Thư gởi mẹ

                      

                                               Thư gởi mẹ

                                                                                            Tác giả:  Jos Thanh Phong

 “Thư Gửi Con” là tâm tình của người mẹ muốn được chia sẻ cùng đứa con trai độc nhất của mình. Lời của người mẹ thật chân tình và tha thiết như muốn được trải lòng cùng con, với những ước mong con hiểu đời mẹ và luôn sống mãi đời Hiến Dâng Phục Vụ. Đừng nặng lòng lo cho Mẹ, cũng như đừng để trái tim hồng nào xâm chiếm trái tim con, ngoài Chúa.

 Tình yêu đáp đền tình yêu. Những tâm tình của người mẹ chẳng rơi vào quên lãng, mà trái lại được trân trọng yêu thương và được nâng lên thành một thứ tình cao quý thiêng liêng: Tình mẹ, tình Chúa muôn đời.

 Những tâm tình của người con dành cho mẹ cũng thật chân tình, tha thiết, yêu thương và rất thật, như đã thấu hiểu nỗi lòng người mẹ, chia sẻ với mẹ những vui-buồn-đắng-cay trong đời… Lời thiết tha của con vẫn là lời kinh nguyện, thánh lễ dâng lên Chúa cầu cho mẹ sống đời hạnh phúc yên vui. Và xin mẹ cũng khẩn nguyện cho đứa con hư dại và bất hiếu này sẽ mãi mãi trung thành trong lý tưởng Ơn gọi – rao truyền chân lý, phục vụ yêu thương.

                                                  Sài Gòn, ngày…tháng…năm

Thư Gởi Mẹ

Mẹ kính yêu,

 Lời đầu tiên của con dành cho mẹ là lời thăm hỏi trong Chúa, nguyện cầu cùng Mẹ Maria và lời chào trong thánh phụ Giuse.

 Cám ơn mẹ thật nhiều, nhiều lắm! Vì đã nhớ đến con, viết thư thăm con và chia sẻ những nỗi niềm buồn vui trong cuộc sống cùng con. Nỗi buồn xa quê nhà chỉ mong có vậy…

 Mẹ ơi ! Con đã đọc được thư của mẹ rồi, không chỉ đọc một lần thôi, mà cứ đọc đi đọc lại, đọc đến độ thuộc từng con chữ. Càng đọc, con càng cảm thấy thương mẹ và yêu mẹ nhiều, thật nhiều! Vâng, con biết tình mẹ thật bao la vô bờ bến, đến độ đại dương có lớn, có sâu, có rộng đến mấy cũng không sánh bằng tình mẹ dành cho con. Con nhớ đến ngày xa xưa ấy, những tháng ngày mà mẹ con mình ấp ủ bên nhau, cùng nhau trốn tránh nắng mưa bụi đời, cùng nhau chia sẻ kiếp đời gian dối, cùng nhau vượt thác trèo đồi… Gian khổ biết chừng nào mà mẹ vẫn bồng bế con trên đôi tay gầy yếu. Biết bao thương đau mà mẹ hứng chịu.

Đúng, đời mẹ là một chuỗi dài nước mắt. Con biết, con biết chứ! Từ nhỏ mẹ đã côi cút, lớn lên làm tôi thiên hạ, và rồi cũng như bao nhiêu người phụ nữ khác, ước mơ có một mái ấm gia đình. Mẹ đã đến với bố con. Nhưng đâu ngờ, hạnh phúc nó lại không mỉm cười với mẹ. Mẹ rơi vào cái vòng luẩn quẩn của biển đời gian dối, khổ ải, chán trường, tuyệt vọng.

 Những lúc như thế mẹ đã muốn đập đổ và phá huỷ tất cả : “Hôn nhân, cuộc đời và ngay cả mạng sống nữa…”, nhưng vì con, lo cho con mà mẹ đành hy sinh vượt lên tất cả: bất chấp khổ đau, quên đi sầu luỵ, vượt qua cái vòng luẩn quẩn của biển đời gian dối ấy. Con nhớ lại những tháng ngày mà mẹ gánh chịu những trận đòn thê lương, cuồng dại của bố con trong cơn say mà con còn rùng mình khiếp sợ. Vậy mà mẹ vẫn chấp nhận và gánh chịu tất cả.

  Ôi, mẹ của con, mẹ không chỉ khổ đau, tan nát về những lời chửi rủa, mắng nhiếc cay nhiệt, những cú đấm – đá tàn ác, dã man, mà còn đau khổ tan nát hơn nữa, là người, mà cả cuộc đời của mẹ đã đặt cả niềm tin, tình yêu và hạnh phúc của mình và coi đó là chỗ dựa tinh thần duy nhất của đời mẹ. Vậy mà mẹ cũng không có. Ước mơ vẫn chỉ là mơ ước. Niềm vui, tình yêu và hạnh phúc nó cứ vẫy chào mẹ. Một ngày bình yên trong đời mẹ cũng không.

 Con nghĩ người phụ nữ đau khổ, bầm giập, tan ná, bi thương nhất trên cuộc đời này có lẽ là Mẹ của con. Người chịu đựng và hy sinh nhất cũng là mẹ. Mẹ là người con yêu thương và quý trọng nhất trong cuộc đời này. Mẹ là dòng suối dịu hiền của đời con, là cánh chim đưa con vào đời, là bóng mát cho đời con trú ẩn. Mẹ là tất cả. Nhờ mẹ, vì mẹ mà con có ngày hôm nay…

 Tình thương và dấu ấn của mẹ ngày càng sâu đậm nơi tiềm thức của con theo thời gian. Dù cho cuộc sống có đổi thay, thời gian có thoi đưa, nhưng con luôn nhớ đến mẹ, hướng về mẹ và gọi tên mẹ. Những lúc trống trải của cuộc đời, những lúc trời buồn gió lạnh, những lúc thất vọng ê chề, con cũng muốn  buông xuôi tất cả. Nhưng nhớ đến mẹ lại là động lực để con tiến bước. Tiếp bước để đáp đền công ơn mẹ. Tiếp bước để đi trọn Lý Tưởng. Mẹ đã chẳng nói cuộc đời của mẹ chỉ có hai người đàn ông: Bố con và con đó sao? Và biết đâu những đau khổ, phiền lụy mẹ chịu lại sinh hoa trái là con?

 Nhưng mẹ ơi, Ơn gọi và cuộc đời huyền nhiệm lắm. Có nhiều lúc con tự hỏi bao đau khổ mẹ chịu sao không phải là ai khác mà là mẹ? Phải chăng mẹ đến với bố con trong đau khổ ấy mà con có mặt trong cuộc đời? Một con người yếu đuối và tội lụy như con liệu có theo Chúa làm môn đệ Ngài được chăng? Mẹ mong mỏi nơi con và đặt nhiều niềm hy vọng, nhưng con không làm được điều mẹ ước mong thì sao? Sự thực, có lúc con mệt mỏi, chán chường và để đời mình như đám lục bình trôi sông đấy mẹ ạ. Nhưng con nghĩ đến tình Chúa yêu con và nhất là nghĩ đến những hy sinh của mẹ, con lại gắng mình tiếp bước cho trọn hành trình dang dở, dẫu đường đời còn dài, nhiều gian nan và thử thách đang đợi phía trước. Con cũng lắng lo và sợ lắm, nhưng con tin có mẹ và con tin vào sức mạnh của Chúa. Chỉ có thế thôi mẹ ạ. Và giả như điều xấu nhất có thể xảy ra…, thì con vẫn mãi là con của mẹ.

 Vâng, con biết tất cả những gì mẹ làm là vì bố con và con. Mẹ đã sống trọn nghĩa vẹn tình, con biết chắc chắn và tin rằng Chúa không bao giờ quên mẹ đâu! Ngài sẽ bù đắp cho mẹ tất cả. Giờ đây, bố con đã đi xa, nhưng con luôn tin tưởng ở trên bầu trời trong xanh nào đó bố đang thầm nguyện cầu cho mẹ. Còn con, nơi không gian nhỏ bé của tu viện này, luôn nhớ đến mẹ, cầu nguyện cùng Chúa cho mẹ sống đời hạnh phúc bình yên, trọn vẹn, như mẹ đã sống trọn vẹn với bố con và con. Tất cả con xin gửi trao cho Chúa, Đấng an bài mọi sự.

 Mẹ ơi! Màn đêm đã chìm vào sâu. Trời oi bức khiến giấc ngủ của con đêm nay không thành. Trằn trọc suy nghĩ về mẹ và đường đời Ơn gọi, con ngồi viết những dòng tâm tình này đến mẹ như những dòng chia sẻ sâu xa nhất của con trai dành cho mẹ. Vâng, con muốn viết thật nhiều, nhưng ngọn đèn leo lét báo hiệu thời gian, con xin khép lại trên trang giấy này, cầu chúc mẹ nơi phương trời ấy giấc ngủ bình yên và tình thương của Chúa ấp ủ, chở che mẹ suốt cả cuộc đời. Xin mẹ cũng nhớ đến và cầu nguyện cho đứa con bất xứng và hư dại này. Con xin gởi lại đây với tất cả những gì là yêu nhất, qúy  nhất, thương nhất.

 Chào mẹ kính yêu!

Con trai của mẹ

Đứa con bất xứng

Jos. Thanh Phong                  nguồn: Maria Thanh Mai gởi 

Thư Gửi Con

Thư Gửi Con

                                                                               Tác giả: Maria T. M.

 Cần Thơ ngày… tháng… năm…

 

 Con xa nhớ, có phải đây là lần đầu tiên mẹ viết thư cho con không nhỉ? Nhận được thư chắc con ngạc nhiên lắm? Vì như có lần mẹ nói với con: Mẹ cũng ngại viết, nhưng chắc con cũng bận học, nên thôi thì có chuyện gì cần gấp lắm mẹ mới biên vài chữ thôi nhé! Đọc thư mà có thấy mẹ viết lủng củng, linh tinh gì thì cũng thông cảm cho mẹ.

 Hạnh phúc của mẹ con mình thật quá ít ỏi, hiếm hoi. Con thấy đấy, cuộc đời mẹ là một chuỗi dài nước mắt: Nhỏ thì côi cút, lớn lên thì đi làm thuê làm mướn, rồi gặp bố con, những tưởng hạnh phúc sẽ mỉm cười với mình, nào ngờ gia đình rơi vào vòng túng quẫn, việc làm ăn đổ bể, bố con chán nản rồi sinh rượu chè… tánh nết của bố đổi khác quá, càng ngày càng đoạ ra nghiện ngập, mất hết ý chí, nhu nhược, niềm tin vào cuộc sống và cả Chúa nữa cũng chẳng còn. Sau mỗi lần bố đi nhậu về là mỗi lần mẹ con mình phải “chạy loạn”, rồi đòn rồi vọt, đánh đấm…

 Nhớ lại những ngày đầy nước mắt ấy mẹ lại rùng mình khiếp sợ. Mẹ nhớ nhiều lúc mẹ muốn đạp đổ, muốn phá huỷ tất cả: hôn nhân, cuộc đời và ngay cả mạng sống bản thân, nếu như mẹ không nghĩ đến con và còn cố giữ cho mình một chút niềm tin, hy vọng. Mẹ vẫn còn tin vào giá trị thiêng liêng của Bí tích mà mẹ đã lãnh nhận trong ngày mẹ đứng trước cộng đoàn Dân Chúa và thề nguyền: “Tôi, Maria Nguyễn Trần T.M., nhận anh Giuse Nguyễn Hoàng T.L. làm chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc yếu đau, để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt đời tôi”.

 Mẹ chỉ còn biết nhìn lên Chúa và Đức Mẹ của mẹ để mà cầu xin, để mình còn can đảm, nghị lực để trung thành, chung thuỷ. Con đường đau khổ mà mẹ đã đi qua ngẫm lại cũng còn có Chúa ở bên giữ gìn, bảo ban và có con ở bên để an ủi mẹ. Mỗi lần nhìn vào khuôn mặt ánh mắt tự tin đầy sức sống của con là mẹ lại gắng gượng tiếp tục xây dựng cuộc đời, chăm sóc bố con. Đến giờ phút lâm chung bố mới chịu lãnh các phép; khi đó mẹ mới an lòng là Chúa đã nhận lời cầu xin của mẹ – cầu cho bố con tỉnh ngộ tìm lại cho mình đức tin, mong cứu được phần hồn. Trong hơi thở cuối cùng, bố con thì thào xin lỗi vì những khổ đau mà bố đã gây ra cho mẹ con mình. Những lời của một người sắp chia ly vĩnh viễn cõi trần này thì thảng thốt, chân thành và thật, mẹ tin như thế và tha thứ cho bố con. Thôi thì tha thứ để cho người hấp hối được an lòng nhắm mắt ra đi, còn kẻ ở lại thì bớt áy náy con ơi! Mẹ mong con cũng tha thứ và cầu nguyện cho bố!

 Giờ đây, bố con đã ra đi, con cũng đã đủ khôn lớn mẹ mới dám tỏ bày cho con sự thật: trong quãng đời đau khổ đó, lúc mà bố con tàn tạ, người chẳng ra người, mẹ cũng có lúc như xiêu lòng, nghiêng tới một sự bảo bọc của “đối tượng” khác mà không phải là bố con.

 Con yêu quý của mẹ ơi! Mẹ tin tưởng là con hiểu và thông cảm cho những tâm sự, tình cảm rất con người trên đây của mẹ. Nhưng con hãy yên tâm và đừng hoài công thắc mắc về “đối tượng” ấy. Mẹ viết thư nói lên sự thật này không phải ý tứ báo trước rằng con sẽ có bố dượng đâu! Giờ mẹ quyết rằng: Cuộc đời mẹ chỉ có hai người đàn ông: Bố con và Con thôi!

 Con yêu! Mẹ dám chắc rằng không ai hiểu tính tình con cho bằng mẹ. Này nhé: bố nghiện ngập, nhu nhược, yếu đuối bao nhiêu thì con có ý chí, mạnh bạo, quả cảm bấy nhiêu. Con cương nghị, con suy nghĩ biết nhìn mọi việc trước sau và con quyết định làm một việc gì đó là con làm cho đến cùng. Xét ra điều đó tốt! Nhưng con ơi, có những điều chỉ có sức con người và cậy dựa vào tài lực chính mình thôi chưa đủ, mà còn phải có Ơn Trên. Mẹ nói thế không phải mẹ nói suông đâu, vì đó là những điều mẹ cảm nhận được khi nhìn lại đời mình.

 Con ơi, mẹ nghĩ, đời mẹ có thể có những đau thương, phức tạp nhất định, và đơn giản hơn cuộc đời, hướng đi mà con chọn cho mình hiện nay – Đường Tu. Mẹ nghĩ thế chẳng biết có đúng không? Nhưng một câu Kinh Thánh mà mẹ nhớ: “Chính Thầy đã chọn các con chứ không phải các con chọn Thầy” nói lên phần nào sự khó khăn đó.

 Ơn gọi là một điều gì đó bí ẩn con ạ! Và như mẹ thấy ngay cả khi bố mẹ sống với nhau trong ơn gọi, trong bậc vợ chồng biết bao khó khăn, đau khổ thất bại nhưng mẹ vẫn thấy ơn gọi đó thật bí ẩn và nhiều lúc mẹ thắc mắc : những đau khổ mà mẹ phải chịu đựng trong cuộc sống vợ chồng biết đâu chẳng được đền bù, chẳng sinh hoa trái là con đó sao? Và giả như, nếu mẹ chiều theo những đam mê, khát vọng của riêng mình mà bỏ rơi bố và con thì thử hỏi giờ này con có phải là con của ngày hôm nay nữa không?

 Mẹ biết con đường nào cũng có những khó khăn vất vả của nó. Nhưng mẹ nghĩ dù là đường vợ chồng hay đường tu trì, thì điều cốt yếu vẫn là sự tha thiết với ơn gọi mà mình theo đuổi. Cũng như mẹ, có lúc tưởng như không vượt qua được chính những yếu đuối, cám dỗ và những khó khăn mà mẹ phải chịu nhưng, vì mẹ còn sự tin tưởng là chính Chúa đã an bài để mình trong ơn gọi như thế, nên mẹ cố giữ lấy cho mình một tia hy vọng, và Chúa đã trợ giúp mẹ chu toàn bổn phận, trách nhiệm… Mẹ tin rằng trên cõi đời này cũng đã và đang có rất nhiều người sống đau khổ, bất hạnh nhưng họ cố gắng tin vào một điều gì đó tốt đẹp hơn vào ngày mai để sống. Và chỉ có như thế thì mới còn dám tiếp tục dấn bước, tiếp tục cuộc đời mình.

 Cũng như thế, mẹ nghĩ rằng nếu con đã tin Chúa đã gọi con thì cứ bước đi, đừng sợ nếu con còn cảm thấy trong cõi lòng mình một đốm lửa của lòng mến, sự tha thiết với ơn gọi. Mẹ dám đoan chắc với sự thiết tha, tin tưởng dù nhỏ của con, Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi con cô đơn một mình với những khó khăn về tình cảm hay vật chất đâu. Chào con yêu qúi nhất của Mẹ!

 Mẹ của con,

Thương con lắm lắm.

Maria T. M.           nguồn: Maria Thanh Mai gởi

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA

TẠI SAO TÔI CHỌN CHÚA   

                                                  Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

(10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu)

 1 – Chúa Giêsu kém trí nhớ!

Lúc sắp trút hơi thở, Chúa Giêsu có cuộc đối thoại cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo trên thập giá cạnh ngài. Một trong hai người đó thốt lên lời nầy với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Và Chúa nói với anh ấy: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc. 23, 42-43).

Chúa Giêsu không sưu tra lại lý lịch người đó để nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc tội nặng, nhẹ để châm chước hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích đáng. Người gian phi kêu nài Ngài nhớ, thì Ngài “nhớ” một điều là thấy người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã quên hết, quên đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các thánh nói: tên nầy suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên đàng luôn!

Trong Phúc âm chúng ta gặp lại nhiều chứng tích về việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng. Thánh sử Luca kể rằng người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần gia tài của nó, để bỏ nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Ðến khi tiêu hết tiền, gặp năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi mong cha già xét tình cha con mà tha thứ…

Người cha (là hình ảnh Chúa Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy con đằng xa, thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch hỏi tội cũ mà ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho cậu, làm thịt con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.

“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa…”. Nhưng người cha liền bảo người giúp việc rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!…” (Lc. 15, 20-23).

Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa.

2 – Chúa Giêsu không biết làm toán

Trong dụ ngôn con chiên bị mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại hơn 99 con còn lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!

Trong chương trình rao giảng của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm, nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4, 1-42).

3 – Chúa Giêsu không sành luận lý

Chúa Giêsu không những không cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược lại sự khôn ngoan bình thường của con người.

“Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc… (Lc. 14, 12-14).

Trong dụ ngôn về đồng bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh mất 1 đồng: “bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được.” – Khi tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ phải đến chung vui với mình.

Chúa Giêsu ví mình như người phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là đủng đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay; nôn nóng đem nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ ngơi trong đêm vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý luận con của người.

“Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 10).

4 – Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh

Chúa Giêsu đến để loan báo Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16). Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11, mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).

Chiều tối đó, ông chủ, là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1 quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán và sự công bình thông thường:

“Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền sao?…Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…” (Mt. 20, 13-16).

5 – Chúa Giêsu làm bạn với kẻ tội lỗi

Không phải trong xã hội của người Do Thái vào thời Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội chúng ta, người ta khó lòng chấp nhận chuyện người “đàng hoàng” lại giao du với lớp người được đánh giá là không “đàng hoàng”.

Thời bấy giờ người đồng hương với Chúa Giêsu cho rằng hai giới đặc biệt không “đàng hoàng” là những quân thu thuế và người tội lỗi, đặc biệt là các người gái điếm. Người tội lỗi bấy giờ còn được xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc sống thân xác, như người phung cùi, tàn tật… Những người Pha-ri-siêu nhiều lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ Chúa:

“Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?” (Mt. 9, 11). “Ông nầy đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc. 15, 2).

Theo các sách Phúc âm ghi lại, thì không những Chúa Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ được mời ăn thì ngại lắm phải chiều người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới nhà người thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm thân với họ và ăn ở với họ.

Ông Da-kêu là người “đứng đầu những người thu thuế” (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi qua thành phố Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen lấn nổi với đông đảo dân chúng, nên chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để xem Ngài, chẳng qua vì ông rất lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông và nói ngay:

“Nầy ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc. 19, 5).

Người chung quanh xào xáo:

“Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc. 19, 7).

Chúa Giêsu tự đến để gặp gỡ Da-kêu và loan Tin Mừng:

“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy” (Lc. 19, 9)

Và chúng ta đều biết Chúa đã chọn 1 trong 12 vị tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi một người làm nghề thu thuế.

Và để giải thích thái độ ngược đời của mình, chính Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.

“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu nầy: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).

6 – Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng

Phúc-âm cũng cho chúng ta thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã hội xếp loại không “đàng hoàng”, Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan 2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ nạn bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp theo).

Thế nhưng lịch sử nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy rằng nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu nguyện hay sao!

Luca thuật lại rằng, sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống” (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn để cứu người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu…

Cái mới của Chúa Giêsu làm cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu thương phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt trong câu: “Hãy yêu rồi làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis).

7 – Chúa Giêsu không giữ luật Do thái

Không những lui tới bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật lệ của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên “ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn” (Lc. 11, 38). Ðặc biệt trong những ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc. 14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)… Thánh sử Luca ghi rõ: “Ông trưởng hội đường tức tối vì Ðức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không giữ luật:

“Vào ngày sa-bát, Ðức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-siêu nói: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát” (Lc. 6, 1-2).

Nhưng trước những lời chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: “Con người làm chủ ngày sa-bát” (Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề luật rắc rối bên ngoài: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt. 23, 13-36).

8 – Chúa Giêsu như điên cuồng

Trong Toà Tổng trấn Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng áo đỏ, đội vương niệm bằng gai để chế nhạo như là kẻ điên cuồng. Nhưng không phải chỉ người ngoài, mà ngay cả Phê-rô, người vừa được Chúa Giêsu cử sẽ làm đầu Hội thánh Ngài: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt. 16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng không chịu nổi những lời nói như điên dại của Chúa Giêsu: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt. 16, 21). Ðiên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng thời thông báo mình phải chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa khi bảo rằng chết sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang nào cũng làm cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại… (Lc. 6, 27-31).

Nói như thế, làm sao có thể nghe cho được, khi tâm tư ta còn sống trong tâm trạng “măt đền mắt, răng đền răng”!

Và tôi xin kể cho các bạn kinh nghiệm của tôi về sứ điệp “điên dại” nầy của Chúa Giêsu. Lúc tôi sống những năm tháng tù đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm sự cho tôi hay, họ thắc mắc và ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân thiện của tôi đối với họ: trong hoàn cảnh nầy làm sao có thể thanh thản và dung thứ như thế được! Tôi đã có dịp chia sẻ các kinh nghiệm đó trong cuốn sách “Năm chiếc bánh, và hai con cá”, tôi vừa cho phổ biến trong năm nầy. Nhưng ở đây tôi muốn nói, chính sự “điên dại” của tình yêu thương Thiên Chúa đối với tôi, đối với mọi người là “khuyết điểm” làm tôi say mê hơn cả; sự điên dại đó lôi kéo tôi bước theo Chúa Giêsu!

9 – Chúa Giêsu phiêu lưu

Một chương trình cứu chuộc toàn nhân loại, một dự tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho Phê-rô, một người chài lưới bộp chộp, ít học rồi còn sợ sệt chối mình nữa!

Và về phương cách truyền bá, rao giảng nước Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc. 9, 3).

Phiêu lưu trong việc tuyển lựa các môn đệ, Chúa Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị giết chết và sẽ sống lại trong ngày thứ ba, thì “Các môn đệ buồn phiền lắm” (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình” (Gioan 6, 53), thì “nhiều môn đệ của Ngài liền nói: “Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe nổi” (Gioan 6, 60). Và, vì thấy lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ “Cả anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?” (Gioan 6, 67).

Có lần khác, có người lại muốn đi theo Ngài làm môn đệ, nên hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).

Và cuộc phiêu lưu tột đỉnh của Yêu thương nơi Chúa Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê:

“Ðức Giêsu Kitô
Vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân phận nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế

Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-8).

10 – Chúa Giêsu có những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn

Mâu thuẫn vì Lời từ Thiên Chúa khác với lời chúng ta.

Làm sao chúng ta thấy hợp lý được khi tuyên dương Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).

“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc. 9, 24).

Làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13, 18-19).

Mà làm sao có thể tuyên xưng là “Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống” lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).

Ngày 12.10.1998, có một cuộc tĩnh tâm linh mục quốc tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91 giám mục, 1,500 linh mục tham dự. Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói đến đâu các ngài lại cười đến đó, cuối bài các ngài xúm lại quanh tôi và bảo: “Chúng tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu”.

Các bạn thân mến, 

Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10 khuyết điểm của Chúa Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại một lần nữa xác quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa Giêsu, nên chọn Chúa Giêsu làm Thầy, làm Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi. Tôi cũng tâm sự với các bạn rằng, cho đến giây phút nầy, tôi không hề có một chút gì ân hận, Chúa Giêsu đã cuốn hút cuộc đời của tôi. Vì Chúa là Tình Yêu đã dẫn lối cho tôi đi, đặc biệt trong những ngày tháng tôi cảm thấy xao xuyến, bứt rứt; chúng đã đem lại nguồn vui và hy vọng cho tôi, nhất là trong những giây phút khổ đau, tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Các bạn biết lý do tại sao không? Vì 10 khuyết điểm đó phát xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban cho để chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu:

“Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Gioan 15, 13).

Tình yêu đó không nhớ lỗi lầm, không tính toán, không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không câu chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu điên cuồng đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với mẫu mực nhỏ hẹp của xã hội và của lối cân nhắc giới hạn của chúng ta. Chúa là Ðấng trọn lành, làm sao có khuyết điểm được, nhưng Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu nhiệm. Trí khôn loài người không hiểu nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết điểm! Khuyết điểm ấy lên đến cùng độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng vào đó, khi người lính thách đố Chúa: “Nếu ông thật là con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thánh giá để chúng tôi tin” “Chúa Giêsu thinh lặng, lại còn cầu nguyện: “Xin Cha tha cho họ…” Lạy Chúa lúc ấy Chúa không chết thì làm sao chúng con được sống đời đời.

Tôi khích lệ các bạn chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của Chúa Giêsu.

Và để chấm dứt buổi chia sẻ nầy tôi xin kể cho các bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân thế giới đã từng chọn Chúa Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn mà ông ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn “Kitô giáo kỳ lạ” (Le Christianisme est étrange, Pascal, Pensées, No 537). Danh nhân ấy là ông Blaise Pascal (1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp việc trong gia đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối để xem ông thu giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị giúp việc thấy ông luôn mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự may vào gấu áo mới. Người chị của Pascal cũng như người giúp việc cắt gấu áo và thấy có một miếng giấy nhỏ, trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:

“Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Người… lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu”. Ðó là bí quyết của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học.

Những chia sẻ “10 khuyết điểm tuyệt vời của Chúa Giêsu” do ÐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tại Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt “Niềm Vui Sống Ðạo” của các bạn trẻ Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu.

Chân Phước Damien ở Molokai

 

 Chân Phước Damien ở Molokai                                                                                       (1840 – 1889)

     Chân Phước Damien, tên thật là Giuse “de Veuster”, sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.

     Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.

     Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.

     Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.

     Có thể nói, ngài sống với người cùi — ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.

     Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.

     Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.

     Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng vào năm 1936, chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ. Một phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong chân phước năm 1995.

     Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, tiểu bang này đã chọn Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt trong Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.

     Lời Trích

     Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Sự thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn con người; sự thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự thánh thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh thiện khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì sự vinh hiển của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí bất thường của chúng ta.”

Trích Lẽ Sống     nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi 

Sự Yếu Đuối Thật Đáng Ghét Hay Đáng Thương?

Sự Yếu Đuối Thật Đáng Ghét Hay Đáng Thương?

                                                                                                    Tuyết Mai

   Ở đời chúng ta ai cũng có rất nhiều lý lẽ hay để viết, nói, và dậy đời thì rất là tuyệt, nhưng không mấy ai thực hiện được điều mình viết, dậy, hay nói.   Tại sao chúng ta lại nói hay, nói giỏi đến thế?.   Ấy vì là những điều chúng ta học, học lóm, đọc, từ nơi sách vở rồi viết chúng ra, cách rất dễ dàng.   Nhưng thời buổi của ngày nay copy từ trong sách nào, của ai, phải liệt kê hết cả! Chứ không xập xí xập ngầu, đánh lận con đen được đâu.   Để kiểm chứng với mọi người rằng điều tôi viết đó, không phải của tôi đâu mà là tôi lấy từ quyển sách của ông này hay của bà kia, và v.v…..   Đây là tôi nói những người có học lực cao kìa mà còn phải như thế chứ hà huống gì kể đến tôi.   Một chữ cắn làm đôi mà còn không rành rọt, thì biết gì để nói thưa có phải?.

 Nói vậy là để anh chị em hiểu rằng những điều tôi viết đây chỉ muốn xây dựng và chia sẻ những điều tôi và gia đình tôi trải qua, mong sự đóng góp rất nhỏ giúp ích được gì là điều mong muốn của tôi thôi! Thà một giọt nước làm đầy đại dương hơn là đại dương thiếu đi giọt nước ấy!.   Đối với tôi điều gì hữu ích và lợi ích cũng đều là tốt cả!.   Nhất là những anh chị em đang bước vào ngưỡng cửa của gia đình bé mọn của chính mình.   Thiếu kinh nghiệm là điều rất phải nhưng thiếu cả những suy nghĩ chín chắn vì quá mới và quá non nớt.

 Gia đình chúng tôi hôm nay có con lốc nhỏ đã đến chiếu cố! Con lốc không phải là tôi và cũng không phải là các con tôi, nhưng là ông nhà tôi.   Con người ta hình như ai ai cũng có điều gì đó mà chỉ cần một chuyện rất nhỏ không đáng chi, cũng làm cho chúng ta bực mình, và cũng chỉ cần một lời nói không đúng lúc, cũng làm chúng ta muốn sinh sự, và phát hỏa?.   Nhà tôi ông là cột trụ, mà chẳng phải là cột trụ của thân cây eo xèo dễ ngả, nhưng là cột trụ của một cây cổ thụ lận.   Có điều cây cổ thụ ấy qua bao nhiêu thời gian, rễ của nó bị đất đưa trồi lên cao, nên không còn vững chắc nữa chăng??.   Và đó là điều mà tôi và các con đều cảm nhận được là bố của chúng bây giờ đã suy thoái đi rất nhiều, từ thể xác, tâm thần, và cả tâm linh cũng yếu kém.   Tâm linh thì bố chúng chỉ mới bám rễ vì mới vào đạo được hơn một năm.

 Gia đình chúng tôi vài năm gần đây, kinh tế cũng không sáng sủa gì, cũng như bao nhiêu gia đình khác đang gặp phải.   Ông nhà tôi đã ở nhà ăn tiền hưu non cũng tròm trèm gần được trọn 3 năm.   Tôi thì xin nghỉ ở nhà vì muốn dưỡng bệnh nên không vô đồng nào cũng cả gần 2 năm rồi còn gì.   Chỉ nhờ chút đỉnh vào cháu gái lớn làm việc bán thời gian, vì cháu phải đi học full time.   Con lốc hôm nay đến thăm gia đình chúng tôi, thoạt đầu cũng chỉ là con lốc con mà thôi, nhưng rồi con lốc mẹ nó cũng theo đến, nên sự càn quét cũng để lại lắm thiệt hại.   Dù nhỏ đến đâu.   Như tôi có nhắc đến  mẹ Thánh Têrêsa thành Cuculta bên Ấn Độ rất thường, có dậy rằng hãy yêu thương gia đình chúng ta trước đã, rồi hãy yêu thương những người chòm xóm láng giềng, chứ không thì đó là sự thiếu sót rất lớn.

 Ấy thế học câu ấy thuộc nằm lòng, nhưng sự yếu đuối đáng ghét của con người có làm được đâu! Nhà tôi nói mười thì tôi cũng phải ráng để khều lại một cho nó hả cái dạ.   Kẻo ngậm miệng hoài nó bị đau bao tử thưa anh chị em!.   Và sự yếu đuối đáng ghét này, rất thường xẩy ra trong mọi gia đình, chứ không phải ít.   Sự thiệt hại này có chăng chẳng phải của nhà tôi mà thôi, nhưng là từ nơi tôi nữa!.    Nếu tôi chịu im chịu nhịn thì mọi sự việc chắc cũng êm xuôi, nhưng vì lấy cớ là im nhiều rồi nay không chịu nhịn nữa!.   Nhưng thưa anh chị em ở mỗi thời thì chúng ta phải sửa cho đúng với thời đó!.   Xưa và nay có thay đổi rất nhiều! Thay đổi từ tuổi tác, tánh tình, và sự bệnh hoạn mà chúng ta đang cưu mang.  

 Ai cũng bị suy thoái theo ngày tháng năm, nhưng hình như nó “thời gian” đi chóng quá, nên chúng ta không nhìn thấy đấy thôi!.   Hình như ông nhà tôi phải cố gắng quá mức, để nhắc nhở cả nhà là ông đang rất bệnh, và hình như cả nhà ai cũng điếc và không có giờ để nghe ông.   Hay vì nghe ông than thở quá nhiều nên ai cũng nhàm tai chăng!?.   Sự sai lệch này làm cho tôi cảm thấy có lỗi thật nhiều với ông, vì không nhìn nhận rằng ông đã già và đang bị bệnh.   Một cái bệnh mà ông ráng chống lại với thời gian và sự định đoạt của tạo hóa.   Đó là bệnh mù mắt của ông!.   Ông chỉ còn một mắt và cố gắng để không bị mù cả hai con mắt, và thật tội nghiệp cho ông, ông rất cố gắng sống trong sự thoải mái giả tạo ấy!.   Bởi ông không cảm nhận được gia đình hiểu ông.   Bởi ông không cảm nhận được sự thông cảm nơi người vợ yêu quý của ông.   Bởi không ai muốn bị ông làm phiền cả!.  

 Tuy cả nhà hiểu được rằng, tất cả ai cũng cần đến ông, từ A tới Z.   Vợ thì vô dụng và làm biếng vì đã để cho chồng lo suốt bao năm trời.   Các con tôi tuy lớn đầu nhưng cũng ngây ngô chẳng biết lo một sự việc gì.   Đi học và mọi sự liên quan đến việc học là cũng nhờ đến bố, chỉ trừ tự chúng phải học mà thôi!.   Thế đấy, có phải gia đình nào cũng gặp những chuyện tương tự vậy hay không?.   Hễ giao việc được cho ai thì cứ thế mà làm rồi tất cả chảy ươn ra và không biết cảm ơn, ngược lại chúng ta lại buồn trong bụng và tỏ ra vô ơn khi bị rầy la?.   Chồng tôi giận con trai tôi vì nó dám nói trả với bố nó và có hơi lớn tiếng.   Con trai tôi giận bố nó vì bố đã dùng chữ hơi nặng lời khi bố hỏi “con không happy sao?”.   Tôi rất ghét khi hai bố con có chuyện hiểu lầm nhau.   Ông nhà tôi giận cũng chỉ vì thằng con trai tôi hỏi không đúng lúc và làm chuyện tỏ cho ông thấy rằng nó chẳng biết nghĩ và thương ông.   Đúng là trẻ già xung khắc (bố thì 65 con thì 15).   Chuyện của nó làm ông giận chỉ là giọt nước thêm vào ly nước đã đầy.  

 Cái việc khó cho tôi là gầy dựng sau trận bão tố.   Tự tôi phải đi đầu này đầu kia để kê lại cho mọi thứ đã bị xô đẩy do con lốc bốc lên rồi bị liệng xuống.   Tôi cắt nghĩa cho thằng con trai tôi hiểu là bố đang bị căng thẳng về vấn đề tài chánh trong gia đình.   Con lại hỏi câu hỏi mà ông không làm sao để ông nói “không” cho được.   Làm bố cảm thấy không vui vì thiếu khả năng.   Tôi biết điều này làm ông rất buồn và ông cố gắng tránh né.

 Sau mỗi cơn lốc nổi lên, thường tôi góp gió nó mới thành bão, và tôi cảm thấy ân hận vì lỗi nơi mình hết cả!.   Thêm chi câu nói chẳng gầy dựng mà còn làm cả nhà tan tác.   Thêm chi lời nói mỉa mai và chê bai, khi ông luôn cảm thấy mình vô dụng.   Lợi được gì những câu nói vô bổ và hại người đến thế?.   Lời nói lỡ thốt ra thì mấy ai nuốt lại được?.   Vì thế cho nên tôi cảm thấy chính mình thật đạo đức giả thay!.   Khuyên người được nhưng chính mình lại phá hủy hạnh phúc của chính mình.   Thành thật mà nói nếu từ đầu không có lửa sao lại có khói?.   Cả đôi bên đều có lỗi, nhưng sau đó đòi hỏi sự cố gắng, để không xẩy ra ở lần sau.  

 Vợ chồng già thì cả hai cùng đổi tánh là nói nhiều, nói gây tổn thương cho nhau thường hơn là nói có tính cách xây dựng.   Hy vọng lời nói của chúng ta đi liền với việc làm thì mới có kết quả, thưa có phải?.   Cố gắng cầu nguyện thật nhiều để Chúa Mẹ giúp thêm sức mạnh và còn thông minh để đỡ đần nhau ở tuổi xế về chiều.   Sức chúng ta thì yếu và tuổi đời của chúng ta lại càng yếu thêm.   Cho nên sự yếu đuối đáng ghét của chúng ta, nếu thiếu sự cầu nguyện và sự trợ giúp của Thiên Chúa, chắc mọi sự sẽ không bền và không tồn tại, và sóng gió cứ mãi xẩy đến trong gia đình của chúng ta.  

 “Một lời nói đẹp luôn tỏa hương thơm, nhưng một lời nói ác sẽ gây tổn thương cho nhau suốt đời” – TM.

 Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(05-09-12)

Bàn Tay Phải Của Chúa Giêsu

    Bàn Tay Phải Của Chúa Giêsu

      Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

     Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

     Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: “Ðây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.

     Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa”.

     Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi”.

    Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ…

     Kinh Thánh thuật lại rằng trong cuộc hành trình tiến về đất hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn. Môi sen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cây để tất cả những ai bị rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành…

     Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Ngài.

    Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi.

    Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa.

    Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

     Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…

   Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến được ơn tha thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta còn được mời để gọi tha thứ nhiều hơn. Còn tha thứ nhiều hơn, chúng ta còn dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa…

 Trích Lẽ Sống           Nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Catarina ở Bôlônha

 9 Tháng Năm

  Thánh Catarina ở Bôlônha

                                                                                                 (1413 – 1463)

     Một số các thánh dòng Phanxicô có đời sống nổi nang, nhưng Thánh Catarina lại đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.

     Catarina, sinh ở Bologna, và năm mười một tuổi được chọn làm nữ tì cho cô con gái vị hầu tước ở Ferrara và nhờ đó cũng được ăn học tử tế. Khi người con gái này đi lấy chồng, cô cũng muốn Catarina đi theo hầu, nhưng Catarina đã từ giã triều đình và gia nhập dòng Ba Phanxicô khi mười bốn tuổi.

     Catarina quyết định theo đuổi một đời sống tuyệt hảo, và sự thánh thiện của ngài được mọi người khâm phục. Sau đó, cộng đoàn của ngài trở nên một phần của Dòng Thánh Clara và ngài phục vụ với công việc làm bếp và giữ cửa. Trong một thời gian ngài thường được thị kiến Ðức Kitô cũng như Satan. Một trong những thị kiến xảy ra vào dịp Giáng Sinh, ngài được thấy Ðức Trinh Nữ Maria bế Hài Nhi Giêsu. Ngài viết lại các cảm nghiệm này trong cuốn “Manifestations” (Những Sự Khải Hiện) bằng tiếng Latinh. Ngài còn sáng tác các thánh vịnh, thánh ca và có hoa tay về viết chữ đẹp và hội họa.

     Nhờ sự vận động của ngài với Ðức Giáo Hoàng Nicôla V, tu viện Dòng Thánh Clara ở Ferrara được thành lập và Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên. Tiếng tăm về sự thánh thiện và đời sống khắc khổ của Cộng Ðoàn ngày càng lan rộng. Sau đó Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên một tu viện mới ở Bologna.

Vào mùa Chay 1463, Sơ Catarina lâm bệnh nặng và từ trần ngày 9 tháng Ba, ngài được chôn cất mà không có quan tài. Nhưng mười tám ngày sau đó, thi thể của ngài được khai quật vì có những việc chữa lành nhờ lời cầu bầu của ngài và vì mùi thơm bốc lên từ ngôi mộ. Người ta tìm thấy thi thể của ngài không bị rữa nát và vẫn nguyên vẹn cho đến ngày nay, hiện được cất giữ ở nguyện đường tu viện Thánh Clara ở Bologna. Ngài được phong thánh năm 1712.

     Lời Bàn

     Mặc dù có cơ hội để sống một cuộc đời sung sướng trong triều đình, Thánh Catarina đã hăng hái đáp lời mời gọi của Thiên Chúa mà gia nhập đời sống tu trì. Sự thánh thiện, lòng bác ái của ngài đã thu hút nhiều người trên con đường trọn lành. Noi gương đời sống và cái chết thánh thiện của ngài, chúng ta hãy quyết tâm sống bác ái như một cùng đích của cuộc đời.

     Lời Trích

  Thánh Catarina viết về bảy vũ khí tinh thần để chống lại các cám dỗ: “Ðức Giêsu Kitô đã hy sinh tính mạng để chúng ta được sống. Do đó, bất cứ ai muốn vác thập giá của mình vì Ðức Kitô phải có những vũ khí thích hợp cho cuộc chiến đấu này, nhất là những vũ khí sau đây. Thứ nhất, sự chuyên cần; thứ hai, đừng cậy vào sức mình; thứ ba, tín thác vào Chúa; thứ bốn, hãy nhớ đến sự Thương Khó Ðức Kitô; thứ năm, hãy nhớ đến cái chết của mình; thứ sáu, hãy nhớ đến sự vinh hiển của Thiên Chúa; thứ bảy, theo các huấn thị của Kinh Thánh mà noi gương Ðức Giêsu Kitô trong thời gian ở sa mạc” (Về Bảy Vũ Khí Tâm Linh).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Nữ Sinh Thác Loạn…

Nữ Sinh Thác Loạn…             Trích Việt Báo    Vietbao.com

 Bạn thân,

Cái thời nữ sinh e ấp bây giờ không còn bao nhiêu nữa. Chuyện đau lòng là, tình hình nữ sinh mất đạo đức ngày một tăng.

Báo Lao Động, ghi theo VnMedia, gọi đó là “Nữ sinh thường xuyên thác loạn vì lệch lạc,” trong đó ghi nhận tình hình nữ sinh quan hệ tình dục quá bừa bãi đang là tâm điểm của dư luận và gây không ít bàng hoàng với các bậc phụ huynh.

Bản tin nói, “Ngay cả trong lớp học những “trò chơi” tình cảm được các em công khai không hề ngại ngùng.”

Thê thảm tới mức, theo báo Lao Động:

“Chuyện nữ sinh mới chỉ học lớp 8, lớp 9 sinh con đã không còn là chuyện hiếm ở Việt Nam mà mấy ngày gần đây, dư luận đang rất bất bình trước việc nhiều em học sinh có thai đã gần sinh nhưng lại không hề hay biết. Có em còn tưởng mình bị đau ruột thừa như trường hợp nữ sinh T ở Nghệ An hay như việc nữ sinh V ở Đồng Tháp sinh con trong toilet của nhà trường.

Tất cả những trường hợp trên đều cho thấy, những em nữ sinh vẫn chưa hiểu biết nhiều về quan hệ tình dục mà chỉ xuất phát từ nhu cầu muốn khám phá bản thân và để chứng tỏ ta đây là người chơi ngông, không thua kém bạn bè cùng trang lứa.

Ngoài việc nữ sinh chưa hiểu hết về vấn đề tình dục nên để có thai ngoài ý muốn gây phẫn nộ trong dư luận, còn rất nhiều nữ sinh khác phải chịu cảnh mất đi sự trong trắng của người còn gái khi bạn tình phủ bỏ tránh nhiệm…

Còn đứng ở góc độ về y tế, bác sĩ Trần Danh Cường, Bệnh viện Phụ sản T.Ư cho biết về hậu quả của việc nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên. Theo bác sĩ Cường, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu về tỉ lệ biến chứng sau nạo phá thai.”

Đó là chuyện sex. Còn chuyện nữ sinh đánh nhau nữa. Mà lại nữ sinh đánh nhau tập thể, ngay tại quê hương cụ Nguyễn Du.

Báo Giáo Dục VN nói ngay trên nhan đề, “Choáng với clip nữ sinh Hà Tĩnh đánh nhau tập thể” về chuyện xảy ra cuối năm 2011:

“Trong mấy ngày qua cư dân mạng lại lên cơn sốt với clip một nhóm nữ sinh khoảng 20 người đang đánh nhau tập thể.

Đoạn video trên được phát tán trên các trang mạng intenet đã thu hút hàng ngàn người xem mỗi ngày. Trong đoạn video có khoảng 20 nữ sinh mặc đồng phục và có vài nữ sinh mặc thường phục lao vào ẩu đả nhau bằng tay và chân.

Đoạn sau video còn là một cảnh hai nữ sinh một mặc đồng phục một mặc thường phục lao vào đánh tay đôi trong sự cổ vũ nhiệt tình của các nữ sinh bên ngoài. Hai nữ sinh này lao vào đánh nhau như những đô vật cấu véo, lôi tóc và đạp nhau ngay trên nền sân gạch đầy nước mưa….”

Tại sao như thế? Vì sao nữ sinh sex táo bạo như thế, vì sao bạo lực với nhau tàn khốc như thế?

Nhà thơ Nguyễn Du mà biết con cháu mình dùng bạo lực với nhau khốc liệt như thế tất sẽ than trời: Phồn hoa nhân vật loạn lai phi… (Dịch: Sau thời loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa rồi…)

Phải than là đúng vậy.

Dòng Suối Yêu Thương

Dòng Suối Yêu Thương

 (Suy niệm Tin Mừng Gioan (15, 9-17 trích đọc vào Chúa Nhật 6 phục sinh)

  Nếu có ai đó chưa biết gì về đạo thánh Chúa, yêu cầu chúng ta: “Bạn có thể giúp tôi hiểu cách vắn gọn về bản chất của đạo Thiên Chúa trong vòng năm phút được không?”

 Đề nghị nầy có thể làm cho chúng ta lúng túng. Trước một vấn đề quan trọng như thế thì dễ gì tóm gọn trong dăm ba phút? Thế nhưng lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta giải quyết phần nào vấn nạn nầy.

 Có thể hiểu cách đơn giản rằng Đạo Chúa không gì khác hơn là Dòng Suối Yêu Thương với ba chiều kích:

 1. Dòng Suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha.

2. Dòng Suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng chúng ta.

3. Dòng Suối Yêu Thương thông qua chúng ta đến với tha nhân.

Theo quy luật tự nhiên, các suối đầu nguồn luôn trao hết, trút hết nguồn nước của mình vào lòng các dòng sông. Suối sẵn sàng cho đi luôn mãi, không nghỉ không ngừng.

Các dòng sông, một khi đã nhận được nước từ những con suối ở thượng nguồn, cũng không ngừng cho đi, cho đi ngày đêm không ngơi nghỉ, trút hết nguồn nước của mình cho vùng hạ lưu và cho ra biển cả.

Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn trút hết vào các dòng sông rồi tuôn chảy vào đại dương.

 Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha

 Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn Tình Yêu. Tình yêu của Người như Suối đầu nguồn. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha yêu thương Chúa Con đến nỗi trao ban tất cả mọi sự cho Chúa Con như Lời Chúa Giê-su xác nhận: “Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Gioan 5, 26).

“Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Con” (Gioan 3, 35)

Bởi vì Chúa Cha đã trao ban mọi sự cho Chúa Con nên Chúa Giê-su khẳng định: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy” (Gioan 17, 10)

 Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng chúng ta.

 Chúa Giê-su chẳng những không giữ lại những gì Chúa Cha trao cho mình, mà còn đem tặng ban tất cả cho nhân loại, kể cả mạng sống của Người. Tình yêu của Chúa Giê-su lên đến cao điểm khi nâng con người phàm hèn lên hàng bạn hữu nghĩa thiết và hiến ban cả mạng sống mình cho họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gioan 15,13). “Yêu thương nhân loại đến cùng” (Gioan 13,1) là châm ngôn sống của Chúa Giê-su.

 Dòng Suối Yêu Thương thông qua chúng ta đến với tha nhân.

 Chúa Cha như suối đầu nguồn đã trút hết tình yêu cho Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su như dòng sông cả đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đã trút hết tình yêu ấy cho chúng ta.

Đến lượt mình, chúng ta được kêu mời trút hết tình yêu cho tha nhân như Chúa Giê-su đã trút hết tình yêu của Người cho chúng ta.

 “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Gioan 15,12)

 Thế là dòng suối Yêu Thương xuất phát từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, tuôn tràn xuống chúng ta và thông qua chúng ta để đến với mọi người khắp nơi trên thế giới. Cứ thế, dòng suối Yêu Thương lưu chảy không ngừng, không nghỉ… đem lại hạnh phúc và sự sống cho tất cả mọi người.

 Đừng cản trở dòng Suối Yêu Thương

 Thỉnh thoảng có những thân cây to lớn bên bờ ngã xuống lòng suối hoặc những ghềnh đá làm cản trở dòng chảy của con sông khiến nước không thể chảy xuôi về nuôi những cánh đồng phía dưới.

 Đừng để cho hận thù, chia rẽ, nghi kỵ… trong lòng ta trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh.

 Khi không còn thương mến nhau, chúng ta tự loại mình ra khỏi gia đình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế chúng ta tự làm cho mình trở thành kẻ lạc loài và cô độc.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn “ở lại trong Tình Thương” của Chúa như Chúa “hằng ở lại trong Tình Thương” của Chúa Cha (Ga 15, 9-10) bằng cách chân thành yêu mến phục vụ những anh chị em mà chúng con gặp gỡ hằng ngày.

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà    nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Gì cũng cười

Gì cũng cười

                                                                         Nguyễn văn Vĩnh 

 An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì; phải cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.

Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi.

Ví dù được y như vậy, thì ra nước An Nam ta cả dân là người hiền. Nếu thế tôi đâu dám đem lời phường chèo mà nhủ người nhếch mép bỏ tính tự nhiên mà làm bộ đứng đắn lại, nghiêm nhìn những cuộc trẻ chơi.

Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không phải nghe hết lời người ta mà gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta.

Thực không có tức gì bằng cái tức phải đối đáp với những kẻ nghe mình nói chỉ lấy tiếng cười hì hì mà đáp. Phản đối không tức, kẻ bịt tai chẳng thèm nghe cũng không tức đến thế…

Ừ, mà gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi, tê môi, để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng thì khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi, hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì hì, thì ai không phải phát tức.

Ta phải biết rằng, khi người ta nói với ta, là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp. Tuỳ ý mình muốn tỏ tình ý cho người ta biết thì nói thực; không hiểu thì hỏi lại; mà không muốn nói tình ý cho người ta biết, thì khéo lấy lời lịch sự mà tỏ cho người ta hiểu rằng câu hỏi khi phạm đến một điều kín của mình. Hoặc là có khôn thì lựa lời mà tỏ cho người ta biết những điều mình muốn cho biết mà thôi, và khiến câu chuyện cho người ta không khỏi căn vặn được mình nữa.

Nhưng phàm người ta hỏi, mình đã lắng tai nghe, là mình nợ người ta câu đáp.

Nguyễn văn Vĩnh   trong Đông Dương Tạp Chí   

Chân Phước Crescentia Hoess

 Chân Phước Crescentia Hoess

    (1682 – 1744)

 Crescentia sinh trong một thành phố nhỏ gần Augsburg, là con gái của một người thợ dệt nghèo nàn. Khi còn nhỏ, thời giờ để chơi đùa cô đã dùng để cầu nguyện, giúp đỡ những người nghèo hơn mình, và cô hiểu biết về giáo lý nhiều đến độ được phép Rước Lễ lần đầu vào lúc bảy tuổi, sớm hơn những người cùng tuổi. Mọi người trong phố gọi cô là “thiên thần nhỏ.”

     Khi lớn lên, cô khao khát được gia nhập dòng Phanxicô. Nhưng tu viện thì nghèo và, Crescentia không có của hồi môn, nên các bề trên đã từ chối không nhận. Sau đó, trường hợp của cô được ông thị trưởng thành phố là một người Tin Lành can thiệp, vì nhà dòng có nặng ơn nghĩa với ông. Cả nhà dòng cảm thấy như bị ép buộc phải chấp nhận cô, bởi đó đời sống trong tu viện của cô thật khốn khổ. Cô bị coi là một gánh nặng và không được làm gì khác hơn là các công việc của người đầy tớ. Ngay cả tính tình vui vẻ của cô cũng bị cho là bợ đỡ hoặc đạo đức giả.

     Bốn năm sau, tình trạng của Sơ Crescentia khá hơn khi bà bề trên mới nhận ra các nhân đức của sơ. Và Sơ Crescentia được bổ nhiệm là giám đốc đệ tử. Sơ được mọi người yêu mến và quý trọng đến nỗi, sau khi mẹ bề trên từ trần, Sơ Crescentia được mọi người tín nhiệm trong chức vụ ấy.

     Dưới sự dẫn dắt của Sơ Crescentia, tình trạng kinh tế nhà dòng khấm khá hơn, và tinh thần đạo đức của Sơ Crescentia ngày càng lan rộng. Không bao lâu, Sơ Crescentia được các hoàng thân công chúa cũng như giám mục và hồng y đến xin ý kiến. Tuy nhiên, là một người con đích thực của Thánh Phanxicô, Sơ Crescentia vẫn hết mực khiêm tốn.

     Tinh thần Sơ Crescentia thì vững mạnh nhưng thể xác của ngài thường đau yếu luôn. Sơ thường xuyên bị đau đầu và đau răng. Sau đó sơ không thể đi lại được, chân tay từ từ tê liệt, co quắp lại. Mặc dù đau đớn, sơ vẫn tràn đầy bình an và niềm vui khi sơ từ trần vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1744.

  Sơ được phong chân phước năm 1900.

nguồn:  Maria Thanh Mai gởi

Chân Phước Waldo

     8 Tháng Năm

   Chân Phước Waldo

    (c. 1320)

       Waldo, còn được gọi là Vivaldo hay Ubaldo, là môn đệ của một linh mục thánh thiện, Cha Bartolo, cả hai quê quán ở miền bắc nước Ý. Khi Cha Bartolo bị bệnh cùi và phải nằm bệnh viện, Waldo đã đi theo hầu hạ ngài cho đến khi chết trong vòng 20 năm. Ðổi lại, nền tảng đạo lý của Waldo được phong phú hơn nhờ sự chỉ dẫn của vị linh mục thánh thiện.

     Sau cái chết của cha linh hướng, Waldo quyết định sống tách biệt khỏi thế gian để chỉ đối thoại với Thiên Chúa và hướng lòng đến những sự trên trời. Theo đó, ngài đi vào một khu rừng không xa nơi sinh trưởng là bao, và tìm thấy một cây dẻ lớn có chỗ lõm sâu, chỉ đủ để một người quỳ ở trong đó. Và ngài đã sống cuộc đời ẩn dật trong nhiều năm, hoàn toàn cô độc.

     Người ta kể rằng, một ngày trong tháng Năm 1320, chuông nhà thờ ở ngôi làng gần đó tự nhiên vang lên từng hồi một cách lạ lùng. Khi dân làng đổ về nhà thờ để chứng kiến cảnh kỳ lạ ấy, thì một người thợ săn từ khu rừng đi ra. Ông cho biết trong khi đi săn, ông thấy một cây dẻ lớn có chỗ lõm sâu và các con chó của ông vừa quấn quít chung quanh cây ấy vừa cất tiếng sủa một cách vui mừng. Khi quan sát thân cây thì ông khám phá ra vị ẩn tu đã chết trong tư thế quỳ ở chỗ lõm của cây. Ngay khi ông ngừng kể thì tiếng chuông cũng im bặt.

  Ðối với người dân trong làng, hiển nhiên vị ẩn tu ấy là một người thánh thiện. Họ vào rừng, đem thi thể Waldo về nhà thờ và chôn cất ngay dưới bàn thờ chính. Trong những năm kế đó, nhiều phép lạ đã xảy ra ở ngôi mộ của Chân Phước Waldo, và một nhà nguyện được xây cất ở nơi khu rừng ngài sinh sống để kính Ðức Maria.

nguồn từ Maria Thanh Mai gởi