đi ngang qua nhà người phụ nữ đã quật mồ tên độc tài. Người này bây giờ có nghề làm bánh ngọt. Trên mỗi chiệc bánh đều có hình một tháp nhà thờ. Bà cụ hỏi: “Đường này có đưa tới nhà thờ không?” Người bán bánh trả lời: “Không, thưa cụ.” Bà cụ trợn mắt
bảo: “Đường không đưa đến nhà thờ thì để làm gì?”…
Cuốn phim ‘Sám hối’ như thế đó. Hồi ấy cuốn phim chỉ là một ước mơ của nhà soạn phim Adbuladze. Nhưng nay là sự thật: toàn dân Liên Xô đã sám hối, cấp lãnh đạo Liên Xô đã sám hối. Họ đang quật mồ của Staline lên bằng cách tố cáo những tội ác của y và của tay sai y trong nhiều thập niên trước đây. Ta hãy lắng tai nghe họ nói. Ta lần lượt nghe các nhà văn lớn ngày nay của Liên Xô, các nhà trí thức, các Đảng viên cộng sản, các cấp lãnh đạo. Họ tố cáo các tội ác của một chế độ độc tài và họ đưa ra
những đường hướng mới cho cuộc sống lại của những giá trị thiêng liêng: họ đang
sám hối.
2. Các nhà văn Liên Xô
Sau đây là cuộc sám hối của các nhà văn lớn hiện tại của Liên Xô. Các nhà văn lớn của Liên Xô lên tiếng về sự mất mát các giá trị thiêng liêng của xã hội Liên Xô ngày nay.
Các nhà văn Bykov, Astafiev, Aytmatov, tất cả tố cáo sự sa sút luân lý sau 70 năm cách mạng. Nguồn gốc của sự sa sút này là ở trong công cuộc phá hoại tôn giáo. Con đường ra khỏi cuộc khủng hoảng này là làm tôn giáo sống lại.
+ Bykov (một nhà văn lớn) cho rằng không thể có luân lý nếu không có đức tin.
+ Astafiev: “Ai đẩy chúng ta vào vực thẳm của sự dữ và bất hạnh, và vì sao? Ai dập tắt ánh sáng của sự thiện trong tâm hồn chúng ta? Ai đã đẩy lui ngọn đèn của lương tâm chúng ta, đẩy nó vào vực thẳm tăm tối, trong đó chúng ta mò mẫm, cố gắng tìm đáy vực thẳm, tìm một cái gì để dựa và một chút ánh sáng dẫn ta đến tương lai? Ích gì cho chúng ta cái ánh sáng đưa chúng ta đến ngọn lửa của địa ngục? Chúng ta đã từng sống với ánh sáng của tôn giáo trong tâm hồn chúng ta, một ánh sáng đã có từ lâu trước ta… Người ta đã làm mất đi ánh sáng đó và không mang lại gì khác cho ta để thay thế, trái lại họ đem lại cho ta vô tín ngưỡng.”
+ Aytmatov (Hồi giáo)
Được hỏi vì sao ông lại chọn một chủng sinh Kitô giáo làm nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đoạn đầu đài của ông, ông nói: “Kitô giáo đã tạo một thúc đẩy mạnh mẽ trong khuôn mặt Đức Kitô. Đạo Hồi mà tôi là thành phần qua nguồn gốc dân tộc không có một khuôn mặt như vậy. Mahomet không phải là một tử đạo. Ngài có những ngày gian khổ, nhưng bị đóng đinh cho một lý tưởng và tha thứ cho người bách hại mình thì đạo Hồi không có như vậy.”
Rất nhiều nhà văn như thế nghĩ rằng tái lập những giá trị tôn giáo là con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng thiêng liêng hiện thời. (Chr. Sc. Monitor, 13/10/86).
3. Các nhà trí thức
Trong một cuộc trao đổi bàn tròn, một số nhà trí thức đã tố cáo sự bất khoan dung của chế độ cộng sản và kêu gọi sự bao dung, điều kiện quan trọng để có sự thông cảm giữa người và người.
+ Alexandre Nejny (một nhà báo) nói về sự bất bao dung của Liên Xô: “Chúng ta
khó mà bao dung với những người khác chính kiến, chúng ta phải hiểu vì sao
chúng ta bất bao dung như thế, vì sao ta lại chống đối tôn giáo và Giáo hội.
Chính cái bất bao dung là thủ phạm của bao hy sinh của công dân nước ta vì niềm
tin của họ… Nhiều cán bộ chuyên trách về tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng, với
chức năng làm trung gian giữa Nhà nước với các cộng đoàn tôn giáo, giữa chính
quyền địa phương và các tín đồ, tuy họ còn trẻ, nhưng đã nhiễm tinh thần bất
bao dung truyền lại từ thời Staline và tỏ mình bền chí như những người đi trước
họ, bằng cách bắt bớ Giáo hội và các tín đồ.”
+ Janis Pujato (Giám mục Riga): “trong xã hội ta, tình cảnh người tín hữu
và người vô thần không ngang nhau. Người vô thần có quyền tuyên truyền tư tưởng
của mình, còn tín hữu chỉ được tế tự.”
+ Youri Davidor: “Có câu tục ngữ ‘Nhà thờ không phải là những khúc gỗ, nhưng
là con người’. Người ta sửa sang được nhà thờ là một điều ghê gớm. Nhưng làm
sao cho Giáo hội sống lại trong các tâm hồn là ưu tiên.”
+ Alxandre Nejny: Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm ngày rửa tội nước Nga, ông Nejny
có viết một bài ở báo tin tức Moscova ngày 19/6/1988. Ông nói: “Quan niệm coi
Giáo hội là một tàn dư có hại từ bản chất là một mưu toan xấu nhằm tước mất của
nhân dân cái di sản văn hóa và lịch sử vĩ đại. Chủ nghĩa vô thần bằng bất cứ giá nào là vô ích và tai hại, bởi vì khi thực hiện nguyên tắc đó, họ đã cưỡng bức cả quá khứ lịch sử của Liên Xô lẫn sự tự do lương tâm cả hàng triệu đồng bào của họ. Phải hiểu rằng vô thần cũng như tín hữu, họ cùng thừa hưởng một truyền thống tinh thần lớn lao duy nhất và chính cùng với truyền thống này mà những chân lý về sự thiện, về lòng nhân từ, và về lòng thương yêu đi vào bên trong cuộc sống của họ. Những kẻ tìm cách làm cho Giáo hội mất đi môi trường hoạt động của mình và cắt đứt mọi con đường đưa từ nhà thờ tới trần thế, những kẻ ấy đã phạm một lỗi lầm xã hội và chính trị không thể tha thứ được. người ta lơ là không dám đếm xỉa đến những quyền lợi của các tín hữu và coi các tín hữu này như những công dân hạng hai. Phải tôn trọng vô điều kiện nhân phẩm con người, nhìn nhận con người có những quyền không thể chuyển nhượng. Giáo hội có những đau khổ trong bảy thập niên vừa qua. Sao không tỏ lòng cảm phục hẳn hiên mà tưởng niệm những người đã chết vì đức tin trong các trại tù thời Stanline? Sự nghiêm chỉnh luật pháp trong các quan hệ giữa Nhà nước vô thần và Giáo hội bao hàm khoảng cách giữa đôi bên. Khoảng cách đó có thể tránh cho Giáo hội một nguy cơ trầm trọng: nguy cơ bị nghẹt thở bên trong những vòng tay siết chặt của các nhà cầm quyền và một khi bị tước đoạt sự độc lập tinh thần, nguy cơ trở
thành một bộ phận Nhà nước.”
+ Youri Davydov (nhà văn vô thần): “Nói đến bao dung thì dễ dàng hơn đối với
người của Giáo hội, vì họ có một truyền thống lâu đời hàng thế kỷ về điểm này,
còn những người vô thần như chúng tôi chưa biết đến. chúng tôi cứng cỏi, chúng
tôi đã đưa cái bất bao dung lên hàng đầu trong cuộc sống xã hội. Kết quả: Chúng
tôi không cảm thấy bao dung và thương xót đối với con người, con vật và cả
thiên nhiên. Phần tôi, tôi đã phải học cho biết bao dung trong các trại giam
của Statine. Các bạn ngạc nhiên phải không? Điều đó khó, nhưng nếu không, người
ta không sống sót nổi: thiếu thốn, đói khát, những khó khăn của cuộc sống ấy
nối kết chúng tôi lại.” (Nouvelles de Moscou, 30/10/1988).
+ Averintsev (tiến sĩ ngữ học, Hàn lâm viện Khoa học): “Cách thức tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề giữa những con người với nhau là tranh luận tự do mà không trở thành bất hòa, người ta không nhất thiết phải luôn có cùng một ý kiến với nhau mới tôn trọng nhau được. Cuộc sống xã hội không thể có được nếu không có bao dung. Mỗi người có toàn quyền tự do không những theo một niềm tin mình muốn, mà còn tuyên truyền bất cứ một tôn giáo nào hay đổi niềm tin. Không một cán bộ nào có quyền hỏi một ai về niềm tin của họ, đó là vấn đề lương tâm (Lê nin).”
4. Đảng và Nhà nước
Ông Constatin Katchev (trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Liên Xô), trong một cuộc phỏng vấn, khi người ta hỏi: Sau 70 năm cách mạng, có gì thay đổi trong một đất nước vô thần như Liên Xô đối với tôn giáo, ông nói: “Có nhiều thay đổi. Thay đổi chính yếu là nay người tín hữu không còn bị coi như công dân hạng hai nữa (năm 1976, tại Mặt trận Trung ương, tôi cũng đã nói người công giáo Việt nam được coi như công dân hạng hai). Điều này tiếc thay vẫn còn xảy ra một cách quá thường xuyên… Việc Hiến pháp Liên Xô kỳ thị tín hữu và ưu đãi người vô thần phải được chấm dứt. Ngày nay, người vô thần được tự do tuyên truyền, còn các tín hữu thì chỉ được nói về đức tin của
họ trong khuôn khổ nhà thờ mà thôi hoặc chỉ được nói trên báo chí với số ấn
hành rất hạn hẹp. Cần phải làm sao để người không tín ngưỡng và người có tín
ngưỡng đều được quyền như nhau.
+ Nhà nước không thể lấy công quỹ để tài trợ việc tuyên truyền vô thần được, vì đây là tiền của mọi người trong có người tín hữu.
+ Luật mới sẽ cho phép ai muốn học tôn giáo một cách cá nhân hay theo nhóm với sự trợ giúp của linh mục và học hỏi bất cứ ở đâu. Đây là chuyện riêng của công dân. Nhà nước không được xen vào.
+ Luật sẽ loại bỏ việc xin phép lập các tổ chức tôn giáo như các hội đoàn. Một tổ chức tôn giáo (họ đạo, họ đoàn) sẽ được tín hữu tự do thành lập mà không cần xin phép.” (La Republica, 4/3/1989).
Ông Gorbatchev, Tổng thống Liên Xô: “các quyền của con người trong chế độ XHCN không phải là quà tặng của Nhà nước, không phải là việc làm từ thiện của ai… Công cuộc cải tổ đã đặt ra vấn đề về các quyền chính trị của con người… Chúng ta không có quyền để cuộc cải tổ vấp phải tảng đá giáo điều và bảo thủ, vấp phải những thành kiến và những tham vọng riêng của ai đó.” (Saigon Giải phóng, 1/7/1988).
“Không có tính công khai, phê và tự phê, không có dân chủ thì quá trình cải tổ không thể tiến triển được. nó sẽ chết yểu và chúng ta có thể chôn nó ngay trong ngày hôm nay.” (Saigon Giải phóng, 2/7/1988. hội nghị Cộng sản Liên Xô).
“Chúng ta đoạn tuyệt với hệ thống độc đoán quan liêu. Lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội nhân đạo và nhân chủ. Chúng ta từ bỏ việc Nhà nước hóa một cách độc đoán đời sống xã hội, điều đã dẫn đến sự lộng quyền và bất chấp pháp luật. Đảng Cộng sản không giữ độc quyền, không loại trừ khả năng thành lập các Đảng.” (Sàigon Giải phóng, 14/2/90).
Gorbatchev nói với Gioan Phaolô II: “Chúng tôi cần những giá trị thiêng liêng, cần một cuộc cách mạng tinh thần. Đây là con đường độc nhất đưa đến một nền văn hóa mới và nền chính trị mới… Chúng tôi đã đổi thái độ đối với một số vấn đề, ví như tôn giáo, mà chúng tôi đã cư xử một cách đơn giản. Bây giờ, không những chúng tôi nhận định rằng không một ai có quyền can thiệp vào những vấn đề lương tâm cá nhân, nhưng chúng tôi còn nói rằng những giá trị luân lý mà tôn giáo đã làm nẩy sinh ra và đã đúc kết trong hàng thế kỷ, có thể giúp cho công việc đổi mới Đất nước chúng tôi vậy. Những người thuộc nhiều tôn giáo ở Liên Xô, tất cả điều có quyền thỏa mãn nhu
cầu thiêng liêng của họ.” (Time, 11/12/1989).
Với những lời của Gorbatchev, chúng ta có thể thấy được một phong trào sám hối đang được thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô.
B. SÁM HỐI TẠI VIỆT NAM:
Còn ở Việt Nam ta? Việt Nam dĩ nhiên không phải Liên Xô hay các nước Đông Âu. Liên Xô và các nước Đông Âu dĩ nhiên không phải là Việt Nam. Nhưng Việt Nam cũng không sống trên một hành tinh khác. Và con người thì ở đâu cũng như nhau. Con người ở Việt Nam cũng như ở Liên Xô, ở Đông Âu cũng khát vọng sống, cũng khát vọng tự do thực sự, hạnh phúc thực sự, dân chủ thực sự.
Sau đây tôi xin trích những phát biểu, những ý nghĩ của báo chí, các nhân vật của Đảng, Quốc hội, Nhà nước. Quân đội về thực trạng tồi tệ của đất nước và những ưu tư, trăn trở, một ít ân hận, nhưng chưa có sám hối vì chưa thấy có gì đổi mới thực sự.
1. Báo chí Việt Nam và các nhà văn
+ Trước hết báo chí
Tự do báo chí rất giới hạn và như một người làm báo thú nhận trong một cuộc hội thảo về dư luận báo chí, cho đến nay chỉ có những công chức làm báo, chưa có nhà báo thực thụ. Tuy vậy trong mấy năm qua, đã có nhiều lời ‘nói thẳng nói thật’ hơn trước về tình trạng sa sút trên mọi địa hạt đời sống xã hội.
Chỉ trong tháng ba vừa qua, sau khi vụ ‘Đường Sơn Quán’ đổ bể do báo tuổi trẻ nêu lên, nhiều cán bộ cao cấp dính trong vụ ăn chơi trác táng như chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thủ Đức, Trung tá Phan Thanh, Trưởng ban hình sự của TP và nhiều nhân vật khác, một bài của báo Saigon Giải phóng (1/3/1990) đã yêu cầu loại trừ những bướu độc: Đảng và Nhà nước phải kiên quyết loại trừ ngay các cơ quan Đảng, chính quyền mọi cấp, những cán bộ thiếu khả năng, kém phẩm chất đạo đức, đang biến chất, tha hóa, xa rời quần chúng, quan liêu, đứng trên dân. Đây là những cán bộ có chức quyền, và từ những chức, những quyền ấy, họ biến đặc quyền, đặc lợi trở thành hiện tượng nghịch tình nghịch lý trước đời sống của đa số cán bộ công nhân viên chức và nhân dân còn nhiều mặt khó khăn. Mọi người thừa biết, để có được cuộc sống giàu sang một cách phi đạo lý, những cán bộ này đã lấy tiền ở đâu? Đó là kết quả của những
hành động ăn cắp của công, tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu mà họ đã lạm
dụng chức quyền để làm.
Ngay trong tháng giêng 1990, một bài khác cũng của báo Saigon Giải phóng (18/1/1990) cũng đã phơi bày tệ nạn ăn chơi phung phí của cán bộ. Sau khi đề cập đến cuộc sống vất vả của một giáo viên phải đi sửa xe ban đêm, một nữ sinh không dám sinh con thêm vì thiếu sữa, bài báo nói tiếp: “Họ là giáo viện, y tá, kỹ sư, công nhân, bộ đội và những người lao động bình thường khác có cuộc sống thật vất vả. Nhưng bên cạnh đó, cũng trên một đất nước và một thành phố có nhiều lo toan, đã và đang tồn tại một cuộc sống khác, xa hoa và phung phí không thể tưởng tượng nổi. Kiểu ăn chơi bạt mạng, quái đản và trụy lạc của nhóm này đối nghịch một cách mỉa mai với cuộc sống bươn chải và khiêm tốn của đa số còn lại. Dân có tiền đang tạo ra hình ảnh của một thế giới trong một thế giới. Họ là ai? Giai cấp mới, giới thượng lưu mới, hiện nay thẳng tay vung tiền qua cửa sổ, những người dám bỏ ra bạc triệu để mua vui, mà tiền là tiền của Nhà nước, của nhân dân. Bằng những thủ đoạn lừa bịp tinh vi, bằng những sự liên kết và che giấu lẫn nhau trên cơ sở đôi bên đều có lợi, những phần tử xấu trong cán bộ công nhân viên Nhà nước đã lợi dụng những kẻ hở để tha hồ bòn rút đục khoét công quỹ.”
+ Các nhà văn
Nhiều nhà văn như Dương Thu Hương (Những thiên đường mù), Trần Mạnh Hảo (Ly thân) đã tố cáo những vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản Việt Nam.
1. Đảng và Nhà nước
– Ông Trần Bạch Đằng phát biểu: “Kinh nghiệm cay đắng ở từng loạt quốc gia XHCN cho thấy một khi Đảng đã rơi vào bệnh kiêu ngạo tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng, tất cả đều xuất phát từ ‘ơn Đảng’, từ sự minh mẫn đến độ thần thánh
thì cái bờ vực đang chờ một sẩy chân nho nhỏ vùi lấp mọi ánh hào quang…
Đảng chưa dùng sức mạnh quần chúng để chấn chỉnh Đảng, nhất là về tổ chức, nhân sự… đề cương (Trung ương Đảng) chưa thoát khỏi cách hiểu ngầm: quần chúng kém, Đảng phải vận động để nâng tầm quần chúng lên. Tất nhiên điều đó có thật, song nếu đặt mối tương quan một cách biện chứng thì cái mà không ít Đảng viên lạc hậu hơn quần chúng về trí thức, nhiệt tình và phẩm chất giữ vai trò không nhỏ trong hiệu quả của công tác vận động quần chúng…
Về các tổ chức quần chúng Công giáo, có một lầm lẫn đáng tiếc: Ủy ban Đoàn kết Công giáo là một đoàn thể trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) là một tôn giáo. Đề cương không nêu chính sách đổi mới với các đối tượng này (về quan điểm) mà đi vào các tổ chức quả là không thỏa đáng.
Riêng nhận thức về Mặt trận của đề cương quá lạc hậu với hiện thực…
Đảng CS gồm những người vô thần, trong khi xã hội còn tôn giáo, còn tín ngưỡng và sẽ còn lâu, ngoài việc tìm chỗ có thể thỏa hiệp về chính trị, chúng ta đâu còn con đường nào khác?” (Nhân dân, 5/3/1990).
– Ông Nguyễn Cơ Thạch trả lời tạp chí Quan hệ Quốc tế: “Chế độ XHCN vì dân, đó là mục đích dân chủ nhất, nhưng cách làm tập trung quan liêu bao cấp đã đi ngược
lại mục đích dân chủ và đẻ ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lạm dụng quyền
hành, ức hiếp nhân dân lao động. Một chế độ vì nhân dân nhưng nhân dân không có
quyền dân chủ về kinh tế, cơ sở của quyền làm chủ về chính trị… Loài người đã
kéo dài cuộc sống man rợ trong 2 triệu năm với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc và không có trao đổi. 10 ngàn năm qua loài người đã thực hiện bước nhảy vọt
nhờ nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nếu nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc đã
kềm hãm sự phát triển của xã hội loài người trong 2 triệu năm thì có thể nói
nền kinh tế tự cấp tự túc cũng đã kìm hãm sự phát triển của các nước xã hội chủ
nghĩa trong hơn 70 năm qua.” (Thanh Niên, 4/2/1980). (Tự túc: chặt cà phê để
trồng lúa, lời thú tội ghê gớm).
– Đại tướng Lê Đức Anh (Bộ Chính trị) đã nói về dân chủ: “hầu như mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, hiện tượng dân chủ hình thức quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chuyên quyền, trù dập ức hiếp nhân dân, đặc quyền đặc lợi, không quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của quần chúng đang còn diễn ra phổ biến. Nhiều tiếng kêu
oan của người dân vẫn chưa được giải quyết. Trong quân đội thì truyền thống tốt
đẹp chính trị, dân chủ có lúc như bị lãng quên. Những hiện tượng mất dân chủ
nghiêm trọng… đương nhiên bị quần chúng phản đối một cách chính đáng, không
nên vội cho là xấu, là địch.” (Tạp chí Quốc phòng).
-Ông Lê Quang Đạo (Chủ tịch Quốc hội) nói đến độc tài: “Thường là Đảng quyết
định mọi cái. Trong thực tế, không phải là Đảng, mà cấp ủy, không phải là cấp
ủy, mà là một nhóm người có khi chỉ có một cá nhân quyết định, dẫn đến độc tài
chuyên chế, đặc quyền đặc lợi, sinh ra một tầng lớp cầm quyền đứng trên nhân
dân, đối lập với nhân dân, tạo ra những bất công xã hội khiến quần chúng chống
lại… Đảng bị quan liêu hóa nhưng bắt dân vẫn tuân theo mình, vì trong tay có
quyền lực, quyền thì có nhiều hơn, nhưng năng lực và đạo đức có khi không bằng
dân.”
– Ông Phạm Văn Đồng (nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) ngày nhận huân chương Sao Vàng (84 tuổi), ông nói: “cái nhà của chúng tôi hiện nay đang nhiều rác
rưởi và dơ bẩn làm cho quần chúng nhân dân phẫn nộ một cách chính đáng; trong
tình hình như vậy việc chúng ta phải đặt lên hàng đầu công tác quét cái nhà của
chúng ta, quét mọi rác rưởi và dơ bẩn, làm cho nó ngày càng sạch sẽ.” (Nhân
dân, 2/3/1990). (Cột kèo mục nát phải thay?).
– Ông Trần Xuân Bách (Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng) nói về lạm dụng
quyền lực mà thiếu năng lực tại Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật, ngày 13/12/1989: “Nguyên nhân khủng hoảng là lãnh đạo sai lầm, vi phạm
dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì tuệ, đổi mới lệch lạc, đội ngũ Đảng viên cán bộ
thoái hóa hư hỏng… Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời
đại, không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo. Không thể dùng quyền
lực thay cho năng lực. Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là
cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhọ thì phải rửa mặt đi chứ không phải đập vỡ
gương…”
– Ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư) nói về sự thiếu quan tâm đến lợi ích quần
chúng: “Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ngày nay truyền thống tốt đẹp đó (quan
tâm giải quyết các lợi ích thiết thân của quần chúng), đang bị vi phạm nghiêm
trọng và phổ biến. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm đó là bệnh
quan liêu của cán bộ và bộ máy, kể cả bộ máy chuyên trách công tác quần
chúng. Hiện nay, cuộc sống bức bách đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ nguyên
tắc vấn đề mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, đổi mới căn bản công tác vận
động quần chúng cho phù hợp.” (Diễn văn dịp 60 năm thành lập Đảng).
Ông Nguyễn Văn Linh còn nói về nguy cơ của Đảng cầm quyền. Tại Hội nghị 5 Trung ương Đảng, ông nói: “Lê nin đã dạy chúng ta không biết bao nhiêu lần là phải cảnh giác đề phòng những nguy cơ dễ xảy ra đối với một Đảng cầm quyền. Trước hết đó là bệnh quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân dân, lên mặt là quan cách mạng. Họ chỉ biết suốt ngày thảo hết tờ công văn này đến chỉ thị khác, ngập đầu trong các giấy tờ, hoặc đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động và sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ
chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng,
về lý tưởng cộng sản; nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc cụ
thể nào cho ra hồn. Lê nin đã chế nhạo là sẵn sàng đổi một tá người cộng sản
như vậy để lấy một chuyên gia tư bản…
Một căn bệnh khác: đồng tiền. Khi có quyền lực và nắm của cải trong tay, thèm khát đồng tiền, chiếm công vi tư, đục khoét của cải của nhân dân, xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc trắng trợn. Cần cảnh giác với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh và có lợi. Lúc thuận lợi thì lao xông vào để kiếm chác, lúc khó khăn thì lảng tránh cốt giữ lấy thân. Họ sống là mặt lá
trái đổi chiều theo hướng gió, miễn là đạt được mục đích vị kỷ cá nhân… Tình
hình mất đoàn kết trong Đảng, kèn cựa địa vị, đầu ốc gia trưởng độc đoán…
Không nghe quần chúng, nhất là khi ý kiến của quần chúng không thuận tai mình,
đặc biệt khi được họ phê bình, chỉ ra những thiếu sót. Từ chỗ thiếu dân chủ đến
dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.” (Saigon Giải phóng,
24/6/1989).
C. NHẬN ĐỊNH:
Nhưng chưa đặt vấn đề căn bản mà Liên Xô và các nước Đông Âu đã đặt thì Việt Nam chưa có sám hối. Cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ cách lấy lại lòng dân và củng cố quyền lãnh đạo của Đảng. Chưa đặt vấn đề nhân quyền cũng như vấn đề cơ cấu phải đổi mới.
Trước tiên, chưa đặt vấn đề nhân quyền bị vi phạm trầm trọng và quyết tâm sửa chữa. Đây không phải là vấn đề của cán bộ này, cán bộ khác biến chất, tiêu cực, nhưng là vấn đề chính sách, đường hướng chung. Không phải kêu gọi quét sạch rác rưởi, mà là vấn đề nền tảng, vách tường, cột kèo của ngôi nhà để nhân dân yên tâm sống dưới mái nhà đó.
Vấn đề thứ hai là vấn đề cơ cấu dân chủ. Dân làm chủ, dân kiểm tra, nói để mà nói, chứ thực chất chả có làm chủ kiểm tra gì cả.
Trong một cuộc sống trao đổi với một vị giữ một chức vụ trong Trung ương Đảng, tôi có nói: “Người dân như chúng tôi không đặt vấn đề ý thức hệ. Nhưng đặt vấn đề Đảng và Chính quyền có tôn trọng nhân quyền và dân quyền không. Người dân chỉ ủng hộ Chính quyền nào tôn trọng nhân quyền và dân quyền của họ.”
Cho tới nay, nhân quyền và dân quyền đã bị vi phạm nặng nề tại Việt Nam.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc mà tôi đề cập hôm qua đã được Việt Nam chấp nhận. Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu lên những quyền căn bản của con người và của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình (đ.67); quyền tự do tín ngưỡng (đ.68); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (đ.69); quyền được luật pháp bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm (đ.70); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm, quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng (đ.71).
Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như vậy đó, thế mà nhìn vào thực tế, người dân như chúng ta thấy đau xót.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở đâu? Báo chí là ‘công cụ của Đảng’ kể cả một tờ như Công giáo và Dân tộc chẳng hạn. Chỉ có một tiếng nói. Không nói được hết sự thật, có nói được một chút sự thật là bị chặn lại. Có ai nói khác Nhà nước thì bị chụp mũ đủ thứ. Năm 1988, nhân vụ phong thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, tôi phải lên làm việc với ông Giám đốc văn hóa và Thông tin vì một bài đánh máy vài ba trang; năm 1989 tôi cũng cùng năm anh em khác, hai linh mục, ba giáo đã phải làm việc với Công an và bị hù dọa đủ thứ chỉ vì hai lá thư góp ý với Hội đồng Giám mục Việt Nam và
với Đức Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn.
Tự do hội họp? Tôi cùng sáu anh em gặp nhau trao đổi về đời sống Giáo hội thì bị kết tội hội họp, lập hội mà không xin phép.
Tự do tín ngưỡng? Chỉ có tự do vô tín ngưỡng, tự do viết báo, viết tiểu thuyết rẻ tiền để bêu xấu Giáo hội. Nhiều nơi, việc lễ lạy bị ngăn cản, hạn chế làm khó dễ. Các chủng viện bị hạn chế đủ thứ để Giáo hội không đủ linh mục phục vụ giáo dân. Việc đặt các giám mục gặp bế tắc như vụ Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này qua xứ khác không phải dễ dàng. Các linh mục di chuyển gặp khó khăn. Việc giảng dạy giáo lý bị hạn chế. Chỉ có vô tín ngưỡng, vô thần được tự do tuyên truyền, được Nhà nước đài thọ. Tình hình đó đưa tới một thực tế bi thảm: sách báo nhảm nhí, truyện tàu kể cả dâm thư như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng tràn ngập vỉa hè thành phố, trong khi đó, phải mỏi mắt mớ tìm ra một quyển sách đạo in dấm dúi bằng ronéo. Các nữ tu mở lớp mẫu giáo chẳng được bao nhiêu mà còn là lớp chui,
còn các quán bia ôm, cà phê ôm thì tràn ngập thành phố với đèn màu nhạc nổi
tưng bừng.
Tự do tôn giáo là thế đó. Còn quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tất cả những quyền ấy có được tôn trọng không? nhiều vi phạm trắng trợn. Đến đây tôi không thể không nghĩ đến cái đêm rùng rợn (25/1/1978), năm tu viện vùng Thủ Đức đã bị ốp, tất cả các tu sĩ bị trục xuất khỏi nhà, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, vì cớ nọ cớ kia không có gì đáng tội, tu sĩ nọ linh mục kia bị bỏ tù. Mà đây chỉ là
một việc điển hình. Biết bao chuyện đau thương khác đã đến với người dân.
Kính thưa anh chị em,
Với cái nhìn tổng quát về cuộc sám hối từ Liên Xô qua CHXHCN Việt Nam, chúng ta thấy Liên Xô và các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối bằng cách đổi mới. CHXHCN Việt Nam có ân hận đó nhưng còn loay hoay chưa biết phải sám hối bằng cách đổi mới như thế nào, đổi mới dỏm hay đổi mới thật.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước ta, để một cuộc sám hối thật đến với dân tộc Việt Nam hầu đem lại tự do và hạnh phúc cho toàn dân.
Trên đất nước ta, ‘giữa lòng dân tộc’ này, quả là chưa có sự sám hối thật sự để cho ngày mai trên đất nước, tương lai của dân tộc sáng sủa hơn.
Tuy nhiên, tôi vẫn muốn kết thúc ba ngày tĩnh tâm này bằng một tia hy vọng, bằng một nốt nhạc vui. Chúng ta vẫn đón chờ Chúa sống lại cơ mà.
Nốt nhạc đó, tia hy vọng đó, anh chị em sẽ nhận thấy qua sự khác biệt giữa hai mẩu tin của báo Saigon Giải phóng, báo của Đảng. Một mẩu tin ngày 16/5/1985 đầy ác cảm với Giáo hoàng Gioan Phaolô II và một mẩu tin trên số báo ra đúng ngày hôm nay (11/4/1990) đầy thiện cảm.
Mẩu tin năm 1985 nói đến hàng trăm thanh niên Hòa Lan thuộc nhiều Đảng phái tổ chức biểu tình phản đối Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nào là ném trứng thối, chai lọ, gạch đá; nào là Ngài có ý đồ xấu trong việc đi thăm một số nước và kết thúc bản tin: “Uy tín của Ông chưa lúc nào tồi tệ đến thế.” Bản tin này đã được tuần báo Công giáo và Dân tộc vui mừng phụ họa và chế diễu những người Công giáo bất bình với bản tin độc nhất xưa nay của báo chí về Giáo hoàng.
Mẩu tin sáng nay về Olimpic ở Roma: “Ban tổ chức (Olimpic) cho biết vào ngày 29/5, lễ bàn giao sân Olimpic sẽ có mặt Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến để ban phép lành cho sân Roma. Lúc còn trẻ, Giáo hoàng từng chơi bóng đá trong vai trò thủ môn. Ngày nay Ông vẫn thường xuyên theo dõi bóng đá qua truyền hình nhất là các trận đấu có đội tuyển Ba Lan quê hương Ông.”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hy vọng nước Việt Nam ta sẽ đổi mới trong tinh thần tôn trọng các quyền căn bản của con người và của người dân, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Giáo hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam không tranh quyền bính với ai, chỉ muốn phục vụ con người, kể cả phục vụ cho đến hy sinh mạng sống mình, như Đức Kitô.
Lm. Chân Tín
(11.4.1990)
httpv://www.youtube.com/watch?v=ex2u1IXnejA
httpv://www.youtube.com/watch?v=Z8z2k483Ij4
httpv://www.youtube.com/watch?v=S7C4_kX2bao&list=PL02769DBACE4CD16F&index=14
Tham Nhũng: VN Hạng 123
(12/06/2012)
nguồn:Vietbao.com
Vào hôm Thứ Tư 5/12/2012, tổ chức chống tham nhũng có uy tín trên thế giới là Transparency International – Minh bạch Quốc tế – trụ sở tại Đức, đã công bố bản Chỉ số Tham nhũng CPI thường niên, xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về mức độ tham nhũng được ghi nhận.
RFI ghi nhận rằng, trong danh sách năm 2012 này, Việt Nam chỉ xếp thứ 123 tụt
hơn 10 hạng so với năm ngoái.
Chỉ số CPI, tên tắt của Corruption Perception Index là một số liệu tổng hợp,
dựa trên các thống kê, điều tra, thăm dò khác đã được công bố trong năm về tình
hình tham nhũng tại một quốc gia nhất định.
Đây không phải là một chỉ số xếp loại tình trạng tham nhũng thuần túy, mà chỉ
là con số nêu bật cảm nhận – chẳng hạn như của các doanh nhân ngoại quốc – về
tình hình tham nhũng tại một nơi.
RFI nói, trên danh sách 176 được Minh bạch Quốc tế xếp hạng năm nay, theo thứ
tự từ «trong sạch» nhất đến «tham nhũng» nhất, như vậy là Việt Nam đứng thứ
123, bị thụt lùi 11 hạng so với bảng xếp hạng năm ngoái, khi Việt Nam được xếp
thứ 112, và trên tổng số 183 quốc gia.
Trong phạm vi khu vực Đông Nam Á, Việt Nam lẽ dĩ nhiên thua xa Singapore, nước
thường xuyên đứng trong các thứ hạng đầu của các nước trong sạch nhất. Năm nay
Singapore xếp thứ 5 trong danh sách, chỉ thua Đan Mạch, Phần Lan, New Zealand
và Thụy Điển.
Việt Nam cũng thua Brunei (hạng 46), Malaysia (hạng 54), Thái Lan (88), thậm
chí thua cả Philippines (hạng 105) và Indonesia (hạng 115), hai nước thường bị
tiếng tăm vì tham nhũng. Philippines chẳng hạn, trong năm 2011, còn đứng dưới
Việt Nam với hạng 129, nhưng năm nay đã qua mặt Việt Nam.
RFI ghi thêm, rằng trong bản xếp hạng CPI năm 2012, Việt Nam vẫn hơn ba nước
còn lại trong vùng, bị rớt vào diện các quốc gia bị xem là tham nhũng nhất thế
giới : Cam Bốt (hạng 157), Lào (hạng 160) và Miến Điện (hạng 172).
Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau
Ngã ba Thạch Trụ (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi), 10h47 sáng 18/10, một người đàn ông xuống xe khách ôm chầm lấy một phụ nữ khóc nức nở. Nhiều người đi đường đứng lại và không cầm được nước mắt.
Họ là hai anh em ruột mồ côi, lạc mất nhau đã 48 năm.
Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc –
Ảnh: Hữu Khá
Cả đêm hôm trước bà Võ Thị Tới không ngủ. Sáng sớm 18-10, bà cùng chồng ra ngã ba Thạch Trụ chờ chuyến xe chở ông Võ Văn Tiếp từ Đà Nẵng vào. Xe dừng ở ngã ba đường, Tiếp – Tới, hai anh em mồ côi từ lúc mới chào đời, gặp nhau trong nước mắt sau dọc dài gian khó quãng đời lưu lạc…
Cháy nhà… mất em
Chuyến xe hôm ấy từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi như chở cả một đời lưu lạc về với hai anh em. Ông Tiếp bước lên xe tay run run khi điện thoại liên tục nhận được cuộc gọi từ Quảng Ngãi giọng nôn nóng “anh tới chưa”?. “Anh đang gần tới rồi em” – ông Tiếp nói xong, mặt nhìn ra phía cửa xe giấu đi dòng nước mắt đang tuôn dài.
Họ lạc mất nhau năm 1964, chỉ ít lâu sau ngày ba mẹ lìa trần. “Sáng ấy, cha mẹ tôi ra đồng thì bị trúng đạn chết. Lúc này tôi mới chập chững lên ba. Em gái tôi mới biết bò dưới nền đất” – ông Tiếp ngậm ngùi. Sau ngày kinh hoàng đó, hai đứa trẻ lăn lóc về
nhà người cô ruột. Sống cơ cực với người cô chỉ được ít lâu. Một hôm vào ngày
đầu hè, giữa lúc chập choạng tối, Tiếp cầm đèn vào góc nhà tìm em. Dại dột bỏ
đèn bên mép cửa, ngọn lửa bén mái tranh. Hoảng sợ, Tiếp lôi xịch em gái ra núp
ngoài bụi tre. Căn nhà cháy rụi thành tro cũng là phút giây hai đứa chia lìa.
Đêm đó, hai đứa lạc mất nhau. Em gái được bà ngoại ẵm về nuôi nấng. Còn Tiếp lại lăn lóc theo bước đường tha phương cầu thực của người cô về vùng Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Ở với cô được một thời gian nữa, Tiếp được cho đi ở đợ chăn trâu. Tiếp lớn lên với mấy đứa bạn chăn trâu hàng xóm. Mười ba tuổi, Tiếp đã vào rừng oằn lưng gánh củi về. Đêm xuống chui vào căn nhà sát chuồng trâu để qua bao mùa gió rét thấu xương.
Ở đợ đến năm 1982, khi ấy Tiếp tròn tuổi 22. Đứa trẻ chăn trâu không cha mẹ đã bắt đầu nhận ra thân phận của mình. Tiếp muốn ra đi, đi khỏi làng. Từ đó, trong căn chòi nhỏ bên mép chuồng trâu không đêm nào Tiếp ngủ được. Giữa đêm dài lạnh buốt với thao thức “đi khỏi làng”. Nhưng đi về đâu và lấy gì mà đi cứ dằn vặt mãi. Càng suy nghĩ, Tiếp càng bế tắc. Thả trâu trên đồng, Tiếp tranh thủ đi mót lúa. Gần năm trời
Tiếp dồn được nửa thùng phuy lúa, đem bán. Chiều hôm trước bán được lúa là sáng
hôm sau anh giã từ bạn bè lên đường không để lại một dấu tích.
Mùa hè năm 1982, con đường vào Nam của Tiếp dừng lại ở vùng Trảng Bom (Đồng Nai). Đến nơi, ngày ngày Tiếp đi làm thuê cho người ta, tối đến căng bạt bên vệ đường nằm ngủ. Như trời sắp đặt, năm năm sau Tiếp gặp một cô gái mồ côi, bén duyên vợ chồng. Họ sống với nhau trong cơn đói khó, có hai mặt con.
“Tôi còn một người anh”
Còn Tới, về sống với ngoại. 16 tuổi, ngoại mất. Tới lên đường đi tìm anh nhưng hành trang mang theo chỉ là cái tên của người anh trai. Ban đầu Tới dạt lên Tây nguyên nhưng không lần ra manh mối. Cô xuôi về vùng núi Tánh Linh (Bình Thuận) làm thuê kiếm tiền nuôi ước mơ tìm anh. Đường đời khốn khó cũng chắp nối những mảnh đời vỡ vụn lại với nhau.
“Anh ơi, đưa cha mẹ về nhà” Cha mẹ ông Tiếp, bà Tới chết không mồ mả. Bao năm nay bát nhang được gửi lên chùa. “Mấy năm nay, cứ đến ngày 12-6 âm lịch, vợ em làm mâm cơm đặt trước sân nhà khấn vái rồi khóc ngất” – ông Quang kể với ông Tiếp. “Anh ơi, mai mốt mình đưa cha mẹ về nhà anh. Cha mẹ chết đã không mồ mả, bát nhang để trên chùa lạnh lẽo lắm” – bà Tới đổ nhào vào người ông Tiếp lại khóc. |
Tới gặp một chàng trai cũng mồ côi cha mẹ từ lúc 2 tuổi, không anh em, quê ở Quảng Ngãi lạc bước vào Bình Thuận. “Nhiều đêm vợ tôi nằm khóc nức nở. Cô ấy bảo còn người anh trai nhưng không biết sống hay chết. Thương vợ, nhưng cơm con ăn còn chưa đủ biết lấy tiền đâu đi tìm” – ông Quang, chồng bà Tới kể. Thương anh đến cháy lòng, bà Tới không tìm thấy anh nhưng vẫn nuôi hi vọng anh mình còn sống. Có hôm ra xã làm giấy tờ, Tới điền vào lý lịch “tôi còn một người anh”. Khi người công an bảo
phải ghi rõ anh họ tên gì, ở đâu, Tới bảo “không biết” rồi cúi xuống bàn ôm mặt
khóc.
Còn ông Tiếp, cuộc đời nghèo túng và sự mặc cảm cản bước đường ông trở lại xóm chăn trâu. Con đường tìm em xa mịt mù. Đã bao lần ông dự tính tìm em nhưng bất thành. Rồi một hôm, bất ngờ có một người khách lạ xuất hiện. Tiếp đứng sững người, nước mắt trào ra khi trước mặt mình xuất hiện một người bạn. Tiếp gọi lớn “thằng Vân chăn trâu”, rồi hai người ôm chặt lấy nhau. Vân dưới Sài Gòn lên tìm bạn. Thấy ông Tiếp nghèo khó, từ đó mỗi lúc rảnh rỗi ông Vân hay lên xuống Trảng Bom giúp ông
Tiếp. Rồi một ngày đầu tháng 10-2012, ông Vân lên Trảng Bom chơi. Gặp lại bạn,
ông Vân nói: “mình về tìm lại mấy đứa chăn trâu coi thử nó sống chết răng rồi”.
Hai đứa con gái ông Tiếp đứng bên thấy cha khóc, đêm đó động viên ông phải trở
về. Sáng hôm sau đứa con gái lớn chạy đi mua cho cha bộ đồ mới.
Cuộc gặp nghẹt thở
Về chốn cũ xã Hòa Liên (Đà Nẵng), mọi thứ đã đổi thay. Mấy đứa bạn thuở chăn trâu giờ trên tuổi 50. Chiều hôm ấy họ đứng chết lặng nhìn nhau, nhận ra nhau qua vết sẹo trên mặt. Đêm xuống, cạn chén rượu mừng ngày gặp lại. Đến giữa khuya khi chén rượu đã tàn, sương đêm xuống. Bỗng nhiên Tiếp ngẩng mặt lên trời dốc ngược cạn ly rượu, ôm mặt khóc đau đớn: “Tau còn đứa em gái, không biết nó còn hay chết ở phương nào”. Mấy người bạn động viên ông Tiếp giờ đi tìm em cũng như lạc vào đêm tối, bởi người em lưu lạc 48 năm không để lại dấu tích gì, biết bắt đầu từ đâu. Vậy
mà giữa đêm tối như nói trong cơn say, ông Điều, một bạn nối khố thời chăn trâu, vừa khóc vừa nói hồn nhiên như đứa trẻ: “Thôi mi đừng khóc nữa, mai tau dẫn đi tìm…”.
Câu nói như động viên bạn hóa ra lại bắt đầu một cuộc tìm kiếm, gặp gỡ kỳ lạ. Sáng hôm sau, ông Điều chở bạn đến xã Hòa Tiến, bởi hồi chăn trâu nghe loáng thoáng quê ngoại ông Tiếp ngày xưa ở đó. Họ đi tìm em nhưng chẳng có thông tin gì ngoài tên cha mẹ mình đã chết, không di ảnh, không mồ mả.
Đến đầu làng, ông Tiếp dừng xe tấp vào quán nước gặp một bà lão. Ông Tiếp nói với bà lão tên cha mẹ mình. Bất ngờ bà bảo “vợ chồng nhà nó chết trẻ, bỏ lại hai đứa con nhưng không biết hai đứa đó giờ sống chết ra sao”. Ông Tiếp run rẩy mừng rỡ khi nghe bà lão nhắc đến đó, ông hỏi tới tấp: “Vậy giờ bà có biết dưới làng còn ai thân thích không, con là con trai…”. . Bà lão chỉ tay về phía cuối làng nói: “Con đi về
dưới kia, mợ con còn sống”. Giữa trưa nắng Tiếp bỏ chạy một mạch về làng. ông
đứng trước một bà cụ tuổi đã gần 80 nói “con là Tiếp đây”. Bà lão sửng sốt, quệt mắt chằm chằm nhìn vào ông Tiếp rồi bảo: “Tiếp, Tiếp… con còn sống hả con”. Ngay lập tức bà lão nói như sét đánh vào tai ông Tiếp: “Con còn đứa em gái, con Tới nó lấy chồng về sống trong Quảng Ngãi”. Đứng giữa sân nhà giữa trưa đứng bóng, ông Tiếp nhìn lên trời khóc như đứa trẻ.
Tin ông Tiếp trở về, phút chốc đã đến tai người em. Chỉ ít phút sau, máy điện thoại ông đổ chuông với số lạ. Đầu dây bên kia chỉ kịp nói “em Tới đây” rồi khóc, khóc nghẹn ngào. Sáng hôm sau ông đón xe vào Quảng Ngãi. Đứa em gái cũng ra đứng ở ngã ba đường chờ ông. Chiếc xe khách vừa trờ tới ngã ba Thạch Trụ, ông Tiếp bước xuống. Phía bên kia đường một phụ nữ lao ra siết chặt bấu víu vào vai ông khóc ngây dại: “Anh đi đâu mà không tìm em”.
Hữu Khá
nguồn: Chị Helen Hương Nguyễn gởi
Tác giả RYAN EGGENBERGER