Thánh Gioan Thánh Giá

Thánh Gioan Thánh Giá

(1541 – 1591)

14 Tháng Mười Hai

 

Gioan là thánh vì cuộc đời ngài là một nỗ lực quả cảm dám sống trọn vẹn với tên của ngài: “Gioan của Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá cuối cùng đã được thể hiện. Câu
nói bất hủ của Ðức Kitô: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo ta” (Máccô 8:34b) là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan. Mầu
Nhiệm Vượt Qua — từ sự chết đến sự sống — đã được thể hiện trong cuộc đời
Thánh Gioan như một người cải cách, một nhà thơ thần bí và là một linh mục thần
học.

Sinh ở Tây Ban Nha năm 1542, Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ. Cha ngài đã hy sinh của cải, danh vọng và sự an nhàn khi kết hôn với cô con gái của người thợ dệt và vì lý do đó đã bị gia đình từ bỏ. Sau khi cha ngài từ trần, mẹ ngài cố gắng đùm bọc gia đình trong khi họ lang thang đầu đường xó chợ để kiếm
việc làm. Những tấm gương hy sinh ấy đã giúp Gioan theo đuổi tình yêu vĩ đại
của chính ngài dành cho Thiên Chúa.

Dù gia đình đã tìm được việc làm, nhưng vẫn không đủ ăn nên Gioan phải lang thang giữa thành phố giầu có nhất Tây Ban Nha. Năm mười bốn tuổi, Gioan được nhận vào làm việc trong bệnh viện với nhiệm vụ trông coi các bệnh nhân bị chứng bệnh bất trị hoặc bị điên dại. Chính trong sự đau khổ và nghèo nàn này, Gioan đã nhận biết và đã đi tìm hạnh phúc không ở nơi trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa.

Sau khi Gioan gia nhập dòng Camêlô, Sơ Têrêsa Avila nhờ Gioan tiếp tay trong công việc cải cách. Cả hai đều tin rằng nhà dòng phải trở về với đời sống cầu nguyện. Nhiều tu sĩ Camêlô cảm thấy bị đe dọa bởi sự cải tổ này nên một số tu sĩ đã bắt cóc thánh
nhân. Ngài bị nhốt trong một xà lim nhỏ hẹp và bị tra tấn ba lần một tuần bởi
chính các tu sĩ dòng. Trong cái tăm tối, lạnh lẽo, và cô quạnh của xà lim, tình
yêu và đức tin của ngài bừng lên như lửa. Ngài mất hết tất cả ngoại trừ Thiên
Chúa — và Thiên Chúa đã đem cho ngài niềm vui vĩ đại trong cái xà lim nhỏ bé
đó.

Sau chín tháng tù đầy, Cha Gioan vượt ngục bằng lối cửa sổ duy nhất của xà lim mà ngài đã leo lên đó bằng sợi dây được kết bằng tấm vải trải giường, và đem theo tất cả các bài thơ huyền nhiệm mà ngài sáng tác trong thời gian tù đầy. Vì không biết mình đang ở đâu, ngài phải theo một con chó để đi vào thành phố. Ngài trốn trong bệnh xá
của một tu viện và ở đây ngài đọc thơ cho các nữ tu nghe. Từ đó, cuộc đời ngài
tận tụy cho việc chia sẻ và dẫn giải tình yêu Thiên Chúa.

Lẽ ra cuộc đời nghèo khổ và tù đầy đã biến ngài thành một con người yếm thế cay đắng. Nhưng ngược lại, ngài đã trở thành một người đam mê bí ẩn, sống với sự tin tưởng rằng “Có ai thấy người ta yêu mến Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu?” và
“Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu — và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.”

Vì niềm vui chỉ xuất phát từ Thiên Chúa nên Thánh Gioan tin rằng những ai tìm kiếm hạnh phúc ở trần gian này thì giống như “một người đang chết đói mà há miệng đớp lấy không khí.” Ngài dạy rằng chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợi dây dục vọng thì
chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa.

Là một tu sĩ dòng Camêlô, ngài cảm nghiệm sự thanh luyện tâm linh; là vị linh hướng, ngài cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác; là một thần học-tâm lý gia, ngài diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài. Hầu hết các văn bản của ngài đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật,
con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện.
Một cách độc đáo và mạnh mẽ, Thánh Gioan nhấn mạnh đến sự mâu thuẫn của Phúc
Âm: Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn
đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên
Chúa. Nếu bạn muốn giữ mạng sống mình thì bạn sẽ mất. Thánh Gioan quả thật là
người “của Thánh Giá.” Ngài từ trần năm 49 tuổi — cuộc đời thật ngắn
ngủi, nhưng trọn vẹn.

Lời Bàn

Qua cuộc đời và văn bản, Thánh Gioan đã để lại cho chúng ta những lời quan trọng. Chúng ta muốn giầu có, an nhàn, thoải mái. Chúng ta không muốn nghe những chữ như hy sinh, hãm mình, thanh luyện, khắc khổ, kỷ luật. Chúng ta chạy trốn thập giá. Thông điệp của Thánh Gioan — cũng như trong Phúc Âm — thì thật rõ ràng: Ðừng chạy trốn — nếu bạn thực sự muốn có sự sống!

Lời Trích

Thomas Merton nói về Thánh Gioan như sau: “Cũng như chúng ta không thể tách rời sự khắc khổ với sự huyền bí thì nơi Thánh Gioan Thánh Giá, chúng ta tìm thấy sự tăm tối và ánh sáng, sự đau khổ và niềm vui, sự hy vinh và tình yêu kết hợp với nhau thật chặt chẽ đến nỗi dường như lúc nào cũng chỉ là một.

Maria Thanh Mai gởi

JACARANDA,

JACARANDA,http://www.nguyenkhapnoi.com/files/2012/11/3.-Together.jpg

Tím rực ngàn hoa tím dễ thương,
Phượng nở năm nay đẹp dị thường
Lạc bước đồi cao trưa lặng lẽ,
Chợt thấy bâng khuâng nẻo vấn vương…
Mùa lên rộng mở tâm thanh thản,
Gió nhẹ nhàng chao mộng mới sang,
Lữ khách nhàn du ngắm sắc hoa,
Đẹp quá đi thôi …chẳng vội vàng…
Ai về xứ Việt quên hay nhớ,
Thấm đượm rừng chiều một sắc thơ,
Trải lên đồi mộng tâm tình đã,
Để lại đâu đây…nét đợi chờ…
Liverpool.9/12/2012.
Song Như.

Kính tặng quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kim Trọng.

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:24 Sáng 14/12/12

VRNs (14.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ 23/6/1990

Anh Lan mến,

Hôm qua, Công an Tp xuống “làm việc” sáng, chiều, và còn sáng nay. Tóm lại ba buổi
làm việc:

– Sự đóng góp của anh Lan vào ba bài giảng?

– Cho tin về Giáo Hoàng cuối bài 3?

– Soát tài liệu CT trong văn phòng, không có bài giảng, lại thấy trong nhật ký
anh Lan, như thế anh Lan đã góp ý và tài liệu cho bài giảng?

– Đôi khi có nhờ anh ấy tìm cho một tài liệu gì đó, tôi nhớ mà không tìm ra ở
đâu. Đó là bình thường.

– Có tham khảo anh Lan?

-Có đưa cho anh ấy xem. Anh không góp ý vì tôn trọng tôi. Có cho tin tức ngày
Giáo Hoàng ban phép lành cho Roma.

-Về vụ này, anh nói “tia hy vọng” đây là gì?

-Hy vọng giữa Giáo hội và VN có đối thoại trực tiếp không qua trung gian.

-Ai đánh mấy?

-Tôi nhờ cô Diệu, vì là nhân viên của tôi.

-Nhân viên từ hồi nào?

-Đầu tháng 5.

-Cô ấy bảo đã đánh cho anh đã lâu.

-Hồi đó tôi nhờ đôi khi, còn đầu tháng 5, tôi nhận làm nhân viên, nên cô ấy đánh
những gì tôi giao.

-Liên lạc của anh với cô Diệu.

-Câu hỏi kỳ cục. Tôi nhờ đánh máy và liên lạc nhân viên, chớ còn có liên lạc gì
nữa mà hỏi kỳ cục vậy.


Anh biết mẹ cô ta?



Trước cô ta hay sau? Gặp ở đâu?


Sau. Gặp dịp liên hoan tết.


Đánh máy bao nhiêu bản?


Không nhớ.


Đánh để làm gì?


Cho người ta đọc chứ để làm gì?


Cho ai?


Ai cần biết nội dung đích xác.


Ai?


Không nhớ.


Có gửi cho anh Tri bên Pháp?


Không có gửi.


Sao lại có thư cho anh và khen anh? (thư nằm trong hộc).


Thì có ai đó gửi và anh ấy viết về.


Anh quen anh Tri hồi nào?


Năm ngoái.


Bạn của anh Lan?


Vâng.


Thư ấy gửi cho anh Lan hay cho anh?


Tôi không nhớ. Thường gửi cho anh Lan vì hai người ấy bạn thân từ bên Pháp.


Nội dung có hại cho đất nước.


Tôi làm theo lương tâm và vẫn xác tín là tôi làm cho nhân dân và Đất nước. Nếu
Nhà nước cho đó là xấu, thì Nhà nước cứ ra biện pháp, như biện pháp hiện tại.
Vì thế, tôi chấp nhận biện pháp đi đày và chỉ định cư trú. Nhưng không chấp
nhận lý do Nhà nước đưa ra.


Ba bài giảng đó, có ý đồ gì? Sao chỉ nói tiêu cực?


Tôi muốn giúp người dân ý thức tình trạng bi thảm của Đất nước hôm nay để người
dân cùng tôi góp phần vào việc thúc đẩy Nhà nước đổi mới.


Nếu có phần tích cực thêm thì được hoan nghênh.


Tôi không làm việc tổng kết để có cái hay cái dở. Tôi làm công việc bắt mạch
con bệnh để tìm cách chữa trị.


Anh có gửi đi ngoại quốc.


Tôi không gửi đi ngoại quốc.


Sao ông Dominic có thú nhận ở hải quan là anh đưa ba bài giảng khi anh và anh
Lan đến gặp ông ấy ở Phú Nhuận?


Tôi trao cho ông ấy xem ở đây chứ không gửi đi ngoại quốc. Đưa đi là việc của
ông ấy.


Đưa ông ấy để làm gì?


Ông xin tôi cho ông ấy để nghiên cứu.


Sao không nghiên cứu ở Tòa giám mục?


Chắc có. Nghiên cứu thì nghe nhiều tiếng chuông.


Anh biết ông ấy như thế nào?


Tôi biết ông ấy là linh mục dòng Tên đã từng dạy học ở Đà Lạt. Nhưng không quen
ông ấy.


Không quen sao gặp được ông ấy?


Sau mấy bài giảng của tôi, ông có viết vài chữ mời tôi đến.


Gặp mấy lần?


Một lần.


Có đưa cho người ngoại quốc nào nữa không?


Không.


Có gặp ai nữa không?


Có gặp một nhà báo Ý, tờ báo Il Regno.


Có đưa bài giảng?


Không.


Nói gì?


Ông ấy có đọc thư của tôi gửi Hồng y Etchegaray, nên ông muốn hỏi thêm cho rõ.


Tài liệu ngoại quốc do đâu?


Tôi đọc báo ngoại quốc, chỗ này chỗ nọ.


Ông Đỉnh và ông Tri có gửi báo?


Thỉnh thoảng có bài gì liên quan đến Giáo hội VN, các anh ấy có gửi photocopy.


Tri gửi cho anh hay anh Lan?


Nói chung là gửi cho anh Lan vì anh ấy là bạn của anh Lan.


Anh ấy có đưa cho anh xem?


Dĩ nhiên.


Còn anh Đỉnh gửi gì cho anh?


Có gửi thư anh ấy gửi cho CCFD (có trong văn phòng).


Liên hệ với anh Đỉnh như thế nào?


Đỉnh là học trò của tôi. Tôi thấy báo công an bảo Đỉnh là chủ nhiệm Nguyệt san
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở California là sai bét.


Ai gửi cho anh báo ĐMHCG mà người ta khám phá ra trong văn phòng anh?


Tôi không có liên lạc với báo đó. Nếu có một photocopy bài nào đó, thì do giáo
hữu nhận được từ bên kia rồi cho tôi một bản.


Ai cho?


Làm sao nhớ được. Vả lại nhiều lần họ gửi cho tôi trong lúc không có nhà.


Sau ba bài giảng, ông Trị có nhắn nhủ gì anh?


Ông cho biết Nhà nước không vui và yêu cầu tôi stop


Anh có làm theo?


Không, vì hôm Chúa nhật sau đó tôi còn nói một bài ở nhà thờ để giải đáp thắc
mắc: linh mục có được nói về chính trị không?


Nội dung?


Tôi nói: Giáo hội không làm chính trị, không nói chính trị vì chính trị, vì
đảng phái, nhưng có quyền và bổn phận phê phán chính trị khi chính trị không
phục vụ nhân dân.


Có gặp Dương Thu Hương?


Có.


Mấy lần?


Một lần.


Ở đâu?


Cô ấy đến thăm anh Lan và tôi được mời ăn cơm chung.


Có bàn gì?


Chắc cô nghe người ta bàn tán về bài giảng của tôi, nên có lẽ cô ta muốn biết
mặt tôi. Chứ chả bàn gì. Nói chuyện vui hoặc thời sự.


Có quen Lữ Phương?


Có.


Có gặp? Ở đâu? Quen như thế nào?


Có gặp ở văn phòng tôi. Trước kia anh đấu tranh ở Sài Gòn rồi vào bưng, nên
biết anh ấy hồi đó.


Có quen anh Đoàn Thanh Liêm? Có đến nhà? Có đi ăn đám cưới?


Có quen, vì làm việc với nhau trong công việc quận 3 nhờ làm kiều hối. Nhà,
chưa đến bao giờ. Có mời dự đám cưới, nhưng không đi vì bận.


Biết Cao Lập?


Cao Lập là sinh viên tranh đấu, ở tù, tôi đi nuôi với má anh. Nên anh biết ơn
tôi.


Có đến anh không? Gặp ở đâu?


Anh ấy không đến tôi. Tôi có đến nhà anh xem video.


Dịp phục sinh, anh, anh Lan và Cao Lập làm gì ở nhà anh Lan?


Gặp gỡ thường, ăn cơm chung.


Anh Lan có đọc cái gì về hiện tình đất nước?


Tôi không nhớ.


Anh làm gì trong câu lạc bộ kháng chiến cũ?


Tôi được mời đến tham dự.


Họ có giao công tác gì cho anh?


Anh Tạ Bá Tòng có nhờ tôi mời anh em Công giáo tranh đấu trước 75 gặp gỡ. Chỉ
có một lần rồi thôi, vì hình như Thành Ủy không tán thành.


Tài liệu kháng chiến cũ đâu mà anh có? Ai trao cho anh?


Tôi mua ở Câu lạc bộ.


Anh nghĩ thế nào?


Họ là những người 3, 4 chục tuổi đảng. Họ ao ước đất nước đổi mới.


Có gặp thường anh Tòng?


Không.


Anh tập họp cựu tu sĩ dịp Phục sinh?


Họ mỗi năm tổ chức tĩnh tâm và họ muốn ai thì mời giảng. Năm nay họ mời cha
Đào, nhưng ông ấy bận nên có nhờ tôi giảng.


Tĩnh tâm bao lâu, bao nhiêu người dự, anh giảng bao lâu?


Tĩnh tâm một ngày. Có khoảng 3, 4 chục người. Giảng nửa tiếng.


Nội dung?


Giảng về sám hối cá nhân.


Ai viết thư cho ông Bình và Hội đồng Giám mục?


Anh em bàn bạc trao đổi, rồi nhờ anh Hiên viết cho hàng giám mục, anh Thái viết
cho Đức cha Bình.


Anh có mặt.


Dĩ nhiên.


Các anh họp, anh Tri đến vì được mời?


Tình cờ anh đến từ giã đi Pháp.


Ai trao 2 lá thư cho anh Tri?


Anh em đang ký chưa xong, anh xin một bản. Chả ai trao.


Anh quen anh Điệp như thế nào?


Anh Điệp là học trò của tôi. Sau này, anh Điệp phụ trách dưới này, tôi cũng có
giúp vận động giáo dân đóng góp xây dựng hợp tác xã chế biến hải sản Cần Thạnh.


Anh có đầu tư?


Không. Do tiền mục sư Vinay, tôi có giúp gần một nửa số tiền 11 ngàn đô tôi
nhận được, phần khác giúp cho một trường học trên quận 3.


Anh có nhận viện trợ để giúp học trò nghèo.


Cho đến bây giờ, không. Tôi có nhờ giáo dân trong xóm tôi phụ trách làm một quỹ
nhỏ để giúp người nghèo.


Vụ cháy nhà anh xin viện trợ

-Tôi có gợi ý cho anh Trị và anh ấy đứng xin và họ đã cho như thấy đăng trên
báo.

-Anh quen anh Dong hồi nào?

-Không nhớ. Anh em linh mục quen nhau là sự thường.

-Anh Dong mời anh làm lễ?

-Không, tôi lên chơi thấy đôi khi ông bận hay đau như hồi bị tai nạn xe hơi, tôi
gợi ý giúp. Và anh ấy chấp thuận.

-Có gặp trước khi về Duyên Hải?

-Có, tối trước đó, có hai linh mục ở xa về lãnh tiền Thanh Hương tổ chức buổi
cơm thân mật tại nhà anh Dong.

-Còn mấy ông Ý, Diễm, Định?

-Cũng thỉnh thoảng gặp gỡ, bồi dưỡng, giải trí.

-Tại nhà anh Dong anh có trao đổi cho ông Diễm một tài liệu về sinh viên cựu
kháng chiến?

-Tôi không nhớ.

-Tôi đã theo dõi hoạt động của anh trước 75 và thán phục, nhưng tôi thắc mắc lý
do gì anh thay đổi như vậy?

-Tôi trước sau như một. Tôi không thay đổi. Trước cũng như bây giờ, tôi chỉ nghĩ
đến Đất nước, đến nhân dân. Luôn luôn vì nhân dân mà tôi phấn đấu, bất chấp
nguy hiểm. Nếu tôi muốn hưởng thụ thì quá dễ. Tôi và anh Lan là hai người đã
đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu như anh biết. Sau giải phóng tôi muốn hưởng chế
độ này thì có gì khó. Vì sao đến tuổi 70 này mà còn lên tiếng nói thẳng, nói
thật để phải gặp khó khăn? Vì dân, vì Đất nước.

-Những điều anh nói trong bài sám hối, có khi nào anh nói với cấp lãnh đạo?

-Có. 5 năm ở Mặt trận Trung ương, 4 năm ở Mặt trận Tp và trước Đại Hội Đảng 6,
tôi đã lên tiếng với cấp trên. Nhưng đâu còn đó. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Một mình tôi nói không đến đâu. Tôi phải giúp kẻ
khác ý thức để nhiều người nói để giúp Nhà nước đổi mới. Chính vì lý do đó mà
tôi đánh máy các lời phát biểu, những bài giảng để nhiều người ý thức.

-Khi nghe Trần Xuân Bách bị loại, nhà dòng anh có ý kiến gì không?

-Cũng như tất cả người dân khác, khi nghe tin đó, thì cũng bàn tán qua loa vậy
thôi.

– Anh có gửi ba bài giảng cho anh Phụng mang ra Bắc? bao nhiêu bản?

-Anh Phụng ra Bắc không mang theo. Nhưng vì giáo dân ngoài Bắc xôn xao về ba bài
giảng, anh Phụng xin một bản để cho người ta nắm vấn đề chính xác hơn. Anh
Phụng có gửi thư cho tôi (thư nằm trong ngăn kéo).

-Anh gửi ra, mang đi?

-Anh Phụng có giới thiệu 1, 2 người sắp ra Bắc. Tôi có nhờ người mang đến chứ
tôi không gặp họ, nên không biết ai.

-Các giám mục đọc bài của anh có ý kiến gì không?

-Tôi không rõ, vì không gặp ai.

-Ông Nhật có ý kiến gì?

-Tôi cũng không rõ.

-Anh quen với N.V.Ân như thế nào?

-Anh ấy trước có đấu tranh trong phong trào Thanh Lao Công. Nay là giáo dân họ
đạo chúng tôi.

-Anh có thắc mắc với UBĐK? Vấn đề cá nhân?

-UBĐK là một tổ chức của chính quyền. Tôi không có ý kiến. Nhưng khi Ủy Ban đó
can thiệp vào những vấn đề nội bộ Giáo hội, đứng trên cả giáo quyền để thao
túng và làm trung gian giữa Giáo hội và Nhà nước, một thứ trung gian nịnh thần,
tôi phản đối. Tôi muốn giữa Giáo hội và Nhà nước có một sự trao đổi trực tiếp
để xây dựng Đất nước và giải quyết những trục trặc, những khó khăn.

Làm việc trọn ngày 22 và thêm sáng ngày 23/6/1990. Sau đó, có anh Điệp, phó công an huyện, phó công an xã, đại úy Hoàng và ông Lê Minh Cảnh, trưởng phòng PA 16 của Sở Công an, mời tất cả đứng lên để nghe quyết định của UBND Tp ký ngày 6/7/1990 về việc “quản chế công dân Nguyễn Tín”.

1.Phạt quản chế tại Duyên Hải, xã Cần Thạnh, trong thời gian 3 năm, kể từ ngày
lấy quyết định (7/6/1990).

2.Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: tuân các quy định địa phương; chỉ đi lại
trong xã Cần Thạnh, muốn ra ngoài xã phải có phép Công an xã, trường hợp đặc
biệt phải có Công an huyện hoặc Công an thành phố; không được hành nghề tôn
giáo; trình diện Công an xã 15 ngày một lần.

3.Mất quyền công dân trong thời gian quản chế.

4.Chính quyền địa phương, đoàn thể tổ chức thi hành quyết định dưới sự điều hành
của Giám Đốc Công an Tp.

5.Những người trách nhiệm thi hành…

Trên đây là nội dung 3 buổi làm việc với trưởng phòng PA 16 của Sở Công an Tp và
quyết định mới của UBND Tp.

Tái bút: Ông Cảnh: Anh đã được ông Thứ trưởng Nội Vụ cảnh cáo, được anh Trị lưu ý, thế mà ngày chủ nhật sau, anh lại nói thêm một bài chính trị. Như vậy là liều thuốc
không còn hiệu nghiệm. Nhà nước đã cho một liều khác mạnh hơn: chỉ định cư trú
và quản chế tại Cần Thạnh.

Chân Tín: Bài sám hối của tôi cũng là liều lượng mạnh cho Nhà nước, khi mà những
điều tôi đã nói với cấp trên từ trước không còn hiệu nghiệm.

(Hai người cùng cười).

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 32-38)

 

Hệ lụy gia đình – nhà trường

Hệ lụy gia đình – nhà trường

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 12:07 Sáng 14/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (14.12.2012)
– Sài Gòn – Quả là chí lý khi tục ngữ khuyên “dạy con từ thuở còn thơ”. Trước khi viết, vẽ, các nhà văn, nhà thơ và họa sĩ phải “thai nghén” ý tưởng đến chín muồi mới thể hiện ra trên giấy. Nếu sai, dù có tẩy xóa khéo léo cũng không thể hết dấu vết. Nicolas Boileau nói: “Trước khi viết, hãy học suy nghĩ” và chỉ có suy nghĩ người ta mới khả dĩ có được phương thức khả thi và hiệu quả. Thật vậy, “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, mà có phương pháp thì người thường cũng làm được điều phi thường”. Huống chi là giáo dục, một công việc và một nghệ thuật, đào tạo một con người ắt là điều tối quan trọng với trang giấy trẻ. Giáo dục không chỉ đơn thuần là nuôi con cái đầy đủ về vật chất, mà giáo dục chủ yếu nhằm giúp con cái trở nên người hữu dụng, một công dân tốt cho gia đình, cho xã hội, đất nước và cho giáo hội (với những
người có tín ngưỡng). Chúng sẽ là những người cha, người mẹ trong tương lai. Vậy
thì về tâm sinh lý, trưởng thành nghĩa là biết dẹp bỏ “cái tôi” để biết vì người khác. Cái Tôi là đáng ghét.

Giáo dục nền tảng là giáo dục gia đình. Nhà giáo dục Mỹ – ông Ragan, đã nói: “Nhà trường đầu tiên là gia đình và người thầy đầu tiên là mẹ”. Như vậy, người mẹ rất quan trọng đối với trẻ, vì vốn dĩ nữ tính là hiền từ và dịu dàng. Phụ nữ nào hay nóng nảy, gắt gỏng, nhỏ mọn,… là thiếu tố chất cần thiết trong thiên chức làm mẹ và làm bà (nội,
ngoại). Giáo dục tốt, cha mẹ sẽ hãnh diện và hạnh phúc thấy con cái ích nước, lới nhà, hiếu thảo. Vâng, giáo dục là một thiên chức, một trọng trách khó khăn nhưng cao cả. Không ai lại không ảnh hưởng và thừa hưởng di sản văn hóa của tiền nhân, dù chỉ là vô thức. Bên cạnh nền giáo dục đó, chúng ta cần cập nhật hóa phương pháp giáo dục cho hợp với hoàn cảnh xã hội của thời đại mới, dù vẫn biết phương pháp nào cũng có ưu và khuyết điểm. Thế nên, chúng ta phải chọn lựa kỹ lưỡng và chính xác các điểm tối ưu khả thi.

Song song, sự ảnh hưởng quan trọng khác nữa là nền giáo dục của xã hội, của người thầy. Cùng lúc, trẻ nhận hai nền giáo dục của gia đình và nhà trường. Cả hai đều hỗ trợ toàn diện cho nhau. Nhờ đó, sau khi xa gia đình, xa trường lớp, con người đủ sức khả thi vai trò một con người bản lĩnh. Con người đó, sau bao năm dùi mài kinh sử, đủ kiến thức cơ bản và đủ tư cách làm người, sau những năm tháng học đạo làm người ở gia đình.  Rồi con người đó lại tạo lập một gia đình mới – tế bảo cơ bản của xã hội và đất nước.

Ngày nay, nhiều khoa học mới lạ được mở ra về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, giáo dục học, phấn tâm học, xã hội học, là những khoa học có thành tựu nghiên cứu về giáo dục con người. Do đó, trẻ ngày nay tiếp nhận nền giáo dục theo phương pháp khoa học khác xưa rất nhiều, bớt phần nghiêm khắc. Kiểu “gọi dạ, bảo vâng” hoặc “đặt đâu ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Thế nhưng, ngày nay các phụ huynh lại quan
ngại về con cái nhiều hơn, nhất là đến tuổi trưởng thành. Đôi khi phụ huynh như
cảm thấy bất lực trong việc giáo dục con cái. Phải chăng gia đình và nhà trường
có lối giáo dục mâu thuẫn?

Vì “chạy đua” nhà trường đã “nhồi nhét” kiến thức để học sinh chán ngán và đuối sức (tinh thần và thể lý). Nhà trường quá chú trọng vào việc lấp đầy kiến thức mà quên dạy học sinh làm người hữu dụng, môn công dân giáo dục bị mờ nhạt trước các môn khoa học khác. Đồng thời, cha mẹ thiếu quan tâm đầy đủ vì công việc thường nhật, lo kiếm tiền nhiều đến nỗi đuối sức và không còn thời gian dành cho con cái. Rất nhiều học sinh đã than vì sự “khập khiễng” đó. Thật vậy, phương pháp sư phạm và sách giáo khoa cứ thay đổi liên tục, học sinh phải “xoay” theo, còn cha mẹ không có kiến thức phù hợp nữa: quan niệm, phương pháp học và làm bài đều lỗi thời. Hai luồng giáo dục bỗng bị “lệch pha”. Nhiều phụ huynh đã chê trách lối nhồi nhét của nhà trường. Gia đình và nhà trường cứ “khoán trắng” hoặc đổ lỗi cho nhau. Học sinh thì mỏi mệt vì 3 “món” tương tự nhau: học chính khóa, học phụ đạo và học thêm. Việc học kín hết thời gian, không còn giờ giải trí hoặc tự học để “tiêu hoá”. Ngay cả giờ ăn cũng vội vàng. Có học sinh phải “thổi kèn” (ăn bánh mì) cho… kịp giờ!

Việc học biến thành cuộc chạy đua, học sinh buộc phải là “những tay đua” nhưng có thể là “những tay đua… kiệt sức”. Vì thế, học cho qua giáo trình, điều đọng lại không bao nhiêu, tạo ra nhiều lỗ hổng kiến thức. Gia đình càng phải kiếm tiền bằng mọi cách để con cái khả dĩ đi học. Học sinh cứ loay hoay với mớ kiến thức từ chương, hối hả lo lắng học thi, chỉ làm giàu cho một sổ giáo viên cuối cấp và những lò luyện thi. Thật
tức cưới khi họ quảng cáo là “Bảo đảm thi đậu” hoặc “không đậu không nhận học phí”. Chẳng qua là “lừa bịp” những người “nhẹ da cả tin”. Phương pháp học như thế chỉ là vô bổ. Thậm chí, có khi sách giáo khoa còn sai “nghiêm trọng”. Dục Tử nói: “Biết là hay mà không tin, đó là Dại. Biết là dở mà không sửa đó là Mê”. Giáo dục đã bị thương mại hóa!

Trước sức ép tiêu cực của xã hội bằng văn hóa đồi trụy: ma túy, và ma lực vật chất, con cái chúng ta khó đứng vững vì còn trẻ người non dạ, ăn chưa no lo chưa tới. Sự không đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường khiến trẻ mất niềm tin nơi cha mẹ, dễ sống buông thả, đua đòi. Và ngay cả lòng tôn sư trọng đạo đối với người thầy
cũng giảm sút nhiều. Thế nhưng, cha mẹ và người thầy cũng cần xem lại chính mình. Vì người trên dễ dãi quá thì người dưới sẽ coi thường. Thân quá hóa nhờn!

TRẦM THIÊN THU

Tình Mẫu Tử

Tình Mẫu Tử
Cố bám víu vào một sườn dốc thẳng đứng bên một bờ vực sâu thẳm, bé sư tử con đang kêu gào thảm thiết để cầu cứu…
Mẹ chú nghe được, chạy đến bên vực, thấy con trong lúc vui chơi bị sa bước, mạng sống như chỉ mành treo chuông!

Mẹ đến ngay bờ vực sâu, cùng với 3 sư tử cái khác, và một sư tử đực. Những sư tử cái xúm lại bên nhau, nhưng xem chừng ai cũng sợ đến phiên mình nếu ra tay xuống cứu,
cũng có thể gặp chuyện chẳng lành, nên toan tiến rồi lại thoái, không biết bao nhiêu lần!!! Sau cùng chỉ có một con quyết định, được thúc đẩy bởi cái gọi là tình mẫu tử!

Từ từ từng bước, trong một dáng vẻ khắc khoải như nín thở, mẹ chú rón rén, dùng hết sức lực để giương những vuốt nhọn, bám chặt vào thành vực mà xuống… Chỉ cần một sẩy chân, cả hai mẹ con sẽ bị nát thây dưới lòng vực sâu thẳm.

Ngay vừa lúc sư tử con sắp sửa kiệt lực, mẹ chú đã lượn được xuống phía dưới, há rộng được miệng để ngoạm lấy con.

Rồi cũng bội phần nguy hiểm trên đường đi lên! Đúng là Trời còn thương: vài phút sau, cả hai mẹ con đã đến bến an toàn, để mẹ còn ban cho con một cử chỉ âu yếm!

Cảnh cứu mạng đầy kịch tính ở trên đã được nhiếp ảnh gia đời sống hoang dã Jean-Francois Largot, thâu được vào ống kính máy ảnh, trong khi anh đi thăm viếng một khu rừng bảo vệ hoang thú tại xứ Kenya ở châu Phi.
Anh chị Thụ & Mai gởi

Hy vọng

Hy vọng

Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp

Sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

 

Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn Giải”

(Câu 978 trang 385)


Cố Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận

Phước và Họa

Phước và Họa
***********************

Photo

Quan niệm, nhận thức của con người về phước (phúc) và họa hay may và rủi, được và mất, lợi và hại rất chủ quan. Bản chất của phước, họa cũng như mọi điều khác trong thế giới sự vật, hiện tượng từ vật chất cho đến tinh thần đều là duyên sinh, không có thực thể, thực tướng.
Một người đi trễ chuyến xe, tự cho là mình rủi. Nhưng ngày hôm sau đọc báo, thấy chuyến xe mà mình đi hụt bị rơi xuống vực sâu. Bấy giờ người ấy không còn thấy sự trễ xe hôm trước là rủi nữa, trái lại còn cho đó là may, vì nhờ đi hụt mà còn sống sót.
Thấy một người đàn ông cưới được cô vợ vừa đẹp lại vừa giàu sang, ai cũng trầm trồ khen ngợi, ước ao, cho rằng anh ta có phước. Nhưng chẳng bao lâu người đàn ông nọ và vợ dắt nhau ra tòa ly dị vì cô vợ sinh lòng lang chạ và sa đọa trong ăn chơi trụy lạc. Khi ấy người ta lại tặc lưỡi bảo nhau: Anh này thật vô phước!
Có người trúng vé số độc đắc được mấy tỷ đồng, ai cũng nghĩ rằng phước phần của anh ta đã đến. Không ngờ chính vì có số tiền quá to ấy mà anh ta sinh tật: đua đòi, hưởng thụ, đam mê cờ bạc rượu chè, đi sớm về khuya, vợ bé vợ mọn; vợ chồng anh ta vì tranh chấp tiền bạc mà bất hòa, vì chuyện anh lăng nhăng bên ngoài mà kéo nhau ra tòa ly dị; con cái ỷcó tiền của mà bỏ bê học hành, chỉ lo ăn chơi phóng túng. Còn nhiều trường hợp khác vì trúng số mà anh em, bạn bè trở mặt nhau; vì trúng số
mà bị giết hại do cướp vào nhà, do người tình phản bội…
Vậy người đi hụt chuyến xe kia là rủi hay may? Có được người vợ đẹp và giàu như anh chồng kia là họa hay phước? Và trúng số như những người nói trên là nỗi lo hay điều đáng mừng?
Tùy theo cái thấy, sự nhìn nhận, tùy theo duyên mà người ta cho đó là phước hay họa, nó luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, phước chuyển thành họa, họa chuyển thành phước, vừa là phước lại vừa là họa. Người xưa thường bảo: “Trong họa có phước, trong phước có họa”, nhưng kỳ thực họa phước do duyên, có nghĩa là do điều kiện, do hoàn cảnh, do sựnhìn nhận nó như thế nào, tùy theo duyên mà nó được xem là phước hay họa. Các bậc cha mẹ có con mắt tinh đời khi thấy con mình ra đời lập nghiệp, tuổi còn trẻ mà thành công quá sớm thì vừa mừng vừa lo. Mừng vì con
thành công trong cuộc sống, lo vì con thành công sớm quá sẽ sinh tâm tự phụ,
kiêu căng. Tuổi còn trẻ chưa từng trải, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, chưa hiểu đời nhiều, vì thế nếu thành công quá dễ dàng sẽ sinh tâm chủ
quan khinh suất, như thế sẽ dễ mắc phải sai lầm đưa đến sớm thất bại, dù buổi
đầu có thành công nhưng không thể thành công lâu dài, sự nghiệp khó bền vững.
Hơn nữa vì sớm thành công nên tâm cao khí ngạo, tự phụ kiêu căng, từ đó có thái
độ, hành vi coi thường người khác, dễ va chạm và làm mất lòng mọi người, từ đó
sẽ có nhiều người bất mãn, chống đối, đó cũng là nguyên nhân thất bại.
Có nhiều phụ nữ lấy được chồng đẹp trai lại giàu có, về nhà chồng chỉ việc làm vợ làm mẹ, mọi thứ khỏi cần bận tâm. Bạn bè đồng trang lứa thấy thế cho rằng họ có phước quá, ai cũng ước ao mình được như thế. Nhưng cha mẹ của những cô gái được xem là diễm phúc kia thì có người băn khoăn: “Chồng hào hoa, đẹp trai thì có nhiều người mến mộ. Nếu nó có thêm tánh phong lưu bay bướm, không chung thuỷ thì con gái mình sẽ khổ”, “Ăn ở không, được chồng nuôi chưa hẳn là có phước. Sống lệ thuộc
không làm chủ được bản thân chắc chắn sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Thà ra ngoài
làm việc để có cơ hội khẳng định mình, có khả năng tự lập, có điều kiện rèn luyện, trau giồi bản thân, có thêm kiến thức, kinh nghiệm, có thêm niềm vui trong cuộc sống”. Cách nhìn về phước, họa của mỗi người mỗi khác, tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh, tùy thuộc quan niệm, lối sống, kinh nghiệm, hiểu biết v.v…
Một nghệ sĩ nổi tiếng trong làng giải trí nói trên báo rằng, từ khi ông bán đi mấy chiếc xe hơi thì thấy thanh thản, thoải mái hơn. Bây giờ mỗi khi đi đâu chỉ cần gọi taxi hoặc xe ôm là được. Lúc còn mấy chiếc xe hơi phải thuê người lái, đi đến đâu
phải tìm chỗ đậu xe cũng mệt. Thỉnh thoảng bị tài xế làm khó dễ để vòi tiền.
Khi gặp bạn bè hay đi tiệc tùng thì lại nghe những lời bàn tán về xe, họ bình
luận, so sánh, chê khen, nào là xe này đẹp, xe kia không đẹp; xe này sang, đắt
tiền, xe kia thuộc hạng xoàng rẻ tiền; xe này sành điệu, thời thượng, xứng
tầmđại gia, xe kia lỗi thời, cổ lỗ v.v… Nghe những chuyện như thế rất mệt.
Có người nghe ông nghệ sĩ kia nói thế thì cho rằng ông ta “giả bộ”, nói không thật bụng, có xe sướng quá mà làm bộ than phiền. Đâu phải ai muốn có xe hơi cũng được. Người chưa từng có xe hơi thì nghĩ có xe hơi là “ngon lành” lắm, sung sướng lắm, có phương tiện tốt để đi lại, hãnh diện với bạn bè. Nhưng người có rồi thì cảm thấy có xe cũng thêm nhiều phiền phức, cũng vướng bận thêm vì phải lo có chỗ đậu mỗi khi đến
đâu, phải lo giữ gìn, bảo quản, lo chiều lòng tài xế, lo bà con, bạn bè buồn khi hỏi mượn mà mình không cho, mà cho muợn thì không yên tâm lắm (rủi xảy ra tai nạn hoặc hư xe thì cũng khổ)…
Đối với vấn đề họa phước, người trí bình thản, an nhiên, không để nó làm dao
động tâm mình, chỉ xem nó như mây trôi, gió thoảng. Nhìn mây trôi ngang qua
trời, nghe gió thoảng qua bên tai, chỉ thấy thế, chỉ nghe thế, biết thế thôi,
không cần bận tâm, không cần nghĩ ngợi, không vui buồn vì nó. Phải tập như thế,
phải tu sao cho được như thế (dù là pháp môn nào) thì tâm mới được tự tại, an
vui, không buồn không lo, không khổ não.
Tâm bình thản, an nhiên, khôngđiều chi có thể làm bận lòng, như thế không phải là người vô tri, không phải là người vô tâm, vì vẫn hay vẫn biết, vẫn thấy, vẫn sống và hành động dưới sự soi sáng của tuệ giác nhưng tùy duyên, không miễn cưỡng, gượng ép, không vướng mắc, không bị buộc ràng, hệ lụy.
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng việc Đề Bà Đạt Đa lăn đá và xua voi dữ giết hại mình là họa. Đức Phật cũng chưa bao giờ cho rằng việc Ngài được vua Bình Sa cúng cho vườn tre Trúc Lâm, được ông trưởng giả Cấp Cô Độc cúng khu đất để xây tinh xá Kỳ Viên, khu đất mà ôngđã mua với số tiền vàng trải đầy trên mặt đất, và được hoàng thân Kỳ Đà cúng cho vườn cây trên mảnh đất này là phước. Tâm Phật không hề dao động trước nhữngđiều xảy ra đó, Ngài không mừng khi được cúng dường, tán dương khen ngợi; không lo không buồn khi bị chống đối, hãm hại, Ngài bình thản, an nhiên, tự tại.
Cũng như trong âm có dương, trong họa có phúc và ngược lại
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có. Nhưng người vô trí thì biến cái mà thế gian cho là phước thành họa. Ví dụ Đức Phật đã biến sự chống đối, dã tâm làm hại Ngài của Đề Bà Đạt Đa thành cơ hội khảo nghiệm, thành thử thách giúp Ngài thành tựuđạo hạnh, viên mãn công đức.
Một người con có tài trí, có nhân phẩm, đạo đức tốt biết tận dụng tài sản do ông cha để lại (phước) để xây dựng hạnh phúc cho mình, phát triển sự nghiệp bản thân, làm ích nước lợi nhà. Nhưng ngược lại, người con bất tài vô trí, nhân phẩm đạo đức kém sẽ ỷ lại vào gia sản của ông cha để lại mà ăn chơi phóng túng, sa đọa trụy lạc, kết cục
anh ta biến cái phước (có nhà cao cửa rộng, có tài sản, sự nghiệp) thành ra cái họa.
Người có tài năng, có đức độ, có chí hướng, biết siêng năng cần mẫn, dù sinh ra trong hoàn cảnh cùng  khổ, khốn đốn (kém phước), họ vẫn vươn lên và đạt nhiều thành công trong cuộc sống. Đó là vì họ biết tận dụng hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt để rèn luyện mình, nuôi dưỡng chí hướng phấn đấu vươn lên. Họ đã chuyển sự không may (hoàn cảnh kém phước) thành điều hạnh phúc. Cũng như người biết xử lý rác thải có khả năng biến đống rác bỏ thành những vật dụng trong nhà, có thể dùng rác để tái chế ra những sản phẩm mới. Nhưng người vô trí, không biết sử dụng thì có thể biến những sản phẩm mới thành ra đống rác.
Họa hay phước là do chúng ta. Bản chất của họa phước vốn không có thực, chúng là pháp duyên sinh, không có thực thể, thực tướng. Cái phước thật sự, lớn nhất là khi làm chủ được tâm mình, không bị những thành bại, được mất, hơn thua làm cho bận lòng, làm cho phiền não.

Hồ Như…

Có đôi lúc ta ngỡ mình ngọn núi

Trên thân đầy cây cỏ với ngàn hoa.
Cũng có khi ta ngỡ mình con suối
Cùng chim rừng hòa âm điệu, hoan ca..
Có đôi khi ta ngỡ mình như đá
Nằm im lìm mặc rêu phủ thời gian.
Một lần kia, thấy phận mình như bụi
Bay trong chiều hồn sa mạc khô khan.
Và có khi ta ngỡ mình hạt nắng
Giữa tim người cổ mộ đóng nghìn năm.
Rồi thi thoảng phiêu du là cơn gió
Hương Từ bi ta quyện đến xa xăm..
Một lần nọ ta thấy mình như biển
Hát ru đời ca khúc Hải Triều Âm.
Rồi lẳng lặng ta làm con sóng nhỏ
Hòa đại dương… thôi chuyển biến, thăng trầm.
Bao la đời…, không còn chút vọng âm.
Bodhgaya chớm Đông 2012

Th Tánh Tuệ

Anh Nguyễn văn Thập gởi

Thánh Lucia

Thánh Lucia

(c. 304)

13 Tháng Mười Hai

Các thiếu nữ có tên thánh là Lucia chắc phải thất vọng khi muốn tìm hiểu về vị
thánh quan thầy của mình. Các sách cổ viết dài dòng nhưng rất ít chi tiết liên
hệ đến truyền thuyết. Các sách mới đây cũng dài dòng dẫn chứng một sự kiện là
những truyền thuyết này không có trong lịch sử. Chỉ có một chi tiết về Thánh
Lucia còn sót lại đến ngày nay, đó là người cầu hôn với thánh nữ vì bị từ chối
nên đã tố cáo ngài là Kitô Hữu, do đó ngài bị xử tử ở Syracuse thuộc Sicily vào
năm 304. Nhưng cũng đúng là tên của thánh nữ đã được nhắc đến trong lời cầu
nguyện Rước Lễ Lần Ðầu, có những địa danh và một bài dân ca mang tên thánh nữ,
và qua bao thế kỷ, hàng chục ngàn thiếu nữ đã hãnh diện chọn ngài làm quan
thầy.
Cũng dễ để hiểu những khó khăn của một thiếu nữ Kitô Giáo khi phải chiến đấu trong một xã hội trần tục như ở Sicily vào năm 300. Cũng tương tự như xã hội ngày
nay, nhiều thói tục của xã hội đã ngăn cản chúng ta sống xứng đáng là người
theo Ðức Kitô.

Các bạn bè của Lucia có lẽ cũng ngạc nhiên về Ðấng mà Lucia yêu quý, đó là một
người đi rao giảng khắp nơi, sống trong một dân tộc nô lệ và đã bị tiêu diệt
cách đó 200 năm. Người từng là một người thợ mộc, từng bị chính dân của Người
kết án và chết trên thập giá. Với tất cả tâm hồn, Lucia tin tưởng rằng chính
Người đã sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa đã minh chứng tất cả những gì Người
nói và hành động. Ðể làm chứng cho đức tin ấy, thánh nữ đã thề giữ mình đồng
trinh.
Thật là một điều khôi hài đối với các bạn ngoại giáo của thánh nữ! Giữ mình trong
trắng trước khi thành hôn là một lý tưởng cổ hủ của người Rôma, ít người còn
giữ nhưng không ai kết án lý tưởng ấy. Tuy nhiên, ngay cả cô ta không muốn kết
hôn thì điều đó thật quá đáng. Chắc cô ta phải có điều gì xấu xa cần giấu diếm,
như miệng lưỡi thế gian thường đồn đãi.
Chắc chắn Thánh Lucia đã nghe biết về nhân đức anh hùng của các vị đồng trinh tử
đạo. Ngài muốn trung thành với tấm gương của các đấng ấy, cũng như theo gương
của người thợ mộc, là Người mà ngài tin là Con Thiên Chúa.
Lời Bàn
Nếu bạn chọn Thánh Lucia làm quan thầy thì đừng thất vọng. Vị quan thầy của bạn
thực sự là một nữ anh thư, hơn hẳn mọi người, là một hứng khởi vô tận cho bạn
và cho mọi Kitô Hữu. Sự can đảm sống luân lý của người thiếu nữ Sicilian tử đạo
ấy đã tỏa sáng như để soi dẫn giới trẻ ngày nay cũng như giới trẻ trong thời
đại ấy.
Maria Thanh Mai gởi

Một tân tòng giữ lời hứa với Đức Mẹ

Mt tân tòng gi li ha vi Đc M

Phan Văn Sỹ

12/11/2012
nguồn: Vietcatholic.net

Rửa Tội Cho Một Tân Tòng Trong Cơn Nguy Kịch hay Người Thợ
cuối cùng Vườn Nho Nhà Chúa “

Vào lúc 4:00 PM. Ngày 6 Tháng 12 năm 2012, những ngày bước vào Mùa Vọng, cha Giám Đốc Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas Giuse Đồng Minh Quang cùng một số anh chị em thuộc hai Hội Đòan Các Bà Mẹ Công Giáo và Hội Hồn Nhỏ thuộc Cộng Đòan Đức Mẹ La Vang đã đến nhà anh Hồ Long tại số 5592 W. Twain Avenue
Las Vegas NV. 89103 để cùng tham dự buổi lễ Rửa Tội đặc biệt cho anh Long.

Anh Hồ Long bị bệnh ung thư phổi giai đọan ba, bác sĩ điều trị đã bó tay không
thể chữa trị vì ung thư lan rộng khắp nơi, lên cả não bộ. Anh gọi điện thọai
cho chúng tôi ngỏ ý muốn theo đạo. Anh kể lại khi còn ở Việt Nam, nhiều lần đến
nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng và khấn xin nhiều việc tại núi Lộ
Đức. Anh được Đức Mẹ nhận lời, anh hứa với Đức Mẹ nếu anh nhận được những ơn Mẹ chuyển cầu, anh sẽ theo đạo.

Cuộc đời dong duổi bôn ba nhiều nơi, nay qua đến nước Mỹ, đã nhiều lần anh đến
tham dự Thánh Lễ tại Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas. Lời hứa năm xưa vang vọng
trong tâm khảm anh, không ngờ anh lại gặp lại Mẹ năm xưa tại Đền Thánh. Anh ao
ước được rửa tội để theo đạo như lời anh đã hứa với Mẹ năm xưa, vì anh rất mến
yêu Mẹ và biết ơn Mẹ vì những ơn Mẹ chuyển cầu trao ban.

Cha Giám Đốc đã nhờ một số anh chị em trong Hội Hồn Nhỏ và Các Bà Mẹ Công Giáo
đến gặp gỡ anh và hướng dẫn anh về giáo lý cũng như phép đạo, biết là anh bệnh
nặng, khó qua và không thể kéo dài việc hướng dẫn. Ban Giáo Lý sau hai lần đến
thăm và hướng dẫn anh rồi về trình cha Giám Đốc xin quyết định, vì sức khỏe anh
càng ngày càng suy sụp, sợ anh ra đi sớm, không kịp cứu linh hồn anh. Cha Giám
Đốc đã quyết định hôm nay đi cùng một số giáo hữu đến để cử hành Bí Tích Rửa
Tội cho anh.

Điều cảm động nhất là sau khi Rửa Tội, cha Giám Đốc hỏi anh có gì muốn nói không ? Anh súc động kể hành trình gặp gỡ Mẹ khi ở Việt Nam đến Dòng Chúa Cứu Thế để khấn xin ơn và được Mẹ nhận lời. Anh nói nguyện sẽ theo và giữ đạo suốt đời, nguyện xin Vâng như Mẹ để theo Chúa, mặc dù cuộc sống rất vắn vỏi. Khi anh chị em ban Giáo Lý đến hướng dẫn anh, tặng anh bức tượng Đức Mẹ có giây đeo, anh vui mừng kính cẩn chòang đeo ngay vào cổ như nhận được một báu vật quí giá anh yêu mến.

Thấy đức tin của anh và lòng yêu mến Đức Mẹ của anh, hai Hội Hồn Nhỏ và Các Bà
Mẹ Công Giáo đã chung mua bức tượng Đức Mẹ La Vang đem đến nhà tặng anh. Cha
Giám Đốc sau khi rửa tội cho anh đã làm phép bức tượng và trao bức tượng cho
anh, anh kính cẩn, trân quí ôm trên lòng, mặc dù sức khỏe thật yếu, không nâng
nổi đầu lên để nhận phép rửa tội.

Sau nghi thức rửa tội, mọi người ra về và dâng lời nguyện xin cho anh: “ Xin cho anh được ơn chữa lành hoặc vâng theo thánh ý Chúa “. Trên đường về Đền Thánh Mẹ để cùng nhau tham dự giờ chầu Thánh Thể và hiệp dâng Thánh Lễ, chúng tôi vẫn tiếp tục dâng lời cầu nguyện cho anh và chia mừng với anh vì anh là người thợ vườn nho cuối cùng vẫn được nhận lãnh 1 đồng tiền công như người thợ làm vườn từ sáng sớm./.

Mùa Vọng năm 2012

Phan Văn Sỹ

Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979
đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ
cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm
trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám
ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao
lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một
phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không
có gì để ăn”.

Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta
biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng
càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.

Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.

Anh chị Thụ & Mai gởi

và Từ hnkimnga